



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61425750
A. CƠ SỞ LUẬN ĐIỂM
1. Cơ sở lý luận
Chủ nghĩa Mác Lênin là cơ sở cho sự ra đời của Đảng Cộng sản:
Theo quan điểm của Mác - Lênin, "trong xã hội xây dựng trên cơ sở phân chia
giai cấp, cuộc đấu tranh giữa các giai cấp thù địch, đến một chừng mực nào đó,
sẽ trở thành đấu tranh chính trị. Đấu tranh của Đảng là phản ánh đấu tranh
chính trị của giai cấp có giá trị đầy đủ và có thể thức dứt khoát nhất". Giai cấp
vô sản muốn hoàn thành sứ mệnh của mình là giải phóng nhân dân lao động khỏi
mọi áp bức bóc lột và lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản thì cần
phải có sự thống nhất về mục đích và tổ chức. Và chỉ có đảng chính trị mới có
thể đem lại sự thống nhất ấy. Theo Lênin, phong trào công nhân không thể
thắng lợi nếu như không có lý luận cách mạng khoa học: "Lý luận này không
thể do tưởng tượng mà bịa đặt ra. Lý luận này được hình thành trên cơ sở tổng
hợp kinh nghiệm cách mạng và tư tưởng cách mạng của tất cả các nước trên trái
đất. Lý luận đó ra đời từ nửa thế kỷ 19. Lý luận đó là chủ nghĩa Mác". Học thuyết
Mác xuất hiện bên ngoài phong trào tự phát của công nhân, mặt khác nó đã ra đời
như là kết quả phát triển khách quan và tất yếu của tư tưởng cách mạng. Nó đã
xuất hiện từ cơ sở tư tưởng và khoa học, được vun đắp bởi các nhà đại diện của
giới trí thức cách mạng. Theo V. Lênin với Tuyên ngôn của đảng cộng sản, chủ
nghĩa Mác đã trở thành thế giới quan hoàn chỉnh của giai cấp công nhân.
V.Lênin cũng đã nhấn mạnh: Nhiệm vụ quan trọng của ô đảng cộng sản là
"phải tích cực giáo dục chính trị cho giai cấp công nhân, là phải tăng cường
giác ngộ chính trị cho giai cấp công nhân". Đảng cộng sản, bộ phận tiên phong
của giai cấp, nhờ được vũ trang bởi học thuyết mác-xít mới có thể đem ý thức
giác ngộ xã hội chủ nghĩa đến cho phong trào công nhân, mới là đại diện cho
những quyền lợi cơ bản của giai cấp công nhân. Kết luận này đã được V.Lênin
cũng chỉ rõ hai luận điểm mật thiết liên hệ với
nhau: "Không có lý luận cách mạng, không thể có phong trào cách mạng"
và từ đó "chỉ có đảng được vũ trang bằng lý luận tiền phong mới đóng được
vai trò là người chiến sĩ tiên phong".
Thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng cầm quyền mà không có lý luận dẫn
đường thì cách mạng sẽ không có "phong trào vận động" và đảng sẽ không thể
làm nổi "trách nhiệm cách mạng tiền phong". Từ rất sớm, Đảng ta và Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nhận thức rất rõ điều đó. Trong toàn bộ hoạt động của Đảng,
Đảng ta luôn luôn đề cao vai trò của lý luận, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng. lOMoAR cPSD| 61425750
Cùng với việc làm sáng tỏ vị trí, vai trò cầm quyền của Đảng, trong quá trình lãnh
đạo cách mạng, Đảng luôn luôn xuất phát từ yêu cầu của thực tiền để "xây dựng
chủ nghĩa cho vững". Chủ nghĩa ấy phải đảm bảo thể hiện rõ bản chất giai cấp
công nhân, tính cách mạng sáng tạo và khoa học của Đảng. Trước hết, trên hết
phải vì lợi ích của giai cấp, của toàn thể nhân dân và dân tộc Việt Nam; phản ánh
đúng tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, dẫn đường chỉ lối cho nhân dân hành
động phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử và thời đại.
Trên nền tảng Cương lĩnh chính trị đầu tiên (năm 1930) của Đảng, trải qua
nhiều thời kỳ cách mạng khác nhau cam go, gian khó, trong đó có cả sự bất hòa
trong hệ thống XHCN, nhưng, Đảng ta vẫn tuyệt đối trung thành với chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa ấy,
tư tưởng ấy vào hoàn cảnh cụ thể của từng giai đoạn cách mạng nước ta,
đồng thời làm phong phú thêm nó. Đường lối cách mạng Việt Nam mỗi thời kỳ
lại được bổ sung, phát triển, nhưng trước sau như một, Cương lĩnh của Đảng vẫn
xác định: "Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam;
đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân
tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động,..."
2. Cơ sở thực tiễn 2.1.
Bối cảnh trong nước
Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu
xâm lược Việt Nam, từng bước thiết lập chế độ thống trị tàn bạo, phản động
của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta. Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược,
nhân dân ta liên tiếp đứng lên chống lại chúng. Từ năm 1858 đến trước năm
1930, hàng trăm cuộc khởi nghĩa, phong trào chống Pháp đã nổ ra theo nhiều
khuynh hướng khác nhau, như phong trào Cần Vương, phong trào Đông Du...
Các cuộc khởi nghĩa, phong trào đấu tranh đó vô cùng anh dũng, nhưng đã bị
thực dân Pháp đàn áp tàn bạo và đều thất bại.
Nguyên nhân cơ bản dẫn tới thất bại của các phong trào đấu tranh là do những
người đứng đầu các cuộc khởi nghĩa, các phong trào chưa tìm được con
đường cứu nước phản ánh đúng nhu cầu phát triển của xã hội Việt Nam.
Đứng trước sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước, việc tìm một con
đường cứu nước đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc và
thời đại là nhu cầu bức thiết nhất của dân tộc ta lúc bấy giờ. lOMoAR cPSD| 61425750
Giữa lúc cách mạng Việt Nam đang lâm vào cuộc khủng hoảng về đường lối
cứu nước, ngày 5-6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành ra
nước ngoài, bắt đầu đi tìm con đường cứu nước. Người đã qua nhiều nơi trên
thế giới, vừa lao động, vừa học tập, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm các
cuộc cách mạng tư sản điển hình (Pháp, Mỹ), tích cực tham gia hoạt động
trong Đảng Xã hội Pháp.
Sau một thời gian ngắn tham gia học tập ở Liên Xô và hoạt động trong Quốc tế
Cộng sản, tháng 11-1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc)
trực tiếp chỉ đạo việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Các tổ
chức cộng sản lần lượt được thành lập:
• Ngày 17-6-1929 , Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở Bắc Kỳ.
• Mùa Thu năm 1929 , An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ.
• Ngày 1-1-1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập ở Trung Kỳ.
Chỉ trong một thời gian ngắn, ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản tuyên bố
thành lập. Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu tranh cách mạng
ở Việt Nam. Tuy nhiên, 3 tổ chức cộng sản lại hoạt động riêng rẽ, tranh
giành ảnh hưởng đến nhau, không có lợi cho cách mạng.
Trong Báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản về phong trào cách mạng ở An Nam, ngày
5/3/1930, Nguyễn Ái Quốc đã viết: "Khoảng tháng 5/1929, Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên họp hội nghị toàn quốc. Đại biểu Bắc Kỳ đề nghị tổ chức ngày
một Đảng Cộng sản. Các đại biểu khác đề nghị sau này hãy tổ chức. Nhóm Bắc
Kỳ bỏ hội nghị ra về và tổ chức một đảng (Đông Dương). Một số khác, sau đó đã
tổ chức một đảng khác (An Nam). Đó là mối bất hòa đầu tiên. Nhóm Bắc Kỳ tìm
hết cách để phá hoại Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên vì họ cho rằng: hội đó
quá đông và cơ hội chủ nghĩa nên nó có thể làm lu mờ ảnh hưởng và công tác của
Đảng Cộng sản trong quần chúng. Nhóm An Nam ra sức giữ cho Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên tiếp tục hoạt động vì họ cho rằng: Hội có thế lợi dụng để
tập họp tầng lớp trí thức và giai cấp tiểu tư sản. Đó là mối bất hòa thứ hai. Cả hai
đều cố thống nhất nhau lại, nhưng càng cố gắng bao nhiêu thì càng hiểu lầm nhau
bấy nhiêu và hố sâu ngăn cách ngày cũng rộng ra bẩy nhiêu". Sự chia rẽ, mất
đoàn kết đã làm phân tán sức mạnh chung của phong trào, không có lợi cho cách mạng.
Điều này thể hiện sự cấp thiết của cách mạng Việt Nam là lúc này phải thành lập
ngay một Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam để tiếp tục đưa cách mạng tiền
lên. Từ ngày 6-1 đến ngày 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp
tại bán đảo Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) hội nghị nhất trí thành lập một lOMoAR cPSD| 61425750
đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập.
• Nguyễn Ái Quốc là người đầu tiên sớm ý thức và hiện thực hóa ý thức đó
vềmột tổ chức Đảng lãnh đạo - nhân tố then chốt quyết định sự thắng lợi của
cách mạng. Từ đây, phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam tiền hành theo
con đường cách mạng vô sản.
• Lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 2-9-1945, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam
trở thành đảng cầm quyền thực hiện sự lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội Việt Nam.
2.2. Bối cảnh quốc tế
Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 là một trong những sự kiện
vĩ đại nhất của thế kỷ 20, đánh dấu mốc mới trong lịch sử phát triển của nhân
loại, đã tạo ra nhà nước của người lao động, thế hiện giấc mơ của toàn nhân loại.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga đã tiếp sức cho phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế. Từ đó, một làn sóng cách mạng vô sản ở châu Âu đã bùng
lên mạnh mẽ, tạo ra một cao trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động, làm rung chuyển nền thống trị của giai cấp tư sản độc quyền ở nhiều nước.
Một hệ thống xã hội chủ nghĩa đã ra đời, đóng vai trò to lớn trong tiến trình phát
triển của thế giới hiện đại. Cách mạng tháng Mười Nga còn tác động mạnh mẽ
đến đời sống chính trị-xã hội của nhiều quốc gia, dân tộc; đã thức tỉnh, cổ vũ các
dân tộc thuộc địa bị áp bức và các nước phụ thuộc vùng dậy đấu tranh vì độc lập
tự do, đem lại niềm tin và niềm hy vọng về khả năng tự giải phóng.
Với những ý nghĩa to lớn và sâu sắc như vậy, thắng lợi của Cách mạng tháng
Mười Nga thực sự đã sáng tạo ra một kỷ nguyên mới của nước Nga, đồng thời đã
mở ra một thời đại mới trong lịch sử nhân loại. Sau Cách mạng Tháng 10 Nga và
việc thành lập Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết (Liên Xô) đã chỉ
hướng cho nhân dân các quốc gia bị áp bức và các nước thuộc địa về con đường
đấu tranh giải phóng dân tộc. Quốc tế Cộng sản được thành lập với nhiệm vụ giải
phóng dân tộc các quốc gia bị áp bức bóc lột trên toàn thế giới với giai cấp vô sản là nòng cốt. lOMoAR cPSD| 61425750
Ngày 27 tháng 10 năm 1929 Quốc tế Cộng sản gửi cho người Cộng sản tại Đông
Dương về việc thành lập một Đảng Cộng sản tại Đông Dương: "Việc thiếu một
Đảng Cộng sản duy nhất trong lúc phong trào công nhân và nông dân ngày càng
phát triển, đã trở thành một điều nguy hiểm vô cùng cho tương lai trước mắt cuộc
cách mạng ở Đông Dương". Quốc tế Cộng sản nhấn mạnh: "Nhiệm vụ quan trọng
nhất của tất cả những người Cộng sản Đông Dương là thành lập một Đảng cách
mạng có tính chất giai cấp của giai cấp vô sản, nghĩa là một Đảng Cộng sản có
tính chất quần chúng Đông Dương. Đảng đó phải chỉ có một và là tổ chức cộng
sản duy nhất ở Đông Dương "
B. NỘI DUNG LUẬN ĐIỂM
1. Đảng ta là một đảng cầm quyền
1.1. Khái niệm Đảng cầm quyền
Khái niệm "đảng cầm quyền" được dùng ở các nước tư bản chủ nghĩa và các nước
xã hội chủ nghĩa. Các nước tư bản chủ nghĩa, khái niệm này dùng để chỉ một đảng
hay một liên minh chính trị gồm nhiều đảng đã nắm được chính quyền, điều hành
đất nước trong nhiệm kỳ hiện tại của quốc hội, nhiệm kỳ của tổng thống. Với các
nước xã hội chủ nghĩa, khái niệm này được dùng trong thời kỳ từ khi Đảng Cộng
sản đã giành được chính quyền, nắm chính quyền, lãnh đạo nhân dân thực hiện
nhiệm vụ, mục tiêu chính trị. Như vậy, đảng cầm quyền là đảng giành chiến thắng
trong các cuộc bầu cử dân chủ và cạnh tranh. Từ đó, đảng thành lập chính phủ
đưa ra các quyết định chính sách đại diện cho nhân dân.
Ở Việt Nam, sau cách mạng tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng thuật
ngữ này để nói về vai trò cầm quyền của Đảng như ''Đảng giành được chính
quyền'', ''Đảng nắm chính quyền'', ''Đảng cầm quyền''. Trong Di chúc, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã viết “Đảng ta là một Đảng cầm quyền”. Những khái niệm này
cũng đã được ghi trong các văn kiện của Đảng ta khi đề cập đến vai trò của Đảng
đối với xã hội từ sau khi có chính quyền cách mạng. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt
Nam được Đại hội toàn quốc lần thứ X, XI thông qua có ghi "Đảng Cộng sản Việt
Nam là đảng cầm quyền".
Với các Đảng Cộng sản cầm quyền, thuật ngữ Đảng Cộng sản dùng để chỉ các
đảng Cộng sản ở những nước có duy nhất một đảng cầm quyền, nắm chính quyền
lãnh đạo mọi mặt trong đời sống xã hội. Đảng cầm quyền có nghĩa là đảng phải
chịu trách nhiệm trước nhân dân, trước dân tộc. Đảng đại diện lợi ích của giai cấp
công nhân, cho toàn thể nhân dân lao động, trở thành đội tiên phong chính trị của lOMoAR cPSD| 61425750
cả dân tộc. Đảng luôn giữ được bản chất cách mạng và khoa học, có phương thức
lãnh đạo đúng đắn. Đảng cầm quyền còn có nghĩa là đảng lãnh đạo chính quyền,
chi phối chính quyền, làm cho mọi hoạt động của chính quyền thể hiện tư tưởng,
đường lối của đảng đó, phù hợp với lập trường và phục vụ cho lợi ích của giai
cấp, tầng lớp mà đảng đó đại diện.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã giữ vững được nguyên tắc xây dựng đảng của các
nhà nhà sáng lập chủ nghĩa cộng sản, vận dụng sáng tạo, kế thừa có chọn lọc học
thuyết của chủ nghĩa Mác-Lênin.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về “Đảng ta là một Đảng cầm quyền”
Tại sao Bác không nói là “Đảng ta là đảng cầm quyền” mà phải nói là “một đảng
cầm quyền”? “Một” thể hiện tính duy nhất, hàm ý cả tính tuyệt đối. Đảng không
được chia sẻ quyền lực với đảng khác trong vai trò cầm quyền của mình, nhưng
không giữ vai trò lãnh đạo. Tức là không liên minh, liên kết với bất kỳ đảng khác
để thực hiện vai trò lãnh đạo của mình. Đây không phải là sự độc chiếm quyền
lực mà đó là kết quả tất yếu của lịch sử.
Tuy nhiên, cũng cần hiểu đầy đủ lời của Người: “Đảng ta là một đảng cầm quyền”.
Ở đây, Hồ Chí Minh đã hàm ý cảnh báo. Vì là “một đảng cầm quyền” nên có thể
phát sinh những vấn đề do chỉ có một đảng nắm quyền, nhất là khi nắm quyền
liên tục trong một thời gian dài. Là đảng duy nhất cầm quyền, ở đỉnh cao quyền
lực, rất có thể nội bộ đảng nảy sinh những trì trệ, thậm chí sai lầm, nếu Đảng giáo
điều, không phát huy và mở rộng dân chủ, không lắng nghe phản ánh từ nhân
dân, không tiếp thu các ý kiến phản biện… Rất có thể, khi cầm quyền trong thời
gian dài, đảng tự xây cho mình một “tháp ngà” và tự cách biệt mình với quần
chúng nhân dân. Nghiêm trọng hơn, chính điều đó nảy sinh quan liêu, xa dân,
tham nhũng, thậm chí độc đoán, dần đánh mất lòng tin của nhân dân. Nhận thức
được vấn đề này Đảng luôn luôn tự đổi mới, tự hoàn thiện mình, tự khắc phục
các hạn chế, khuyết điểm điểm để phù hợp với hoàn cảnh cụ thể, với yêu cầu lãnh đạo cụ thể.
Ở Việt Nam, Đảng Cộng Sản nắm quyền lãnh đạo nhưng quyền lãnh đạo đó là
thuộc về nhân dân và Đảng nhận sự ủy thác giao phó quyền lực từ dân. Một khi
Đảng trở thành Đảng lãnh đạo chính quyền thì Đảng cầm quyền, dân là chủ, như
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ. Đảng cầm quyền là Đảng tiếp tục lãnh đạo cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Song, Đảng cầm lOMoAR cPSD| 61425750
quyền, dân là chủ: “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Đây là vấn đề
nguyên tắc, là bản chất của chế độ mới. Đảng lãnh đạo chính quyền là nhằm thiết
lập quyền làm chủ của nhân dân, mọi quyền lực phải thuộc về nhân dân, làm trái
nguyên tắc đó Đảng sẽ thoái hóa, biến chất. Bởi vậy, phải xây dựng cơ chế Đảng
cầm quyền mà cái cốt lõi của cơ chế này là mối quan hệ giữa Đảng, nhân dân.
2. Đảng phải trong sạch, vững mạnh
Mỗi cán bộ, đảng viên cần thấm nhuần sâu sắc đạo đức cách mạng, thực sự sống
cần, kiệm, liêm, chính, và chí công vô tư. Đảng phải được giữ gìn trong sạch,
xứng đáng vai trò lãnh đạo và là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Bác Hồ
muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của vấn đề đạo đức của Đảng, nhằm bảo đảm
sự trong sạch và vững mạnh của Đảng.
2.1. Đảng là đạo đức, văn minh
Xuyên suốt cuộc đời cách mạng của mình, Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức cách
mạng là gốc của người cách mạng. Người đã nêu 23 điều về tư cách một người
cách mạng và giải quyết 3 mối quan hệ (với mình, với người, với việc) trong cuốn
“Đường cách mệnh” năm 1972. Những thập kỷ bốn mươi, năm mươi, sáu mươi,
Người đều có những bài viết ngắn gọn, súc tích về đạo đức cách mạng. Người coi
đạo đức như gốc của cây, như nguồn của sông. Người cách mạng phải có đạo đức,
không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vai trò
nền tảng của đạo đức cách mạng được Hồ Chí Minh khẳng định là rất quan trọng,
phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách
mạng nặng nề, phức tạp, lâu dài và gian khổ. Đạo đức trở thành nhân tố quyết
định sự thành bại của mọi công việc, phẩm chất mỗi con người: “Mọi việc thành
hay là bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng, hay là
không”, “Tuy năng lực và công việc mỗi người có khác nhau, người làm việc to,
người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao
thượng”. Người từng khẳng định: “Chúng ta đem tinh thần mà chiến thắng vật
chất”. Chỉ nhìn về vật chất, chỉ nhìn ở hiện tượng, chỉ lấy con mắt hẹp hòi mà
xem, thì không giải thích được thắng lợi của ta đối với kẻ thù lớn mạnh. Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “Đảng ta theo chủ nghĩa MácLênin, chúng ta không những nhìn vào
hiện tại mà lại nhìn vào tương lai, chúng ta tin chắc vào tinh thần và lực lượng
của quần chúng, của dân tộc.
Đạo đức còn “có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp đổi xã hội cũ thành một xã hội
mới và xây dựng mỹ tục thuần phong”. “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó lOMoAR cPSD| 61425750
khăn gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước…, khi gặp thuận lợi
và thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, “lo
trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”…, không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công
thần, không quan liêu, không kiêu ngạo không hủ hóa”. Đạo đức của Đảng thể hiện qua những điểm:
Thứ nhất, mục đích hoạt động của Đảng là lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc,
giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Đó là sự nghiệp
cách mạng theo chủ nghĩa Mác-Lênin, làm cho dân tộc được độc lập, nhân dân
có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc thực sự, đoàn kết hữu nghị với các dân tộc
trên thế giới. Đạo đức của Đảng là thật sự vì nước, vì dân, nêu cao lợi ích của đất
nước, dân tộc, Tổ quốc trên hết, độc lập trên hết. Toàn Đảng và mỗi cán bộ, đảng
viên nhận thức và hành động vì lợi ích của dân tộc. Ngoài lợi ích của giai cấp,
dân tộc và nhân dân, Đảng không có lợi ích nào khác. Toàn Đảng chung sức lãnh
đạo đấu tranh làm sao cho đất nước được hoàn toàn độc lập, thống nhất, dân tộc,
đồng bào được tự do, hạnh phúc, bảo đảm quyền sống và thoát khỏi sự áp bức,
bất công, đau khổ dưới sự thống trị của chế độ thực dân, phong kiến và các thế lực phản động.
Thứ hai, cương lĩnh, đường lối, chủ trương và mọi hoạt động thực tiễn của Đảng
đều nhằm mục đích đó. Đảng phải luôn luôn trung thành với lợi ích toàn dân tộc
vì Đảng không có mục đích riêng, sự ra đời và phát triển của Đảng đều là vì mục
đích làm cho đất nước hùng cường đi lên chủ nghĩa xã hội, đưa lại quyền lợi cho dân.
Thứ ba, đội ngũ đảng viên phải luôn thấm nhuần đạo đức cách mạng, ra sức tu
dưỡng, rèn luyện, suốt đời phấn đấu cho lợi ích của dân, của nước. Do vậy, một
trong những biểu hiện rõ nhất của Hồ Chí Minh về rèn luyện Đảng Cộng sản Việt
Nam để cho Đảng trở thành Đảng của đạo đức của văn minh là Người “rèn” đạo
đức cán bộ, đảng viên. Hồ Chí Minh nhấn mạnh , đảng viên càng phải là những
người có lòng nhân ái, “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”, trung với
Đảng, trung với nước, hiếu với dân, có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính và luôn
chí công vô tư, có tinh thần quốc tế trong sáng.
Xây dựng Đảng Cộng sản Việt nam thành một Đảng có đạo đức cách mạng, về ý
nghĩa cơ bản mà xét, cũng tức là xây dựng Đảng để Đảng trở thành một Đảng văn
minh hoặc Hồ Chí Minh hay gọi đó là “một Đảng cách mạng chân chính”. Điều
này được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau: lOMoAR cPSD| 61425750
- Đảng văn minh là một Đảng tiêu biểu cho lương tâm, trí tuệ và danh dự
của dân tộc. Đảng ra đời là một tất yếu, phù hợp với quy luật phát triển văn
minh tiến bộ của dân tộc và của nhân loại. Mọi hoạt động của Đảng đều
xuất phát từ yêu cầu phát triển của dân tộc, lấy lợi ích tối cao của dân tộc
làm trọng, mọi lợi ích giai cấp đều phải đặt dưới sự phát triển của dân tộc,
mọi hoạt động của Đảng đều phải phù hợp với quy luật vận động của xã hội Việt Nam.
- Đảng phải luôn trong sạch , vững mạnh, làm tròn sứ mệnh lịch sử do nhân
dân, dân tộc giao phó là lãnh đạo giành độc lập cho Tổ quốc và đưa lại tự
do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Trong giai đoạn Đảng cầm quyền, Hồ
Chí Minh càng chú trọng hơn việc phòng và chống các tiêu cực trong Đảng.
Xây dựng Đảng văn minh còn thể hiện trong giai đoạn cầm quyền, Đảng
hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và luật pháp, Đảng không phải là tổ
chức đứng trên dân tộc.
- Đảng văn minh còn ở chỗ đội ngũ đảng viên, từ những đảng viên giữ chức
vụ lãnh đạo, quản lý trong bộ máy Đảng, Nhà nước, các đoàn thể quần
chúng, nhất là những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý chủ chốt, cho
đến đảng viên không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý phải là những chiến sĩ
tiên phong, gương mẫu trong công tác và cuộc sống hằng ngày.
- Đảng văn minh phải là Đảng có quan hệ quốc tế trong sáng, hoạt động
không những vì lợi ích dân tộc Việt Nam mà còn vì độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia khác, vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác
cùng phát triển của các dân tộc trên thế giới.
Như vậy, xây dựng Đảng để cho Đảng xứng đáng là Đảng đạo đức, văn minh là
một nội dung sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam,
là bước phát triển sáng tạo của Người so với lý luận của Lênin về đảng kiểu mới của giai cấp vô sản.
2.2. Đảng là người lãnh đạo, là đầy tớ của nhân dân
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ trung thành
của nhân dân đã chỉ ra vấn đề bản chất nhất trong mối quan hệ giữa một đảng
cộng sản cầm quyền với quần chúng nhân dân. Đây là một tư tưởng nhất quán,
một luận điểm cách mạng, khoa học, đóng góp xuyên suốt trong quá trình lãnh
đạo, khẳng định rõ vai trò tiên phong, bản chất giai cấp công nhân của Đảng. lOMoAR cPSD| 61425750
Ngay từ khi ra đời, Hồ Chí Minh đã khẳng định đảng cộng sản “như người cầm
lái” cho con thuyền cách mạng, phải có đảng để vận động và tổ chức dân
chúng khi bao trùm lên xã hội Việt Nam là mâu thuẫn giai cấp cơ bản giữa toàn
thể nhân dân với các thế lực đế quốc, tay sai. Người cũng khẳng định thêm “Đảng
không phải làm quan, sai khiến quần chúng mà phải làm đầy tớ cho quần chúng”.
Đảng “không phải trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra”, Đảng cần
làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, tất cả vì
lợi ích của đồng bào. Với ý nghĩa như vậy, nên Đảng vừa là người lãnh đạo vừa
là người đầy tớ của nhân dân. Đó cũng chính là lý do ra đời và tồn tại của Đảng.
Với vai trò là lực lượng lãnh đạo, Đảng phải thực hiện sự lãnh đạo trực tiếp
và toàn diện đối với Nhà nước, các tổ chức đoàn thể xã hội cũng như toàn
thể nhân dân. Do đó, Đảng có trách nhiệm xây dựng đường lối đúng đắn, phù
hợp với quy luật, thuận lòng dân và truyền tải đường lối này đến nhân dân để khơi
dậy ý thức, tập hợp và tổ chức quần chúng đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây
dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa. Đảng phải lãnh đạo xây dựng luật pháp để
quản lý, điều hành xã hội ,đồng thời thường cần thường xuyên chú trọng
củng cố sức mạnh chính trị, tư tưởng, coi trọng công tác giáo dục, đào tạo,
bồi dưỡng tổ chức của mình.
“Người đầy tớ trung thành” là sự nhắc nhở và chỉ rõ vai trò, trách nhiệm
của Đảng. “Đầy tớ” không có nghĩa là kẻ tôi tớ, theo đuôi quần chúng mà là sự
phục vụ, phụng sự cho nhân dân một cách tận tâm, tận lực nhằm đảm bảo
và đem lại lợi ích cho dân chúng. Mỗi cán bộ đảng viên trong mọi hoạt động
của mình đều cần phải thực sự quan tâm tới lợi ích của nhân dân, việc gì có lợi
cho dân thì phải làm cho kỳ được, việc có hại cho dân thì phải hết sức tránh, các
cán bộ, đảng viên cần phải tận tụy, gương mẫu gánh vác các công việc chung.
Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đảng phải sâu sát, gắn bó mật thiết với nhân
dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, khiêm tốn học hỏi nhân dân và phải
chịu sự kiểm soát của nhân dân. Đảng phải thực hành triệt để dân chủ, trước
hết là dân chủ trong nội bộ Đảng. Vai trò tiên phong của đội ngũ cán bộ Đảng cần
phải được kiểm tra và phát huy “tất cả các cán bộ, từ trung ương đến khi, đến
tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ ở cấp nào và ngành nào - đều phải là người đầy tớ
trung thành của nhân dân”. Đảng là là một đảng dân chủ, vào Đảng là để phục
vụ nhân dân, phục vụ giai cấp, phục vụ cách mạng.
Tư tưởng Hồ Chí minh về Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ
của nhân dân không hề có sự mâu thuẫn, đối lập mà ngược lại, đó lại là sự lOMoAR cPSD| 61425750
gắn bó và thống nhất chặt chẽ giữa hai mặt của một vấn đề. Mặt này luôn là
tiền đề, là điều kiện của mặt kia và để hoàn thành được trọng trách của mình,
đảng cộng sản cần làm tốt cả hai mặt. Người chỉ rõ muốn xứng đáng là người
lãnh đạo, thì: “Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng. Mà muốn thế thì
nhất định phải so sánh kinh nghiệm của dân chúng. Vì dân chúng chính là những
người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của ta”. Theo đó, hai mặt của vấn đề
này hoà hợp và thống nhất với nhau trong cùng một chủ thể là Đảng như một điều
tất yếu. Đảng lãnh đạo mọi công việc của Nhà nước qua chính sách và đường
lối. Những nghị quyết, chủ trương ấy khi xây dựng cần phải được gắn vào
hệ quy chiếu lấy mục tiêu chung của dân tộc: dân giàu, nước mạnh để làm
nền tảng xây dựng, lấy nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân làm trung tâm để đáp ứng.
2.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên
Bác đặc biệt coi trọng công tác cán bộ vì Người cho rằng: “Cán bộ là những người
đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích dân chúng hiểu rõ và thi hành.
Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu
rõ, để đặt chính sách cho đúng”; cán bộ là gốc của công việc, “muôn việc thành
công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Trong công tác cán bộ, Bác yêu
cầu: Phải hiểu và đánh giá đúng cán bộ, phải chú trọng huấn luyện cán bộ, huấn
luyện một cách thiết thực, có hiệu quả; phải đề bạt đúng cán bộ; phải sắp xếp, sử
dụng cán bộ cho đúng; phải kết hợp “cán bộ cấp trên phải đến và cán bộ địa
phương”; phải chống bệnh địa phương cục bộ; phải kết hợp cán bộ trẻ với cán bộ
cũ; phải phòng và chống các tiêu cực trong công tác cán bộ; phải thường xuyên
kiểm tra, giúp đỡ cán bộ.
Là người có tầm nhìn chiến lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lường trước những
căn bệnh khi Đảng cầm quyền: Kiêu ngạo cộng sản, công thần địa vị, tham ô,
lãng phí, hủy hóa, quan liêu xa rời quần chúng, trở thành những "ông quan cách
mạng" quay lại sách nhiễu, ức hiếp nhân dân và nhiều thói hư tật xấu khác. Thấu
hiểu mối nguy hại nảy sinh "bên trong Đảng", Người sớm cảnh báo, cần lãnh đạo,
chỉ đạo tích cực xây dựng, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh
chính trị vững vàng, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng trong sáng, mẫu
mực, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, am hiểu các lĩnh vực của đời sống xã hội. lOMoAR cPSD| 61425750
Bên cạnh đề ra những yêu cầu, Hồ Chí Minh còn xác định rõ nội dung, biện
pháp để xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên cũng như khẳng định vai trò của
Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Thứ nhất, phải làm tốt công tác huấn luyện cán bộ.
Người đã đề ra “huấn
luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”, phải huấn luyện một cách đồng thời,
chuyên sâu và có phương pháp khoa học. Cần phân chia các cán bộ về đúng từng
loại trong những lĩnh vực cụ thể: cán bộ đảng, cán bộ nhà nước, cán bộ đoàn thể,
cán bộ trung ương,... và xây dựng nội dung phù hợp với từng loại.
Thứ hai, phải hiểu và đánh giá đúng cán bộ. Cần xác định chính xác cán bộ
tốt, kém, năng lực của mỗi cá nhân và khả năng hoàn thành công việc, mối quan
hệ với nhân dân,... để sắp xếp, bố trí và đề bạt đúng cán bộ. Yêu cầu đánh giá một
cách công tâm, khách quan là một công việc hệ trọng và khó khăn. Về phương
pháp đánh giá, Hồ Chí Minh yêu cầu phải đặt cán bộ trong phạm vi công tác và
môi trường mà cán bộ hoạt động, kết hợp theo dõi thường xuyên và đánh giá định
kỳ, tổng hợp nhiều thông tin để phân tích, chọn lọc. Các công việc nhận xét, đánh
giá phải được công khai để biết phát huy và sửa chữa.
Thứ ba, phải khéo dùng cán bộ. Sự khéo dùng cán bộ được thể hiện ở chỗ sắp
xếp đúng người, đúng việc để đạt được hiệu quả và thành công. Đó cũng là yêu
cầu về sự kết hợp giữa các thế hệ cán bộ một cách đúng đắn. Cán bộ già là vốn
quý của Đảng, với kinh nghiệm về lãnh đạo được rèn luyện, thử thách trong thực
tế chiến tranh. Còn cán bộ trẻ lại đầy hăng hái, nhạy bén với cái mới và sự chăm
chỉ, chịu khó học tập, tiến bộ. Ngoài ra, khéo dùng cán bộ cũng thể hiện ở trọng
dụng nhân tài trong và ngoài Đảng. Đối với bất kì ai có khả năng, đủ tiêu chuẩn,
cần cho nhu cầu của cách mạng là phải dùng.
Thứ tư, phải “có gan cất nhắc cán bộ”. Có sự mạnh dạn trong việc đề bạt cán
bộ. Có gan cất nhắc là không sợ người được cất nhắc sẽ vượt mình. Có gan không
có nghĩa là làm nóng vội, làm ẩu, làm liều, càng không vì danh lợi của mình mà
cất nhắc cán bộ. Sau khi cất nhắc phải giúp đỡ họ, khuyên gắng họ, vun trồng
lòng tự tin, tự trọng của họ, giúp họ hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Thứ năm, phải thương yêu, chăm sóc bảo vệ cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ
rõ không phải vài ba tháng hoặc vài ba năm là đào tạo được một người cán bộ tốt,
mà cần phải công tác, đấu tranh, huấn luyện lâu năm mới có được. Hơn nữa, trong
đấu tranh, có rất nhiều thử thách, nguy cơ dẫn đến mất cán bộ. Vì vậy, Đảng phải lOMoAR cPSD| 61425750
yêu thương cán bộ. Yêu thương không có nghĩa là nuông chiều, thả mặc mà phải
là giúp cán bộ học tập, tiến bộ thêm, phải chú ý đến công tác của họ, thẳng thắn
chỉ ra những sai lầm nhưng không nhằm mục đích công kích mà trái lại mong
muốn giúp đỡ và sửa chữa.
C. Ý NGHĨA LUẬN ĐIỂM
1. Giá trị luận điểm:
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam là một hệ thống quan
điểm toàn diện, phong phú, một di sản quý báu. Luận điểm của người về Đảng,
về cán bộ đảng viên và về vai trò của nhân dân có giá trị lý luận và thực tiễn đối
với quá trình xây dựng và hoạt động của Đảng ta.
Về giá trị lý luận, từ phương pháp tiếp cận đúng đắn, mạnh dạn, khoa học trong
kế thừa học thuyết Mác – Lênin vào thực tiễn đất nước, Hồ Chí Minh đã có những
luận điểm sáng tạo góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác
– Lênin . Dựa vào sự sáng tạo đó, Người đã vạch ra con đường đúng đắn cho
Đảng ta và cán bộ đảng viên.
Về giá trị thực tiễn, đến nay luận điểm của Bác về Đảng vẫn được áp dụng
trong sự nghiệp xây dựng Đảng về mọi mặt bao gồm: chính trị, tổ chức, tư
tưởng và đạo đức:
● Xây dựng Đảng về chính trị: Bác vạch ra con đường phát triển của Đảng
Cộng sản Việt Nam , đáp ứng được yêu cầu cơ bản, đảm bảo được sự phát
triển lâu dài và thích ứng được diễn biến phức tạp của tình hình đất nước
sau này, duy trì duy nhất một Đảng cầm quyền, Đảng có ai tò là người
lãnh đạo của nhân dân.
● Xây dựng Đảng về tư tưởng: Đảng là người lãnh đạo của nhân dân, để
đảm bảo phát triển được lâu dài phải thật trong sạch, cán bộ Đảng viên
phải đảm bảo được tư tưởng đạo đức tốt, thấm nhuần đạo đức cách
mạng, đảm bảo công tác lý luận.
● Xây dựng Đảng về tổ chức: Nói đến Đảng là nói đến một tổ chức chặt
chẽ. Điều này liên quan đến năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức
chiến đấu của Đảng. Điều quan trọng nhất là chất lượng đảng viên và
đội ngũ cán bộ các cấp. Bởi vì, Đảng là gì? Đảng là mỗi chúng ta. Đảng
lớn lên là do mỗi chúng ta lớn lên. Đó là một khía cạnh rất quan trọng
trong di sản Hồ Chí Minh xây dựng Đảng về tổ chức. Điều có ý nghĩa nhất
là chất lượng đảng viên. lOMoAR cPSD| 61425750
● Xây dựng về đạo đức: Xây dựng văn hóa chính trị, lõi cốt là văn hóa
đảng, xây đi đôi với chống, nói đi đôi với làm với quyết tâm chính trị
cao, thật sự vì nước, vì dân.
2. Ý nghĩa luận điểm:
Luận điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về Đảng mang ý nghĩa lịch sử và giá trị
muôn đời. Người luôn nhấn mạnh những vấn đề cơ bản, về sự duy nhất của
Đảng cầm quyền, từ thực tiễn các nước xã hội chủ nghĩa khác, người vạch ra
con đường cho Đảng ta là chỉ “một Đảng cầm quyền”, Người nhấn mạnh về sự
quan trọng của đạo đức cán bộ Đảng viên, cần kiệm, liêm chính, vì nhân dân,
là người đầy tớ của nhân dân.
Lời căn dặn sâu sắc, đầy tính nhân văn của Người đã trở thành lẽ sống, phương
châm hành động, nền tảng tư tưởng và là cơ sở để Đảng tiến hành công cuộc đổi
mới, xây dựng và chỉnh đốn, làm trong sạch nội bộ, giữ vững niềm tin và lòng
kính trọng đối với nhân dân. Đồng thời, đề ra chủ trương, đường lối đúng đắn,
nâng cao năng lực lãnh đạo, vị thế cầm quyền của Đảng để thực hiện khát vọng
phát triển, đổi mới, sáng tạo, sớm đưa nước ta trở thành nước phát triển, có thu
nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nửa thế kỷ qua, Di chúc của Hồ Chí Minh luôn đồng hành với Đảng, với nhân
dân, soi sáng cho cách mạng Việt Nam trên hành trình đấu tranh giành độc lập
dân tộc và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Trong tiến trình lịch sử ấy, dưới ánh sáng
của Di chúc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã không ngừng xây dựng và chỉnh
đốn Đảng; đặc biệt là chăm lo, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán
bộ, đảng viên, để họ thật sự xứng đáng là “người lãnh đạo, là người đày tớ
thật trung thành của nhân dân”. Nhờ đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng
đã luôn tiên phong, gương mẫu, lãnh đạo nhân dân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và hiện nay là đổi mới toàn diện
đất nước, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Thấm nhuần lời dạy của Người, trong suốt chiều dài lịch sử cách mạng Việt Nam,
nhiều thế hệ cán bộ, đảng viên đã phấn đấu quên mình vì sự nghiệp của Đảng,
Nhà nước và nhân dân, xứng đáng là người chiến sĩ cách mạng có phẩm chất đạo
đức trong sáng được quần chúng tin yêu, mến phục. Những cán bộ, đảng viên đó
đã lấy lời dạy của Bác làm phương châm hành động: “Trung với Đảng, trung
với nước, hiếu với dân, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; sẵn sàng hiến
dâng đời mình cho lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; nhiệm vụ
nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” lOMoAR cPSD| 61425750
Trong Di chúc, Người căn dặn, mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần
đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Đặt lợi ích của
tập thể, đất nước lên trên lợi ích cá nhân, “chí công vô tư” là chuẩn mực đạo
đức cao nhất mà Hồ Chí Minh yêu cầu ở mỗi đảng viên, đồng thời còn là thước
đo, là tiêu chí để đánh giá phẩm chất cách mạng của người cán bộ, đảng viên
trong các giai đoạn cách mạng, đặc biệt là trong sự nghiệp đổi mới, hội nhập và phát triển hiện nay.
D. LIÊN HỆ THỰC TIỄN VIỆT NAM
Đảng cộng sản Việt Nam do Chủ Tịch Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện và lãnh
đạo; là đội tiên phong dũng cảm, là bộ tham mưu sáng suốt, là đại biểu trung
thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Tuy nhiên, Đảng có huy động được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân để làm nên
chiến thắng được hay không phần lớn phụ thuộc vào phẩm chất và năng lực lãnh
đạo của Đảng, có “trong sạch, vững mạnh”, có “là đạo đức, là văn minh” hay
không. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, học tập và làm việc theo tư
tưởng của Hồ Chí Minh, Đảng ta đang ngày càng trưởng thành và đóng vai trò
quyết định đến việc bảo vệ chế độ chính trị, bảo vệ mục tiêu “Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, đồng thời góp phần củng cố niềm
tin của nhân dân vào sự lãnhđạo của Đảng, vào con đường phát của đất nước.
Vân ḍ ụng quan điểm của Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lenin vào quá trình
đổi mới đất nước, Đảng cũng đã tự rút ra những sai lầm và kinh nghiêṃ để từ đó
sửa chữa, chỉnh đốn, thể hiên ṣ ự trưởng thành và lớn mạnh từng ngày.
1. Vai trò của Đảng thể hiện qua thành công của Đại hội XIII:
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đề nghị ngay sau Đại hội, các cấp
ủy, tổ chức đảng cần tập trung làm tốt việc phổ biến, tuyên truyền sâu rộng trong
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân về kết quả Đại hội; nghiên cứu, quán triệt sâu sắc
Nghị quyết và các văn kiện Đại hội; khẩn trương xây dựng, triển khai chương
trình, kế hoạch hành động, phát động phong trào thi đua yêu nước sâu rộng, tinh
thần đổi mới sáng tạo, vượt qua khó khăn, thách thức để sớm đưa Nghị quyết Đại
hội vào cuộc sống. Biến những quyết định quan trọng của Đại hội thành hiện thực
sinh động, đưa nghị quyết vào cuộc sống, làm ra của cải vật chất, mang lại cuộc
sống hạnh phúc cho nhân dân. Tổng Bí thư nhấn mạnh, đại hội biểu thị sự thống
nhất ý chí và quyết tâm hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong
thời kỳ mới, thực hiện bằng được mục tiêu phát triển tổng quát đã nêu trong Báo
cáo chính trị. Đại hội đã thảo luận và thông qua những chủ trương, quyết sách
quan trọng để định hướng và lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, toàn diện quá trình triển lOMoAR cPSD| 61425750
khai tổ chức thực hiện phương hướng, nhiệm vụ phát triển đất nước nhanh, bền
vững, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự thành công của Đại hội XIII là minh chứng
cho nỗ lực của Đảng để là người lãnh đạo mẫu mực của nhân dân, là đầy tớ trung
thành của nhân dân, được nhân dân tin tưởng.
2. Vai trò của Đảng thể hiện qua thành công của cuộc bầu cử Đại biểu quốc
hội khóa XV và Đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kì 2021-2026
Ngày 23-5-2021 ghi một dấu mốc quan trọng trong tiến trình phát triển của đất
nước. Trên 69 triệu cử tri đã thực hiện quyền và nghĩa vụ thiêng liêng, bỏ phiếu
bầu những người đại diện cho mình tại Quốc hội khóa XV và Hội đồng nhân dân
các cấp nhiệm kỳ 2021- 2026. Không khí Ngày Bầu cử thực sự là ngày hội lớn
của toàn dân. Con số 99,16% cử tri đi bầu cử là minh chứng cụ thể những điều
này. Để có được kết quả này, ngay từ rất sớm, Hội đồng Bầu cử Quốc gia, Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành liên quan, cơ quan chức năng như Văn
phòng Hội đồng Bầu cử Quốc gia, Bộ Nội vụ và cả hệ thống chính trị từ Trung
ương đến địa phương đã tập trung nỗ lực cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ
chức triển khai thực hiện cuộc bầu cử. Việc triển khai thực hiện rất cụ thể, chi
tiết, tích cực của các địa phương, đơn vị và các Tổ Bầu cử cũng như sự hưởng
ứng tích cực, đồng thuận, thống nhất, đoàn kết của người dân đã góp phần làm
nên thành công của cuộc bầu cử. Có thể khẳng định, làm nên những kết quả rất
đáng trân trọng, tự hào này chính là sự đồng tâm, hiệp lực, sự đoàn kết, ủng hộ
của toàn dân, ý thức và trách nhiệm cao trong thực hiện quyền và nghĩa vụ công
dân cũng như tuân thủ nghiêm túc các quy định về phòng, chống dịch COVID-
19. Đại đoàn kết toàn dân, chính là cội nguồn sức mạnh nội sinh của dân tộc Việt
Nam - bài học kinh nghiệm này đã được đúc rút qua lịch sử phát triển của đất
nước và tiếp tục phát huy, tỏa sáng trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV
và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 20212026. Chính sự quyết tâm,
đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã làm nên một kỳ bầu cử thành
công trên nhiều lĩnh vực. Qua đó đã thể hiện lòng tin của dân với Đảng nhà nước.
E. CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM
1, Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản được hình thành trên cơ sở nào? a. Lý luận b. Thực tiễn c. Không có cơ sở nào
d. Cả lý luận và thực tiễn lOMoAR cPSD| 61425750
2, Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của: a. Giai cấp công nhân b. Nhân dân lao động c. Giai cấp nông dân
d. Giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam
3, Theo Hồ Chí Minh, nguy cơ lớn nhất của một đảng cầm quyền là: a. Diễn biến hòa bình b. Chệch hướng
c. Sai lầm về đường lối và sự suy thoái đạo đức của cán bộ, đảng viên.d. Tụt hậu
4, Theo Hồ Chí Minh, nền tảng tư tưởng của Đảng phải dựa trên: a. Chủ nghĩa Mác - Lênin
b. Nguyên tắc tập trung dân chủ
c. Nguyên tắc tự phê bình và phê bình
d. Đại đoàn kết dân tộc
5, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn về mặt nào? a. Chính trị b. Tư tưởng c. Tổ chức d. Cả a, b, c
6, Đảng ta có tên gọi Đảng Lao động Việt Nam từ khi nào? a. Năm 1930 b. Năm 1945 c. Năm 1951 d. Năm 1960
7, Theo Hồ Chí Minh, nhân tố quyết định hàng đầu để đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi là:
a. Đại đoàn kết dân tộc b. Đoàn kết quốc tế
c. Sự giúp đỡ của Quốc tế cộng sản
d. Sự lãnh đạo của Đảng lOMoAR cPSD| 61425750
8, Khi nào phong trào công nhân Việt Nam hoàn toàn trở thành một phong trào tự giác?
a. Năm 1920 (tổ chức công hội ở Sài Gòn được thành lập)
b. Năm 1925 (Cuộc bãi công Ba Son )
c. Năm 1929 (sự ra đời của ba tổ chức Cộng sản )
d. Năm 1930 (Đảng cộng sản Việt Nam ra đời).
9, Đại biểu các tổ chức Cộng sản nào đã tham dự Hội nghị thành lập Đảng năm 1930?
a. Đông Dương Cộng Sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên Đoàn
b. Đông Dương Cộng Sản Đảng và An Nam cộng sản Đảng
c. An Nam cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn
d. Đông Dương Cộng Sản Đảng và Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn.
10, Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, mục đích, lý tưởng của Đảng cầm quyền là:
a. Xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh
b. Vì lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân
c. Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
d. Không tham ô, tham nhũng
11, Theo Hồ Chí Minh, Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng phương thức nào?
A. Đường lối, chủ trương, chính sách
B. Qua các tổ chức đảng, Đảng viên trong bộ máy Nhà nước
C. Bằng công tác kiểm tra D. Cả a, b, c
12, Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản thể hiện trong: A. 4 luận điểm B. 5 luận điểm C. 6 luận điểm D. 7 luận điểm
13, Ai là Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam? a. Hồ Chí Minh b. Trần Văn Cung c. Trần Phú d. Lê Hồng Phong
14, Giai cấp nào không có hệ tư tưởng riêng? a. Giai cấp tư sản lOMoAR cPSD| 61425750 b. Giai cấp nông dân c. Giai cấp vô sản d. Giai cấp phong kiến
15, Thuật ngữ Đảng cầm quyền được Hồ Chí Minh đưa ra trong tác phẩm nào? A. Đường cách mệnh
B. Cương lĩnh chính trị đầu tiên C. Tuyên ngôn độc lập D. Di chúc
16, Theo Hồ Chí Minh, trong nội dung công tác xây dựng Đảng về chính trị, quan
trọng nhất là vấn đề gì? A. Xây dựng đường lối chính trị B. Bảo vệ chính trị
C. Phát triển hệ tư tưởng chính trị
D. Củng cố lập trường chính trị
17, Theo Hồ Chí Minh, trong xây dựng Đảng cần tuân thủ những nguyên tắc nào? A. Tập trung dân chủ
B. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
C. Tự phê bình và phê bình D. Cả 3 phương án trên
18, Trong câu nói trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh phẩm chất nào mà mỗi cán
bộ, đảng viên cần có? A. Tham vọng quyền lực
B. Đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính
C. Khả năng quản lý tài chính D. Tư duy sáng tạo
19, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu đảng viên giữ gìn phẩm chất gì để xứng đáng với
vai trò "người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân"?
A. Tư tưởng cách mạng và học thức
B. Sự đoàn kết và hy sinh cá nhân
C. Sự trong sạch và chí công vô tư
D. Tư duy quản lý và điều hành nhà nước
20, Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, vai trò của Đảng và đảng viên là gì trong mối quan hệ với nhân dân?
A. Người lãnh đạo và người quản lý nhân dân
B. Người lãnh đạo và người đầy tớ trung thành của nhân dân
C. Người kiểm soát và người giám sát nhân dân
D. Người cố vấn và người đại diện của nhân dân lOMoAR cPSD| 61425750
HÌNH THỨC CỐT TRUYỆN HẤP DẪN
ĐOẠN THĂNG LONG TV HƠI KHÓ NGHE
DỄ HIỂU - HÀI HƯỚC - ĐÁNG YÊU CÓ 1 MIC HƠI NHỎ