Quiz: Top 99 câu hỏi trắc nghiệm Phần 5 môn Kinh tế vi mô (có đáp án) | Đại học Kinh Tế - Luật, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Câu hỏi trắc nghiệm
Để kích thích tổng cầu, NHTW có thể: Mua trái phiếu chính phủ; Giảm lãi suất chiết khấu; Nới lỏng điềukiện tín dụng.
Nhằm hạn chế đầu tư, NHTW có thể: Tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc; Thắt chặt điều kiện tín dụng.
Để hạ thấp lãi suất, NHTW có thể: Mua trái phiếu chính phủ; Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc; Giảm lãi suất chiết khấu.
Để giảm tổng cầu, NHTW có thể: Thu hẹp lượng cung tiền và tăng lãi suất.
Điều không xảy ra nếu NHTW mua trái phiếu chính phủ là: Lãi suất ngân hàng tăng lên.
Dự trữ của các NHTM giảm xuống có thể là do: NHTW bán trái phiếu chính phủ.
Số nhân tiền tệ có thể được tính bằng: Thay đổi của lượng cung tiền chia cho thay đổi của lượng tiền cơ sở.
Nhân tố không gây ảnh hưởng đến lượng tiền cơ sở là: Một NHTM chuyển số tiền mặt nằm trong két của họ vào tài khoản tiền gửi tại NHTW.
Việc NHTW bán trái phiếu chính phủ trên thị trường mở sẽ làm: Dự trữ của NHTM giảm xuống và vì thế mà làm giảm lượng tiền cơ sở.
Nhân tố có tác động đến lượng tiền cơ sở là: Một cá nhân mua trái phiếu chính phủ từ NHTW.
Việc giảm tỉ lệ dự trữ/tiền gửi sẽ làm tăng cung ứng tiền tệ thông qua: Tăng số nhân tiền.
Số nhân tiền sẽ tăng nếu người dân quyết định giữ ít tiền mặt hơn so với tiền gửi.
Các ngân hàng có xu hướng giảm tỉ lệ dự trữ đến mức tối thiểu vì: Dự trữ không có lãi suất.
Giá trị của số nhân tiền tăng khi tỉ lệ dự trữ giảm.
Trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, tỉ lệ tiền mặt càng nhỏ thì: Số nhân tiền càng lớn.
Thước đo chi phí cơ hội của việc giữ tiền là: Lãi suất danh nghĩa.
Động cơ chủ yếu để mọi người giữ tiền là: Để giao dịch.
Nếu bạn mang tiền khi đến lớp để phòng trường hợp giáo viên yêu cầu phải mua ngay tài liệu, thì các nhà kinh tế sẽ xếp hành vi đó vào: Cầu dự phòng về tiền.
Cân bằng thị trường tiền tệ xuất hiện khi: Cung tiền bằng với cầu tiền.
Nếu GDP thực tế tăng lên, đường cầu tiền sẽ dịch chuyển sang: Phải và lãi suất sẽ tăng lên.
Nhân tố không ảnh hưởng đến vị trí của đường cung tiền là: Lãi suất.
Với các yếu tố khác không đổi, lượng cầu về tiền lớn hơn khi: Chi phí cơ hội của việc giữ tiền thấp hơn; Thu nhập cao hơn; Mức giá cao hơn.
Lý thuyết ưa thích thanh khoản về lãi suất của Keynes cho rằng lãi suất được quyết định bởi cung và cầu tiền.
Khi cầu tiền được biểu diễn bằng một đồ thị với trục tung là lãi suất còn trục hoành là lượng tiền, việc cắt giảm lãi suất: Làm tăng lượng cầu tiền.
Khi cầu tiền được biểu diễn bằng một đồ thị với trục tung là lãi suất còn trục hoành là lượng tiền, tăng lãi suất: Làm giảm lượng cầu tiền.
Khi cung tiền và cầu tiền được biểu diễn bằng một đồ thị với trục tung là lãi suất và trục hoành là lượng tiền, mức giá tăng: Làm dịch chuyển đường cầu tiền sang phải và làm tăng lãi suất.
Khi cung tiền và cầu tiền được biểu diễn bằng một đồ thị với trục tung là lãi suất và trục hoành là lượng tiền, mức giá giảm: Làm dịch chuyển đường cầu tiền sang trái và giảm lãi suất.
Trên thị trường sản phẩm, ảnh hưởng ban đầu của sự gia tăng trong cung tiền là: Làm dịch chuyển tổng cầu sang phải.
Trên thị trường sản phẩm, ảnh hưởng ban đầu của sự cắt giảm mức cung tiền là: Làm dịch chuyển tổng cầu sang trái.
Động cơ chủ yếu để mọi người giữ tiền là: Để giao dịch.
Nếu như lý do để bạn giữ tiền là để trả tiền thuê nhà thì các nhà kinh tế học sẽ xếp khoản tiền đó vào: Động cơ giao dịch.
Lý do để mọi người giữ tiền cho những khoản chi tiêu theo kế hoạch là: Động cơ giao dịch.
Lượng tiền mà mọi người nắm giữ để dùng cho giao dịch: Phụ thuộc dương vào thu nhập và phụ thuộc âm vào lãi suất.
Nếu bạn mang tiền theo mình nhiều để đề phòng trường hợp các bạn rủ ở lại ăn trưa, thì các nhà kinh tế sẽ xếp hành vi đó vào: Cầu tiền dự phòng của bạn.
Nếu bạn gửi tiền trong tài khoản để chờ mua khi giá cổ phiếu giảm, thì các nhà kinh tế sẽ xếp hành vi đó vào: Cầu tiền đầu cơ của bạn.
Giả sử bạn đang xem xét để quyết định mua một cổ phiếu. Nếu bạn nghĩ giá cổ phiếu sẽ thấp hơn trong tuần tới thì lý do để bây giờ bạn giữ tiền trong tay mà không mua cổ phiếu được coi là: Cầu tiền đầu cơ của bạn.
Chi phí của việc giữ tiền tăng lên khi: Lãi suất tăng lên.
Lượng tiền danh nghĩa là: Lượng tiền được tính theo số đơn vị tiền tệ hiện hành.
Khi các yếu tố khác không đổi, mức giá tăng lên gấp 2 lần có nghĩa là: Cầu tiền danh nghĩa tăng lên gấp 2 lần.
Lượng tiền thực tế bằng: Lượng tiền danh nghĩa chia cho mức giá.
Lượng tiền danh nghĩa bằng: Lượng tiền thực tế nhân với mức giá.
Nếu tất cả các yếu tố khác không đổi, GDP thực tế tăng lên thì: Cầu tiền thực tế tăng lên.
Lượng tiền thực tế mà mọi người muốn nắm giữ sẽ tăng lên nếu hoặc thu nhập thực tế tăng lên hoặc: Lãi suất giảm đi.
Nguyên nhân gây ra sự dịch chuyển của đường cầu tiền danh nghĩa sang trái là: Mức giá chung giảm.
Nếu hộ gia đình và các hãng nhận thấy rằng lượng tiền mình đang nắm giữ thấp hơn so với dự kiến, họ sẽ: Bán các tài sản tài chính và làm cho lãi suất tăng lên.
2 nguyên nhân làm cho đường cầu tiền danh nghĩa dịch chuyển sang phải là: GDP thực tế tăng lên; Mức giá chung tăng.
Nếu bạn tin rằng lãi suất sẽ giảm xuống trong thời gian tới, bạn có thể sẽ muốn: Mua trái phiếu tại mức giá hiện hành.
Chi phí cơ hội của việc giữ tiền so với các tài sản khác, ví dụ như trái phiếu, sẽ là: Tiền lãi bỏ qua.
Cân bằng thị trường tiền tệ xuất hiện khi: Cung tiền cân bằng với cầu tiền.
Trái phiếu và tiền: Là những tài sản thay thế.
Định nghĩa đúng nhất về NHTW là tổ chức có chức năng kiểm soát cung tiền và điều tiết các tổ chức tài chính – tiền tệ của một nước.
Nỗ lực nhằm kiểm soát lạm phát và giảm bớt chu kỳ kinh doanh bằng cách thay đổi lượng tiền trong lưu thông và điều chỉnh lãi suất được gọi là: Chính sách tiền tệ.
Các công cụ của chính sách tiền tệ bao gồm: Các nghiệp vụ thị trường mở và lãi suất chiết khấu.
Hoạt động không phải chức năng của NHTW là: Kinh doanh tiền tệ để tối đa hoá lợi nhuận.
Công cụ thường được ngân hàng Nhà nước Việt Nam sử dụng để điều tiết cung tiền hiện nay là: Nghiệp vụ thị trưởng mở.
Lãi suất mà NHTW nhận được khi cho các NHTM vay tiền được gọi là: Lãi suất chiết khấu.
Số nhân tiền tăng lên nếu tỉ lệ tiền mặt mà hộ gia đình và các hãng kinh doanh muốn giữ: Giảm xuống hoặc tỉ lệ dự trữ thực tế của các NHTM giảm xuống.
Giả sử tỉ lệ tiền mặt ngoài ngân hàng là 23%, tỉ lệ dự trữ thực tế của các NHTM là 7%, và cung tiền là 820 tỉ đồng. Cơ sở tiền tệ là: 200 tỉ.
Giả sử tỉ lệ dự trữ bắt buộc là 10% và các ngân hàng không có dự trữ dôi ra. Nếu không có rò rỉ tiền mặt ngoài hệ thống NHTM và NHTW mua 1.000 tỉ đồng trái phiếu chính phủ, thì lượng cung tiền: Tăng 10.000 tỉ đồng.
Giả sử tỉ lệ dự trữ bắt buộc là 10% và các ngân hàng không có dự trữ dôi ra. Nếu không có rò rỉ tiền mặt ngoài hệ thống NHTM và NHTW bán 1.000 tỉ đồng trái phiếu chính phủ, thì lượng cung tiền: Giảm 10.000 tỉ đồng.
Ngân hàng trung ương có thể điều tiết tốt nhất đối với: Cơ sở tiền tệ.
Điều làm tăng lãi suất là: Cầu tiền tăng; Cung tiền giảm
Điều làm giảm lãi suất là: Cầu tiền giảm; Cung tiền tăng
Điều làm tăng lãi suất là: NHTW bán trái phiếu chính phủ
Điều làm giảm lãi suất là: Thu nhập giảm; Tỉ lệ dự trữ bắt buộc giảm
Trong hệ thống ngân hàng dự trữ 100%, số nhân tiền bằng: 1
Nếu cơ sở tiền tệ bằng 60 tỉ đồng và số nhân tiền bằng 3 thì cung tiền bằng: 180 tỉ đồng.
Nếu cơ sở tiền tệ tăng gấp đôi trong khi cả tỉ lệ tiền mặt/tiền gửi và tỉ lệ dự trữ/tiền gửi không thay đổi thì cung ứng tiền tệ sẽ: Tăng gấp đôi.
Việc tăng tỉ lệ tiền mặt so với tiền gửi sẽ dẫn đến: Giảm cung ứng tiền tệ.
Nghiệp vụ thị trường mở xảy ra khi: NHNN Việt Nam mua trái phiếu chính phủ từ các NHTM; NHNN Việt Nam bán trái phiếu chính phủ cho các NHTM.
Việc giảm dự trữ bắt buộc sẽ không ảnh hưởng đáng kể đến cung ứng tiền tệ nếu: Các ngân hàng không thay đổi tỉ lệ dự trữ/tiền gửi.
Lãi suất chiết khấu là: Lãi suất mà các ngân hàng phải trả NHNN Việt Nam khi vay để bổ sung dự trữ từ NHNN Việt Nam.
Muốn tăng cung ứng tiền tệ, NHNN Việt Nam có thể: Thực hiện nghiệp vụ mua trái phiếu trên thị trường mở; Giảm lãi suất chiết khấu; Giảm dự trữ bắt buộc.
Cơ sở tiền tăng khi NHTW: Cho các NHTM vay tiền.
Khi can thiệp vào thị trường ngoại hối bằng cách mua ngoại tệ, NHTW thường bán trái phiếu trên thị trường mở để trung hoà ảnh hưởng của việc mua ngoại tệ đến cung tiền trong nước.
Biện pháp tài trợ cho tăng chi tiêu chính phủ sẽ làm tăng cung tiền mạnh nhất là: Bán trái phiếu cho NHTW.
Giá trị của số nhân tiền tăng khi: Lãi suất chiết khấu giảm; Tỉ lệ dự trữ bắt buộc giảm; Tỉ lệ tiền mặt ngoài ngân hàng giảm.
Ảnh hưởng của chính sách tiền tệ thắt chặt là làm giảm sản lượng bằng cách: Làm tăng lãi suất và giảm đầu tư.
Ảnh hưởng của chính sách tiền tệ mở rộng là làm tăng sản lượng bằng cách: Làm giảm lãi suất và tăng đầu tư.
Kết quả cuối cùng của sự thay đổi chính sách của chính phủ là lãi suất giảm, tiêu dùng tăng, và đầu tư tăng. Đó là do kết quả của việc áp dụng: Chính sách tiền tệ mở rộng.
Giả sử NHTW giảm cung tiền. Muốn đưa tổng cầu trở về mức ban đầu, chính phủ cần: Giảm thuế.
Giả sử NHTW tăng cung tiền. Muốn đưa tổng cầu trở về mức ban đầu, chính phủ cần: Giảm cả thuế và chi tiêu chính phủ một lượng bằng nhau.
Giả sử NHTW và chính phủ theo đuổi những mục tiêu trái ngược nhau đối với tổng cầu. Nếu chính phủ giảm thuế, thì NHTW cần: Bán trái phiếu chính phủ.
Giả sử NHTW và chính phủ theo đuổi những mục tiêu trái ngược nhau đối với tổng cầu. Nếu chính phủ tăng thuế, thì NHTW cần: Mua trái phiếu chính phủ.
Giả sử ban đầu nền kinh tế ở trạng thái cân bằng tại mức sản lượng tiềm năng. Sau đó, làn sóng bi quan của các nhà đầu tư và người tiêu dùng làm giảm chi tiêu. Nếu quyết định áp dụng chính sách bình ổn chủ động, thì NHNW sẽ: Tăng cung tiền và giảm lãi suất.
Câu miêu tả rõ nhất sự gia tăng của cung tiền làm dịch chuyển đường tổng cầu là: Đường cung tiền dịch chuyển sang phải, lãi suất giảm, đầu tư tăng, đường tổng cầu dịch chuyển sang phải.
Câu miêu tả rõ nhất sự cắt giảm cung tiền làm dịch chuyển đường tổng cầu là: Đường cung tiền dịch chuyển sangtrái, lãi suất tăng, đầu tư giảm, đường tổng cầu dịch chuyển sang trái.
NHTW và chính phủ theo đuổi những mục tiêu trái ngược nhau nhằm tác động đến tổng cầu. Nếu chính phủ tăng chi tiêu thì NHTW phải: Tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc; Bán trái phiếu chính phủ.
Nếu NHTW mua trái phiếu chính phủ trên thị trường mở thì đường cung tiền sẽ dịch chuyển sang: Phải và lãi suất sẽ giảm xuống.
Nếu GDP thực tế tăng lên, đường cầu tiền sẽ dịch chuyển sang: Phải và lãi suất sẽ tăng lên.
Vị trí của đường cung tiền được xác định bởi: Hành vi chính sách của NHTW.
Nhân tố không xác định vị trí của đường cung tiền danh nghĩa là: Lãi suất.
Nhân tố xác định vị trí của đường cung tiền danh nghĩa là: Hành vi chính sách của NHTW; Chính sách cho vay của các NHTM; Hành vi giữ tiền của người dân.
Nếu lãi suất tăng lên: Lượng cầu về đầu tư sẽ giảm.
Lãi suất thay đổi gây ra sự thay đổi của tổng cầu thông qua một trong các quá trình sau đây: Có sự di chuyển dọc đường cầu đầu tư, còn đường tổng cầu dịch chuyển.
Lượng cầu tiền thực tế giảm xuống khi lãi suất tăng lên là vì: Chi phí cơ hội của việc giữ tiền với vai trò là một tài sản tăng lên khi lãi suất tăng.
Chuỗi sự kiện là một phần trong các kết quả do tác động của NHTW nhằm hạn chế tổng cầu là: Cung tiền giảm, lãi suất tăng, đầu tư giảm, tổng chi tiêu dự kiến giảm.
Cung tiền giảm có thể làm: Lãi suất tăng, đầu tư giảm, tổng cầu giảm.
Trật tự chính xác của chuỗi sự kiện khi NHTW áp dụng chính sách tiền tệ để làm thay đổi GDP thực tế là: Cung tiền, lãi suất, đầu tư, C + I + G + NX.