

Preview text:
Nội dung mối quan hệ biện chứng:
Biện chứng là một phạm trù dùng để chỉ mối quan hệ, tương tác,
chuyển hóa và vận động phát triển theo quy luật của các sự vật hiện
tượng quá trình trong tự nhiên xã hội và tư duy.
Hai loại hình biện chứng gồm biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan. Trong đó:
Biện chứng khách quan: Biện chứng của bản thân thế giới vật
chất, tồn tại khách quan độc lập với ý thức của con người.
Biện chứng chủ quan: Biện chứng của sự thống nhất giữa logic
biện chứng, phép biện chứng và lý luận nhận thức, là tư duy
biện chứng. Biện chứng của quá trình phản ánh hiện thực
khách quan vào bộ óc của con người.
Quan hệ biện chứng là gì: Để hiểu hơn về vấn đề này chúng ta
cần phải biết quan hệ trong triết học được hiểu là mối quan hệ, sự
tác động, phụ thuộc qua lại giữa hai (hoặc nhiều hơn hai) đối
tượng hoặc hai (hoặc nhiều hơn hai) nhóm đối tượng trong một hệ
thống nhất định (tập hợp) có liên quan với nhau theo nghĩa chung
nhất. Trong biện chứng, khái niệm quan hệ dùng để chỉ: sự quy
định, sự tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện
tượng, hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Ví dụ như: Trên thị trường luôn luôn diễn ra quá trình cung và
cầu quy định lẫn nhau. Cung và cầu tác động, ảnh hưởng lẫn
nhau, chuyển hóa lẫn nhau, từ đó tạo nên quá trình vận động,
phát triển không ngừng của cả cung và cầu. Đây cũng chính là
những nội dung cơ bản khi phân tích về mối quan hệ biện chứng giữa cung cầu.
Ví dụ: Biết được về hiện tượng của thủy triều là sức hút của mặt trăng tạo nên
làm cho nước biển bị cuốn theo gây nên những đợt thủy triều tràn vào đất liền,
người ta có thể lợi dụng nó để tạo ra nguồn điện.
Ví dụ : bảo vệ môi trường tốt và mọi người có ý thức giữ gìn môi trường
tốt thì sẽ đưa đến kết quả môi trường trong sạch và là nguyên nhân của
sự phát triển kinh tế đất nước bền vững, sức khoẻ của mọi người được
bảo vệ tốt hơn ; kinh tế đất nước có phát triển bền vững, mọi người khoẻ
mạnh thì đưa đến kết quả đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân mới được cải thiện
Nguyên nhân xuất hiện trước và sinh ra kết quả
Tuy nhiên không phải hai hiện tượng nào nối tiếp nhau về mặt thời gian cũng là quan
hệ nhân quả. (ví dụ: sau mùa Đông là mùa Xuân, ta không thể nói mùa Đông là nguyên
nhân của mùa Xuân. Nguyên nhân của mùa Đông cũng như của mùa Xuân là do sự
vận chuyển của quả đất chung quanh mặt trời, nhưng không phải đêm là nguyên nhân
của ngày, mùa xuân là nguyên nhân của mùa hè..vv) Cái phân biệt quan hệ nhân quả
với quan hệ kế tiếp về mặt thời gian là ở chỗ nguyên nhân và kết quả có quan hệ sản sinh ra nhau.
Nguyên nhân sinh ra kết quả rất phức tạp, bởi vì nó còn phụ thuộc vào nhiều điều kiện
và hoàn cảnh khác nhau. Một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Mặt khác,
một nguyên nhân trong những điều kiện khác nhau cũng có thể sinh ra những kết quả
khác nhau. Và nếu nhiều nguyên nhân cùng tồn tại và tác động cùng chiều trong một
sự vật thì chúng sẽ gây ảnh hưởng cùng chiều đến sự hình thành kết quả, làm cho kết
quả xuất hiện nhanh hơn. Ngược lại nếu những nguyên nhân tác động đồng thời theo
các hướng khác nhau, thì sẽ cản trở tác dụng của nhau, thậm chí triệt tiêu tác dụng của
nhau. Điều đó sẽ ngăn cản sự xuất hiện của kết quả.
Nguyên nhân là sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong cùng một sự vật hoặc giữa
các sự vật với nhau gây ra một hoặc hơn sự biến đổi nhất định. Kết quả là sự biến đổi
xuất hiện do sự tác động lẫn nhau của các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau.