lOMoARcPSD| 61409713
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-------***-------
BÀI TẬP NHÓM
MÔN TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ BÀI: Phân tích luận điểm "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết.
Thành công, thành công, đại thành công" của Hồ Chí Minh
Nhóm 5: Phùng Ngọc Diệp - 11221305
Đặng Thuỳ Linh - 11223359
Nguyễn Hoàng Minh Ngọc - 11224702
Bùi Như Quỳnh - 11225506
Trần Như Quỳnh - 11225581
Nguyễn Anh Thư - 11226103
Lớp: Kinh tế học tài chính 64 (FE64)
GVHD: Ths. NGUYỄN THÙY LINH
HÀ NỘI, NĂM 2024
lOMoARcPSD| 61409713
MỤC LỤC
I. Cơ sở của luận điểm ....................................................................................................................... 3
1. Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của nhân dân Việt Nam ................ 3
2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin .......................................................................................... 3
3. Cơ sở thực tiễn của cách mạng Việt Nam và thế giới .................................................................. 4
a) Thực tiễn cách mạng Việt Nam ................................................................................................ 4
b) Thực tiễn cách mạng thế giới ................................................................................................... 4
4. Phẩm chất cá nhân Hồ Chí Minh ................................................................................................. 5
II. Nội dung của luận điểm ................................................................................................................ 5
1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công của cách mạng ........................ 5
a) Đoàn kết không phải là thủ đoạn chính trị nhất thời mà là tưởng cơ bản, nhất quán, xuyên
suốt tiến trình cách mạng Việt Nam ............................................................................................. 5
b) Đoàn kết quyết định thành công cách mạng ............................................................................ 6
c) Đoàn kết phải luôn được nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng .................................. 6
2. Đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng ............................................... 7
3. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân .............................................................................. 8
4. Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất có tổ chức là Mặt trận dân tộc thống . 9
nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng ....................................................................................................... 9
III. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết quốc tế ..................................................................... 10
1. Sự cần thiết phải đoàn kết quốc tế .............................................................................................. 10
a) Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo sứcmạnh
tổng hợp cho cách mạng............................................................................................................. 10
b) Thực hiện đoàn kết quốc tế góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện thắng lợi các mục tiêu
cách mạng của thời đại ............................................................................................................... 10
2. Nguyên tắc đoàn kết quốc tế .......................................................................................................11
a) Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích; có lý, có tình ..........................................11
b) Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ ........................................................................................11
IV. Ý nghĩa tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh .................................................................... 12
V. Liên hệ thực tiễn Việt Nam ......................................................................................................... 13
1. Liên hệ đoàn kết dân tộc ............................................................................................................ 13
2. Liên hệ đoàn kết quốc tế ............................................................................................................ 17
20 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM VỀ CHỦ ĐỀ ................................................................................ 20
Chủ tịch Hồ CMinh, anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại, nhà văn hóa kiệt xuất của dân tộc ta
của nhân loại, đã để lại cho chúng ta một di sản tinh thần giá, một hệ thống tư tưởng về nhiều mặt.
Trong đó tưởng về đại đoàn kết ởng nổi bật, giá trị trường tồn đối với quá trình phát
triển của dân tộc ta của toàn nhân loại. Đấy là tưởng xuyên suốt và nhất quán trong tư duy lý
lOMoARcPSD| 61409713
luận và trong hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh và đã trở thành chiến lược cách mạng của Đảng
ta, gắn liền với những thắng lợi vẻ vang của dân tộc.
I. Cơ sở của luận điểm
Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết nằm trong nhận thức chung của cơ sở hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh được tiếp cận về phương diện đoàn kết. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại
đoàn kết dân tộc có nguồn gốc từ nhiều yếu tố và được hình thành trên cơ sở kế thừa và phát triển
chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt là đã
vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin phù hợp với tình hình và điều kiện cụ thể của
Việt Nam trong từng giai đoạn cách mạng.
1. Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của nhân dân Việt Nam
Trải qua hàng ngàn năm dựng nước giữ nước, dân tộc Việt Nam đã đắp bồi nên nhiều giá trị văn
hóa truyền thống tốt đẹp, tạo nên cốt cách của con người Việt Nam, một trong những cơ sở hình thành
tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết. Giá trị hàng đầu của văn hóa Việt Nam là chủ nghĩa yêu nước,
tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng. Tình cảm tự nhiên của con người Việt Nam là: “Nhiễu điều phủ
lấy giá gương. Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Triết nhân sinh của dân tộc: “Một
cây làm chẳng nên non. Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. duy chính trị được phản ánh: “Nước
mất thì nhà tan. Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”.
Văn hóa Việt Nam lấy nhân nghĩa làm gốc, lấy đại nghĩa thắng hung tàn, đem chí nhân thay cường
bạo. Đó nền văn hóa trọng đạo làm người, đề cao trách nhiệm nhân với cộng đồng hàng
đầu là bổn phận đối với Tổ quốc.
Tinh thần ấy, tình cảm ấy theo thời gian đã trở thành lẽ sống của mỗi con người Việt Nam, làm cho
vận mệnh mỗi cá nhân gắn chặt vào vận mệnh của cộng đồng, vào sự sống còn và phát triển của dân
tộc. Nó là cơ sở của ý chí kiên cường, bất khuất, tinh thần dũng cảm hy sinh vì dân, vì nước của mỗi
con người Việt Nam, đồng thời là giá trị tinh thần thúc đẩy sự phát triển của cộng đồng và của mỗi
nhân trong quá trình dựng nước giữ nước, làm nên truyền thống yêu nước, đoàn kết của dân tộc.
lúc thăng, lúc trầm nhưng chủ nghĩa yêu nướctruyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam bao
giờ cũng tinh hoa đã được hun đúc thử nghiệm qua hàng nghìn năm lịch sử chinh phục thiên
nhiên chống giặc ngoại xâm bảo vTổ quốc của ông cha ta. Chủ nghĩa yêu nước, truyền thống
đoàn kết, cộng đồng của dân tộc Việt Nam sđầu tiên, sâu xa cho sự hình thành tưởng Hồ
Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 là minh chứng hùng hồn cho tính đúng đắn của
tưởng đoàn kết trong học thuyết Mác-Lênin. Cách mạng Nga chỉ ra rằng cách mạng sự nghiệp
lOMoARcPSD| 61409713
của quần chúng nhân dân, nhân dân người làm nên lịch sử. Giai cấp sản lãnh đạo cách mạng
phải đi từ chiến lược “giai cấp vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!” tới chiến lược “giai cấp vô sản tất
cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!”. Đoàn kết trong học thuyết Mác-Lênin lấy giai cấp
công nhân nông dân làm nền tảng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc tế. Lênin tấm
gương sáng chói về thực hành đoàn kết, đoàn kết trong nước, đoàn kết quốc tế, hiện thân cho tình anh
em bốn bể. thể nói những quan điểm đoàn kết trong học thuyết Mác-Lênin sở tưởng
luận quan trọng nhất, bởi nó không chỉ trang bị thế giới quan, phương pháp luận, mà còn chỉ ra những
phương hướng rõ ràng trong quá trình thực hiện đoàn kết. Đó là những quan điểm lý luận hết sức cần
thiết để Hồ Chí Minh có cơ sở khoa học trong sự đánh giá chính xác yếu tố tích cực cũng như những
hạn chế trong các di sản truyền thống, trong tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt
Nam tiền bối các nhà cách mạng lớn trên thế giới, từ đó hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại
đoàn kết dân tộc.
3. Cơ sở thực tiễn của cách mạng Việt Nam và thế giới
Không chỉ được hình thành từ những cơ sở lý luận suông, tư tưởng này còn xuất phát từ thực tiễn lịch
sử của dân tộc và nhiều năm bôn ba khảo nghiệm ở nước ngoài của Hồ Chí Minh.
a) Thực tiễn cách mạng Việt Nam
một người am hiểu sâu sắc lịch sđấu tranh dựng nước giữ nước của dân tộc mình, Hồ Chí
Minh nhận thức được trong thời phong kiến chỉ những cuộc đấu tranh thay đổi triều đại nhưng
chúng đã ghi lại những tấm gương tâm huyết của ông cha ta với tư tưởng “Vua tôi đồng lòng, anh em
hòa thuận, cả nước góp sức” “Khoan thư sức dân để làm kế sâu rbền gốc thượng sách gi
nước”. Chính chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết của dân tộc trong chiều sâu bề dày của
lịch sử này đã tác động mạnh mẽ đến Hồ Chí Minh được người ghi nhận như những bài học lớn
cho sự hình thành tư tưởng của mình.
Năm 1858, thực dân Pháp tấn công bán đảo Sơn Trà, từ đó, các phong trào yêu nước , chống pháp liên
tục nổ ra, rất anh dũng, nhưng cuối cùng đều thất bại. Hồ Chí Minh đã nhận ra được những hạn chế
trong chủ trương tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước tiền bối trong việc nắm bắt những đòi
hỏi khách quan của lịch sử trong giai đoạn này. Đây cũng chính là lý do, là điểm xuất phát để Người
quyết tâm từ Bến cảng Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước.
b) Thực tiễn cách mạng thế giới
Từ 1911 đến 1941 Hồ Chí Minh đã đi đầu khắp hết các châu lục. Cuộc khảo nghiệm thực tiễn rông
lớn và công phu đã giúp Người nhận thức một sự thực:
lOMoARcPSD| 61409713
“Các dân tộc thuộc địa tiềm ẩn một sức mạnh đại, song cuộc đấu tranh của họ chưa đi đến thắng
lợi bởi các dân tộc bị áp bức chưa biết tập hợp lại, chưa sự liên kết chặt chẽ với giai cấp công
nhân ở các nước tư bản, đế quốc, chưa có tổ chức và chưa biết tổ chức…”
4. Phẩm chất cá nhân Hồ Chí Minh
Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết cùng với những nội dung về lý luận tư tưởng,
phải kể tới những phẩm chất cá nhân Hồ Chí Minh trên các phương diện đạo đức, trí tuệ, bản nh. Hồ
Chí Minh là lãnh tụ quyết tâm suốt đời hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục
vụ nhân dân, đến khi phải từ biệt thế giới này, không điều phải hối hận, chỉ tiếc tiếc rằng
không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa. Người thương dân, trọng dân, kính dân, tin tưởng
nhân dân: hiểu dân nh, dân tâm, dân ý, chú trọng tới dân quyền, dân sinh, dân trí, dân chủ. vậy.
Người được dân tin, dân phục, dân yêu.
Lòng thương yêu nhân dân là điểm tựa cho mọi sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc tổ chức và thực
hiện nhiệm vụ đoàn kết dân tộc.
II. Nội dung của luận điểm
tưởng Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết một hệ thống quan điểm, nguyên tắc, phương pháp giáo
dục, tổ chức, tập hợp lực lượng cách mạng nhằm đoàn kết rộng rãi các giai tầng trong xã hội, phát huy
đến mức cao nhất sức mạnh của dân tộc của quốc tế, đấu tranh cho độc lập dân tộc, dân chủ chủ
nghĩa hội. Nói một cách khác, đó tưởng xây dựng, củng cố, mở rộng lực lượng cách mạng
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Trong 90 năm qua,
Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng một cách sáng tạo tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết trong
tiến trình lãnh đạo cách mạng. Đó chính là sự kế thừa truyền thống đoàn kết, nhân ái của dân tộc Việt
Nam ta.
1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công của cách mạng
a) Đoàn kết không phải thủ đoạn chính trị nhất thời tưởng bản, nhất quán, xuyên
suốt tiến trình cách mạng Việt Nam
Với Hồ Chí Minh, đoàn kết một truyền thống cực kỳ quý báu của nhân dân ta. Người cho rằng:
Muốn giải phóng các n tộc bị áp bức nhân dân lao động phải tự mình cứu lấy mình bằng cách
mạng vô sản. Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều chỉnh chính
sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với những đối tượng khác nhau, nhưng đại đoàn
kết dân tộc luôn luôn được. Người coi là vấn đề sống còn của cách mạng.
Trước hết, Hồ Chí Minh nhận thức vị trí, vai trò của đoàn kết trong sự nghiệp cách mạng. Đoàn kết
trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là một thủ đoạn chính trị nhất thời, sách lược mà là một chiến
lược. Theo Người, “Đoàn kết là lẽ sinh tồn của dân tộc. Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một
lOMoARcPSD| 61409713
thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng, đoàn kết tạo nên một sức mạnh thật sự, là “điểm mẹ”, điểm này mà thực hiện tốt
thì đẻ ra con cháu đều tốt.
Đoàn kết trong tưởng Hồ Chí Minh vừa chiến lược vừa yêu cầu khách quan của sự nghiệp
cách mạng. Bởi cách mạng cuộc chiến đấu khổng lồ, muốn giành thắng lợi thì phải động viên
toàn dân, tổ chức giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng dại của toàn dân. Mặt khác trong thời
đại mới được mở ra từ Cách mạng Tháng Mười, phải chống kẻ thù mới chủ nghĩa thực dân, đế
quốc, nếu không có lý luận khoa học và cách mạng về đoàn kết thì khó thành công.
b) Đoàn kết quyết định thành công cách mạng
Những lợi ích cơ bản của nhân dân lao động được biểu hiện cụ thể trong từng giai đoạn cách mạng.
Để giải quyết đúng đắn mối quan hệ đó, theo Hồ Chí Minh, trước hết phải xử lý đúng mối quan hệ
cốt lõi giữa giai cấp và dân tộc: "Dân tộc không độc lập thì giai cấp vạn năm không được giải phóng
và nhân dân ta mãi mãi phải chịu kiếp ngựa trâu. Và: "Nhưng nếu nước độc lập mà dân không được
hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập đó chẳng có nghĩa lý gì","...Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của
độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ...".
Trong mối quan hệ đó, vai trò lãnh đạo và lợi ích giai cấp công nhân chỉ có thể được đảm bảo khi giai
cấp công nhân trở thành trung tâm liên kết các giai cấp, tầng lớp trong hội đại diện cho lợi ích
chung nhất của các giai cấp, tầng lớp, tức là giai cấp công nhân phải tự trở thành dân tộc, phải giương
cao ngọn cờ dân tộc. Đi đôi với việc nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa giai cấp với
dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh sự kết hợp chặt chẽ giữa dân tộc với quốc tế.
vậy, muốn cách mạng thành công, tưởng đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh phải
được quán triệt trong mọi đường lối, chủ trương của Đảng - lực lượng lãnh đạo duy nhất của cách
mạng Việt Nam, trong chính sách, pháp luật của Nhà nước - cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân.
Như Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: Đại đoàn kết toàn
dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; nguồn sức mạnh, động lực
chủ yếu nhân tố ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng
bảo vệ Tổ quốc.
c) Đoàn kết phải luôn được nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng
Nhận thức sâu sắc vai tquan trọng của vấn đề đoàn kết trong thực tiễn phong trào yêu nước của
nhân dân đầu thế kỷ 20: “Vì dân đoàn kết chưa sâu. Cho nên thất bại trước sau mấy lần” cho nên khi
tìm thấy con đường cách mạng vô sản là con đường duy nhất đúng đắn để giải phóng dân tộc, Hồ Chí
Minh đã xác định: “trở về nước đi vào dân chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện
họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập”.
lOMoARcPSD| 61409713
Đoàn kết là vấn đề sống còn, cho nên trước lúc đi xa, trong Di chúc Người cẩn thận nhắn nhủ: Đoàn
kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các
chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ n con ngươi của mắt mình”. Đảng Cộng
sản là người tổ chức, hướng dẫn, lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn dân, do vậy, Đảng phải là một đảng
trí tuệ, cách mạng, thống nhất, phải luôn giữ gìn sự đoàn kết trong Đảng. Trong Đảng, từ Trung ương
đến cơ sở nếu không đoàn kết nhất trí trên dưới một lòng thì ví như một đoàn người đang đi mà không
còn khả năng nhìn rõ vạn vật, đến một lúc nào đó việc vấp ngã bởi chướng ngại vật trên hành trình là
một tất nhiên thậm chí sẽ lạc lối, mất phương hướng rơi vào tăm tối. Đây cũng một trong
những lí do giải thích vì sao Đảng ta luôn luôn giữ gìn khối đại đoàn kết – chiếc chìa khóa vạn năng
đã giúp cho Đảng ta trong hơn 90 năm qua đưa đất nước vượt qua bao thác ghềnh hiểm trở đến bến
bờ thắng lợi.
2. Đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
Đại đoàn kết sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị hạt nhân lãnh đạo các tổ
chức đảng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức, trong đó các chủ trương của Đảng
chính sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Đại đoàn kết dân tộc không chỉ mục tiêu, mục đích, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, mà còn mục
tiêu, mục đích, nhiệm vụ hàng đầu của cdân tộc. Như vậy, đại đoàn kết dân tộc chính đòi hỏi
khách quan của bản thân quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng mình, sự
nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn, biến
những đòi hỏi khách quan, tự phát của nhân dân thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc
lập dân tộc, tự do hạnh phúc cho nhân dân.
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Người đã kết hợp nhuần nhuyễn luận điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin: "Cách mạng sự nghiệp của quần chúng" tưởng truyền thống của tổ tiên "Nước
lấy dân làm gốc". Dân theo tưởng của Người, bao gồm "mọi con dân nước Việt", "con cháu Lạc
Hồng" không phân biệt dân tộc thiểu số với đa số, người n ngưỡng với người không tín ngưỡng,
không phân biệt già, trẻ, gái, trai, không phân biệt giàu, nghèo.
Yêu dân, tin dân, dựa vào dân, sống chết dân, vừa người lãnh đạo, vừa người đầy tớ trung
thành của nhân dân nguyên tắc tối cao xuyên suốt trong nhận thức hoạt động thực tiễn của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với nhận thức "có dân là có tất cả", nên Người đã dành cả cuộc đời tạo dựng
và chăm lo cho rừng cây đại đoàn kết dân tộc đâm chồi nẩy lộc, nở hoa kết trái.
Người căn dặn chúng ta: Muốn thực hiện được đại đoàn kết toàn dân phải kế thừa truyền thống yêu
nước, nhân nghĩa của tổ tiên, phải có lòng khoan dung, đại độ với con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Tôi khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi. Năm ngón tay cũng
ngón vắn, ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng
lOMoARcPSD| 61409713
người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan
hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối
với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành
đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc sẽ vẻ vang".
3. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
Trong lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến 19/12/1946 Người kêu gọi:
“Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân
Pháp càng lấn tới, vì chúng muốn cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất
định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào, chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không
phân biệt đảng phái, tôn giáo, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để
cứu tổ quốc…”.
“Dân” theo tưởng Hồ Chí Minh, là chỉ mọi con dân đất Việt, con rồng cháu tiên, không phân biệt
dân tộc đa số, người tín ngưỡng với người không tín ngưỡng, không phân biệt già trẻ, gái, trai, giàu,
nghèo. Trong khi vấn đề đại đoàn kết dân tộc lại phải tập hợp mọi người dân vào một khối trong
cuộc đấu tranh chung. Hồ Chí Minh căn dặn chúng ta: Muốn thực hiện được đại đoàn kết toàn dân
phải kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa của tổ tiên, phải có lòng khoan dung, đại độ với con
người. Người nói: "Tôi khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi. Năm ngón tay cũng ngón
ngắn, ngón dài. Nhưng ngắn, dài đều hợp nhau lại ở nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng người
thế này, người thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan
hồng đại độ, ta phải nhận rằng đã là con Lạc, cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối
với những đồng bào lạc lối, lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành
đoàn kết, đoàn kết thì tương lai chắc chắn sẽ vẻ vang”. Nhiều lần Người đã nói rõ: “Đoàn kết
một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị. Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất
độc lập tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai tài, đức, sức, lòng
phụng sự tổ quốc và phụng sự nhân dân thì ta đoàn kết với họ”.
Người còn nhấn mạnh: Đoàn kết rộng rãi, chặt chẽ, đồng thời phải củng cố. Nền vững, nhà mới
chắc chắn, gốc tốt thì cây mới tốt tươi. Trong chính sách đoàn kết phải chống hai khuynh hướng
sai lầm: cô độc, hẹp hòi và đoàn kết vô nguyên tắc.
lOMoARcPSD| 61409713
4. Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất có tổ chức là Mặt trận dân tộc
thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng
Theo Người, đại đoàn kết dân tộc không chỉ dừng lại quan niệm, tưởng, những lời kêu gọi
chung chung, mà phải trở thành đường lối chiến lược cách mạng, thành khẩu hiệu hành động của toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta. phải trở thành sức mạnh vật chất, một lực lượng mạnh có tổ chức.
Tổ chức đó chính là Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng theo những nguyên tắc: Trên nền tảng liên minh công,
nông trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Người cho rằng: liên minh công nông- lao động trí óc
làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân, nền tảng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết
dân tộc càng được mở rộng, không e ngại bất cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết dân
tộc; Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương, dân chủ lấy việc thống nhất lợi ích của tầng lớp
nhân dân làm sở để củng cố không ngừng mở rộng; Đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thực
sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Phương châm đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp
khác nhau của Hồ Chí Minh là: “Cầu đồng tồn dị” (lấy cái chung, đề cao cái chung, để hạn chế cái
riêng, cái khác biệt).
Trong quá trình cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nội dung và hình thức tổ chức của Mặt trận
sự thay đổi phù hợp với nhiệm vụ cách mạng tùy từng lúc, từng nơi. Đó Mặt trận dân chủ Đông
Dương trong những năm đấu tranh hợp pháp 1936 - 1939, Mặt trận Việt Minh trong cao trào đánh
Pháp, đuổi Nhật đưa tới thành công của Cách mạng Tháng Tám và việc thành lập nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà, Mặt trận Liên Việt trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam (ở miền Bắc) và Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam cùng Liên minh các lực lượng
dân tộc, dân chủ và hoà bình ở miền Nam Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ, chấn động địa
cầu, đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi, giải phóng được một nửa đất nước,
đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa hội, làm hậu phương vững chc cho tiền tuyến lớn miền Nam
ruột thịt.
Đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trong Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam
và Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam, nhân dân ta đã làm tròn sứ mệnh
lịch sử vẻ vang là giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước; đưa đất nước ta cùng đi lên
chủ nghĩa hội, bước vào thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hội nhập quốc
tế.
lOMoARcPSD| 61409713
III. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết quốc tế
Thực hiện đoàn kết quốc tế để tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thủ sđồng tình, ủng hộ và giúp đ
của bạn bè quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của các trào lưu cách mạng thời đại, tạo
thành sức mạnh tổng hợp cho cách mạng chiến thắng kẻ thù một trong những nội dung chủ yếu của
tư tưởng Hồ Chí Minh.
1. Sự cần thiết phải đoàn kết quốc tế
a) Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo sức
mạnh tổng hợp cho cách mạng
Theo Hồ Chí Minh, thực hiện đoàn kết quốc tế để tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thủ sự đồng tình,
ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của các trào lưu cách
mạng thời đại để tạo thành sức mạnh tổng hợp cho cách mạng Việt Nam.
Sức mạnh dân tộc là sự tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh thần, song trước hết là sức mạnh của chủ
nghĩa yêu nước ý thức tự lực, tự cường dân tộc; sức mạnh của tinh thần đoàn kết; của ý chí đấu
tranh anh dũng, bất khuất cho độc lập, tự do.
Sức mạnh thời đại là sức mạnh của phong trào cách mạng thế giới, đó còn là sức mạnh của chủ nghĩa
Mác - Lênin được xác lập bởi thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917.
Thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế; đại đoàn kết toàn dân tộc là
cơ sở cho việc thực hiện đoàn kết quốc tế.
b) Thực hiện đoàn kết quốc tế góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện thắng lợi các mục tiêu
cách mạng của thời đại
Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải được gắn liền với chủ nghĩa quốc tế
sản, đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế; thực hiện đoàn kết quốc tế không vì thắng
lợi của cách mạng mỗi nước còn sự nghiệp chung của nhân loại tiến bộ trong cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế về các mục tiêu cách mạng của thời đại.
Theo Hồ Chí Minh, muốn tăng cường đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh mục tiêu chung, các
đảng cộng sản trên thế giới phải kiên trì chống lại mọi khuynh hướng sai lầm của chủ nghĩa hội,
chủ nghĩa vị kỷ dân tộc, chủ nghĩa sôvanh, - những khuynh hướng làm suy yếu sức mạnh đoàn kết,
thống nhất các lực lượng cách mạng thế giới. Nói cách khác, các đảng cộng sản trên thế giới phải tiến
hành có hiệu quả việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc tế vô sản
cho nhân dân.
Như vậy, trong tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện đoàn kết quốc tế, kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu
nước với chủ nghĩa quốc tế sản nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện thắng lợi các
mục tiêu cách mạng của dân tộc thời đại. Nhân dân Việt Nam không chỉ chiến đầu độc lập, tự
lOMoARcPSD| 61409713
do của các nước khác, không chỉ bảo vệ lợi ích sống còn của dân tộc mình mà còn vì những mục tiêu
cao cả của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
2. Nguyên tắc đoàn kết quốc tế
a) Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích; có lý, có tình
Cũng như xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, muốn thực hiện được đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa đế quốc các lực lượng phản động quốc tế phải tìm ra được những điểm
tương đồng về mục tiêu lợi ích giữa các dân tộc, các lực lượng tiến bộ phong trào cách mạng
thế giới. Đây là vấn đề cốt từ có tính nguyên tắc trong công tác tập hợp lực lượng. Từ rất sớm Hồ Chí
Minh đã phát hiện ra sự tương đồng này nhờ đặt cách mạng Việt Nam trong bối cảnh chung của thời
đại, kết hợp lợi ích của cách mạng Việt Nam với trào lưu cách mạng thế giới nhận thức vnghĩa
vụ của Việt Nam đối với sự nghiệp chung của loài người tiến bộ.
Đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ độc lậpn tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thực hiện đoàn kết thống nhất trên nền tảng của chủ nghĩa MácLênin
và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình.
Đối với các dân tộc thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ độc lập, tự do quyền bình đẳng
giữa các dân tộc. Hồ Chí Minh không chỉ suốt đời đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc mình
còn đấu tranh cho độc lập, tự do cho các dân tộc khác.
Đối với các lực lượng tiến bộ trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ hòa bình, chống chiến
tranh xâm lược. Tư tưởng bắt nguồn từ truyền thống hòa hiếu của dân tộc Việt Nam kết hợp với chủ
nghĩa nhân đạo cộng sản và những giá trị nhân văn nhân loại. Trong suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh
luôn giương cao ngọn cờ hòa bình, đấu tranh cho hòa bình, một nền hòa bình thực sự cho tất cả dân
tộc - “hòa bình trong độc lập, tự do”. Nền hòa bình đó không phải là một nền hòa bình trừu tượng, mà
“một nền hòa bình chân chính xây trên công bình tưởng dân chủ”, chống chiến tranh m
lược vì các quyền dân tộc cơ bản của quốc gia.
b) Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ
Đoàn kết quốc tế là để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng quốc tế, nhằm tăng
thêm nội lực, tạo sức mạnh thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng đặt ra. Để đoàn kết tốt phải
nội lực tốt. Nội lực nhân tố quyết định, còn nguồn lực ngoại sinh chỉ thể phát huy tác dụng
thông qua nguồn lực nội sinh. Chính vậy trong đấu tranh cách mạng, Hồ Chí Minh luôn nêu cao
khẩu hiệu: "Tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình chính", "Muốn người ta giúp cho, thì trước mình
phải tự giúp lấy mình đã". Trong đấu tranh giành chính quyền. Người chủ trương "đem sức ta mà giải
phóng cho ta". Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Người chỉ rõ: "Một dân tộc không tự lực cánh
sinh cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập"'. Trong quan hệ quốc
tế. Người nhấn mạnh: phải thực lực, thực lực cái chiêng, ngoại giao cái tiếng, chiêng to
tiếng mới lớn.
lOMoARcPSD| 61409713
Hồ Chí Minh chỉ rõ, muốn tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế, Đảng phải có đường lối độc lập, tự chủ
đúng đắn. Trả lời một phóng viên nước ngoài, Người nói: "Độc lập nghĩa chúng tôi điều khiển
lấy mọi công việc của chúng tôi, không sự can thiệp ngoài vào". Trong quan hệ giữa các n
thuộc phong trào cộng sản, công nhân quốc tế, Người xác định: "Các đảng dù lớn dù nhỏ đều độc lập
bình đẳng, đồng thời đoàn kết nhất trí giúp đỡ lẫn nhau". Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám
năm 1945 và kháng chiến chống thực dân Pháp của Việt Nam là thắng lợi của đường lối đúng đắn và
sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ với đường tới độc
lập, tự chủ, giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc chủ nghĩa hội, kết hợp hài hòa lợi ích dân
tộc và lợi ích quốc tế, Đảng ta đã tranh thủ được phong trào nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam,
tạo ra được tiếng nói chung sự ủng hộ hiệu quả của các nước hội chủ nghĩa, đặc biệt là của
Liên Xô, Trung Quốc, giữa lúc hai nước này đang có những bất đồng sâu sắc cả về đường lối quốc tế
lẫn đường lối chống Mỹ của Việt Nam. Sự đoàn kết của Việt Nam với Liên Xô và Trung Quốc trong
kháng chiến chống đế quốc Mỹ đã góp phần quan trọng vào việc củng cố đoàn kết của các nước xã
hội chủ nghĩa, của phong trào cách mạng thế giới, tạo chỗ dựa cho phong trào nhân dân thế giới ủng
hộ Việt Nam đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ.
IV. Ý nghĩa tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh
Trong suốt cuộc đời mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xác định đại đoàn kết dân tộc là phương thức,
sức mạnh và là mục tiêu quan trọng nhất của cách mạng Việt Nam. Với tưởng ấy, dân tộc Việt
Nam đã giành được độc lập và xây dựng đất nước từng bước đạt mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, n
chủ, công bằng, văn minh”. Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành giá
trị văn hóa, giá trị chính trị quý báu của Việt Nam trong thời đại mới.
tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc cùng với khối đại đoàn kết dân tộc Chủ tịch Hồ
Chí Minh dày công xây dựng một di sản vô cùng quý báu cho Đảng ta và dân tộc ta. Trong bối cảnh
hiện nay, khi mục tiêu được Đảng ta đưa ra trong Đại hội XIII của Đảng là: “khơi dậy khát vọng phát
triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp
với sức mạnh thời đại” đang đặt ra mạnh mẽ, thì việc tiếp tục đi sâu nghiên cứu, khai thác, vận dụng
một cách sáng tạo những giá trị trong tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc nhiệm vụ
ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định tầm quan trọng và ý nghĩa đặc biệt của đại đoàn kết dân tộc:
Thứ nhất, đại đoàn kết dân tộc một trong những vấn đề gốc của cách mạng. Nếu giải quyết thành
công vấn đề này thì các vấn đề khác cũng sẽ có điều kiện để giải quyết thành công. Chủ tịch Hồ Chí
Minh dùng từ “điểm mẹ” để diễn đạt quan điểm này. Người viết: Đoàn kết “điểm mẹ. Điểm này
mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt”.
lOMoARcPSD| 61409713
Thứ hai, đại đoàn kết dân tộc phương thức để tập hợp, tổ chức phát huy cao độ sức mạnh của
toàn thể dân tộc, góp phần quyết định đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi. Chủ tịch Hồ Chí Minh
chỉ rõ: “... nhờ sức đại đoàn kết mà cách mệnh thành công... nhờ sức đại đoàn kết mà kháng chiến sẽ
thắng lợi”; “Thống nhất nước nhà là con đường sống của nhân dân ta. Đại đoàn kết là một lực lượng
tất thắng. Nhờ đại đoàn kết mà cách mạng đã thắng lợi, kháng chiến đã thành công. Nay chúng ta đại
đoàn kết thì cuộc đấu tranh chính trị của chúng ta nhất định thắng lợi, nước nhà nhất định thống nhất”
Thứ ba, đại đoàn kết dân tộc là chiến lược hàng đầu của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong bất cứ giai
đoạn nào của cách mạng, đại đoàn kết dân tộc luôn phải được Đảng Cộng sản Việt Nam quan tâm giải
quyết trước hết. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn, “Trước Cách mạng Tháng Tám trong kháng chiến,
thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm cho đồng bào các dân tộc hiểu được mấy việc: Một đoàn kết. Hai
làm ch mạng hay kháng chiến để đòi độc lập. Chỉ đơn giản thế thôi. Bây giờ mục đích tuyên
truyền huấn luyện là: Một là đoàn kết. Hai xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu tranh thống nhất
nước nhà”. Đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng đường lối, chiến lược đại đoàn kết dân tộc lãnh
đạo hệ thống chính trị cùng toàn thể nhân dân tích cực thực hiện đường lối chiến lược đó, làm cho đại
đoàn kết dân tộc trở thành một hiện thực đầy sức sống trong cách mạng Việt Nam.
Bên cạnh đại đoàn kết n tộc, Bác cũng đã khẳng định rằng việc xây dựng đoàn kết quốc tế một
phần không thể thiếu của chiến lược đối ngoại của Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh vai trò của hòa bình, hợp tác và phát triển trong quan hệ quốc
tế. Bác khẳng định rằng việc vun đắp phát triển quan hệ tích cực với các quốc gia, đồng minh
tổ chức khác trên thế giới là rất quan trọng đối với việc bảo vệ đất nước và sự phát triển của đất nước.
Đoàn kết quốc tế c động đáng kể đến chính phủ Việt Nam, giúp họ tạo ra một môi trường hòa
bình, ổn định và thịnh vượng, cũng như xây dựng một cộng đồng quốc tế hài hòa, công bằng và hùng
mạnh. Ngoài ra, hợp tác quốc tế giúp Việt Nam mở rộng hội học hỏi, phát triển kinh tế nâng
cao vị thế và uy tín của mình trong cộng đồng quốc tế.
Dựa trên triết đoàn kết dân tộc quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Việt Nam cần tiếp tục thúc
đẩy quan hệ hợp tác với các quốc gia, đồng minh tổ chức khác, đồng thời tham gia các hoạt động
quốc tế để giúp cho sự phát triển chung của hành tinh.
Việt Nam sẽ tiếp tục lắng nghe, học hỏi và hợp tác với cộng đồng quốc tế để thúc đẩy hòa bình, a
hợp và phát triển toàn cầu, đồng thời giữ gìn lợi ích và chủ quyền quốc gia.
V. Liên hệ thực tiễn Việt Nam
1. Liên hệ đoàn kết dân tộc
tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc còn nhiều nội dung rất phong phú, sâu sắc. Những
quan điểm đó chứa đựng những giá trị quan trọng đối với sự nghiệp củng cố, tăng cường khối đại
đoàn kết dân tộc ở Việt Nam hiện nay. Có thể khái quát là:
lOMoARcPSD| 61409713
Một là, đại đoàn kết toàn dân tộc đã, đang và sẽ luôn là một quy luật chi phối sự tồn tại và phát triển
của quốc gia - dân tộc Việt Nam. Để có thể xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc, nhiệm
vụ xây dựng, củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc luôn phải được đặt lên hàng đầu,
phải là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng Nhà nước Việt Nam, trực tiếp là của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam. Coi trọng vai trò của đại đoàn kết dân tộc đòi hỏi phải thực sự coi trọng vai trò của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị.
Hai là, luôn quán triệt quan điểm mở rộng tối đa khối đại đoàn kết dân tộc. Trong xã hội mở và biến
đổi nhanh chóng hiện nay, các lực lượng hội cấu thành dân tộc rất đa dạng, nhiều khác biệt. Tuy
nhiên, đa dạng nhiều khác biệt đến mấy, luôn cần nhìn nhận đó các lực lượng cần tập hợp
vào khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Cần mở rộng các hình thức tập hợp, tổ chức các lực lượng xã hội
và có chế để thu hút, quy tụ các hình thức đó vào trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Mặt trận T
quốc Việt Nam phải thực sự hiện thân của khối đại đoàn kết toàn dân tộc với các cấp độ tổ chức
chặt chẽ chế hoạt động hiệu quả. Muốn vậy, Mặt trận phải rất thực chất đầy sức sống, vừa
rất thống nhất, vừa đa dạng và sinh động.
Ba , để thực hiện được đại đoàn kết dân tộc trong bối cảnh hội phân hoá, phân tầng mạnh mẽ
hiện nay, nguyên tắc “cầu đồng, tồn dị” càng hết sức quan trọng. Việc phát hiện khơi dậy những
giá trị, lợi ích chung, cũng như việc chấp nhận và tôn trọng những cái khác biệt skhó khăn hơn,
nhưng không thể không thực hiện. Đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, phải làm sao để các đại diện
trong Mặt trận thật sự đại diện được cho sự đa dạng trong hội, đồng thời phải chế để sự đa
dạng tương tác và tồn tại trong mục tiêu thống nhất. Tinh thần căn bản cần quán xuyến ở đây chính là
dân chủ và pháp quyền.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là mục tiêu lớn của Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đó phải là nền “pháp quyền nhân nghĩa”. Không phải ngẫu nhiên
học giả gọi kỷ nguyên hiện nay kỷ nguyên của văn hoá, do đó, cách thiện càng một đòi hỏi
về cách ứng xử đối với các lực lượng xã hội khác nhau trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
Việt Nam hiện nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa dùng khái niệm “quyền lực mềm”, “sức mạnh mềm”,
nhưng Người nhiều lần chỉ dẫn về việc “bày lẽ phải”, “nói phải”, “thuyết phục”,... trong ứng xử với
các đối tượng đại đoàn kết. Ngay đối với Đảng Cộng sản Việt Nam - tổ chức vừa là thành viên, vừa
lực lượng lãnh đạo Mặt trận, ngay từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lưu ý: “Đảng không thể
đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất,
hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi
thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh
đạo”. Đó không có gì khác hơn ứng xử theo cách thiện, là phát huy sức mạnh của sự thuyết phục,
là sử dụng sức mạnh mềm.
lOMoARcPSD| 61409713
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, được tổ chức và hoạt động “theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân
chủ, phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên” cần và có điều kiện vận dụng sáng tạo
tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
Chủ tịch Trần Thanh Mẫn nhấn mạnh: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu của dân tộc
ta, được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Tinh thần yêu nước, trọng nhân
nghĩa, đùm bọc lẫn nhau đã thấm sâu vào tình cảm hành động của mỗi người dân đất Việt trong
đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Đại đoàn kết toàn dân tộc đã tạo nguồn sức mạnh, lập nên những
kỳ tích vẻ vang, là điều kiện cơ bản cho sự thành công sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước
đây, cũng như công cuộc đổi mới xây dựng, phát triển đất nước ngày nay”.
Theo Chủ tịch Trần Thanh Mẫn, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách về đại
đoàn kết toàn dân tộc, đtổ chức Mặt trận thực hiện tốt nhiệm vụ: tập hợp, xây dựng, phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận hội; đại diện, bảo vệ
quyền lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; giám sát và phản biện xã hội; tham gia xây dựng
Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước do Mặt trận phát động đã hướng vào phát triển kinh
tế - xã hội, xây dựng ng thôn mới, đô thị văn minh, giảm nghèo bền vững.Thông qua hoạt động
giám sát và phản biện xã hội, Mặt trận tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh;
phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí. Thực hiện nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, các thành viên của Mặt trận đã xây dựng các hình nhân
dân tự quản, hỗ trợ nhau trong sản xuất, kinh doanh, giữ gìn an ninh trật tự, an toàn hội, bảo vệ
môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, khuyến học, khuyến tài, đền ơn đáp nghĩa, nhân đạo từ
thiện.
“Mặt trận đã trở thành ngôi nhà chung để các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo, đồng bào
ta nước ngoài phát huy lòng yêu nước, ttuệ khả năng của mình, góp phần tích cực xây dựng,
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc. Trước đại dịch
COVID-19 ứng phó với thiên tai, bão lũ vừa qua, truyền thống yêu nước nồng nàn, nh nghĩa đồng
bào sâu lặng, sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc một lần nữa được thể hiện đậm nét
và mạnh mẽ” – Chủ tịch MTTQ Việt Nam phát biểu.
Chủ tịch Trần Thanh Mẫn nhấn mạnh: Qua thực tiễn hoạt động, thể rút ra được những bài học kinh
nghiệm quý báu về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc hoạt động của MTTQ Việt Nam
như sau:
Thứ nhất, giữ vững tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng nhân tố quyết định để Mặt trận tập hợp
được mọi lực lượng, xây dựng, củng cố, phát huy khối đại đoàn kết dân tộc.
lOMoARcPSD| 61409713
Thứ hai, trong mọi hoạt động, hệ thống chính trị phải quán triệt sâu sắc quan điểm "dân là gốc", khơi
dậy sức sáng tạo, sự ủng hộ của nhân dân, tôn trọng, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp, chính đáng
của nhân dân.
Thứ ba, đảm bảo sự phối hợp đồng bộ, hiệu quả giữa các cơ quan Đảng, Nhà nước, MTTQ Việt Nam
và hiệp thương phối hợp thống nhất hành động của các tổ chức thành viên.
Thứ tư, quán triệt phương châm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm.
Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh, Mặt trận phải thường xuyên đổi mới phù hợp với thực tiễn.
Thứ năm, thực hành dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, đoàn kết gắn với đấu tranh, có
lý, có tình với các hành vi sai trái, làm ảnh hưởng đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đất nước ta đang trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, đặt ra
nhiều vấn đề mới, sự phát triển đa dạng, năng động yêu cầu cao hơn về đời sống vật chất tinh
thần của nhân dân; ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu ngày một gia tăng; phân hóa
giàu nghèo, phân tầng xã hội diễn ra ngày càng sâu sắc.
Bên cạnh đó, nh trạng suy thoái về tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ,
đảng viên mặt, nơi còn diễn biến phức tạp; sự chống phá của các thế lực thù địch ngày càng
nguy hiểm và tinh vi. Những thách thức đó đặt ra yêu cầu cấp thiết đòi hỏi Mặt trận phải đổi mới nội
dung, phương thức hoạt động, ứng dụng công nghệ thông tin, đáp ứng tốt hơn trước những yêu cầu
phát triển mạnh mẽ của đất nước.
Về chủ quan, Mặt trận và c tổ chức chính trị - xã hội cũng thẳng thắn nhìn nhận còn những hạn chế
đó là: sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ; trong hoạt động, có việc chưa
sâu sát, thiết thực, hiệu quả, chưa theo kịp yêu cầu của tình hình mới; việc phối hợp giải quyết những
vấn đề bức xúc của dân nơi chưa kịp thời; nhiều khi chưa thể hiện được vai trò, trách nhiệm, bản
lĩnh, chính kiến.
Để phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế, các cấp ủy đảng, chính quyền các
cấp, cả hệ thống chính trcần quán triệt sâu sắc tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc
Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam; thực hiện nhất quán quan điểm: Cách mạng sự nghiệp
của nhân dân, do nhân dân nhân dân; tạo môi trường thuận lợi để nhân dân phát triển tài năng,
sức sáng tạo, mang lại lợi ích cho đất nước. Các ban, bộ, ngành, địa phương cần thực hiện tốt các
chính sách phát triển kinh tế - hội vùng đông đồng bào dân tộc thiểu số, chính sách tôn giáo
công tácn tộc, tôn giáo; vận động đồng bào ta ở nước ngoài hướng về Tổ quốc, đóng góp trí tuệ,
tài năng, nguồn lực để xây dựng đất nước; thông qua các hoạt động đối ngoại nhân dân, góp phần tăng
lOMoARcPSD| 61409713
cường tình đoàn kết hữu nghị, hợp tác quốc tế, hình thành mặt trận rộng rãi ủng hộ công cuộc đổi mới,
xây dựng, phát triển và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam yêu quý của chúng ta.
Trong thời gian tới, hoạt động của Mặt trận phải hướng mạnh về sở, phát huy tốt hơn vai trò của
các tổ chức thành viên, của Ban công tác Mặt trận ở hơn 100 ngàn địa bàn dân cư trong cả nước; tập
hợp sức mạnh của 100 triệu đồng bào trong nước và đồng bào ta ở nước ngoài, cùng hiệp lực, quyết
tâm, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Lắng nghe ý kiến nhân dân, kịp thời phản
ánh, tham mưu đối với cấp ủy, phối hợp cùng chính quyền giải quyết các vấn đề thiết thực liên quan
đến đời sống nhân dân; tiếp tục giữ vai trò nòng cốt trong việc thực hiện các cuộc vận động, phong
trào thi đua yêu nước; đẩy mạnh hoạt động giám sát, phản biện hội, tham gia hiệu quả hơn trong
xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí.
Bác Hồ kính yêu đã khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Muôn việc thành công hay
thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”, đội ngũ cán bộ Mặt trận phải năng lực, trình độ, tâm huyết,
trách nhiệm, biết "lắng nghe dân nói, nói cho dân hiểu, làm cho dân tin".
“Với niềm tin vững chắc vào Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa sức mạnh của khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, trân trọng và phát huy những thành quả mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nỗ
lực phấn đấu đạt được, Mặt trận nguyện mang hết sức mình, vận động các tầng lớp nhân dân chung
sức, đồng lòng - khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, lòng nhân ái, niềm tự hào, tự tôn dân tộc - tự
tin, đổi mới, sáng tạo - hun đúc ý chí, bản lĩnh, khát vọng phát triển, xây dựng đất nước phồn vinh,
hạnh phúc” – Chủ tịch Trần Thanh Mẫn nêu rõ.
2. Liên hệ đoàn kết quốc tế
Đảng ủy Công an Trung ương đã quán triệt tưởng Hồ CMinh thực hiện các chính sách đối
ngoại, với mục tiêu củng cố tinh thần đoàn kết quốc tế. Lực lượng CAND chủ động tham mưu
phối hợp xây dựng các chiến lược bảo vệ Tổ quốc, đồng thời thúc đẩy hợp tác sâu rộng với các đối
tác quốc tế. CAND không chỉ chú trọng vào việc bảo vệ an ninh quốc gia còn tích cực tham gia
vào các chế hợp tác quốc tế, nhằm tăng cường lòng tin sự đoàn kết giữa các nước. Lực lượng
này cũng tập trung vào đào tạo cán bộ có chuyên môn cao, để đáp ứng tốt hơn yêu cầu của công tác
đối ngoại, hướng đến một cộng đồng quốc tế vững mạnh và đoàn kết.
Qua hơn 35 năm đổi mới, kế thừa, vận dụng và sáng tạo truyền thống đối ngoại vẻ vang của dân tộc,
nhất là tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác quốc tế, Đảng ta không ngừng bổ sung, phát triển
hoàn thiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, thực thi chính
sách đối ngoại. Tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của
Đảng năm 2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Hơn 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên cơ sở vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác - -nin, kế thừa và phát huy truyền thống, bản sắc đối ngoại, ngoại giao và văn hóa dân tộc, tiếp
lOMoARcPSD| 61409713
thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới và tư tưởng tiến bộ của thời đại, chúng ta đã xây dựng nên
một trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm
bản sắc “cây tre Việt Nam”, “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển”,... thấm đượm tâm hồn, cốt
cách và khí phách của dân tộc Việt Nam”. Chính vì vậy, để vận dụng tư tưởng đoàn kết, hợp tác quốc
tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình hoạch định, thực hiện đường lối đối ngoại với nhiều thời
cơ thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen, cần thực hiện tốt một số nội dung sau:
Một là, đẩy mạnh vận dụng, phát triển và sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác
quốc tế trong quá trình hoạch định, thực hiện đường lối đối ngoại hiện nay.
Để đạt hiệu quả, cần chọn lọc và sáng tạo, kết hợp các nguyên tắc củaởng Hồ Chí Minh với điều
kiện thực tiễn. Tư tưởng này không phải cố định cần được bổ sung, phát triển để phù hợp với sự
thay đổi của thế giới. Đặc biệt, cần xây dựng vị thế mới cho Việt Nam trong quan hệ quốc tế, khẳng
định tinh thần chủ động sáng tạo. Việc tuyên truyền về tưởng này cũng cần đa dạng hóa hình
thức, chú trọng đến thế hệ trẻ, nhằm nâng cao nhận thức giá trị của tinh thần đoàn kết quốc tế trong
cộng đồng.
Hai là, quán triệt sâu sắc và thực hiện đúng đắn đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình,
hợp tác phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, chủ động tích cực
hội nhập quốc tế sâu rộng, vì lợi ích quốc gia, dân tộc.
Cần kết hợp hài hòa giữa hợp tác đấu tranh, tạo ra lợi ích chiến lược chung với các nước để ngăn
ngừa xung đột và tránh cô lập. Mục tiêu lớn nhất là bảo vệ lợi ích quốc gia và dân tộc trong một môi
trường hòa bình, ổn định. Đặc biệt, việc xây dựng đoàn kết đồng thuận trong nước rất quan
trọng, vì "tất cả mọi người đều phải vì nước, vì dân." Có như vậy, trong triển khai công tác đối ngoại
mới có thể vận dụng và sáng tạo một cách hiệu quả nhất tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác
quốc tế, “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại”; thực hiện phương châm “dĩ bất biến ứng
vạn biến”. Điểm mấu chốt giữ “trái tim nóng, cái đầu lạnh” “kiên quyết, kiên trì” để xử trí các
thách thức đối ngoại, tranh thủ điểm “tương đồng” về lợi ích để thúc đẩy hợp tác và phát triển trên
sở bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc và tôn trọng luật pháp quốc tế.
Ba là, mở rộng và nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, nhất là trong các lĩnh vực hợp
tác về kinh tế, văn hóa, chính trị, quốc phòng, an ninh với các nước trên thế giới. Như Tổng thư
Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ được đồ, tiềm lực, vị thế uy
tín quốc tế như ngày nay”, từ một nền kinh tế lạc hậu, xếp hạng cuối trong số các quốc gia Đông Nam
Á, Việt Nam đã vươn lên trở thành nền kinh tế lớn thứ trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN) với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) ở mức hơn 340 tỷ USD (năm 2020). Giá trị thương hiệu
quốc gia hiện đứng ở vị trí thứ 33 trong top 100 thương hiệu quốc gia giá trị nhất thế giới, chỉ số ảnh
hưởng ngoại giao đứng thứ 9/26 khu vực châu Á đứng thứ hai trong khu vực Đông Nam Á. Nhằm
tiếp tục nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, cần mở rộng và nâng cao hiệu qu
các hoạt động đối ngoại, nhất là hợp tác trên các lĩnh vực, như kinh tế, văn hóa, chính trị, quốc phòng,
an ninh với các nước. Trong đó, cần tập trung kết hợp chặt chẽ giữa đối ngoại với quốc phòng, an
lOMoARcPSD| 61409713
ninh; giữa đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước đối ngoại nhân dân, để tạo thế chân kiềng vững
chắc; kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Tổ quốc
“từ sớm, từ xa”; chủ động phòng ngừa và hóa giải các nguy cơ an ninh thông qua thúc đẩy đối thoại,
xây dựng lòng tin, ngoại giao phòng ngừa thượng tôn pháp luật. Tiếp tục duy trì các mối quan hệ
với các đối tác, “trước hết là các nước láng giềng và các nước lớn, đi vào chiều sâu, ổn định, hiệu quả;
ưu tiên duy trì ổn định và giữ đà quan hệ, tăng cường tin cậy chính trị, thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh
vực, đồng thời xử lý các khác biệt vấn đề nảy sinh trên tinh thần hợp tác, hữu nghị, kiểm soát bất
đồng, dựa trên luật pháp quốc tế thông lệ khu vực”. Hợp tác về kinh tế được coi trung tâm, tạo
nền tảng cho các lĩnh vực khác phát triển, trong khi hợp tác quốc phòng và an ninh phải dựa trên các
mối quan hệ kinh tế, chính trị văn hóa. Tinh thần đoàn kết và hợp tác quốc tế sẽ góp phần bảo vệ
Tổ quốc và phát triển bền vững.
Di sản đường lối đối ngoại, trong đó tưởng về đoàn kết, hợp tác quốc tế Chủ tịch Hồ Chí
Minh để lại cho chúng ta một kho tàng cùng quý giá. Vận dụng sáng tạo hiệu quả tưởng
của Người trong công tác đối ngoại hiện nay góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
lOMoARcPSD| 61409713
20 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM VỀ CHỦ ĐỀ
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công!”
1. Trong lời kết thúc buổi ra mắt Đảng Lao động Việt Nam ngày 3/3/1951, Hồ Chí Minh tuyên
bố: “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là: …”:
A. Đoàn kết toàn dân, phụng sự tổ quốc
B. Không có gì quý hơn đôc lậ p tự dọ
C. Một lòng, một dạ, một tinh thần chung
D. Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh
2. Lực lượng làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc là:
A. Tư sản, tiểu tư sản
B. Giai cấp lãnh đạo
C. Công nhân, nông dân, trí thức
D. Giai cấp vô sản
3. Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc có vai trò như thế nào trong sự nghiệp cách mạng?
A. Là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách mạng
B. Là vấn đề có ý nghĩa sách lược, quyết định thành công của cách mạng
C. Là chính sách chính trị nhất thời, góp phần tạo nên thành công của cách mạng
D. Là chính sách chính trị lâu dài, tạo nên thành công của cách mạng
4. Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc có vai trò như thế nào trong sự nghiệp cách mạng?
A. Đại đoàn kết dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng
B. Đại đoàn kết dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là nhiệm vụ của Đảng, của dân tộc
C. Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu của ĐảngD. Đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ của dân
tộc
5. Hội Phản đế đồng minh ra đời khi nào?
A. 1930B. 1936 C. 1939
D. 1941
6. Mặt trận Việt Minh ra đời khi nào?
A. 1930B. 1936 C. 1939
D. 1941
7. Theo Hồ CMinh, thực hiện đoàn kết quốc tế để làm gì? A. Thực hiện đoàn kết quốc tế để
nhận viện trợ từ quốc tế
B. Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng Việt Nam
C. Thực hiện đoàn kết quốc tế để thu hút vốn đầu nước ngoài, tiếp thu thành tựu
khoahọc kỹ thuật
D. Cả 3 phương án trên
8. Theo Hồ Chí Minh, điều kiện để thực hiện đại đoàn kết dân tộc là?
A. Phải kế thừa truyền thống yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc
B. Phải có lòng khoan dung, độ lượng với con người
C. Phải có niềm tin vào nhân dân
D. Cả 3 phương án trên

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61409713
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------***------- BÀI TẬP NHÓM
MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ BÀI: Phân tích luận điểm "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết.
Thành công, thành công, đại thành công" của Hồ Chí Minh
Nhóm 5: Phùng Ngọc Diệp - 11221305
Phạm Minh Khuê - 11223134
Đặng Thuỳ Linh - 11223359
Nguyễn Hoàng Minh Ngọc - 11224702
Bùi Như Quỳnh - 11225506
Trần Như Quỳnh - 11225581
Nguyễn Anh Thư - 11226103
Lớp: Kinh tế học tài chính 64 (FE64)
GVHD: Ths. NGUYỄN THÙY LINH HÀ NỘI, NĂM 2024 lOMoAR cPSD| 61409713 MỤC LỤC
I. Cơ sở của luận điểm ....................................................................................................................... 3
1. Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của nhân dân Việt Nam ................ 3
2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin .......................................................................................... 3
3. Cơ sở thực tiễn của cách mạng Việt Nam và thế giới .................................................................. 4
a) Thực tiễn cách mạng Việt Nam ................................................................................................ 4
b) Thực tiễn cách mạng thế giới ................................................................................................... 4
4. Phẩm chất cá nhân Hồ Chí Minh ................................................................................................. 5
II. Nội dung của luận điểm ................................................................................................................ 5
1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công của cách mạng ........................ 5
a) Đoàn kết không phải là thủ đoạn chính trị nhất thời mà là tư tưởng cơ bản, nhất quán, xuyên
suốt tiến trình cách mạng Việt Nam ............................................................................................. 5
b) Đoàn kết quyết định thành công cách mạng ............................................................................ 6
c) Đoàn kết phải luôn được nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng .................................. 6
2. Đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng ............................................... 7
3. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân .............................................................................. 8
4. Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất có tổ chức là Mặt trận dân tộc thống . 9
nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng ....................................................................................................... 9
III. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết quốc tế ..................................................................... 10
1. Sự cần thiết phải đoàn kết quốc tế .............................................................................................. 10
a) Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo sứcmạnh
tổng hợp cho cách mạng............................................................................................................. 10
b) Thực hiện đoàn kết quốc tế góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện thắng lợi các mục tiêu
cách mạng của thời đại ............................................................................................................... 10
2. Nguyên tắc đoàn kết quốc tế .......................................................................................................11
a) Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích; có lý, có tình ..........................................11
b) Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ ........................................................................................11
IV. Ý nghĩa tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh .................................................................... 12
V. Liên hệ thực tiễn Việt Nam ......................................................................................................... 13
1. Liên hệ đoàn kết dân tộc ............................................................................................................ 13
2. Liên hệ đoàn kết quốc tế ............................................................................................................ 17
20 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM VỀ CHỦ ĐỀ ................................................................................ 20
Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại, nhà văn hóa kiệt xuất của dân tộc ta và
của nhân loại, đã để lại cho chúng ta một di sản tinh thần vô giá, một hệ thống tư tưởng về nhiều mặt.
Trong đó tư tưởng về đại đoàn kết là tư tưởng nổi bật, có giá trị trường tồn đối với quá trình phát
triển của dân tộc ta và của toàn nhân loại. Đấy là tư tưởng xuyên suốt và nhất quán trong tư duy lý lOMoAR cPSD| 61409713
luận và trong hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh và đã trở thành chiến lược cách mạng của Đảng
ta, gắn liền với những thắng lợi vẻ vang của dân tộc. I.
Cơ sở của luận điểm
Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết nằm trong nhận thức chung của cơ sở hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh được tiếp cận về phương diện đoàn kết. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại
đoàn kết dân tộc có nguồn gốc từ nhiều yếu tố và được hình thành trên cơ sở kế thừa và phát triển
chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt là đã
vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin phù hợp với tình hình và điều kiện cụ thể của
Việt Nam trong từng giai đoạn cách mạng.
1. Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của nhân dân Việt Nam
Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã đắp bồi nên nhiều giá trị văn
hóa truyền thống tốt đẹp, tạo nên cốt cách của con người Việt Nam, một trong những cơ sở hình thành
tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết. Giá trị hàng đầu của văn hóa Việt Nam là chủ nghĩa yêu nước,
tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng. Tình cảm tự nhiên của con người Việt Nam là: “Nhiễu điều phủ
lấy giá gương. Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Triết lý nhân sinh của dân tộc: “Một
cây làm chẳng nên non. Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Tư duy chính trị được phản ánh: “Nước
mất thì nhà tan. Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”.
Văn hóa Việt Nam lấy nhân nghĩa làm gốc, lấy đại nghĩa thắng hung tàn, đem chí nhân thay cường
bạo. Đó là nền văn hóa trọng đạo lý làm người, đề cao trách nhiệm cá nhân với cộng đồng mà hàng
đầu là bổn phận đối với Tổ quốc.
Tinh thần ấy, tình cảm ấy theo thời gian đã trở thành lẽ sống của mỗi con người Việt Nam, làm cho
vận mệnh mỗi cá nhân gắn chặt vào vận mệnh của cộng đồng, vào sự sống còn và phát triển của dân
tộc. Nó là cơ sở của ý chí kiên cường, bất khuất, tinh thần dũng cảm hy sinh vì dân, vì nước của mỗi
con người Việt Nam, đồng thời là giá trị tinh thần thúc đẩy sự phát triển của cộng đồng và của mỗi cá
nhân trong quá trình dựng nước và giữ nước, làm nên truyền thống yêu nước, đoàn kết của dân tộc.
Dù lúc thăng, lúc trầm nhưng chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam bao
giờ cũng là tinh hoa đã được hun đúc và thử nghiệm qua hàng nghìn năm lịch sử chinh phục thiên
nhiên và chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc của ông cha ta. Chủ nghĩa yêu nước, truyền thống
đoàn kết, cộng đồng của dân tộc Việt Nam là cơ sở đầu tiên, sâu xa cho sự hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 là minh chứng hùng hồn cho tính đúng đắn của
tư tưởng đoàn kết trong học thuyết Mác-Lênin. Cách mạng Nga chỉ ra rằng cách mạng là sự nghiệp lOMoAR cPSD| 61409713
của quần chúng nhân dân, nhân dân là người làm nên lịch sử. Giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng
phải đi từ chiến lược “giai cấp vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!” tới chiến lược “giai cấp vô sản tất
cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!”. Đoàn kết trong học thuyết Mác-Lênin lấy giai cấp
công nhân và nông dân làm nền tảng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc tế. Lênin là tấm
gương sáng chói về thực hành đoàn kết, đoàn kết trong nước, đoàn kết quốc tế, hiện thân cho tình anh
em bốn bể. Có thể nói những quan điểm đoàn kết trong học thuyết Mác-Lênin là cơ sở tư tưởng lý
luận quan trọng nhất, bởi nó không chỉ trang bị thế giới quan, phương pháp luận, mà còn chỉ ra những
phương hướng rõ ràng trong quá trình thực hiện đoàn kết. Đó là những quan điểm lý luận hết sức cần
thiết để Hồ Chí Minh có cơ sở khoa học trong sự đánh giá chính xác yếu tố tích cực cũng như những
hạn chế trong các di sản truyền thống, trong tư tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt
Nam tiền bối và các nhà cách mạng lớn trên thế giới, từ đó hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
3. Cơ sở thực tiễn của cách mạng Việt Nam và thế giới
Không chỉ được hình thành từ những cơ sở lý luận suông, tư tưởng này còn xuất phát từ thực tiễn lịch
sử của dân tộc và nhiều năm bôn ba khảo nghiệm ở nước ngoài của Hồ Chí Minh.
a) Thực tiễn cách mạng Việt Nam
Là một người am hiểu sâu sắc lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc mình, Hồ Chí
Minh nhận thức được trong thời phong kiến chỉ có những cuộc đấu tranh thay đổi triều đại nhưng
chúng đã ghi lại những tấm gương tâm huyết của ông cha ta với tư tưởng “Vua tôi đồng lòng, anh em
hòa thuận, cả nước góp sức” và “Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc là thượng sách giữ
nước”. Chính chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết của dân tộc trong chiều sâu và bề dày của
lịch sử này đã tác động mạnh mẽ đến Hồ Chí Minh và được người ghi nhận như những bài học lớn
cho sự hình thành tư tưởng của mình.
Năm 1858, thực dân Pháp tấn công bán đảo Sơn Trà, từ đó, các phong trào yêu nước , chống pháp liên
tục nổ ra, rất anh dũng, nhưng cuối cùng đều thất bại. Hồ Chí Minh đã nhận ra được những hạn chế
trong chủ trương tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước tiền bối và trong việc nắm bắt những đòi
hỏi khách quan của lịch sử trong giai đoạn này. Đây cũng chính là lý do, là điểm xuất phát để Người
quyết tâm từ Bến cảng Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước.
b) Thực tiễn cách mạng thế giới
Từ 1911 đến 1941 Hồ Chí Minh đã đi đầu khắp hết các châu lục. Cuộc khảo nghiệm thực tiễn rông ̣
lớn và công phu đã giúp Người nhận thức một sự thực: lOMoAR cPSD| 61409713
“Các dân tộc thuộc địa tiềm ẩn một sức mạnh vĩ đại, song cuộc đấu tranh của họ chưa đi đến thắng
lợi bởi vì các dân tộc bị áp bức chưa biết tập hợp lại, chưa có sự liên kết chặt chẽ với giai cấp công
nhân ở các nước tư bản, đế quốc, chưa có tổ chức và chưa biết tổ chức…”
4. Phẩm chất cá nhân Hồ Chí Minh
Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết cùng với những nội dung về lý luận tư tưởng,
phải kể tới những phẩm chất cá nhân Hồ Chí Minh trên các phương diện đạo đức, trí tuệ, bản lĩnh. Hồ
Chí Minh là lãnh tụ quyết tâm suốt đời hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục
vụ nhân dân, đến khi phải từ biệt thế giới này, không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng
không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa. Người thương dân, trọng dân, kính dân, tin tưởng
nhân dân: hiểu rõ dân tình, dân tâm, dân ý, chú trọng tới dân quyền, dân sinh, dân trí, dân chủ. Vì vậy.
Người được dân tin, dân phục, dân yêu.
Lòng thương yêu nhân dân là điểm tựa cho mọi sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc tổ chức và thực
hiện nhiệm vụ đoàn kết dân tộc. II.
Nội dung của luận điểm
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết là một hệ thống quan điểm, nguyên tắc, phương pháp giáo
dục, tổ chức, tập hợp lực lượng cách mạng nhằm đoàn kết rộng rãi các giai tầng trong xã hội, phát huy
đến mức cao nhất sức mạnh của dân tộc của quốc tế, đấu tranh cho độc lập dân tộc, dân chủ và chủ
nghĩa xã hội. Nói một cách khác, đó là tư tưởng xây dựng, củng cố, mở rộng lực lượng cách mạng
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Trong 90 năm qua,
Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng một cách sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết trong
tiến trình lãnh đạo cách mạng. Đó chính là sự kế thừa truyền thống đoàn kết, nhân ái của dân tộc Việt Nam ta.
1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công của cách mạng
a) Đoàn kết không phải là thủ đoạn chính trị nhất thời mà là tư tưởng cơ bản, nhất quán, xuyên
suốt tiến trình cách mạng Việt Nam
Với Hồ Chí Minh, đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của nhân dân ta. Người cho rằng:
Muốn giải phóng các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao động phải tự mình cứu lấy mình bằng cách
mạng vô sản. Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều chỉnh chính
sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với những đối tượng khác nhau, nhưng đại đoàn
kết dân tộc luôn luôn được. Người coi là vấn đề sống còn của cách mạng.
Trước hết, Hồ Chí Minh nhận thức rõ vị trí, vai trò của đoàn kết trong sự nghiệp cách mạng. Đoàn kết
trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là một thủ đoạn chính trị nhất thời, sách lược mà là một chiến
lược. Theo Người, “Đoàn kết là lẽ sinh tồn của dân tộc. Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một lOMoAR cPSD| 61409713
thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng, đoàn kết tạo nên một sức mạnh thật sự, là “điểm mẹ”, điểm này mà thực hiện tốt
thì đẻ ra con cháu đều tốt.
Đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh vừa là chiến lược vừa là yêu cầu khách quan của sự nghiệp
cách mạng. Bởi vì cách mạng là cuộc chiến đấu khổng lồ, muốn giành thắng lợi thì phải động viên
toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ dại của toàn dân. Mặt khác trong thời
đại mới được mở ra từ Cách mạng Tháng Mười, phải chống kẻ thù mới là chủ nghĩa thực dân, đế
quốc, nếu không có lý luận khoa học và cách mạng về đoàn kết thì khó thành công.
b) Đoàn kết quyết định thành công cách mạng
Những lợi ích cơ bản của nhân dân lao động được biểu hiện cụ thể trong từng giai đoạn cách mạng.
Để giải quyết đúng đắn mối quan hệ đó, theo Hồ Chí Minh, trước hết phải xử lý đúng mối quan hệ
cốt lõi giữa giai cấp và dân tộc: "Dân tộc không độc lập thì giai cấp vạn năm không được giải phóng
và nhân dân ta mãi mãi phải chịu kiếp ngựa trâu. Và: "Nhưng nếu nước độc lập mà dân không được
hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập đó chẳng có nghĩa lý gì","...Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của
độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ...".
Trong mối quan hệ đó, vai trò lãnh đạo và lợi ích giai cấp công nhân chỉ có thể được đảm bảo khi giai
cấp công nhân trở thành trung tâm liên kết các giai cấp, tầng lớp trong xã hội và đại diện cho lợi ích
chung nhất của các giai cấp, tầng lớp, tức là giai cấp công nhân phải tự trở thành dân tộc, phải giương
cao ngọn cờ dân tộc. Đi đôi với việc nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa giai cấp với
dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh sự kết hợp chặt chẽ giữa dân tộc với quốc tế.
Vì vậy, muốn cách mạng thành công, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh phải
được quán triệt trong mọi đường lối, chủ trương của Đảng - lực lượng lãnh đạo duy nhất của cách
mạng Việt Nam, trong chính sách, pháp luật của Nhà nước - cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân.
Như Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: Đại đoàn kết toàn
dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực
chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
c) Đoàn kết phải luôn được nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng
Nhận thức sâu sắc vai trò quan trọng của vấn đề đoàn kết trong thực tiễn phong trào yêu nước của
nhân dân đầu thế kỷ 20: “Vì dân đoàn kết chưa sâu. Cho nên thất bại trước sau mấy lần” cho nên khi
tìm thấy con đường cách mạng vô sản là con đường duy nhất đúng đắn để giải phóng dân tộc, Hồ Chí
Minh đã xác định: “trở về nước đi vào dân chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện
họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập”. lOMoAR cPSD| 61409713
Đoàn kết là vấn đề sống còn, cho nên trước lúc đi xa, trong Di chúc Người cẩn thận nhắn nhủ: “Đoàn
kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các
chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Đảng Cộng
sản là người tổ chức, hướng dẫn, lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn dân, do vậy, Đảng phải là một đảng
trí tuệ, cách mạng, thống nhất, phải luôn giữ gìn sự đoàn kết trong Đảng. Trong Đảng, từ Trung ương
đến cơ sở nếu không đoàn kết nhất trí trên dưới một lòng thì ví như một đoàn người đang đi mà không
còn khả năng nhìn rõ vạn vật, đến một lúc nào đó việc vấp ngã bởi chướng ngại vật trên hành trình là
một tất nhiên và thậm chí sẽ lạc lối, mất phương hướng vì rơi vào tăm tối. Đây cũng là một trong
những lí do giải thích vì sao Đảng ta luôn luôn giữ gìn khối đại đoàn kết – chiếc chìa khóa vạn năng
đã giúp cho Đảng ta trong hơn 90 năm qua đưa đất nước vượt qua bao thác ghềnh hiểm trở đến bến bờ thắng lợi.
2. Đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ
chức đảng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức, trong đó các chủ trương của Đảng và
chính sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, mục đích, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, mà còn là mục
tiêu, mục đích, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Như vậy, đại đoàn kết dân tộc chính là đòi hỏi
khách quan của bản thân quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng mình, là sự
nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn, biến
những đòi hỏi khách quan, tự phát của nhân dân thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc
lập dân tộc, tự do hạnh phúc cho nhân dân.
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Người đã kết hợp nhuần nhuyễn luận điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin: "Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng" và tư tưởng truyền thống của tổ tiên "Nước
lấy dân làm gốc". Dân theo tư tưởng của Người, bao gồm "mọi con dân nước Việt", "con cháu Lạc
Hồng" không phân biệt dân tộc thiểu số với đa số, người có tín ngưỡng với người không có tín ngưỡng,
không phân biệt già, trẻ, gái, trai, không phân biệt giàu, nghèo.
Yêu dân, tin dân, dựa vào dân, sống chết vì dân, vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung
thành của nhân dân là nguyên tắc tối cao và xuyên suốt trong nhận thức và hoạt động thực tiễn của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với nhận thức "có dân là có tất cả", nên Người đã dành cả cuộc đời tạo dựng
và chăm lo cho rừng cây đại đoàn kết dân tộc đâm chồi nẩy lộc, nở hoa kết trái.
Người căn dặn chúng ta: Muốn thực hiện được đại đoàn kết toàn dân phải kế thừa truyền thống yêu
nước, nhân nghĩa của tổ tiên, phải có lòng khoan dung, đại độ với con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Tôi khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi. Năm ngón tay cũng
có ngón vắn, ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có lOMoAR cPSD| 61409713
người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan
hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối
với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành
đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc sẽ vẻ vang".
3. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
Trong lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến 19/12/1946 Người kêu gọi:
“Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân
Pháp càng lấn tới, vì chúng muốn cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất
định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào, chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không
phân biệt đảng phái, tôn giáo, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu tổ quốc…”.
“Dân” theo tư tưởng Hồ Chí Minh, là chỉ mọi con dân đất Việt, con rồng cháu tiên, không phân biệt
dân tộc đa số, người tín ngưỡng với người không tín ngưỡng, không phân biệt già trẻ, gái, trai, giàu,
nghèo. Trong khi vấn đề đại đoàn kết dân tộc lại là phải tập hợp mọi người dân vào một khối trong
cuộc đấu tranh chung. Hồ Chí Minh căn dặn chúng ta: Muốn thực hiện được đại đoàn kết toàn dân
phải kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa của tổ tiên, phải có lòng khoan dung, đại độ với con
người. Người nói: "Tôi khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi. Năm ngón tay cũng có ngón
ngắn, ngón dài. Nhưng ngắn, dài đều hợp nhau lại ở nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người
thế này, người thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan
hồng đại độ, ta phải nhận rằng đã là con Lạc, cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối
với những đồng bào lạc lối, lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành
đoàn kết, có đoàn kết thì tương lai chắc chắn sẽ vẻ vang”. Nhiều lần Người đã nói rõ: “Đoàn kết là
một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị. Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất
và độc lập tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng
phụng sự tổ quốc và phụng sự nhân dân thì ta đoàn kết với họ”.
Người còn nhấn mạnh: Đoàn kết rộng rãi, chặt chẽ, đồng thời phải củng cố. Nền có vững, nhà mới
chắc chắn, gốc có tốt thì cây mới tốt tươi. Trong chính sách đoàn kết phải chống hai khuynh hướng
sai lầm: cô độc, hẹp hòi và đoàn kết vô nguyên tắc. lOMoAR cPSD| 61409713
4. Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất có tổ chức là Mặt trận dân tộc
thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng
Theo Người, đại đoàn kết dân tộc không chỉ dừng lại ở quan niệm, ở tư tưởng, ở những lời kêu gọi
chung chung, mà phải trở thành đường lối chiến lược cách mạng, thành khẩu hiệu hành động của toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Nó phải trở thành sức mạnh vật chất, một lực lượng mạnh có tổ chức.
Tổ chức đó chính là Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng theo những nguyên tắc: Trên nền tảng liên minh công,
nông và trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Người cho rằng: liên minh công nông- lao động trí óc
làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân, nền tảng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết
dân tộc càng được mở rộng, không e ngại bất cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết dân
tộc; Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương, dân chủ lấy việc thống nhất lợi ích của tầng lớp
nhân dân làm cơ sở để củng cố và không ngừng mở rộng; Đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thực
sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Phương châm đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp
khác nhau của Hồ Chí Minh là: “Cầu đồng tồn dị” (lấy cái chung, đề cao cái chung, để hạn chế cái riêng, cái khác biệt).
Trong quá trình cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nội dung và hình thức tổ chức của Mặt trận có
sự thay đổi phù hợp với nhiệm vụ cách mạng tùy từng lúc, từng nơi. Đó là Mặt trận dân chủ Đông
Dương trong những năm đấu tranh hợp pháp 1936 - 1939, Mặt trận Việt Minh trong cao trào đánh
Pháp, đuổi Nhật đưa tới thành công của Cách mạng Tháng Tám và việc thành lập nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà, Mặt trận Liên Việt trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam (ở miền Bắc) và Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam cùng Liên minh các lực lượng
dân tộc, dân chủ và hoà bình ở miền Nam Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ, chấn động địa
cầu, đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi, giải phóng được một nửa đất nước,
đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, làm hậu phương vững chắc cho tiền tuyến lớn ở miền Nam ruột thịt.
Đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trong Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam
và Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam, nhân dân ta đã làm tròn sứ mệnh
lịch sử vẻ vang là giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước; đưa đất nước ta cùng đi lên
chủ nghĩa hội, bước vào thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. lOMoAR cPSD| 61409713 III.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết quốc tế
Thực hiện đoàn kết quốc tế để tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ
của bạn bè quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của các trào lưu cách mạng thời đại, tạo
thành sức mạnh tổng hợp cho cách mạng chiến thắng kẻ thù là một trong những nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh.
1. Sự cần thiết phải đoàn kết quốc tế
a) Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo sức
mạnh tổng hợp cho cách mạng
Theo Hồ Chí Minh, thực hiện đoàn kết quốc tế để tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thủ sự đồng tình,
ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của các trào lưu cách
mạng thời đại để tạo thành sức mạnh tổng hợp cho cách mạng Việt Nam.
Sức mạnh dân tộc là sự tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh thần, song trước hết là sức mạnh của chủ
nghĩa yêu nước và ý thức tự lực, tự cường dân tộc; sức mạnh của tinh thần đoàn kết; của ý chí đấu
tranh anh dũng, bất khuất cho độc lập, tự do.
Sức mạnh thời đại là sức mạnh của phong trào cách mạng thế giới, đó còn là sức mạnh của chủ nghĩa
Mác - Lênin được xác lập bởi thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917.
Thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế; đại đoàn kết toàn dân tộc là
cơ sở cho việc thực hiện đoàn kết quốc tế.
b) Thực hiện đoàn kết quốc tế góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện thắng lợi các mục tiêu
cách mạng của thời đại
Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải được gắn liền với chủ nghĩa quốc tế vô
sản, đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế; thực hiện đoàn kết quốc tế không vì thắng
lợi của cách mạng mỗi nước mà còn vì sự nghiệp chung của nhân loại tiến bộ trong cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế về các mục tiêu cách mạng của thời đại.
Theo Hồ Chí Minh, muốn tăng cường đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh vì mục tiêu chung, các
đảng cộng sản trên thế giới phải kiên trì chống lại mọi khuynh hướng sai lầm của chủ nghĩa cơ hội,
chủ nghĩa vị kỷ dân tộc, chủ nghĩa sôvanh, … - những khuynh hướng làm suy yếu sức mạnh đoàn kết,
thống nhất các lực lượng cách mạng thế giới. Nói cách khác, các đảng cộng sản trên thế giới phải tiến
hành có hiệu quả việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc tế vô sản cho nhân dân.
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện đoàn kết quốc tế, kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu
nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản là nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện thắng lợi các
mục tiêu cách mạng của dân tộc và thời đại. Nhân dân Việt Nam không chỉ chiến đầu vì độc lập, tự lOMoAR cPSD| 61409713
do của các nước khác, không chỉ bảo vệ lợi ích sống còn của dân tộc mình mà còn vì những mục tiêu
cao cả của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
2. Nguyên tắc đoàn kết quốc tế
a) Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích; có lý, có tình
Cũng như xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, muốn thực hiện được đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng phản động quốc tế phải tìm ra được những điểm
tương đồng về mục tiêu và lợi ích giữa các dân tộc, các lực lượng tiến bộ và phong trào cách mạng
thế giới. Đây là vấn đề cốt từ có tính nguyên tắc trong công tác tập hợp lực lượng. Từ rất sớm Hồ Chí
Minh đã phát hiện ra sự tương đồng này nhờ đặt cách mạng Việt Nam trong bối cảnh chung của thời
đại, kết hợp lợi ích của cách mạng Việt Nam với trào lưu cách mạng thế giới và nhận thức về nghĩa
vụ của Việt Nam đối với sự nghiệp chung của loài người tiến bộ.
Đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thực hiện đoàn kết thống nhất trên nền tảng của chủ nghĩa MácLênin
và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình.
Đối với các dân tộc thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ độc lập, tự do và quyền bình đẳng
giữa các dân tộc. Hồ Chí Minh không chỉ suốt đời đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc mình mà
còn đấu tranh cho độc lập, tự do cho các dân tộc khác.
Đối với các lực lượng tiến bộ trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ hòa bình, chống chiến
tranh xâm lược. Tư tưởng bắt nguồn từ truyền thống hòa hiếu của dân tộc Việt Nam kết hợp với chủ
nghĩa nhân đạo cộng sản và những giá trị nhân văn nhân loại. Trong suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh
luôn giương cao ngọn cờ hòa bình, đấu tranh cho hòa bình, một nền hòa bình thực sự cho tất cả dân
tộc - “hòa bình trong độc lập, tự do”. Nền hòa bình đó không phải là một nền hòa bình trừu tượng, mà
là “một nền hòa bình chân chính xây trên công bình và lý tưởng dân chủ”, chống chiến tranh xâm
lược vì các quyền dân tộc cơ bản của quốc gia.
b) Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ
Đoàn kết quốc tế là để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng quốc tế, nhằm tăng
thêm nội lực, tạo sức mạnh thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng đặt ra. Để đoàn kết tốt phải
có nội lực tốt. Nội lực là nhân tố quyết định, còn nguồn lực ngoại sinh chỉ có thể phát huy tác dụng
thông qua nguồn lực nội sinh. Chính vì vậy trong đấu tranh cách mạng, Hồ Chí Minh luôn nêu cao
khẩu hiệu: "Tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính", "Muốn người ta giúp cho, thì trước mình
phải tự giúp lấy mình đã". Trong đấu tranh giành chính quyền. Người chủ trương "đem sức ta mà giải
phóng cho ta". Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Người chỉ rõ: "Một dân tộc không tự lực cánh
sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập"'. Trong quan hệ quốc
tế. Người nhấn mạnh: phải có thực lực, thực lực là cái chiêng, ngoại giao là cái tiếng, chiêng có to tiếng mới lớn. lOMoAR cPSD| 61409713
Hồ Chí Minh chỉ rõ, muốn tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế, Đảng phải có đường lối độc lập, tự chủ
và đúng đắn. Trả lời một phóng viên nước ngoài, Người nói: "Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển
lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự can thiệp ở ngoài vào". Trong quan hệ giữa các dân
thuộc phong trào cộng sản, công nhân quốc tế, Người xác định: "Các đảng dù lớn dù nhỏ đều độc lập
và bình đẳng, đồng thời đoàn kết nhất trí giúp đỡ lẫn nhau". Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám
năm 1945 và kháng chiến chống thực dân Pháp của Việt Nam là thắng lợi của đường lối đúng đắn và
sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ với đường tới độc
lập, tự chủ, giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp hài hòa lợi ích dân
tộc và lợi ích quốc tế, Đảng ta đã tranh thủ được phong trào nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam,
tạo ra được tiếng nói chung và sự ủng hộ có hiệu quả của các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là của
Liên Xô, Trung Quốc, giữa lúc hai nước này đang có những bất đồng sâu sắc cả về đường lối quốc tế
lẫn đường lối chống Mỹ của Việt Nam. Sự đoàn kết của Việt Nam với Liên Xô và Trung Quốc trong
kháng chiến chống đế quốc Mỹ đã góp phần quan trọng vào việc củng cố đoàn kết của các nước xã
hội chủ nghĩa, của phong trào cách mạng thế giới, tạo chỗ dựa cho phong trào nhân dân thế giới ủng
hộ Việt Nam đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ. IV.
Ý nghĩa tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh
Trong suốt cuộc đời mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xác định đại đoàn kết dân tộc là phương thức,
là sức mạnh và là mục tiêu quan trọng nhất của cách mạng Việt Nam. Với tư tưởng ấy, dân tộc Việt
Nam đã giành được độc lập và xây dựng đất nước từng bước đạt mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”. Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành giá
trị văn hóa, giá trị chính trị quý báu của Việt Nam trong thời đại mới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc cùng với khối đại đoàn kết dân tộc mà Chủ tịch Hồ
Chí Minh dày công xây dựng là một di sản vô cùng quý báu cho Đảng ta và dân tộc ta. Trong bối cảnh
hiện nay, khi mục tiêu được Đảng ta đưa ra trong Đại hội XIII của Đảng là: “khơi dậy khát vọng phát
triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp
với sức mạnh thời đại” đang đặt ra mạnh mẽ, thì việc tiếp tục đi sâu nghiên cứu, khai thác, vận dụng
một cách sáng tạo những giá trị trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ có
ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định tầm quan trọng và ý nghĩa đặc biệt của đại đoàn kết dân tộc:
Thứ nhất, đại đoàn kết dân tộc là một trong những vấn đề gốc của cách mạng. Nếu giải quyết thành
công vấn đề này thì các vấn đề khác cũng sẽ có điều kiện để giải quyết thành công. Chủ tịch Hồ Chí
Minh dùng từ “điểm mẹ” để diễn đạt quan điểm này. Người viết: Đoàn kết là “điểm mẹ. Điểm này
mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt”. lOMoAR cPSD| 61409713
Thứ hai, đại đoàn kết dân tộc là phương thức để tập hợp, tổ chức và phát huy cao độ sức mạnh của
toàn thể dân tộc, góp phần quyết định đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi. Chủ tịch Hồ Chí Minh
chỉ rõ: “... nhờ sức đại đoàn kết mà cách mệnh thành công... nhờ sức đại đoàn kết mà kháng chiến sẽ
thắng lợi”; “Thống nhất nước nhà là con đường sống của nhân dân ta. Đại đoàn kết là một lực lượng
tất thắng. Nhờ đại đoàn kết mà cách mạng đã thắng lợi, kháng chiến đã thành công. Nay chúng ta đại
đoàn kết thì cuộc đấu tranh chính trị của chúng ta nhất định thắng lợi, nước nhà nhất định thống nhất”
Thứ ba, đại đoàn kết dân tộc là chiến lược hàng đầu của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong bất cứ giai
đoạn nào của cách mạng, đại đoàn kết dân tộc luôn phải được Đảng Cộng sản Việt Nam quan tâm giải
quyết trước hết. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn, “Trước Cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến,
thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm cho đồng bào các dân tộc hiểu được mấy việc: Một là đoàn kết. Hai
làm cách mạng hay kháng chiến để đòi độc lập. Chỉ đơn giản thế thôi. Bây giờ mục đích tuyên
truyền huấn luyện là: Một là đoàn kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu tranh thống nhất
nước nhà”. Đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng đường lối, chiến lược đại đoàn kết dân tộc và lãnh
đạo hệ thống chính trị cùng toàn thể nhân dân tích cực thực hiện đường lối chiến lược đó, làm cho đại
đoàn kết dân tộc trở thành một hiện thực đầy sức sống trong cách mạng Việt Nam.
Bên cạnh đại đoàn kết dân tộc, Bác cũng đã khẳng định rằng việc xây dựng đoàn kết quốc tế là một
phần không thể thiếu của chiến lược đối ngoại của Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh vai trò của hòa bình, hợp tác và phát triển trong quan hệ quốc
tế. Bác khẳng định rằng việc vun đắp và phát triển quan hệ tích cực với các quốc gia, đồng minh và
tổ chức khác trên thế giới là rất quan trọng đối với việc bảo vệ đất nước và sự phát triển của đất nước.
Đoàn kết quốc tế có tác động đáng kể đến chính phủ Việt Nam, giúp họ tạo ra một môi trường hòa
bình, ổn định và thịnh vượng, cũng như xây dựng một cộng đồng quốc tế hài hòa, công bằng và hùng
mạnh. Ngoài ra, hợp tác quốc tế giúp Việt Nam mở rộng cơ hội học hỏi, phát triển kinh tế và nâng
cao vị thế và uy tín của mình trong cộng đồng quốc tế.
Dựa trên triết lý đoàn kết dân tộc và quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Việt Nam cần tiếp tục thúc
đẩy quan hệ hợp tác với các quốc gia, đồng minh và tổ chức khác, đồng thời tham gia các hoạt động
quốc tế để giúp cho sự phát triển chung của hành tinh.
Việt Nam sẽ tiếp tục lắng nghe, học hỏi và hợp tác với cộng đồng quốc tế để thúc đẩy hòa bình, hòa
hợp và phát triển toàn cầu, đồng thời giữ gìn lợi ích và chủ quyền quốc gia. V.
Liên hệ thực tiễn Việt Nam
1. Liên hệ đoàn kết dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc còn nhiều nội dung rất phong phú, sâu sắc. Những
quan điểm đó chứa đựng những giá trị quan trọng đối với sự nghiệp củng cố, tăng cường khối đại
đoàn kết dân tộc ở Việt Nam hiện nay. Có thể khái quát là: lOMoAR cPSD| 61409713
Một là, đại đoàn kết toàn dân tộc đã, đang và sẽ luôn là một quy luật chi phối sự tồn tại và phát triển
của quốc gia - dân tộc Việt Nam. Để có thể xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc, nhiệm
vụ xây dựng, củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc luôn phải được đặt lên hàng đầu,
phải là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng và Nhà nước Việt Nam, và trực tiếp là của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam. Coi trọng vai trò của đại đoàn kết dân tộc đòi hỏi phải thực sự coi trọng vai trò của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị.
Hai là, luôn quán triệt quan điểm mở rộng tối đa khối đại đoàn kết dân tộc. Trong xã hội mở và biến
đổi nhanh chóng hiện nay, các lực lượng xã hội cấu thành dân tộc rất đa dạng, nhiều khác biệt. Tuy
nhiên, dù đa dạng và nhiều khác biệt đến mấy, luôn cần nhìn nhận đó là các lực lượng cần tập hợp
vào khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Cần mở rộng các hình thức tập hợp, tổ chức các lực lượng xã hội
và có cơ chế để thu hút, quy tụ các hình thức đó vào trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam phải thực sự là hiện thân của khối đại đoàn kết toàn dân tộc với các cấp độ tổ chức
chặt chẽ và cơ chế hoạt động hiệu quả. Muốn vậy, Mặt trận phải rất thực chất và đầy sức sống, vừa
rất thống nhất, vừa đa dạng và sinh động.
Ba là, để thực hiện được đại đoàn kết dân tộc trong bối cảnh xã hội phân hoá, phân tầng mạnh mẽ
hiện nay, nguyên tắc “cầu đồng, tồn dị” càng hết sức quan trọng. Việc phát hiện và khơi dậy những
giá trị, lợi ích chung, cũng như việc chấp nhận và tôn trọng những cái khác biệt sẽ khó khăn hơn,
nhưng không thể không thực hiện. Đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, phải làm sao để các đại diện
trong Mặt trận thật sự đại diện được cho sự đa dạng trong xã hội, đồng thời phải có cơ chế để sự đa
dạng tương tác và tồn tại trong mục tiêu thống nhất. Tinh thần căn bản cần quán xuyến ở đây chính là dân chủ và pháp quyền.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là mục tiêu lớn của Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đó phải là nền “pháp quyền nhân nghĩa”. Không phải ngẫu nhiên mà
có học giả gọi kỷ nguyên hiện nay là kỷ nguyên của văn hoá, do đó, cách thiện càng là một đòi hỏi
về cách ứng xử đối với các lực lượng xã hội khác nhau trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở
Việt Nam hiện nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa dùng khái niệm “quyền lực mềm”, “sức mạnh mềm”,
nhưng Người nhiều lần chỉ dẫn về việc “bày lẽ phải”, “nói phải”, “thuyết phục”,... trong ứng xử với
các đối tượng đại đoàn kết. Ngay đối với Đảng Cộng sản Việt Nam - tổ chức vừa là thành viên, vừa
là lực lượng lãnh đạo Mặt trận, ngay từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lưu ý: “Đảng không thể
đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất,
hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi
thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh
đạo”. Đó không có gì khác hơn là ứng xử theo cách thiện, là phát huy sức mạnh của sự thuyết phục,
là sử dụng sức mạnh mềm. lOMoAR cPSD| 61409713
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, được tổ chức và hoạt động “theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân
chủ, phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên” cần và có điều kiện vận dụng sáng tạo tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
Chủ tịch Trần Thanh Mẫn nhấn mạnh: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu của dân tộc
ta, được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Tinh thần yêu nước, trọng nhân
nghĩa, đùm bọc lẫn nhau đã thấm sâu vào tình cảm và hành động của mỗi người dân đất Việt trong
đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Đại đoàn kết toàn dân tộc đã tạo nguồn sức mạnh, lập nên những
kỳ tích vẻ vang, là điều kiện cơ bản cho sự thành công sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước
đây, cũng như công cuộc đổi mới xây dựng, phát triển đất nước ngày nay”.
Theo Chủ tịch Trần Thanh Mẫn, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách về đại
đoàn kết toàn dân tộc, để tổ chức Mặt trận thực hiện tốt nhiệm vụ: tập hợp, xây dựng, phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; đại diện, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; giám sát và phản biện xã hội; tham gia xây dựng
Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước do Mặt trận phát động đã hướng vào phát triển kinh
tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, giảm nghèo bền vững.Thông qua hoạt động
giám sát và phản biện xã hội, Mặt trận tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh;
phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí. Thực hiện nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, các thành viên của Mặt trận đã xây dựng các mô hình nhân
dân tự quản, hỗ trợ nhau trong sản xuất, kinh doanh, giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ
môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, khuyến học, khuyến tài, đền ơn đáp nghĩa, nhân đạo từ thiện.
“Mặt trận đã trở thành ngôi nhà chung để các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo, đồng bào
ta ở nước ngoài phát huy lòng yêu nước, trí tuệ và khả năng của mình, góp phần tích cực xây dựng,
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc. Trước đại dịch
COVID-19 và ứng phó với thiên tai, bão lũ vừa qua, truyền thống yêu nước nồng nàn, tình nghĩa đồng
bào sâu lặng, sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc một lần nữa được thể hiện đậm nét
và mạnh mẽ” – Chủ tịch MTTQ Việt Nam phát biểu.
Chủ tịch Trần Thanh Mẫn nhấn mạnh: Qua thực tiễn hoạt động, có thể rút ra được những bài học kinh
nghiệm quý báu về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và hoạt động của MTTQ Việt Nam như sau:
Thứ nhất, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng là nhân tố quyết định để Mặt trận tập hợp
được mọi lực lượng, xây dựng, củng cố, phát huy khối đại đoàn kết dân tộc. lOMoAR cPSD| 61409713
Thứ hai, trong mọi hoạt động, hệ thống chính trị phải quán triệt sâu sắc quan điểm "dân là gốc", khơi
dậy sức sáng tạo, sự ủng hộ của nhân dân, tôn trọng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân.
Thứ ba, đảm bảo sự phối hợp đồng bộ, hiệu quả giữa các cơ quan Đảng, Nhà nước, MTTQ Việt Nam
và hiệp thương phối hợp thống nhất hành động của các tổ chức thành viên.
Thứ tư, quán triệt phương châm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm.
Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh, Mặt trận phải thường xuyên đổi mới phù hợp với thực tiễn.
Thứ năm, thực hành dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, đoàn kết gắn với đấu tranh, có
lý, có tình với các hành vi sai trái, làm ảnh hưởng đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đất nước ta đang trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, đặt ra
nhiều vấn đề mới, sự phát triển đa dạng, năng động và yêu cầu cao hơn về đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân; ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu ngày một gia tăng; phân hóa
giàu nghèo, phân tầng xã hội diễn ra ngày càng sâu sắc.
Bên cạnh đó, tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ,
đảng viên có mặt, có nơi còn diễn biến phức tạp; sự chống phá của các thế lực thù địch ngày càng
nguy hiểm và tinh vi. Những thách thức đó đặt ra yêu cầu cấp thiết đòi hỏi Mặt trận phải đổi mới nội
dung, phương thức hoạt động, ứng dụng công nghệ thông tin, đáp ứng tốt hơn trước những yêu cầu
phát triển mạnh mẽ của đất nước.
Về chủ quan, Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội cũng thẳng thắn nhìn nhận còn những hạn chế
đó là: sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ; trong hoạt động, có việc chưa
sâu sát, thiết thực, hiệu quả, chưa theo kịp yêu cầu của tình hình mới; việc phối hợp giải quyết những
vấn đề bức xúc của dân có nơi chưa kịp thời; nhiều khi chưa thể hiện được vai trò, trách nhiệm, bản lĩnh, chính kiến.
Để phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế, các cấp ủy đảng, chính quyền các
cấp, cả hệ thống chính trị cần quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc
và Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam; thực hiện nhất quán quan điểm: Cách mạng là sự nghiệp
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; tạo môi trường thuận lợi để nhân dân phát triển tài năng,
sức sáng tạo, mang lại lợi ích cho đất nước. Các ban, bộ, ngành, địa phương cần thực hiện tốt các
chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, chính sách tôn giáo
và công tác dân tộc, tôn giáo; vận động đồng bào ta ở nước ngoài hướng về Tổ quốc, đóng góp trí tuệ,
tài năng, nguồn lực để xây dựng đất nước; thông qua các hoạt động đối ngoại nhân dân, góp phần tăng lOMoAR cPSD| 61409713
cường tình đoàn kết hữu nghị, hợp tác quốc tế, hình thành mặt trận rộng rãi ủng hộ công cuộc đổi mới,
xây dựng, phát triển và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam yêu quý của chúng ta.
Trong thời gian tới, hoạt động của Mặt trận phải hướng mạnh về cơ sở, phát huy tốt hơn vai trò của
các tổ chức thành viên, của Ban công tác Mặt trận ở hơn 100 ngàn địa bàn dân cư trong cả nước; tập
hợp sức mạnh của 100 triệu đồng bào trong nước và đồng bào ta ở nước ngoài, cùng hiệp lực, quyết
tâm, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Lắng nghe ý kiến nhân dân, kịp thời phản
ánh, tham mưu đối với cấp ủy, phối hợp cùng chính quyền giải quyết các vấn đề thiết thực liên quan
đến đời sống nhân dân; tiếp tục giữ vai trò nòng cốt trong việc thực hiện các cuộc vận động, phong
trào thi đua yêu nước; đẩy mạnh hoạt động giám sát, phản biện xã hội, tham gia hiệu quả hơn trong
xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí.
Bác Hồ kính yêu đã khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Muôn việc thành công hay
thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”, đội ngũ cán bộ Mặt trận phải có năng lực, trình độ, tâm huyết,
trách nhiệm, biết "lắng nghe dân nói, nói cho dân hiểu, làm cho dân tin".
“Với niềm tin vững chắc vào Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh của khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, trân trọng và phát huy những thành quả mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nỗ
lực phấn đấu đạt được, Mặt trận nguyện mang hết sức mình, vận động các tầng lớp nhân dân chung
sức, đồng lòng - khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, lòng nhân ái, niềm tự hào, tự tôn dân tộc - tự
tin, đổi mới, sáng tạo - hun đúc ý chí, bản lĩnh, khát vọng phát triển, xây dựng đất nước phồn vinh,
hạnh phúc” – Chủ tịch Trần Thanh Mẫn nêu rõ.
2. Liên hệ đoàn kết quốc tế
Đảng ủy Công an Trung ương đã quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh và thực hiện các chính sách đối
ngoại, với mục tiêu củng cố tinh thần đoàn kết quốc tế. Lực lượng CAND chủ động tham mưu và
phối hợp xây dựng các chiến lược bảo vệ Tổ quốc, đồng thời thúc đẩy hợp tác sâu rộng với các đối
tác quốc tế. CAND không chỉ chú trọng vào việc bảo vệ an ninh quốc gia mà còn tích cực tham gia
vào các cơ chế hợp tác quốc tế, nhằm tăng cường lòng tin và sự đoàn kết giữa các nước. Lực lượng
này cũng tập trung vào đào tạo cán bộ có chuyên môn cao, để đáp ứng tốt hơn yêu cầu của công tác
đối ngoại, hướng đến một cộng đồng quốc tế vững mạnh và đoàn kết.
Qua hơn 35 năm đổi mới, kế thừa, vận dụng và sáng tạo truyền thống đối ngoại vẻ vang của dân tộc,
nhất là tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác quốc tế, Đảng ta không ngừng bổ sung, phát triển
và hoàn thiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, vì hòa bình, hợp tác và phát triển, thực thi chính
sách đối ngoại. Tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của
Đảng năm 2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Hơn 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên cơ sở vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lê-nin, kế thừa và phát huy truyền thống, bản sắc đối ngoại, ngoại giao và văn hóa dân tộc, tiếp lOMoAR cPSD| 61409713
thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới và tư tưởng tiến bộ của thời đại, chúng ta đã xây dựng nên
một trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm
bản sắc “cây tre Việt Nam”, “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển”,... thấm đượm tâm hồn, cốt
cách và khí phách của dân tộc Việt Nam”. Chính vì vậy, để vận dụng tư tưởng đoàn kết, hợp tác quốc
tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình hoạch định, thực hiện đường lối đối ngoại với nhiều thời
cơ thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen, cần thực hiện tốt một số nội dung sau:
Một là, đẩy mạnh vận dụng, phát triển và sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác
quốc tế trong quá trình hoạch định, thực hiện đường lối đối ngoại hiện nay.
Để đạt hiệu quả, cần chọn lọc và sáng tạo, kết hợp các nguyên tắc của tư tưởng Hồ Chí Minh với điều
kiện thực tiễn. Tư tưởng này không phải cố định mà cần được bổ sung, phát triển để phù hợp với sự
thay đổi của thế giới. Đặc biệt, cần xây dựng vị thế mới cho Việt Nam trong quan hệ quốc tế, khẳng
định tinh thần chủ động và sáng tạo. Việc tuyên truyền về tư tưởng này cũng cần đa dạng hóa hình
thức, chú trọng đến thế hệ trẻ, nhằm nâng cao nhận thức và giá trị của tinh thần đoàn kết quốc tế trong cộng đồng.
Hai là, quán triệt sâu sắc và thực hiện đúng đắn đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình,
hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế sâu rộng, vì lợi ích quốc gia, dân tộc.
Cần kết hợp hài hòa giữa hợp tác và đấu tranh, tạo ra lợi ích chiến lược chung với các nước để ngăn
ngừa xung đột và tránh cô lập. Mục tiêu lớn nhất là bảo vệ lợi ích quốc gia và dân tộc trong một môi
trường hòa bình, ổn định. Đặc biệt, việc xây dựng đoàn kết và đồng thuận trong nước là rất quan
trọng, vì "tất cả mọi người đều phải vì nước, vì dân." Có như vậy, trong triển khai công tác đối ngoại
mới có thể vận dụng và sáng tạo một cách hiệu quả nhất tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác
quốc tế, “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại”; thực hiện phương châm “dĩ bất biến ứng
vạn biến”. Điểm mấu chốt là giữ “trái tim nóng, cái đầu lạnh” và “kiên quyết, kiên trì” để xử trí các
thách thức đối ngoại, tranh thủ điểm “tương đồng” về lợi ích để thúc đẩy hợp tác và phát triển trên cơ
sở bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc và tôn trọng luật pháp quốc tế.
Ba là, mở rộng và nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, nhất là trong các lĩnh vực hợp
tác về kinh tế, văn hóa, chính trị, quốc phòng, an ninh với các nước trên thế giới. Như Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy
tín quốc tế như ngày nay”, từ một nền kinh tế lạc hậu, xếp hạng cuối trong số các quốc gia Đông Nam
Á, Việt Nam đã vươn lên trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN) với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) ở mức hơn 340 tỷ USD (năm 2020). Giá trị thương hiệu
quốc gia hiện đứng ở vị trí thứ 33 trong top 100 thương hiệu quốc gia giá trị nhất thế giới, chỉ số ảnh
hưởng ngoại giao đứng thứ 9/26 ở khu vực châu Á và đứng thứ hai trong khu vực Đông Nam Á. Nhằm
tiếp tục nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, cần mở rộng và nâng cao hiệu quả
các hoạt động đối ngoại, nhất là hợp tác trên các lĩnh vực, như kinh tế, văn hóa, chính trị, quốc phòng,
an ninh với các nước. Trong đó, cần tập trung kết hợp chặt chẽ giữa đối ngoại với quốc phòng, an lOMoAR cPSD| 61409713
ninh; giữa đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, để tạo thế chân kiềng vững
chắc; kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Tổ quốc
“từ sớm, từ xa”; chủ động phòng ngừa và hóa giải các nguy cơ an ninh thông qua thúc đẩy đối thoại,
xây dựng lòng tin, ngoại giao phòng ngừa và thượng tôn pháp luật. Tiếp tục duy trì các mối quan hệ
với các đối tác, “trước hết là các nước láng giềng và các nước lớn, đi vào chiều sâu, ổn định, hiệu quả;
ưu tiên duy trì ổn định và giữ đà quan hệ, tăng cường tin cậy chính trị, thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh
vực, đồng thời xử lý các khác biệt và vấn đề nảy sinh trên tinh thần hợp tác, hữu nghị, kiểm soát bất
đồng, dựa trên luật pháp quốc tế và thông lệ khu vực”. Hợp tác về kinh tế được coi là trung tâm, tạo
nền tảng cho các lĩnh vực khác phát triển, trong khi hợp tác quốc phòng và an ninh phải dựa trên các
mối quan hệ kinh tế, chính trị và văn hóa. Tinh thần đoàn kết và hợp tác quốc tế sẽ góp phần bảo vệ
Tổ quốc và phát triển bền vững.
Di sản đường lối đối ngoại, trong đó có tư tưởng về đoàn kết, hợp tác quốc tế mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh để lại cho chúng ta là một kho tàng vô cùng quý giá. Vận dụng sáng tạo và hiệu quả tư tưởng
của Người trong công tác đối ngoại hiện nay góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. lOMoAR cPSD| 61409713
20 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM VỀ CHỦ ĐỀ
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công!”
1. Trong lời kết thúc buổi ra mắt Đảng Lao động Việt Nam ngày 3/3/1951, Hồ Chí Minh tuyên
bố: “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là: …”:
A. Đoàn kết toàn dân, phụng sự tổ quốc
B. Không có gì quý hơn đôc lậ p tự dọ
C. Một lòng, một dạ, một tinh thần chung
D. Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh
2. Lực lượng làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc là:
A. Tư sản, tiểu tư sản
B. Giai cấp lãnh đạo
C. Công nhân, nông dân, trí thức
D. Giai cấp vô sản
3. Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc có vai trò như thế nào trong sự nghiệp cách mạng?
A. Là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách mạng
B. Là vấn đề có ý nghĩa sách lược, quyết định thành công của cách mạng
C. Là chính sách chính trị nhất thời, góp phần tạo nên thành công của cách mạng
D. Là chính sách chính trị lâu dài, tạo nên thành công của cách mạng
4. Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc có vai trò như thế nào trong sự nghiệp cách mạng?
A. Đại đoàn kết dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng
B. Đại đoàn kết dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là nhiệm vụ của Đảng, của dân tộc
C. Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu của ĐảngD. Đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ của dân tộc
5. Hội Phản đế đồng minh ra đời khi nào? A. 1930B. 1936 C. 1939 D. 1941
6. Mặt trận Việt Minh ra đời khi nào? A. 1930B. 1936 C. 1939 D. 1941
7. Theo Hồ Chí Minh, thực hiện đoàn kết quốc tế để làm gì? A. Thực hiện đoàn kết quốc tế để
nhận viện trợ từ quốc tế
B. Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng Việt Nam
C. Thực hiện đoàn kết quốc tế để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tiếp thu thành tựu khoahọc kỹ thuật
D. Cả 3 phương án trên
8. Theo Hồ Chí Minh, điều kiện để thực hiện đại đoàn kết dân tộc là?
A. Phải kế thừa truyền thống yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc
B. Phải có lòng khoan dung, độ lượng với con người
C. Phải có niềm tin vào nhân dân
D. Cả 3 phương án trên