lOMoARcPSD| 61409713
1. Bối cảnh quốc tế
1.1. Sự phát triển của chủ nghĩa bản mâu thuẫn trong hội
bản chủ nghĩa
Ngày 1/8/1914, Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ. Cuộc
chiến tranh này gây ra những hậu quả đau thương cho nhân dân các
nước (khoảng 10 triệu người chết và 20 triệu người tàn phế do chiến
tranh), đồng thời cũng đã làm cho chủ nghĩa tư bản suy yếu u
thuẫn giữa các nước bản đế quốc càng tăng thêm. Chủ nghĩa tư bản
đã chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền. Hay
nói cách khác chủ nghĩa bản trở thành chủ nghĩa đế quốc, xác lập
thống trị trên phạm vi thế giới. Các nước đế quốc bên trong thì tăng
cường bóc lột nhân dân lao động, bên ngoài thì xâm lược áp bức
nhân dân các dân tộc thuộc địa. Lúc này không chỉ dừng lại sáp bức
giai cấp trong chính quốc đã mở rộng ra sáp bức với các dân tộc
khác. thế cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc không chỉ còn hành
động riêng lẻ mà trở thành cuộc đấu tranh chung của dân tộc thuộc địa
chống đế quốc, trở thành cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp sản trên
thế giới. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân
ngày càng gay gắt, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra sôi
nổi ở các nước thuộc địa. Tình hình đó đã tạo điều kiện cho phong trào
đấu tranh các nước nói chung, các dân tộc thuộc địa nói riêng phát
triển mạnh mẽ.
1.2. Cách mạng tháng 10 Nga và Quốc tế Cộng sản
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga giành được thắng lợi.
Nhà nước Viết dựa trên nền tảng liên minh công - nông dưới sự lãnh
đạo của Đảng Bônsêvích Nga ra đời. Thắng lợi của Cách mạng Tháng
Muời mở ra một thời đại mới, "thời đại cách mạng chống đế quốc, thời
đại giải phóng dân tộc"[ CITATION HồC111 \l 1033 ]. Cuộc cách
mạng này cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân,
lOMoARcPSD| 61409713
nhân dân các nước một trong những động lực ra đời của nhiều
đảng cộng sản: Đảng Cộng sản Đức, Đảng Cộng sản Hunggari (Năm
1918), Đảng Cộng sản Mỹ (năm 1919), Đảng Cộng sản Trung Quốc và
Đảng Cộng sản Mông cổ (năm 1921), Đảng Cộng sản Nhật Bản (năm
1992)...
Cùng thời điểm này, cuối năm 1917, Nguyễn Ái Quốc từ Anh trở
về Pháp. Giữa lúc đang trăn trở tìm một con đường đi mới, thì tại đây,
Người tiếp nhận những thông tin đầu tiên về Cách mạng Tháng Mười.
Từ chchưa biết V.I.Lê-nin ai, dần dần Người nhận ra rằng: Trên thế
giới đã xảy ra một sự kiện lớn lao chưa từng có: Một dân tộc đã lật đổ
bọn áp bức bóc lột mình, tự tổ chức quản mọi công việc đất nước,
không cần bọn chủ bọn toàn quyền. Người từng viết: “Lúc bấy giờ
tôi ủng hộ Cách mạng Tháng Mười chỉ theo cảm tính tnhiên. Tôi
chưa hiểu hết tầm quan trọng lịch sử của nó. Tôi kính yêu -nin vì Lê-
nin một người yêu nước đại đã giải phóng đồng bào mình, trước
đó tôi chưa hề đọc một quyển sách nào của -nin viết.”[ CITATION
HồC112 \l 1033 ]. Dần dần qua những trải nghiệm thực tiễn nhãn
quan chính trị thiên tài, bằng phân tích đánh giá khoa học, Nguyễn Ái
Quốc phát hiện ra giá trị thời đại của Cách mạng Tháng Mười Nga, Chủ
nghĩa Mác - -nin và Người quyết tâm đi theo con đường Cách mạng
Tháng Mười Nga. Sau này, khi nghiên cứu về Cách mạng Tháng Mười
Nga để truyền Chủ nghĩa Mác, Chnghĩa -nin vào thế hệ thanh
niên yêu nước những năm 19251927, trong tác phẩm Đường Kách
mệnh, Người đánh giá đúng đắn ý nghĩa của cuộc cách mạng này
khẳng định: Cách mạng Tháng Mười cuộc cách mạng triệt để nhất
ngọn đuốc luận Mác - Lênin, kinh nghiệm của soi sáng con đường
cách mạng Việt Nam. “Cách mệnh Nga dạy chúng ta rằng muốn cách
mệnh thành công thì dân chúng (công nông) làm gốc, phải đảng vững
bền, phải bền gan,
phải hy sinh, phải thống nhất”[ CITATION HồC11 \l 1033 ].
lOMoARcPSD| 61409713
Đối với các dân tộc thuộc địa Cách mạng Tháng Mười đã nêu
tấm ơng sáng trong việc giải phóng dân tộc bị áp bức, về ý nghĩa của
Cách mạng Tháng Mười, Nguyễn Ái Quốc nhận định: Cách mạng
Tháng Mười như tiếng sét đã đánh thức nhân dân châu Á tỉnh giấc
ng thế kỷ nay.
Tháng 3-1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) được thành lập.
Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản ý nghĩa thúc đẩy sự phát triển của
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Sơ thảo lần thứ nhất những
Luận cương về vấn đề dân tộc vấn đề thuộc địa của Lênin được công
bố tại Đại hội II Quổc tế Cộng sản vào năm 1920 đã chỉ ra phương
hướng đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa, mở ra con đường giải
phong các dân tộc bị áp bức trên lập trường cách mạng vô sản.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 làm rung chuyển thế
giới, thức tỉnh hàng triệu người, mở ra thời đại cách mạng chống đế quốc và giải
phóng dân tộc. Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Nguyễn Ái
Quốc đã khẳng định vai trò của tổ chức này đối với cách mạng nước ta là: "An Nam
muốn cách mệnh thành công, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế.".
[ CITATION HồC113 \l 1033 ].
1.3. Tinh hoa văn hoá phương Tây
Tháng 6-1911, người thanh niên xứ Nghệ Nguyễn Tất Thành đã
rời cảng Sài Gòn ra đi quyết chí tìm cho được con đường giải phóng
dân tộc. Người đã có quyết định sáng tạo đầu tiên là không “Đông du”
theo con đường lời mời của các bậc cha chú “Tây du” theo sự
mách bảo của trí tuệ, một tư duy khoa học kết hợp với khát vọng, hoài
bão giải phóng đồng bào.
Người làm việc như một người lao động thực sự; viết đơn xin học
Trường Thuộc địa
với ý định đã có từ lúc trạc 13 tuổi là “muốn
lOMoARcPSD| 61409713
làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng
Gần một phần ba thế kỷ bôn ba nước ngoài, chủ
yếu là ở Pháp, Nga một số nước châu Âu, Người đã tiếp thu nền văn
hóa châu Âu thế kỷ XVIII-XIX, trong đó nhiều tưởng tiến bộ.
Đáng kể trước nhất phải kể đến thời kỳ Người sống hoạt động Pháp
(19171923), thời kỳ đã để lại những dấu ấn sâu đậm rất quan trọng
đối với cuộc đời cách mạng của Người đối với cách mạng Việt Nam.
Paris, thủ đô của nước Pháp cũng đồng thời là trung tâm văn hóa
- nghệ thuật của châu Âu. Các trào lưu triết học các trường phái nghệ
thuật nổi tiếng thế giới phần lớn đều được hình thành và ra mắt tại đây.
Sống giữa nơi hợp lưu của các dòng văn hóa thế giới, Nguyễn Ái Quốc
điều kiện thuận lợi để nhanh chóng chiếm lĩnh vốn tri thức của thời
đại, đặc biệt là truyền thống văn hóa dân chủ và tiến bộ của nước Pháp.
thể nói 6 năm Pháp 6 năm Nguyễn Ái Quốc tự học, tự nghiên
cứu một cách cần mẫn tại các thư viện. Người ham đọc Voltare,
Rousseau cũng đọc nhiều tác phẩm tác phẩm văn học của
Shakespeare, Dickens, Huygo, Zola, Anatole France... Người còn gia
nhập các hội như Hội “Nghệ thuật và khoa học” Hội “Những người
bạn của nghệ thuật”. Những hội này mỗi tuần tổ chức các cuộc đi thăm
viện bảo tàng, nhà máy, phòng thí nghiệm, xưởng nghệ thuật, nhà hát,...
và sẽ có những nhà chuyên môn giải thích các vấn đề, lĩnh vực này. Do
đó, Người thêm những khả năng nhất định trong việc viết văn, m
thơ, tiểu thuyết, viết kịch, diễn kịch, chụp ảnh và vẽ tranh... Người vào
cả Hội “Du lịch” nhờ vậy đi thăm được nhiều nơi Pháp, Ý,
Thuỵ Sĩ, Đức cả Tthánh Va-ti-căng. Đến nước nào, Người cũng
để ý tìm hiểu xem ở những nước ấy người ta sống thế nào, tổ chức hành
chính và quản lý xã hội ra sao?
Nguyễn Ái Quốc còn thường xuyên tham gia các buổi sinh hoạt ở Câu
lạc bộ Faubourg (Câu lạc bộ ngoại ô). Dự những buổi sinh hoạt này, có
nhiều người thuộc đủ các thành phần, xu hướng chính trị như: Bác học,
sau những chữ ấy
lOMoARcPSD| 61409713
cựu bộ trưởng, nghị viên, nhà thơ, thợ thuyền, người đi buôn, người già
người trẻ. Chính đây Nguyễn Ái Quốc đã làm quen với những nhân
vật nổi danh như chính trị gia Léon Blum (sau này Thủ tướng Pháp),
nhà văn Vaillant Couturier, giáo Marcel Cachin, nghị viên Mac
Saugnier, nữ văn hào Colette... đây một không khí thân mật dân
chủ, giống như các câu lạc bJacobin thời Đại cách mạng Pháp.
Người ta thảo luận về mọi vấn đề, từ thiên văn, địa lý, chính trị, văn học
cho đến cách trồng cải xoong nuôi ốc sên, cả những vấn đề thôi miên,
bản năng, siêu hình, phụ đồng, mộng mị, về sự chết, thuyết luân hồi…
Đặc biệt, hoạt động trong phong trào cộng sản và công nhân Pháp,
Nguyễn Ái Quốc đã học được nhiều ở những đảng viên xã hội và cộng
sản Pháp. Người kết giao với Jacques Duclos (lãnh đạo Đảng Cộng sản
và là nghị sĩ uy tín của Quốc hội Pháp), Jean Longuet (nhà báo, nghị
Quốc hội Pháp, cháu ngoại của K.Marx)... Họ đã giúp Nguyễn Ái
Quốc tìm hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin. Cùng với Longuet, Monmousseau
(nhà báo, nhà hoạt động công đoàn nổi tiếng) đã giúp đỡ Nguyễn Ái
Quốc học tiếng Pháp viết báo; sau này cnhà văn nổi tiếng thế
giới Henri Barbusse không ngừng động viên, giúp đỡ Nguyễn Ái Quốc
dũng cảm bước tiếp trên con đường của nhà báo cách mạng.
Cứ nvậy, Nguyễn Ái Quốc tiếp xúc với nền văn a phương
Tây tiếp thu tinh hoa văn hóa của nó. Đặc biệt, Người đánh giá cao
những thành tựu to lớn mà cách mạng tư sản đem lại cho nhân loại trên
con đường của tự do dân chủ văn hóa. Người quan tâm tìm hiểu
những khẩu hiệu nổi tiếng đó trong các cuộc cách mạng sản Anh,
Pháp, Mỹ. Nghiên cứu cách mạng tư sản Pháp năm 1789, Người rút ra
5 bài học mà cách mạng Pháp dạy cho chúng ta: Dân chúng công nông
gốc cách mạng; Cách mạng thì phải tổ chức rất vững bền mới
thành công; Đàn bà trẻ con cũng giúp làm việc cách mạng được nhiều;
Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ng nào cũng không chống lại;
Cách mạng Pháp hy sinh rất nhiều người không sợ; ta muốn làm
lOMoARcPSD| 61409713
cách mạng thì cũng không nên sợ phải hy sinh. Người đã kế thừa, phát
triển những quan điểm nhân quyền, dân quyền trong Bản Tuyên ngôn
Độc lập năm 1776 của Mỹ, Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền
năm 1791 của Pháp đề xuất quan điểm về quyền mưu cầu độc lập, tự
do, hạnh phúc của các dân tộc trong thời đại ngày nay.
Trên hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh đã tiếp thu các tinh hoa văn hóa nhân loại một cách chọn lọc
rồi vận dụng tinh hoa đó một cách sát hợp vào những điều kiện cụ thể
của đất nước, của n tộc mục đích không chỉ cho snghiệp giải
phóng dân tộc mình mà còn góp phần tích cực nhất vào sự nghiệp của
các dân tộc khác trên thế giới.
1.4. Chủ nghĩa Mac-Lenin
Vào giữa thế kỷ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân phát triển mạnh đặt ra yêu cầu bức thiết phải hệ thống luận
khoa học với cách khí tưởng của giai cấp công nhân đấu tranh
chống chủ nghĩa tư bản. Trong hoàn cảnh đó, chủ nghĩa Mác ra đời, về
sau được Lênin phát triển và trở thành chủ nghĩa Mác - Lênin.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ muốn giành được thắng lợi trong
cuộc đấu tranh thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân
phải lập ra Đảng cộng sản. Sự ra đời của Đảng cộng sản yêu cầu
khách quan đáp ứng cuộc đấu tranh của giai cấp ng nhân chống áp
bức, bóc lột. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (năm 1848) xác định:
những người cộng sản luôn luôn đại biểu cho lợi ích của toàn bộ phong
trào; là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở các nước;
họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình kết quả của phong trào vô sản.
Những nhiệm vụ chủ yếu tính quy luật chính đảng của giai cấp
công nhân cần thực hiện là: tổ chức, lãnh đạo cuộc đấu tranh của giai
cấp công nhân để thực hiện mục đích giành lấy chính quyền xây dựng
hội mới. Đảng phải luôn đứng trên lập trường của giai cấp công nhân,
lOMoARcPSD| 61409713
mọi chiến lược, sách lược của Đảng đều luôn xuất phát từ lợi ích của
giai cấp công nhân. Nhưng, Đảng phải đại biểu cho quyền lợi của toàn
thể nhân dân lao động. Bởi vì giai cấp công nhân chỉ có thể giải phóng
được mình nếu đồng thời giải phóng cho các tầng lớp nhân dân lao động
khác trong xã hội.
Kể từ khi chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền vào Việt Nam,
phong trào yêu nước phong trào công nhân phát triển mạnh theo
khuynh hướng cách mạng sản, dẫn tới sự ra đời của các tổ chức cộng
sản Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, sáng lập ra
Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tưởng,
kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Danh mục tài liệu tham khảo
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 15, Nội: Nxb Chính trị Quốc gia-Sự
thật, 2011, p. 164.
[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nội: Nxb Chính trị Quốc gia-Sự
thật, 2011, p. 561.
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2,, Nội: Nxb Chính trị Quốc gia-Sự thật,
2011, p. tr. 304.
[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc giaSự thật,
2011, p. 287.
lOMoARcPSD| 61409713
[5] Hồ Chí Minh-Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia-Sự thật, 1995,
p. 280.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61409713
1. Bối cảnh quốc tế
1.1. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và mâu thuẫn trong xã hội tư bản chủ nghĩa
Ngày 1/8/1914, Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ. Cuộc
chiến tranh này gây ra những hậu quả đau thương cho nhân dân các
nước (khoảng 10 triệu người chết và 20 triệu người tàn phế do chiến
tranh), đồng thời cũng đã làm cho chủ nghĩa tư bản suy yếu và mâu
thuẫn giữa các nước tư bản đế quốc càng tăng thêm. Chủ nghĩa tư bản
đã chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền. Hay
nói cách khác chủ nghĩa tư bản trở thành chủ nghĩa đế quốc, xác lập
thống trị trên phạm vi thế giới. Các nước đế quốc bên trong thì tăng
cường bóc lột nhân dân lao động, bên ngoài thì xâm lược và áp bức
nhân dân các dân tộc thuộc địa. Lúc này không chỉ dừng lại sự áp bức
giai cấp trong chính quốc mà đã mở rộng ra sự áp bức với các dân tộc
khác. Vì thế cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc không chỉ còn là hành
động riêng lẻ mà trở thành cuộc đấu tranh chung của dân tộc thuộc địa
chống đế quốc, trở thành cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp vô sản trên
thế giới. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân
ngày càng gay gắt, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra sôi
nổi ở các nước thuộc địa. Tình hình đó đã tạo điều kiện cho phong trào
đấu tranh ở các nước nói chung, các dân tộc thuộc địa nói riêng phát triển mạnh mẽ.
1.2. Cách mạng tháng 10 Nga và Quốc tế Cộng sản
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga giành được thắng lợi.
Nhà nước Xô Viết dựa trên nền tảng liên minh công - nông dưới sự lãnh
đạo của Đảng Bônsêvích Nga ra đời. Thắng lợi của Cách mạng Tháng
Muời mở ra một thời đại mới, "thời đại cách mạng chống đế quốc, thời
đại giải phóng dân tộc"[ CITATION HồC111 \l 1033 ]. Cuộc cách
mạng này cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, lOMoAR cPSD| 61409713
nhân dân các nước và là một trong những động lực ra đời của nhiều
đảng cộng sản: Đảng Cộng sản Đức, Đảng Cộng sản Hunggari (Năm
1918), Đảng Cộng sản Mỹ (năm 1919), Đảng Cộng sản Trung Quốc và
Đảng Cộng sản Mông cổ (năm 1921), Đảng Cộng sản Nhật Bản (năm 1992)...
Cùng thời điểm này, cuối năm 1917, Nguyễn Ái Quốc từ Anh trở
về Pháp. Giữa lúc đang trăn trở tìm một con đường đi mới, thì tại đây,
Người tiếp nhận những thông tin đầu tiên về Cách mạng Tháng Mười.
Từ chỗ chưa biết V.I.Lê-nin là ai, dần dần Người nhận ra rằng: Trên thế
giới đã xảy ra một sự kiện lớn lao chưa từng có: Một dân tộc đã lật đổ
bọn áp bức bóc lột mình, tự tổ chức quản lý mọi công việc đất nước,
không cần bọn chủ và bọn toàn quyền. Người từng viết: “Lúc bấy giờ
tôi ủng hộ Cách mạng Tháng Mười chỉ là theo cảm tính tự nhiên. Tôi
chưa hiểu hết tầm quan trọng lịch sử của nó. Tôi kính yêu Lê-nin vì Lê-
nin là một người yêu nước vĩ đại đã giải phóng đồng bào mình, trước
đó tôi chưa hề đọc một quyển sách nào của Lê-nin viết.”[ CITATION
HồC112 \l 1033 ]. Dần dần qua những trải nghiệm thực tiễn và nhãn
quan chính trị thiên tài, bằng phân tích đánh giá khoa học, Nguyễn Ái
Quốc phát hiện ra giá trị thời đại của Cách mạng Tháng Mười Nga, Chủ
nghĩa Mác - Lê-nin và Người quyết tâm đi theo con đường Cách mạng
Tháng Mười Nga. Sau này, khi nghiên cứu về Cách mạng Tháng Mười
Nga để truyền bá Chủ nghĩa Mác, Chủ nghĩa Lê-nin vào thế hệ thanh
niên yêu nước những năm 19251927, trong tác phẩm Đường Kách
mệnh, Người đánh giá đúng đắn ý nghĩa của cuộc cách mạng này và
khẳng định: Cách mạng Tháng Mười là cuộc cách mạng triệt để nhất và
ngọn đuốc lý luận Mác - Lênin, kinh nghiệm của nó soi sáng con đường
cách mạng Việt Nam. “Cách mệnh Nga dạy chúng ta rằng muốn cách
mệnh thành công thì dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan,
phải hy sinh, phải thống nhất”[ CITATION HồC11 \l 1033 ]. lOMoAR cPSD| 61409713
Đối với các dân tộc thuộc địa Cách mạng Tháng Mười đã nêu
tấm Gương sáng trong việc giải phóng dân tộc bị áp bức, về ý nghĩa của
Cách mạng Tháng Mười, Nguyễn Ái Quốc nhận định: Cách mạng
Tháng Mười như tiếng sét đã đánh thức nhân dân châu Á tỉnh giấc mê hàng thế kỷ nay.
Tháng 3-1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) được thành lập.
Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản có ý nghĩa thúc đẩy sự phát triển của
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Sơ thảo lần thứ nhất những
Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin được công
bố tại Đại hội II Quổc tế Cộng sản vào năm 1920 đã chỉ ra phương
hướng đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa, mở ra con đường giải
phong các dân tộc bị áp bức trên lập trường cách mạng vô sản.
 Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 làm rung chuyển thế
giới, thức tỉnh hàng triệu người, mở ra thời đại cách mạng chống đế quốc và giải
phóng dân tộc. Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Nguyễn Ái
Quốc đã khẳng định vai trò của tổ chức này đối với cách mạng nước ta là: "An Nam
muốn cách mệnh thành công, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế.".
[ CITATION HồC113 \l 1033 ].
1.3. Tinh hoa văn hoá phương Tây
Tháng 6-1911, người thanh niên xứ Nghệ Nguyễn Tất Thành đã
rời cảng Sài Gòn ra đi quyết chí tìm cho được con đường giải phóng
dân tộc. Người đã có quyết định sáng tạo đầu tiên là không “Đông du”
theo con đường và lời mời của các bậc cha chú mà “Tây du” theo sự
mách bảo của trí tuệ, một tư duy khoa học kết hợp với khát vọng, hoài
bão giải phóng đồng bào.
Người làm việc như một người lao động thực sự; viết đơn xin học Trường Thuộc địa
với ý định đã có từ lúc trạc 13 tuổi là “muốn lOMoAR cPSD| 61409713
làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy
Gần một phần ba thế kỷ bôn ba nước ngoài, chủ
yếu là ở Pháp, Nga và một số nước châu Âu, Người đã tiếp thu nền văn
hóa châu Âu thế kỷ XVIII-XIX, trong đó có nhiều tư tưởng tiến bộ.
Đáng kể trước nhất phải kể đến thời kỳ Người sống và hoạt động ở Pháp
(19171923), thời kỳ đã để lại những dấu ấn sâu đậm và rất quan trọng
đối với cuộc đời cách mạng của Người và đối với cách mạng Việt Nam.
Paris, thủ đô của nước Pháp cũng đồng thời là trung tâm văn hóa
- nghệ thuật của châu Âu. Các trào lưu triết học và các trường phái nghệ
thuật nổi tiếng thế giới phần lớn đều được hình thành và ra mắt tại đây.
Sống ở giữa nơi hợp lưu của các dòng văn hóa thế giới, Nguyễn Ái Quốc
có điều kiện thuận lợi để nhanh chóng chiếm lĩnh vốn tri thức của thời
đại, đặc biệt là truyền thống văn hóa dân chủ và tiến bộ của nước Pháp.
Có thể nói 6 năm ở Pháp là 6 năm Nguyễn Ái Quốc tự học, tự nghiên
cứu một cách cần mẫn tại các thư viện. Người ham đọc Voltare,
Rousseau và cũng đọc nhiều tác phẩm tác phẩm văn học của
Shakespeare, Dickens, Huygo, Zola, Anatole France... Người còn gia
nhập các hội như Hội “Nghệ thuật và khoa học” và Hội “Những người
bạn của nghệ thuật”. Những hội này mỗi tuần tổ chức các cuộc đi thăm
viện bảo tàng, nhà máy, phòng thí nghiệm, xưởng nghệ thuật, nhà hát,...
và sẽ có những nhà chuyên môn giải thích các vấn đề, lĩnh vực này. Do
đó, Người có thêm những khả năng nhất định trong việc viết văn, làm
thơ, tiểu thuyết, viết kịch, diễn kịch, chụp ảnh và vẽ tranh... Người vào
cả Hội “Du lịch” và nhờ vậy mà đi thăm được nhiều nơi ở Pháp, Ý,
Thuỵ Sĩ, Đức và cả Toà thánh Va-ti-căng. Đến nước nào, Người cũng
để ý tìm hiểu xem ở những nước ấy người ta sống thế nào, tổ chức hành
chính và quản lý xã hội ra sao?
Nguyễn Ái Quốc còn thường xuyên tham gia các buổi sinh hoạt ở Câu
lạc bộ Faubourg (Câu lạc bộ ngoại ô). Dự những buổi sinh hoạt này, có
nhiều người thuộc đủ các thành phần, xu hướng chính trị như: Bác học, lOMoAR cPSD| 61409713
cựu bộ trưởng, nghị viên, nhà thơ, thợ thuyền, người đi buôn, người già
và người trẻ. Chính ở đây Nguyễn Ái Quốc đã làm quen với những nhân
vật nổi danh như chính trị gia Léon Blum (sau này là Thủ tướng Pháp),
nhà văn Vaillant Couturier, giáo sư Marcel Cachin, nghị viên Mac
Saugnier, nữ văn hào Colette... Ở đây có một không khí thân mật và dân
chủ, giống như ở các câu lạc bộ Jacobin thời Đại cách mạng Pháp.
Người ta thảo luận về mọi vấn đề, từ thiên văn, địa lý, chính trị, văn học
cho đến cách trồng cải xoong và nuôi ốc sên, cả những vấn đề thôi miên,
bản năng, siêu hình, phụ đồng, mộng mị, về sự chết, thuyết luân hồi…
Đặc biệt, hoạt động trong phong trào cộng sản và công nhân Pháp,
Nguyễn Ái Quốc đã học được nhiều ở những đảng viên xã hội và cộng
sản Pháp. Người kết giao với Jacques Duclos (lãnh đạo Đảng Cộng sản
và là nghị sĩ có uy tín của Quốc hội Pháp), Jean Longuet (nhà báo, nghị
sĩ Quốc hội Pháp, cháu ngoại của K.Marx)... Họ đã giúp Nguyễn Ái
Quốc tìm hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin. Cùng với Longuet, Monmousseau
(nhà báo, nhà hoạt động công đoàn nổi tiếng) đã giúp đỡ Nguyễn Ái
Quốc học tiếng Pháp và viết báo; sau này có cả nhà văn nổi tiếng thế
giới Henri Barbusse không ngừng động viên, giúp đỡ Nguyễn Ái Quốc
dũng cảm bước tiếp trên con đường của nhà báo cách mạng.
Cứ như vậy, Nguyễn Ái Quốc tiếp xúc với nền văn hóa phương
Tây và tiếp thu tinh hoa văn hóa của nó. Đặc biệt, Người đánh giá cao
những thành tựu to lớn mà cách mạng tư sản đem lại cho nhân loại trên
con đường của tự do dân chủ và văn hóa. Người quan tâm tìm hiểu
những khẩu hiệu nổi tiếng đó trong các cuộc cách mạng tư sản ở Anh,
Pháp, Mỹ. Nghiên cứu cách mạng tư sản Pháp năm 1789, Người rút ra
5 bài học mà cách mạng Pháp dạy cho chúng ta: Dân chúng công nông
là gốc cách mạng; Cách mạng thì phải có tổ chức rất vững bền mới
thành công; Đàn bà trẻ con cũng giúp làm việc cách mạng được nhiều;
Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại;
Cách mạng Pháp hy sinh rất nhiều người mà không sợ; ta muốn làm lOMoAR cPSD| 61409713
cách mạng thì cũng không nên sợ phải hy sinh. Người đã kế thừa, phát
triển những quan điểm nhân quyền, dân quyền trong Bản Tuyên ngôn
Độc lập năm 1776 của Mỹ, Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền
năm 1791 của Pháp và đề xuất quan điểm về quyền mưu cầu độc lập, tự
do, hạnh phúc của các dân tộc trong thời đại ngày nay.
Trên hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh đã tiếp thu các tinh hoa văn hóa nhân loại một cách có chọn lọc
rồi vận dụng tinh hoa đó một cách sát hợp vào những điều kiện cụ thể
của đất nước, của dân tộc vì mục đích không chỉ cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc mình mà còn góp phần tích cực nhất vào sự nghiệp của
các dân tộc khác trên thế giới.
1.4. Chủ nghĩa Mac-Lenin
Vào giữa thế kỷ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân phát triển mạnh đặt ra yêu cầu bức thiết phải có hệ thống lý luận
khoa học với tư cách là vũ khí tư tưởng của giai cấp công nhân đấu tranh
chống chủ nghĩa tư bản. Trong hoàn cảnh đó, chủ nghĩa Mác ra đời, về
sau được Lênin phát triển và trở thành chủ nghĩa Mác - Lênin.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ muốn giành được thắng lợi trong
cuộc đấu tranh thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân
phải lập ra Đảng cộng sản. Sự ra đời của Đảng cộng sản là yêu cầu
khách quan đáp ứng cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống áp
bức, bóc lột. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (năm 1848) xác định:
những người cộng sản luôn luôn đại biểu cho lợi ích của toàn bộ phong
trào; là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở các nước;
họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả của phong trào vô sản.
Những nhiệm vụ chủ yếu có tính quy luật mà chính đảng của giai cấp
công nhân cần thực hiện là: tổ chức, lãnh đạo cuộc đấu tranh của giai
cấp công nhân để thực hiện mục đích giành lấy chính quyền và xây dựng
xã hội mới. Đảng phải luôn đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, lOMoAR cPSD| 61409713
mọi chiến lược, sách lược của Đảng đều luôn xuất phát từ lợi ích của
giai cấp công nhân. Nhưng, Đảng phải đại biểu cho quyền lợi của toàn
thể nhân dân lao động. Bởi vì giai cấp công nhân chỉ có thể giải phóng
được mình nếu đồng thời giải phóng cho các tầng lớp nhân dân lao động khác trong xã hội.
Kể từ khi chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá vào Việt Nam,
phong trào yêu nước và phong trào công nhân phát triển mạnh theo
khuynh hướng cách mạng vô sản, dẫn tới sự ra đời của các tổ chức cộng
sản ở Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, sáng lập ra
Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Danh mục tài liệu tham khảo [1]
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 15, Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia-Sự thật, 2011, p. 164. [2]
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia-Sự thật, 2011, p. 561. [3]
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2,, Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia-Sự thật, 2011, p. tr. 304. [4]
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc giaSự thật, 2011, p. 287. lOMoAR cPSD| 61409713 [5]
Hồ Chí Minh-Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia-Sự thật, 1995, p. 280.