






Preview text:
lOMoAR cPSD| 61425750
1 Khái quát tư tưởng Hồ Chi Minh thời kì ban đầu
Để vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa
xã hội, chúng ta cần nắm vững quan điểm lịch sử - cụ thể, tức là phải đặt
tư tưởng của Người vào bối cảnh lúc bấy giờ. Đó là, miền Bắc nước ta
bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội trong lúc phong trào xã hội chủ nghĩa
trên thế giới đang ở thời kỳ cao trào. Các nước XHCN (tiêu biểu là Liên
Xô, các nước XHCN ở Đông Âu và Trung Quốc…) đã đạt những thành tựu
to lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và Liên Xô lúc bấy giờ
đóng vai trò là thành trì của cách mạng thế giới. Vậy nên điều này có thể
không hoàn toàn phù hợp với tình hình đất nước ta trong gia đoạn hiện tại
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phác thảo ra những đường hướng lớn về chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, đưa dân tộc ta vượt qua những khó khăn ban
đầu với những sai lầm ít cực đoan nhất, tránh được cho dân tộc những
đổ vỡ, mất mát không cần thiết; nhờ đó, chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã
vượt qua được cơn bão táp của thế kỷ XX, đứng vững và phát triển.
Thực tiễn phát triển của đất nước trong giai đoạn hiện nay đang đặt ra
nhiều vấn đề mới vô cùng phức tạp mà Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời
chưa có điều kiện đề cập đến, nhưng Người đã để lại cho chúng ta những
nguyên lý, nguyên tắc, phương pháp luận để suy nghĩ, tìm tòi lời giải đáp
cho những vấn đề thực tế của đất nước.
Ta có thể thấy được rằng có rất nhiều sự thay đổi từ nhỏ đến lớn của đất
nước ta trong xuyên suốt kể từ khi Bác mất. Vậy nên tư tưởng Hồ Chí
Minh nguyên bản không thể mãi là hướng dẫn chi tiết cho từng mục tiêu
đạt được trong từng thời kì, nó sẽ là kim chỉ nang cho chúng ta trong con
đường tiến lên Xã Hội Chủ Nghĩa của chúng ta. Vì là kim chỉ nang vậy nên
ta không thể dựa hoàn toàn vào nó. Tư tưởng Hồ Chí Minh không đủ chi
tiết cho chúng ta trong mỗi trường hợp biến động của đất nước, đặc biệt
trong thời kì hiện tại khi mọi thứ thay đổi từng ngày thì ta phải vận dụng lOMoAR cPSD| 61425750
linh hoạt,sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh thay vì phụ thuộc hoàn toàn vào
nó. 2 Thiếu sót tư tưởng Hồ Chí Minh về Kinh tế
Kinh tế bao cấp không hề xấu nhưng khi áp dụng nó vào thời bình thì nó
đã thất bại. Việc tư tưởng của Bác tập trung vào phát triển nền kinh tế xã
hội hóa không hề sai trong trường hợp bấy giờ vì khi phải tập trung rất
nhiều tài nguyên cho việc giải phòng miền Nam yêu thương. Nhưng nó
mang lại sự khó khan nhất định sau khi kết thúc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
Tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn bị tác động mạnh mẽ bởi tư tưởng Mác-Lê
nin. Vậy nên việc phát triển tư nhân không được quá xem trọng,điều này
sẽ khiến ta mất đi 1 lợi thế cạnh tranh trên trường quốc tế khi thế giới
ngày càng hội nhập. Việc tư nhân không phát triển được khiến cho thặng
dư sản xuất kém phát triển hơn các nước xung quanh 2.1 Giải pháp của
đất nước ta và hiệu quả
Để ví dụ thì ta có thể thấy được rằng ta không thể đi theo nền kinh tế
bao cấp như các nước Liên Xô trước đây vì rất nhiều yếu tố như tài
nguyên, trình độ kĩ thuật, năng suất ,… Vậy nên đã dẫn đến việc Đảng ta
phải đổi mới tư duy, đổi mới cách làm kinh tế
Đảng bắt đầu từ việc đổi mới tư duy, mà “trước hết là tư duy kinh
tế”. Kinh tế được điều tiết theo chuyển động thị trường - vấn đề
tưởng như là nguyên lý nhưng đặt vào bối cảnh khởi động Đổi mới
năm 1986 khi đất nước đang lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội,
mới thấy hết giá trị mang tính mở đường, tính mới mẻ và hiện đại
của những chủ trương chưa từng có trong tư duy của những người Cộng sản.
Đổi mới 1986 mang lại hiệu quả vô cùng to lớn cho kinh tế nước ta tại
thời điểm đó và sau này. Đây là ví dụ tiêu biểu cho việc áp dụng sáng tạo
tư tưởng Hồ Chí Minh khi nước ta không hề áp dụng hoàn toàn hệ thống
kinh tế thị trường như Mỹ và các nước khác mà là áp dụng KTTT và XHCN lOMoAR cPSD| 61425750
khiến cho nước ta đạt 1 tốc độ tăng trưởng khá lớn và ổn định khi so với
các nước có tình trạng tương tự trong xuyên suốt thế kỉ XXI
- “Đây là mốc lớn đánh dấu việc chính thức đổi mới của Đảng ta. Tôi
nói chính thức bởi vì trước đó đã có những bước đổi mới từng
phần, tổng kết từ trước đó cho đến Đại hội 6 vào tháng 12 năm
1986 Đảng có báo cáo chính trị, Nghị quyết Đại hội chính thức để
ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Mốc Đại hội 6 cực kỳ quan
trọng, nhìn thẳng vào sự thật nói rõ sự thật, nói đúng sự thật và
nhấn xoáy vào điểm là đổi mới tư duy. Đổi mới tư duy khó lắm, tức
là đổi mới cái đầu của mình. Tư duy ở đây trước hết là tư duy về
kinh tế. Đảng ta đang đi đúng trọng tâm của nó”- GSTS Mạch Quang Thắng cho biết.
3,1 Thiếu sót trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
Tư tưởng về văn hóa của Bác rất khoa học, dân tộc hay đại chúng là đúng
và hoàn toàn phù hợp với đất nước ta trong hiện tại hoặc thậm chí là về
sau. Nhưng vì phát triển trong giai đoạn đất nước ta còn chiến tranh hay
bị xâm lược vậy nên nó khiến cho Bác quá đặt nặng văn hóa trong chính
trị thay vì trong đời thường như hầu hết người dân của chúng ta. Vị Lãnh
tụ đáng kính từng nói: Văn hóa có liên lạc với chính trị rất là mật thiết.
Phải làm thế nào cho văn hoá vào sâu trong tâm lý của quốc dân, nghĩa
là văn hoá phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ....
Đồng thời văn hoá phải làm thế nào cho quốc dân có tinh thần vì nước
quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích mình. Với xã hội, văn hoá phải
làm thế nào cho mỗi người dân Việt Nam từ già đến trẻ, cả đàn ông và
đàn bà, ai cũng hiểu cái nhiệm vụ của mình và biết hưởng cái hạnh phúc
của mình nên được hưởng.
Đặt nặng vấn đề văn hóa vào chính trị khiến cho hạn chế rất lớn vào việc
sáng tạo văn hóa cho con người Việt Nam, việc định hướng văn hóa vào
chính trị đã tạo nên 1 giai đoạn khi hầu hết nhạc của Việt Nam đều là lOMoAR cPSD| 61425750
nhạc chiến tranh. Điều này không phải là điều gì xấu trong thời kì kháng
chiến chống Mỹ. Nhưng điều này lại là hạn chế vô cùng to lớn cho việc
sáng tạo văn hóa sau này
Việc đặt nặng chính trị của Bác vào thời kì của Bác là không sai nhưng
ta không thể áp dụng 1 cách máy móc vào đời sống của mỗi chúng
ta hằng ngày trong thời bình được
3.2 các giải pháp của đất nước ta
Trước những yêu cầu của công cuộc Đổi mới và sự phát triển nhanh
chóng của nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, năm 1998, Đảng ta
đã ban hành Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa VIII) “Về xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, trong đó
xác định trọng tâm “Hoàn chỉnh các văn bản luật pháp về văn hóa, nghệ
thuật, thông tin trong điều kiện của cơ chế thị trường; ban hành các chính
sách khuyến khích sáng tạo văn hóa và nâng mức đáp ứng nhu cầu
hưởng thụ văn hóa của nhân dân”. Đảng đã chỉ đạo, định hướng cụ thể
trong việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực văn
hóa; chỉnh sửa, bổ sung các văn bản đã ban hành cho phù hợp với tình
hình mới; đặc biệt nhấn mạnh nội dung xây dựng đời sống văn hóa, xây
dựng môi trường văn hóa lành mạnh, xây dựng hệ thống thiết chế văn
hóa và chế độ đãi ngộ, khuyến khích, tôn vinh những người hoạt động
trong lĩnh vực văn hóa. Tiếp theo đó, trong giai đoạn hội nhập quốc tế
sâu rộng, Đảng chủ trương “hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật, cơ chế, chính sách về văn hóa, về quyền tác giả và các quyền liên
quan, phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thực tiễn Việt Nam”[3].
Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII,
Đảng ta nhận thấy cần nhấn mạnh hơn nữa mối quan hệ biện chứng giữa
phát triển văn hóa và xây dựng con người, trong đó hướng đến mục tiêu
“phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng lOMoAR cPSD| 61425750
con người để phát triển văn hóa”. Trên cơ sở đó, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9-6-2014
“Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững đất nước”.
Nghị quyết tiếp tục nhấn mạnh mục tiêu “Hoàn thiện thể chế, chế định
pháp lý và thiết chế văn hóa bảo đảm xây dựng và phát triển văn hóa, con
người trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế”; đồng thời đã xác định các nhóm giải pháp: (i) Tập trung đổi
mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa trong điều
kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và sự bùng nổ của
công nghệ thông tin và truyền thông. Đẩy nhanh việc thể chế hóa, cụ thể
hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về văn hóa. Hoàn thiện hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách về văn hóa, về quyền tác
giả và các quyền liên quan, phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thực tiễn
Việt Nam. (ii) Điều chỉnh và hoàn thiện cơ chế, chính sách phù hợp với
tính đặc thù của văn hóa, nghệ thuật. Bổ sung chính sách kinh tế trong
văn hóa, văn hóa trong kinh tế, xử lý hài hòa mối quan hệ giữa phát triển
kinh tế và phát triển văn hóa; có chính sách văn hóa đặc thù đối với đồng
bào dân tộc thiểu số. (iii) Đẩy mạnh quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý,
tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp văn hóa, các hội nghề
nghiệp trong lĩnh vực văn hóa theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm
theo quy định của pháp luật. Thúc đẩy cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà
nước hoạt động trong lĩnh vực văn hóa. (iv) Có chính sách phát hiện, bồi
dưỡng, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh cán bộ trong lĩnh vực văn hóa, nghệ
thuật; trọng dụng người có tài, có đức. Điều chỉnh chế độ tiền lương, trợ
cấp đối với những người hoạt động trong các bộ môn nghệ thuật đặc thù.
(v) Xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi về đất, tín dụng, thuế và phí đối
với các cơ sở đào tạo và thiết chế văn hóa do khu vực tư nhân đầu tư,
đặc biệt là ở vùng còn khó khăn. Khuyến khích hình thành các quỹ đào lOMoAR cPSD| 61425750
tạo, khuyến học, phát triển nhân tài, quảng bá văn học nghệ thuật, phát
triển điện ảnh, hỗ trợ xuất bản...
Ta có thể thấy được rằng sự bảo tồn văn hóa là 1 trong những điều khá
quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh nhưng việc thiếu sót công nghệ
dẫn đến sự bảo tồn văn hóa, sự thiếu chi tiết hay sự thay đổi trong tình
hình thế giới khiến cho người cũng không thế lường được sự thay đổi về
cách con người ta tiếp cận văn hóa dẫn đến việc ta phải bổ sung sao cho
phù hợp với thời đại mới 4 Kết luận
Công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng XHCN đã tạo điều kiện và
đặt ra yêu cầu mới cần phải nhận thức đúng đắn, vận dụng sáng tạo, bổ
sung và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa xã hội, nhằm tiếp tục tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận của Đảng.
Thực chất của công cuộc đổi mới là “chống lại những cái gì đã cũ kỹ, hư
hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”, là tìm tòi phương thức (con
đường) xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với Việt Nam hiện nay “Tình lOMoAR cPSD| 61425750
hình mới đã đặt ra những nhiệm vụ mới, phương châm mới, sách lược
mới… Trước tình hình mới hiện nay, ta không thể giữ cương lĩnh cũ”