










Preview text:
lOMoAR cPSD| 61425750
Câu 1. Phân tích các yếu tố tác động trong nước và quốc tế đến sự lựa chọn con
đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược, dân
tộc ta bị mất độc lập chủ quyền, nhân dân ta bị áp bức, bóc lột, đọa đày. Các phong trào
đấu tranh giành lại nền độc lập dân tộc liên tiếp nổ ra với tinh thần yêu nước, thương
dân, anh dũng, bất khuất nhưng đều thất bại, mà nguyên nhân là do chưa có đường lối
cứu nước đúng đắn. Trong hoàn cảnh ấy, từ những khó khăn tưởng như không có lối
thoát cho dân tộc Việt Nam. Người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành, với tinh
thần yêu nước thương dân, trước sự tác động của những nhân tố trong nước và ngoài
nước, Người đã quyết tâm ra đi tìm đường cứu dân, cứu nước.
Những nhân tố ảnh hưởng đến quyết định ra đi tìm đường cứu nước của người
thanh niên Nguyễn Tất Thành:
Thứ nhất, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.
Cuối thế kỷ thứ XIX đầu thế kỷ XX. Chủ nghĩa tư bản từ tự do cạnh tranh chuyển
lên giai đoạn đế quốc chủ nghĩa và tiến hành xâm lược các nước nhỏ, yếu để làm thị
trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp tư bản; để vơ vét tài nguyên, bóc lột lao động,
nô dịch dân tộc. Tuy nhỏ bé, lạc hậu, nhưng các nước này không cam chịu làm nô lệ
cho thực dân, đế quốc mà quyết tâm đứng lên đấu tranh giành lại nền độc lập dân tộc,
từ đó phong trào giải phóng dân tộc phát triển. Sự kiện này tác động mạnh mẽ đến tư
tưởng, nhận thức của người thanh niên Việt Nam yêu nước Nguyễn Tất Thành, trong
việc so sánh đối chiếu với dân tộc Việt Nam, dân tộc ta quyết không làm nô lệ cho thực
dân Pháp, mà phải đấu tranh giành lại nền độc lập cho dân tộc, mang lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Thứ hai, chủ nghĩa Mác – Lênin và sự ra đời Đảng Cộng sản trên thế giới. Trên
thế giới chủ nghĩa Mác – Lênin phát triển và được hiện thực hóa bằng phong trào vô
sản với sự ra đời của các Đảng Cộng sản trên thế giới như: BaLan, Tiệp Khắc, Liên Xô,
v.v. các Đảng Cộng sản có khả năng tập hợp, đoàn kết, lãnh đạo, giai cấp công nhân và
dân tộc làm cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á.
Phong trào giải phóng dân tộc ở nhiều nước thuộc khu vực châu Á nổ ra như:
Indonesia, Trung Quốc nổ ra nhưng đều thất bại, mà nguyên nhân là thiếu tổ chức,
thiếu đoàn kết, đoàn kết rời rạc, nên Hồ Chí Minh không sang Trung Quốc hay Nhật
tìm đường cứu nước, mà sang Pháp để tìm đường cứu nước.
Thứ tư, tình hình trong nước
Từ những tháng đầu năm 1858 trở về trước, Việt Nam là một nước phong kiến độc
lập có chủ quyền; đến ngày 1/9/1858, Pháp xâm lược Việt Nam, sau hiệp định
Patơnốt(1884), Việt Nam trở thành nước thuộc địa của thực dân Pháp, lúc này Việt Nam
mất chủ quyền. Thực dân Pháp câu kết với chế độ phong kiến cùng áp bức, bóc lột các
tầng lớp nhân dân lao động, xã hội Việt Nam lúc này xuất hiện nhiều mâu thuẫn, xã
hội đen tối, ngột ngạt; một câu hỏi lớn đặt ra cho các thế hệ người Việt Nam là bằng
con đường nào để giành lại nền độc lập cho dân tộc?. Trong xã hội Việt Nam lúc này lOMoAR cPSD| 61425750
có hai mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn giữa cả dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và
giữa giai cấp nông dân với địa chủ, phong kiến. Dưới ách cai trị của thực dân phong
kiến, nhân dân ta không cam chịu làm nô lệ, đã liên tục đấu tranh giành độc lập dân tộc,
theo các khuynh hướng của nông dân, trí thức, tư sản; các phong trào yêu nước sôi nổi,
mạnh mẽ, liên tục duy trì ngọn lửa cứu nước trong lòng dân tộc, nhưng tất cả đều thất
bại, do thiếu tổ chức, thiếu đường lối, chưa có Đảng Cộng Sản lãnh đạo. Nên sau này
Hồ Chí Minh không đi theo con đường cứu nước của các sĩ phu yêu nước lúc bấy giờ
vì đó là con đường cứu nước không thành, cho dù Nguyễn Tất Thành rất ngưỡng mộ
các sĩ phu yêu nước với tinh thần hy sinh xả thân vì nước.
Thứ năm, quê hương và gia đình
Nguyễn Tất Thành sinh ra tại làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nơi
quê hương giàu truyền thống yêu nước, thương dân, hiếu học. Cụ Phó bảng Nguyễn
Sinh Sắc là một vị quan giáo dục có tinh thần yêu nước, thương dân; là Người cha thân
ra Nguyễn Tất Thành, đã dạy dỗ Nguyễn Tất Thành chu đáo về các giá trị truyền thống
tốt đẹp của dân tộc Việt Nam như: yêu nước, thương dân, đoàn kết, cộng đồng, dân chủ,
trung, hiếu,v.v. Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc cũng định hướng cho Nguyễn Tất Thành
muốn thắng giặc Pháp thì phải hiểu văn hóa Pháp, muốn hiểu văn hóa Pháp thì phải học
ngôn ngữ của Pháp. Trong gia đình, anh ruột Nguyễn Sinh Khiêm và chị ruột Nguyễn
Thị Thanh đã tích cực tham gia chống giặc Pháp xâm lược bị bắt giam, bị đánh đập dã
man. Nguyễn Tất Thành sinh ra và lớn lên phải chứng kiến cảnh lầm than của nhân dân
ta khi nước mất, nhà tan. Xuất phát từ thương dân rồi trăn trở vì dân và quyết tâm ra đi
tìm đường cứu dân, cứu nước. Chủ nghĩa yêu nước nhân văn Việt Nam là cội nguồn
động lực thôi thúc Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Người viết: “Lúc đầu,
chính là chủ nghĩa yêu nước chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin,
tin theo Quốc tế thứ ba”(1). Ngày 5 tháng 6 năm 1911, Nguyễn Tất Thành ra đi tìm
đường cứu nước. Từ Bến Nhà Rồng, Người xuất dương sang Pháp trên con tàu buôn
Latouche -Tréville để tìm "tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi", sau hơn
một tháng trên biển đến ngày 6 tháng 7 năm 1911, tàu Latouche-Tréville cập cảng
Marseille Pháp. Từ nǎm 1911 đến 1920, Nguyễn Tất Thành đã đến nhiều nước ở châu
Âu, châu Phi, châu Mỹ, châu Á, để nghiên cứu, tìm đường cứu nước. Tháng 7 nǎm
1920 trên báo Nhân đạo (L'Humanité - Pháp), Nguyễn Tất Thành đọc Sơ thảo “Luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I Lênin.
Thứ sáu, trí tuệ và quyết tâm của Nguyễn Tất Thành.
Có thể nói, Nguyễn Tất Thành là một thanh niên Việt Nam yêu nước, thương dân
có lý tưởng, có khát vọng, có hoài bão, có quyết tâm; hy sinh trọn vẹn đời mình cho
dân tộc Việt Nam, Người nói: “ Lòng thương yêu nhân dân và nhân loại của tôi không
bao giờ thay đổi”(2). Trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ, một mình Nguyễn Tất Thành
ra đi tìm đường cứu nước và đã thành công, tạo ra bước ngoặt chuyển hướng cho cách
mạng Việt Nam, thay đổi hướng phát triển cho cả dân tộc. Việc lựa chọn, đi theo con
đường cách mạng vô sản đã chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cứu nước và đem
lại nhiều thành tựu vĩ đại cho cách mạng Việt Nam. Cuộc đời - sự nghiệp, tài năng - trí
tuệ, đạo đức - phong cách Hồ Chí Minh luôn là nguồn cảm hứng cho các văn nghệ sĩ, lOMoAR cPSD| 61425750
là tấm gương soi, lời dạy cho các nhà lãnh đạo, quản lý hôm nay, trăn trở, suy tư, xác
định trách nhiệm, rèn đức, luyện tài vì sự phát triển toàn diện con người Việt Nam.
Nhân dân ta luôn tự hào về Hồ Chí Minh, bởi vì Bác Hồ là ánh sáng, là niềm tin cho
muôn dân, là tấm gương soi chung cho các thế hệ người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ
thanh thiếu niên hiện nay. Giá trị vận dụng hiện nay:
Khảo sát các cuộc cách mạng dân chủ tư sản điển hình ở các nước Anh, Pháp,
Mỹ, Hồ Chí Minh kết luận: Chỉ có cách mạng tháng Mười Nga là thành công đến nơi,
“Muốn cứư nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách
mạng vô sản”(3). Đồng thời, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “ Cách mạng giải phóng dân tộc phải
phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”(4).
Cách mạng giải phóng dân tộc phải hướng tới sự giải phóng hoàn toàn con người theo
quy luật tiến hóa của lịch sử. Như vậy, đi ra nước ngoài để “xem xét họ làm thế nào”
nhằm “trở về giúp đồng bào chúng ta”, thực chất là quá trình hội nhập thế giới để nghiên
cứu, lựa chọn, vận dụng sáng tạo các giá trị nhân loại vào Việt
Nam để giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Ngày nay, sự kiện Nguyễn Tất Thành
ra đi tìm đường cứu nước có giá trị thực tiễn đối với sự phát triển đất nước ta. Hội nhập
quốc tế để học hỏi, vận dụng các giá trị, thành quả mà nhân loại đạt được để phát triển
nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại; thực hiện thắng lợi CNH,HĐH
gắn với phát triển kinh tế tri thức. Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy
mạnh mẽ giá trị văn hoá, con người Việt Nam; nâng cao năng lực sản xuất có tính tự
chủ và khả năng chống chịu hiệu quả các cú sốc từ bên ngoài. Huy động mọi nguồn
lực, phát triển nhanh và bền vững trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo;
chuyển đổi số; phấn đấu đến năm 2045 Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao./.
Câu 2. Phân tích mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Đặt tư cách mình
là 1 cán bộ Nhà nước, em có những giải pháp gì để xây dựng mối quan hệ này ngày càng tốt đẹp hơn
Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ
Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta đã nêu cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, nhân dân làm chủ”. Trong di sản của mình, mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa đặt
ba nhân tố đó cạnh nhau trong một mệnh đề, nhưng khi xâu chuỗi các nhân tố đó thì
nhận rõ mối quan hệ biện chứng giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ. Bài viết làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ và thực hiện cơ chế này trong bối cảnh hiện nay.
1. Khái lược về mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ lOMoAR cPSD| 61425750
Tiếp cận theo phương pháp lịch sử, trong cơ chế tổng hợp của ba nhân tố Đảng,
Nhà nước và nhân dân thì phải đặt “nhân dân làm chủ” lên trước vì nhân dân có trước Đảng và Chính phủ.
Thực tiễn Việt Nam đã chứng minh tính đúng đắn của trật tự nêu trên. Trước khi
Đảng ra đời và chế độ dân chủ cộng hòa được thiết lập, nhân dân đã giữ vị trí quan
trọng và có vai trò to lớn trong hàng nghìn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ
nước. Bởi lẽ, lòng dân có trước ý Đảng; chủ nghĩa yêu nước có trước chủ nghĩa cộng
sản; tinh thần dân tộc có trước tinh thần quốc tế; giai cấp nông dân ra đời trước giai cấp
công nhân; phong trào yêu nước có trước phong trào công nhân; ngay cả khi có phong
trào công nhân thì chất lượng vẫn ở trình độ “tự phát” cho đến khi Đảng ta ra đời.
Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác
- Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Sự bổ sung yếu tố mới so
với quy luật ra đời của Đảng Cộng sản theo chủ nghĩa Mác - Lênin là phong trào yêu
nước cho thấy phong trào yêu nước không chỉ được hình thành trong chiều dài lịch sử
dân tộc mà còn đóng vai trò quan trọng, lấp vào “khoảng trống” của phong trào công
nhân và là một thành tố không thể thiếu khi Đảng ra đời. Điều đó cũng có nghĩa, Đảng
ra đời từ trong nhân dân; nhân dân chở che, đùm bọc, bảo vệ, nuôi dưỡng Đảng. Đảng
với dân như cá với nước, có dân là sống, thoát ly dân là chết.
Ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã kế thừa, phát huy, phát triển các giá trị truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, nâng lên một trình độ và chất lượng mới cao hơn, đậm nét, rõ ràng
và sâu sắc hơn, nhất là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân tộc kết hợp với giai
cấp, tinh thần yêu nước kết hợp với tinh thần quốc tế vô sản.
Mùa Thu năm 1945, Đảng lãnh đạo toàn dân Tổng khởi nghĩa, lật đổ chế độ thực
dân phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân. Từ đó, với tư cách là “người chủ”,
giữ địa vị cao nhất, nhân dân trở thành nguồn gốc quyền lực Nhà nước, đòi hỏi sự quản
lý, phục vụ của nhà nước. Nhân dân là cội nguồn sức mạnh của Đảng, đồng hành với
Đảng, là chỗ dựa vững chắc của Đảng, tạo nên sự gắn bó, hòa quyện giữa ý Đảng - lòng
dân, lòng dân - ý Đảng, phát triển trong suốt tiến trình cách mạng.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ
Hồ Chí Minh chỉ rõ, Đảng là lực lượng lãnh đạo, là đội tiên phong, tức là đi đầu
đội ngũ quần chúng, dẫn dắt dân tộc, nhưng không biệt phái, không đứng trên mà đứng
trong đội ngũ ấy. Quan điểm của Người về lãnh đạo rất đặc biệt: “Lãnh đạo là làm đày
tớ nhân dân và phải làm cho tốt”(1). Quan điểm Hồ Chí Minh: “Đảng ta vĩ đại vì nó gần
gũi tận trong lòng của mỗi đồng bào ta” là xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, mang sắc
thái, diện mạo, cốt cách văn hóa Hồ Chí Minh, thể hiện chiều sâu không chỉ trong mối
quan hệ với nhân dân làm chủ, Đảng lãnh đạo, Chính phủ phục vụ, mà cả trong toàn bộ
di sản của Người, vì tư tưởng Hồ Chí Minh, nói ngắn gọn, đúc kết là vì dân và do dân.
Mối quan hệ giữa nhân dân và Chính phủ được Người chỉ rõ: “Nếu không có nhân
dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ, thì nhân dân không
ai dẫn đường. Vậy nên Chính phủ với nhân dân phải đoàn kết thành một khối”(2). Theo lOMoAR cPSD| 61425750
Người, nội hàm “Chính phủ cộng hòa dân chủ” tỏ rõ “là đày tớ chung của dân, từ Chủ
tịch toàn quốc đến làng. Dân là chủ thì Chính phủ phải là đày tớ. Làm việc ngày nay
không phải là để thăng quan, phát tài. Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi
Chính phủ. Nhưng khi dân dùng đày tớ làm việc cho mình, thì phải giúp đỡ Chính phủ.
Nếu Chính phủ sai thì phải phê bình, phê bình nhưng không phải là chửi”(3).
Người phê phán quan niệm của những cán bộ, đảng viên chỉ thấy Đảng, Chính phủ
mà không thấy dân với nhận thức mọi việc họ chỉ chịu trách nhiệm trước Đảng, trước
Chính phủ. Người nói: “Thế là đúng, nhưng chỉ đúng một nửa. Họ phụ trách trước Đảng
và Chính phủ, đồng thời họ phải phụ trách trước nhân dân. Mà phụ trách trước nhân
dân nhiều hơn phụ trách trước Đảng và Chính phủ, vì Đảng và Chính phủ vì dân mà
làm các việc, và cũng phụ trách trước nhân dân. Vì vậy nếu cán bộ không phụ trách
trước nhân dân, tức là không phụ trách trước Đảng và Chính phủ, tức là đưa nhân dân
đối lập với Đảng và Chính phủ”(4).
Nhân dân làm chủ thì Chính phủ và Đảng đều là “trâu ngựa, làm tôi tớ trung thành
của nhân dân”(5). Người khẳng định: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân
làm chủ. Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả các cán bộ, từ Trung ương đến khu,
đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ ở cấp nào và ngành nào - đều phải là người đầy tớ
trung thành của nhân dân”(6).
Hai từ “Chính phủ” trong giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám thành công đến
sửa đổi Hiến pháp năm 1959 được hiểu như là “Nhà nước”. Nói đến Chính phủ, Hồ Chí
Minh ít đề cập đến sự “quản lý” mà nhấn mạnh bổn phận công bộc, phục vụ nhân dân,
tập trung vào việc giúp kế hoạch, ý kiến, tạo khung khổ pháp lý. Quan điểm Đảng và
Chính phủ phục vụ nhân dân được Người chỉ rõ: “chính sách của Đảng và Chính phủ
là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ
có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có
lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”(7).
Về Đảng lãnh đạo, Người phê bình cách hiểu cho rằng, lãnh đạo chỉ là ra nghị
quyết, vạch đường lối, viết chỉ thị “theo cách quan liêu. Cái gì cũng dùng mệnh lệnh.
Ép dân chúng làm. Đóng cửa lại mà đặt kế hoạch, viết chương trình rồi đưa ra cột vào
cổ dân chúng, bắt dân chúng theo”(8). Còn Chính phủ là công bộc của dân được hiểu:
“các công việc của Chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu tự do
hạnh phúc cho mọi người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền
lợi dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”(9).
Lãnh đạo, quản lý phải lo tính cho dân, phục vụ nhân dân, không phải đè đầu, cưỡi
cổ dân, vác mặt làm quan cách mạng. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Hễ còn có một người Việt
Nam bị bóc lột, bị nghèo nàn, thì Đảng vẫn đau thương, cho đó là vì mình chưa làm
tròn nhiệm vụ. Cho nên Đảng vừa lo tính công việc lớn như đổi nền kinh tế và văn hóa
lạc hậu của nước ta thành một nền kinh tế và văn hóa tiên tiến, đồng thời lại luôn luôn
quan tâm đến những việc nhỏ như tương cà mắm muối cần thiết cho đời sống hằng ngày lOMoAR cPSD| 61425750
của nhân dân. Cho nên Đảng ta vĩ đại vì nó bao trùm cả nước, đồng thời vì nó gần gũi
tận trong lòng của mỗi đồng bào ta”(10).
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta từ thân phận nô lệ bước lên địa vị người
chủ và Chính phủ, cán bộ trở thành đày tớ dân, đem lại hạnh phúc cho dân là hai giá trị
lớn nhất của chế độ mới. Đó cũng là hạt nhân trong quan hệ Đảng, Nhà nước và nhân
dân. Đảng lãnh đạo, nhưng dân là chủ, là gốc. Vì vậy, Đảng phải hiểu dân, hỏi dân, học
dân. Đảng “Không học hỏi dân thì không lãnh đạo được dân. Có biết làm học trò dân,
mới làm được thầy học dân”(11); “Ý dân là ý trời. Làm đúng ý nguyện của dân thì ắt
thành. Làm trái ý nguyện của dân thì ắt bại”(12). Vì vậy, “đối với dân, ta đừng có làm gì
trái ý dân. Dân muốn gì, ta phải làm nấy”(13).
Đảng lãnh đạo nhưng số lượng đảng viên chỉ là thiểu số so với nhân dân. Nếu
không có nhân dân giúp sức thì Đảng không làm được việc gì hết. Vì vậy, người lãnh
đạo không nên kiêu ngạo, mà nên hiểu thấu. Phải dùng kinh nghiệm của nhân dân. Phải
“Giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng,
đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi... cách xa dân chúng,
không liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại”(14).
Đảng lãnh đạo học hỏi quần chúng nhưng không theo đuôi quần chúng. Không
phải dân chúng nói gì cũng phải theo. Vấn đề là ở chỗ, phải hiểu rằng dân chúng đồng
lòng, việc gì cũng làm được; dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên.
“Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà
những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”(15).
Xây dựng đất nước đàng hoàng, to đẹp là một cuộc chiến khổng lồ chống lại những
gì đã cũ kỹ, hư hỏng để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Vì vậy, “việc cần phải làm
trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều
ra sức làm tròn nhiệm vụ đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân”(16).
Hồ Chí Minh viết “trước hết nói về Đảng”, “trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng” nhằm
khẳng định tầm quan trọng hàng đầu của mọi tầm quan trọng, bởi đó là bổn phận của
đội tiên phong, bộ tham mưu, của từng cán bộ, đảng viên gánh vác trọng trách với dân
tộc. Mặt khác, “nước lấy dân làm gốc”(17); “Gốc có vững cây mới bền, Xây lầu thắng
lợi trên nền nhân dân”(18).
Như vậy, Đảng lãnh đạo nhưng phải dựa vào dân theo tinh thần “dễ mười lần không
dân cũng chịu. Khó trăm lần dân liệu cũng xong”. Hồ Chí Minh khẳng định: “Để giành
lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức
và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”(19). Đảng và Chính phủ
phải có kế hoạch thật tốt, sẵn sàng, rõ ràng, chu đáo, tránh bị động, thiếu sót, sai lầm để
phát triển kinh tế và văn hóa nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.
3. Thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ theo tư
tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh hiện nay lOMoAR cPSD| 61425750
Khi nói “bối cảnh hiện nay” là đặt trong tình hình thế giới và đất nước ở những
thập niên đầu thế kỷ XXI tới giữa thế kỷ XXI. Trong 36 năm qua, từ khi Đảng ta khởi
xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, đất nước đã tiến những bước dài chưa từng thấy
trong lịch sử dân tộc. Kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa và con người đều đổi mới. Tình
hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi và khó khăn đan xen. Điều quan trọng cần
nhận thức thấu đáo là dù thế giới đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh không thay đổi,
vẹn nguyên giá trị, vạch đường đổi mới, soi sáng tương lai, trường tồn cùng dân tộc và
nhân loại. Trong bối cảnh mới, chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu, vận dụng và phát triển
sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh để thực hiện tốt mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Thứ nhất, về nhân dân làm chủ. Các văn kiện trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt là
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát
triển năm 2011), Hiến pháp năm 2013, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
đều trở lại tinh thần căn cốt về dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong di sản Hồ Chí Minh.
Nhất quán quan điểm phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm quyền làm chủ của nhân
dân, Đảng ta nhấn mạnh, dân chủ XHCN là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa
là động lực của sự phát triển đất nước. Đảng khẳng định tôn trọng, bảo đảm và thực
hiện trong thực tế các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc và sự phát
triển tự do của mỗi người; thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại
diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Quyền làm chủ gắn với nghĩa vụ làm chủ, được ghi
trong Hiến pháp, pháp luật và được pháp luật bảo đảm, đồng thời là ý thức và trách
nhiệm của mỗi công dân.
Điểm nhấn quan trọng từ tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò, vị trí của nhân dân là
thực hành dân chủ, phát huy sức dân để mỗi một người dân có ăn, có mặc, có chỗ ở, có
học hành, được chữa bệnh. Quán triệt tư tưởng của Người, Đảng chỉ rõ: “Thực hiện tốt,
có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(20).
Thứ hai, về Nhà nước quản lý. Nhà nước Dân chủ Cộng hòa ra đời, nay là nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Vai trò to
lớn của Nhà nước là “kéo dài” sự lãnh đạo của Đảng trên phạm vi toàn xã hội; là cơ
quan thể hiện và thực thi quyền lực của nhân dân, công cụ để nhân dân làm chủ. Nhà
nước vừa tổ chức, quản lý xã hội, vừa phục vụ nhân dân.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần thực hiện có hiệu quả vai trò tổ chức và hoạt
động của Nhà nước trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp
luật theo tinh thần “trăm đều phải có thần linh pháp quyền”(21). Một Nhà nước hoạt động
theo pháp luật đồng nghĩa với việc xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy; đủ hiệu lực kiểm
tra, kiểm soát, xét xử, thi hành án, trừng trị những kẻ phạm pháp theo tinh thần “Pháp
luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề
nghiệp gì”(22). Phải thực hiện một cách kiên quyết, kiên trì, triệt để, không ngừng nghỉ,
quyết tâm cao về chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Phải tập trung chống lOMoAR cPSD| 61425750
bệnh quan liêu vì quan liêu dung túng, nuôi dưỡng, là nguồn gốc sinh ra tham ô, lãng
phí. Quan liêu, mệnh lệnh là xa dân. Quan liêu không bị trừng trị, sớm muộn sẽ dẫn tới mất chính quyền.
Nhà nước quản lý hay phục vụ, vấn đề cốt tử vẫn là con người, vì mọi việc đều do
con người làm ra. Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, phải đặc biệt quan tâm tới việc
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức về đạo đức, chuyên môn, nghiệp vụ theo tinh thần
làm nghề gì cũng phải học, làm nghề gì phải thông thạo nghề ấy trên nền tảng đạo đức
cách mạng liêm khiết, chính trực, chí công vô tư, tinh thần trách nhiệm và tận tâm, tận lực cống hiến.
Thứ ba, Đảng lãnh đạo. Trong di sản Hồ Chí Minh cũng như hiện nay, Đảng lãnh
đạo là vấn đề trọng yếu, vì cách mạng phải có Đảng như thuyền phải có người cầm lái,
mà cầm lái thì phải vững. Đảng là người tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của
dân tộc, vạch đường, chỉ lối; không chỉ là đội tiên phong của giai cấp công nhân mà còn
là đội tiên phong của dân tộc. Ngoài lợi ích của dân tộc và Tổ quốc, Đảng ta không có lợi ích nào khác.
Đảng lãnh đạo chứa đựng nội dung rộng lớn, sâu sắc. Nói ngắn gọn là tập trung ở
phương thức lãnh đạo và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đảng lãnh đạo Nhà nước và toàn
xã hội, nhưng là một thành tố của hệ thống chính trị, hoạt động trong khuôn khổ của
Hiến pháp và pháp luật. Đảng không phải là cơ quan quyền lực nhà nước và không làm
thay chức năng quản lý nhà nước, mà Đảng thể hiện rõ là lực lượng lãnh đạo, với
phương thức lãnh đạo bằng đường lối, Cương lĩnh; bằng thuyết phục, nêu gương và
kiểm tra. Không kiểm tra coi như không lãnh đạo. Kiểm tra việc thực hiện đường lối và
hoạt động của đảng viên. Đây là một trong những cách tốt nhất để tránh tệ chuyên
quyền, độc đoán, dẫn tới đảng trị.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, hai khía cạnh là phương thức lãnh đạo và cán bộ,
đảng viên đều đòi hỏi đạo đức, trí tuệ và dân chủ. Bổn phận của Đảng và cán bộ, đảng
viên là phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân. Muốn vậy, phải có trí tuệ sáng suốt, coi
nhân dân và thực tiễn là thầy, thường xuyên chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân,
tin vào dân, dựa vào dân, phát huy cao độ sức sáng tạo và sự ủng hộ tích cực, mạnh mẽ của nhân dân.
Đại hội XIII chỉ rõ: “Thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân
dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng”(23). Đó chính là sự quán triệt sâu sắc tư tưởng
Hồ Chí Minh về “đảng viên thì phải dựa vào nhân dân mà xây dựng Đảng”(24). Đảng ta
chỉ rõ sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân là tiêu chí quan trọng để đánh giá chất
lượng tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, đảng viên.
Như vậy, thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ
theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh hiện nay chính là tiếp tục đổi mới mạnh mẽ
phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới. Trong đó nổi lên mối quan hệ giữa
Đảng và Nhà nước, mà cụ thể là “Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng Cương lĩnh, chiến
lược, các chủ trương, chính sách lớn, bằng công tác tổ chức, cán bộ, bằng kiểm tra,
giám sát; lãnh đạo thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành lOMoAR cPSD| 61425750
chính sách, pháp luật; lãnh đạo xây dựng tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức đủ
phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; lãnh đạo tổ chức thực hiện có hiệu
quả các chủ trương, chính sách, Hiến pháp và pháp luật”(25).
Trong mối quan hệ Đảng lãnh đạo với nhân dân làm chủ. Đảng ta chỉ rõ việc “Quy
định cụ thể Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát
của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”(26).
Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ trong di
sản Hồ Chí Minh gắn với toàn bộ quá trình xây dựng chế độ dân chủ nhân dân và quá
độ lên CNXH. Sự gắn bó, tác động của ba nhân tố và vai trò của từng nhân tố tạo nên
sức mạnh tổng hợp của hệ thống động lực, thúc đẩy quá trình cách mạng. Tuy nhiên, cả
lý luận và thực tiễn - nhất là xuất phát và đối chiếu với thực tiễn Việt Nam, thì tâm tư,
nguyện vọng, đòi hỏi, sự hài lòng, tín nhiệm của các tầng lớp nhân dân chính là tiêu
chí, thước đo quan trọng để đánh giá năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, hiệu quả
quản lý của Nhà nước, chất lượng cán bộ, đảng viên. Thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng
định: “Vai trò làm chủ của nhân dân có tác dụng quyết định đến việc tăng cường hiệu
lực và chất lượng quản lý của Nhà nước, nâng cao năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng”(27).
Nhân dân làm chủ cần được hiểu ở một tầm mức rộng và sâu, trước mắt và lâu dài.
Trong chế độ XHCN - khi vẫn còn Nhà nước quản lý - thì vấn đề làm chủ vừa là quyền
lợi, vừa là trách nhiệm của người dân, thể hiện ở chỗ họ được hưởng quyền dân chủ;
được đòi hỏi, yêu cầu Đảng, Nhà nước thực hiện tốt trách nhiệm lãnh đạo, quản lý của
mình. Ở địa vị cao nhất, nhân dân phát huy sức sáng tạo, lòng hăng hái để tạo ra động
lực, nguồn lực cho cách mạng, giúp Đảng và Nhà nước - với tính chất là phương tiện
để nhân dân làm chủ, ngày càng sắc bén, hiệu lực, hiệu quả. Về lâu dài, theo quy luật
tiến hóa của lịch sử, khi Nhà nước tiêu vong, nhân dân sẽ trực tiếp làm chủ đất nước, tự quản xã hội.
Thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ gắn với đổi
mới nội dung, phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đã đạt được một số thành
tựu. Tuy nhiên, đây là vấn đề lớn, khó và phức tạp cần phải tiếp tục tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu lý luận để hoàn thiện và cụ thể hóa. Điều quan trọng là chúng ta phải kiên
định, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, học tập và làm theo phong cách của Người. Trên cơ sở
kế thừa và phát huy các giá trị tinh thần truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, cùng với sự vận dụng những tư tưởng, quan điểm về trọng dân
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thiết nghĩ, để tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa
Đảng với nhân dân trong giai đoạn hiện nay, cần phải tập trung vào một số vấn đề sau đây:
Thứ nhất, Đảng phải thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của
Nhân dân. Bởi đó là quyền bất khả xâm phạm, cần tôn trọng, phát huy ở cả thể chế lOMoAR cPSD| 61425750
và trong hoạt động thực tiễn của Đảng. Thực hiện điều này, đòi hỏi Đảng phải làm
tròn chức trách vừa là lãnh đạo, vừa là đầy tớ của Nhân dân. Tăng cường bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tổ chức và công dân, kiên quyết xử
lý các hành vi vi phạm pháp luật. Chú trọng thực hiện dân chủ trực tiếp và đại diện;
thực hiện nghiêm, có hiệu quả các quy định về dân chủ ở cơ sở, bảo đảm công khai,
minh bạch, trách nhiệm giải trình. Người đứng đầu cấp ủy Đảng, chính quyền các
cấp tăng cường tiếp xúc, đối thoại, lắng nghe, tiếp thu, giải quyết những bức xúc và
nguyện vọng chính đáng của Nhân dân, không để hình thành các “điểm nóng” về an
ninh, trật tự xã hội; phát huy quyền làm chủ, quan tâm chăm lo đời sống của Nhân
dân; chống các biểu hiện dân chủ cực đoan, hình thức, mị dân.
Thứ hai, phải củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã
hội chủ nghĩa. Với những kết quả đạt được tròn tiến trình lãnh đạo cách mạng, Đảng
luôn được Nhân dân tin yêu. Niềm tin ấy đã hun đúc nên khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, tạo nên ý chí, quyết tâm để dân tộc thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, ngày càng
khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế. Niềm tin này ngày càng sâu sắc khi
Đảng, Nhà nước có chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật đúng đắn; có sự
quản lý, điều hành phù hợp, sâu sát với sự gương mẫu của các tổ chức và cá nhân
trong hệ thống chính trị; đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân ngày càng được
nâng lên. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII cũng tiếp tục khẳng định:
“Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất
nước. Phát huy tính tích cực chính trị - xã hội, quyền và trách nhiệm của nhân dân
tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng đội ngũ đảng viên,
cán bộ, công chức; có cơ chế giải phóng tiềm năng, sức mạnh, khả năng sáng tạo,
động viên nhân dân tham gia phát triển kinh tế và quản lý phát triển xã hội”.[7]
Thứ ba, phải dựa vào dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đây là vấn đề hết sức quan
trọng, có ý nghĩa to lớn đối với sự sống còn của Đảng. Bởi, Nhân dân là chỗ dựa
vững chắc, nguồn sức mạnh của Đảng. Thời gian qua, đã có nhiều chủ trương, biện
pháp để phát huy vai trò của Nhân dân tham gia xây dựng Đảng, như: sửa đổi, bổ
sung quyền làm chủ của Nhân dân trong Hiến pháp năm 2013; Quy chế Dân chủ cơ
sở, Quy chế công tác Dân vận của hệ thống chính trị, Quy định về việc đảng viên
tham gia sinh hoạt ở khu dân cư; xây dựng các cơ sở pháp lý để thực hiện phương
châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, v.v. Song, vẫn còn nhiều mặt hạn
chế, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Do đó, cần xây
dựng, hoàn thiện cơ chế để Nhân dân tham gia xây dựng
Đảng. Tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa cơ chế: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
Nhân dân làm chủ”; nghiên cứu, ban hành cơ chế để Nhân dân tham gia xây dựng
Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, xây dựng đội ngũ cán bộ.
Cơ chế đó phải quy định trách nhiệm cụ thể của tổ chức đảng các cấp, của cán bộ,
đảng viên, nhất là người đứng đầu, chủ trì, chủ chốt cơ quan, đơn vị, địa phương
trong việc dựa vào dân để xây dựng Đảng. Xác định rõ trách nhiệm của Nhân dân và
các tổ chức chính trị - xã hội; những nội dung, lĩnh vực, quy trình, chuỗi công việc để lOMoAR cPSD| 61425750
Nhân dân tham gia xây dựng Đảng. Thường xuyên rà soát, bổ sung, hoàn thiện cơ
chế khi thực thi. Tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên xây dựng chương trình, kế hoạch
thực hiện cụ thể; kiên quyết phòng, chống “bệnh” hình thức, chiếu lệ, làm đối phó.
Thứ tư, phải tăng cường xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc dựa trên lợi ích
chung của toàn Đảng, toàn dân; hiểu thấu, quán triệt sâu sắc, nhận thức đầy đủ và
toàn diện hơn nữa những nghị quyết, quy định, kết luận, văn bản liên quan đến chỉ
đạo, lãnh đạo của Đảng và Nhà nước về công tác dân vận, thực hành dân chủ. Bởi
xét đến cùng, khi bàn về vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh hiện nay, có
hai nhóm vấn đề quan trọng liên quan mật thiết với nhau, đó là hiểu thấu và làm đúng.
Phải rà soát lại tất cả những văn bản bản đã được cấp ủy đảng, chính quyền các cấp
triển khai nghiên cứu, quán triệt, học tập như thế nào. Một Đảng chân chính cách
mạng vì dân, vì nước thì trước hết phải đưa ra được nghị quyết, chỉ thị, văn bản, quy
định đúng đắn. Nhưng đó mới chỉ là quan trọng hàng đầu. Điều quan trọng hơn, có ý
nghĩa quyết định là văn bản, nghị quyết đó đi vào thực tiễn, thâm nhập vào đời sống
nhân dân như thế nào. Thực tiễn là thước đo chân lý, muốn đánh giá được thực chất
và hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị thì phải xem xét lại các nghị quyết, chỉ thị đó thi
hành ra sao. Thực hiện tốt hơn nữa phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Để dân biết, cần phải cung cấp thông tin
chính thống, nhanh, nhạy, kịp thời, nhằm định hướng nhân dân và dư luận vào những
thông tin lành mạnh, các giá trị xã hội chủ nghĩa, chân - thiện - mỹ; không để thông
tin xấu độc xâm nhập. Khắc phục tình trạng “khoảng trống thông tin”, thông tin không
kịp thời, thông tin giả,… ảnh hưởng tới nhận thức, niềm tin của dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ.
Tóm lại, tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của quần chúng nhân dân, về
mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với quần chúng nhân dân, dựa vào Nhân dân để
xây dựng Đảng là vấn đề thuộc quy luật, có tính nguyên tắc, thể hiện bản chất và sức
sống trường tồn của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, quán triệt, vận dụng những tư
tưởng đó trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
là điều vô cùng cấp thiết, đặc biệt quan trọng trong giai đoạn hiện nay.