lOMoARcPSD| 61573419
VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
Phần 1: Nội dung chính của bài
1. Vật chất và các hình thức tồn tại của vật chất
1.1. Phạm trù vật chất
1.1.1. Quan niệm của triết học ngoài Mác xít về phạm trù vật chất
Trước Mác từ rất sớm, các nhà triết học đã nghiên cứu về vật chất và đã đưa ra
phạm trù vật chất với tính cách phạm trù triết học cách đây khoảng 2500 năm.
Song xoay quanh phạm trù này đã diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt giữa chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm.
- Các nhà triết học duy tâm: thừa nhận stồn tại của các sự vật, hiện tượng của
thế giới nhưng phủ nhận đặc trưng “tự thân tồn tại” của chúng và cho rằng: Cơ sở
của mọi sự tồn tại bản nguyên tinh thần nào đó. Đó thể “ý chí của thượng
đế” là “ý niệm tuyệt đối”, hay do cảm giác chủ quan của con người.
+ Platôn cho “ý niệm” là bản nguyên của thế giới.
+ Hêghen cho “ý niệm tuyệt đối” là bản nguyên của thế giới.
+ Béccơly cho “tồn tại nghĩa là được tri giác”. Mọi vật chỉ tồn tại trong chừng
mực người ta cảm giác được, không có chủ thể thì không có khách thể.
Như vậy, các nhà triết học duy tâm phủ nhận đặc trưng “tự thân tồn tại” của các
sự vật, hiện tượng trên thế giới. Con người chỉ nhận thức được cái bóng, cái bề ngoài
của sự vật, hiện tượng mà không nhận thức được bản chất của sự vật, hiện tượng ấy.
CNDT phủ nhận tính khách quan của vật chất, tđó phủ nhận phạm trù nền tảng của
CNDV.
- Các ntriết học duy vật: khẳng định thế giới vật chất tồn tại khách quan
không lệ thuộc vào ý thức của con người. Nhưng họ đã quy vật chất về một hoặc một
vài dạng vật thể nào đó - coi chúng các yếu tố đầu tiên hình thành nên các sự vật,
hiện tượng trên thế giới.
Như vậy, chủ nghĩa duy vật đã khẳng định thế giới này là thế giới vật chất, tồn
tại khách quan; giải thích sự vận động, phát triển của thế giới vật chất như một hiện
tượng tự thân, bác bỏ vai trò sáng thế của tinh thần, Thượng đế. Cùng với những tiến
bộ lịch sử, quan niệm của các nhà triết học duy vật về vật chất cũng từng bước phát
triển theo hướng ngày càng sâu sắc và trừu tượng hóa khoa học hơn.
Tuy vậy, ng với những tiến bộ của lịch sử, quan niệm của các nhà triết học
duy vật về vật chất cũng từng bước phát triển theo hướng ngày càng sâu sắc và trừu
tượng hơn.
Cụ thể:
+ Trong thời cổ đại: Khuynh hướng chung trong phương pháp và quan niệm
của các nhà triết học duy vật cổ đại là tìm ra và đồng nhất vật chất với một vật thể,
lOMoARcPSD| 61573419
vật thể này vừa bản nguyên đầu tiên sinh ra mọi sự vật, hiện tượng khác, vừa là
vật thể duy nhất mà mọi sự vật, hiện tượng sẽ hóa thành khi phân hủy, diệt vong.
Ví dụ: Talét coi bản nguyên của thế giới là “nước”;
Anaximen là “không khí”;
Lôkayata ở Ấn độ cho rằng: đất, nước, lửa, không khí sinh ra mọi vật.
Hêraclít lại “lửa” (Trong cuốn “Bàn về những nguyên của sự sống”,
Hêraclít viết: “Thế giới, một chỉnh thể gồm mọi vật, không phải do bất cứ một
thần thánh, hoặc là bất cứ một người nào sáng tạo ra, mà đã, đang và sẽ còn một
ngọn lửa vĩnh viễn sống, bùng cháy và tắt đi theo những quy luật…”
1
).
Đỉnh cao của thời kỳ cổ đại là quan điểm của Lơxíp (khoảng 500 - 440 TCN)
Đêmôcrít (khoảng 427 - 374 TCN) đã đưa ra quan niệm vật chất nguyên tử, các
ông cho rằng: nguyên tử những hạt nhỏ nhất, không thể phân chia, không khác
nhau về chất, tồn tại vĩnh viễn, nguyên tử loại góc cạnh, xấu xí, loại cứng,
nhẵn, loại hình tròn, hình cầu... Chính sự kết hợp hoặc tách rời nguyên tử theo
các trật tự khác nhau của không gian sẽ tạo nên toàn bộ thế giới. Tư tưởng này được
đánh giá là đỉnh cao của CNDV cổ đại và được kéo dài cho đến thế kỷ XVIII. Đặc
biệt, những thành công kỳ diệu của Niutơn trong vật lý học cổ điển (nghiên cứu cấu
tạo và thuộc tính của các vật thể vật chất vĩ mô - bắt đầu tính từ nguyên tử trở lên),
nhất với việc chứng minh được sự tồn tại thực scủa nguyên tử càng làm cho
quan niệm trên đây được củng cố thêm. Tuy nhiên, khi đó họ thường đồng nhất vt
chất với nguyên tử, khối lượng, vận động của vật chất chỉ là biểu hiện của vận động
học; nguồn gốc vận động nằm ngoài vật chất; vật chất, vận động, không gian,
thời gian như những thực thể khác nhau, không có mối liên hệ nội tại với nhau
+ Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX diễn ra cuộc cách mạng trong khoa học tự
nhiên đã làm phá sản các quan điểm duy vật siêu hình về vật chất.
* Năm 1895, Rơnghen phát hiện ra tia X.
* Năm 1896, ccơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ của nguyên tố Urani,đã
bác bỏ quan niệm v sự bất biến của nguyên tử.
* Năm 1897, Tômxơn phát hiện ra điện tử chứng minh được nó là một trong
những thành phần cấu tạo nên nguyên tử. Nhờ phát minh này, lần đầu tiên trong
khoa học, sự tồn tại hiện thực của nguyên tử được chứng minh bằng thực nghiệm.
* Năm 1901, Kaufman đã chứng minh được khối lượng của điện tử khôngphải
là bất biến, mà thay đổi theo vận tốc vận động của nguyên tử.
1
V. I. Lênin, Toàn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ, M.1981, tr. 371.
lOMoARcPSD| 61573419
* Năm 1905, thuyết tương đối hẹp và năm 1916, thuyết tương đối tổng quátcủa
A. Anhxtanh ra đời đã chứng minh: không gian, thời gian, khối lượng luôn biến đổi
cùng với sự vận động của vật chất.
Đứng trước những phát hiện trên của khoa học tnhiên đã làm không ít nhà
khoa học và triết học với duy máy móc, siêu hình hoang mang dao động, hoài
nghi tính đúng đắn của chủ nghĩa duy vật. Họ cho rằng: nguyên tử không phải
phần tử nhỏ nhất, mà có thể bị phân chia, tan rã, bị “mất đi”, do đó vật chất cũng
thể biến mất; hiện tượng không khối lượng học, hạt chuyển thành trường,
cũng nghĩa vật chất chỉ còn là năng lượng, là sóng phi vật chất; quy luật học
không còn tác dụng trong thế giới vật chất “kỳ lạ” ấy, thế giới tồn tại không
quy luật, mọi khoa học trở thành thừa và nếu chăng cũng chỉ sự sáng tạo tuỳ
tiện của tư duy con người; khách thể tiêu tan, chủ thể trở thành cái có trước, cái còn
lại duy nhất chúng ta cảm giácng duy của chúng ta để tổ chức những cảm
giác đó. Điều này dẫn đến cuộc khủng hoảng thế giới quan trượt dài từ CNDVSH
sang CNDT. Con đường thoát khỏi cuộc khủng hoảng này thay CNDVSH bằng
CNDVBC.
1.1.2. Quan niệm của triết học Mác - Lênin về phạm trù vật
chất - Tư tưởng của Mác, Ăngghen về vật chất:
Mác, Ăngghen trong khi đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, thuyết bất khả tri
phê phán chủ nghĩa duy vật siêu hình, máy móc đã đưa ra những tư tưởng hết sức
thiên tài về vật chất.
+ Một là, cần phân biệt phạm trù vật chất với vật thể. Phạm trù vật chất phải
bao quát được những thuộc tính chung của các sự vật, hiện tượng đang tồn tại cảm
tính. Vật chất là sự thống nhất hữu cơ giữa tính cụ thể và tính trừu tượng.
+ Hai là, con người có thể nhận thức được thế giới vật chất thông qua sự phản
ánh của các giác quan về các sự vật hiện tượng cụ thể cảm tính.
Dựa trên những thành tựu rực rỡ của Khoa học tự nhiên, kế thừa những tưởng
khoa học của C.Mác Ăngghen, Lênin đã đưa ra định nghĩa hoàn chỉnh về phạm
trù vật chất.
- Định nghĩa phạm trù vật chất của Lênin
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” (Lênin TT, t.18, tr.151).
Định nghĩa vật chất của V. I. Lênin bao hàm các nội dung sau đây:
+ Thứ nhất: vật chất là một phạm trù triết học
Nội dung này khẳng định, nói về vật chất theo nghĩa rộng nhất, không phải nói
về các dạng vật chất cụ thể được các khoa học chuyên ngành nghiên cứu.
lOMoARcPSD| 61573419
* Vật chất với tư cách là phạm trù triết học là kết quả của sự khái quát hóa,trừu
tượng hóa những thuộc tính, những mối liên hệ vốn của các sự vật, hiện tượng
nên phản ánh cái chung, hạn, tận, không sinh ra, không mất đi; còn tất cả
những sự vật, hiện tượng chỉ là những dạng biểu hiện cụ thể của vật chất nên nó có
quá trình phát sinh, phát triển chuyển hóa. Vì vậy, không thể đồng nhất vật chất
với một hay một số dạng biểu hiện cụ thể của vật chất.
Do đó, theo Lênin không thể đưa định nghĩa vật chất bằng cách quy về vật
thể (chẳng hạn, quy về nguyên tử) hoặc quy về một hình thức, một thuộc tính cụ thể
nào đó (chẳng hạn, quy về khối lượng). Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, định nghĩa
bằng cách đó sẽ chỉ gây ra hồ, sai lầm tạo khở cho CNDT xuyên tạc, tấn
công vào CNDV. Cũng không thể định nghĩa bằng cách quy về một phạm trù
rộng hơn, vì cho đến nay, chưa có phạm trù nào rộng hơn phạm trù vật chất.
* Chỉ có thể định nghĩa một cách khoa học phạm trù vật chất bằng cách đốilập
với ý thức trong định nghĩa đó chỉ rõ vật chất tính thứ nhất, ý thức là tính
thứ hai. Thông qua sự đối lập với ý thức (vật chất trước ý thức, quyết định ý thức),
định nghĩa phạm trù vật chất bao hàm điều kiện cần đủ để phân biệt nó với những
phạm trù khác.
+ Thứ hai, vật chất thực tại khách quan, bên ngoài ý thức không lệ
thuộc vào ý thức
Nội dung này khẳng định, nói đến vật chất nói đến tất cả những đã đang
hiện hữu thực sự n ngoài ý thức của con người. Vật chất hiện thực chứ không
phải là hư vô và hiện thực này mang tính khách quan chứ không phải hiện thực chủ
quan. nh khách quan là tính tồn tại bên ngoài ý thức, độc lập với ý thức, không
phụ thuộc vào ý thức của con người và loài người.
* Mọi sự vật, hiện tượng từ vi đến mô, từ những cái đã biết đến những
cái chưa biết, từ những sự vật giản đơn nhất” đến những hiện tượng cùng kỳ
lạ”, tồn tại trong tnhiên hay trong hội cũng đều những đối tượng tồn tại
khách quan, độc lập với ý thức con người, nghĩa đều thuộc phạm trù vật chất, đều
các dạng cụ thể của vật chất. Cả con người cũng một dạng vật chất, sản phẩm
cao nhất trong thế giới tự nhiên mà chúng ta đã biết. Xã hội loài người cũng là một
dạng tồn tại đặc biệt của vật chất. Những quan hệ kinh tế - hội, những quan hệ
sản xuất của xã hội…tuy không tồn tại dưới những vật thể, cũng không mang các
thuộc tính khối lượng, năng lượng, ng không có cấu trúc phân tử, nguyên tử,
nhưng chúng tồn tại khách quan trước ý thức quyết định ý thức. Bởi vậy, chúng
chính là vật chất dưới dạng xã hội.
* Khẳng định trên đây ý nghĩa rất quan trọng trong việc phê phán thế giới
quan duy tâm vật lý học, giải phóng khoa học tự nhiên khỏi cuộc khủng hoảng thế
lOMoARcPSD| 61573419
giới quan, khuyến khích các nhà khoa học đi sâu tìm hiểu thế giới vật chất, khám phá
ra những thuộc tính mới, kết cấu mới của vật chất, không ngừng làm phong phú tri
thức của con người về thế giới.
+ Thứ ba, vật chất là cái khi tác động vào các giác quan con người thì đem
lại cho con người cảm giác, được cảm giác của con người chép lại, chụp lại, phản
ánh.
Nội dung này khẳng định:
* Vật chất là nguồn gốc khách quan của ý thức, vật chất là tính thứ nhất, ý thức
là tính thứ hai, vật chất quyết định ý thức. Chống lại quan điểm của CNDT
Vật chất tồn tại khách quan, nhưng không phải thần bí mà là luôn biểu hiện sự
tồn tại hiện thực của mình dưới dạng các thực thể, nên khi trực tiếp hoặc gián tiếp
tác động vào các giác quan sẽ đem lại cho con người những cảm giác.
* Con người thể nhận thức được vật chất. Chống lại quan điểm của thuyết
“bất khả tri”.
Trong thế giới vật chất không có cái là không thể biết, chỉ những cái chưa
biết, nhưng rồi sẽ biết. Theo đó, xét trên phương diện nhận thức luận thì vật chất
cái trước, tính thứ nhất, cội nguồn của cảm giác thức); còn cảm giác
thức) là cái có sau, là tính thứ hai, là cái phụ thuộc vào vật chất.
- Ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận:
+ Quan niệm của triết học Mác - Lênin về vật chất nói chung và định nghĩa vật
chất của Lênin nói riêng đã giải quyết hai mặt vấn đề bản của triết học trên lập
trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
+ Nó cung cấp những nguyên tắc thế giới quan và phương pháp luận khoa học
để đấu tranh chống chnghĩa duy tâm, thuyết không thể biết, chủ nghĩa duy vật siêu
hình và mọi biểu hiện của chúng trong triết học tư sản hiện đại về phạm trù này.
+ Tạo sở cho sự liên kết giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng chủ nghĩa
duy vật lịch sthành một hệ thống luận thống nhất, góp phần tạo ra nền tảng
luận khoa học cho việc phân tích một cách duy vật biện chứng các vấn đề của chủ
nghĩa duy vật lich sử, trước hếtcác vấn đề về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội
ý thức xã hội, giữa quy luật khách quan của lịch sử và hoạt động có ý thức của con
người.
+ Trong nhận thức và hành động phải xuất phát từ khách quan, lấy khách quan
sở cho hoạt động của con người. Chống chủ quan, duy ý chí, suy nghĩ giản
đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan bất chấp qui luật khách quan.
+ Định hướng cho các khoa học cụ thể đi sâu vào nghiên cứu thế giới
1.2. Các hình thức tồn tại của vật chất
1.2.1. Vận động
lOMoARcPSD| 61573419
- Khái niệm vận động:
Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, là mọi sự biến đổi nói chung.
Ăngghen viết: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được hiểu là một
phương thức tồn tại của vật chất, một thuộc tính cố hữu của vật chất, - thì bao gồm
tất cả mọi sự thay đổi mọi quá trình diễn ra trong trụ, kể tsự thay đổi vị t
đơn giản cho đến tư duy” (Mác và Ăngghen TT, t.20, tr.751).
- Vai trò của vận động với vật chất: Vận động phương thức tồn tại của
vật chất
+ Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất.
Không ở đâu và ở nơi nào lại có thể vật chất không vận động. Các dạng tồn
tại cụ thể của vật chất không thể không thuộc tính vận động. Vận động của vật
chất diễn ra tự thân.
+ Vật chất chỉ thể tồn tại bằng ch vận động thông qua vận động
biểu hiện sự tồn tại của nó với các hình dạng phong phú muôn vẻ vô tận.
Đó là, chỉ có trong vận động và thông qua vận động thì các dạng vật chất mới
thể hiện được đặc tính của mình.
Ví dụ: Trong thực tế cho thấy rất rõ là phẩm chất, năng lực của một con người
cụ thể chỉ được thể hiện thông qua hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực
tiễn của người đó.
Hay đặc tính của một căn bệnh cụ thể nào đó chỉ được thể hiện thông qua c
giai đoạn biển đổi của từ khới phát cho tới bùng phát cho tới lui bệnh và khỏi
bệnh.
Chính vậy mà con người chỉ có thể nhận thức được các sự vật vật chất thông
qua sự vận động của nó. Về vấn đề này Ăngghen đã viết rằng: “Các hình thức các
dạng khác nhau của vật chất chỉ thể nhận thức được thông qua vận động, thuộc
tính của vật thể chỉ bộc lqua vận động, về một vật thể không vận động thì không
có gì nói cả”. (Mác và Ăngghen TT, t.20. tr.743).
+Vận động của vật chất tồn tại vĩnh viễn, không thể tạo ra và không bị êu
dit.
Đó là, sức mạnh làm cho vật chất vận động không phải nằm ngoài vật chất như
quan điểm duy tâm hoặc siêu hình về vận động sức mạnh làm cho vật chất vận
động của bản thân vật chất. Sức mạnh đó là do sự tác động lẫn nhau của chính các
thành tố nội tại trong cấu trúc vật chất gây nên sự vận động. Do đó, vận động của
vật chất không do ai sáng tạo ra tiêu diệt được, vận động của vật chất được bảo
toàn cả về số lượng và chất lượng. Vận động của vật chất tồn tại vĩnh viễn cùng vật
chất.
lOMoARcPSD| 61573419
Ví dụ: Sự vận động của nguyên tử là do sự tương tác giữa hạt nhân và điện tử
trong bản thân nguyên tử
Sự vận động phát triển của một thể sống do sự tương tác giữa các
quan, các quá trình diễn ra trong cơ thể, giữa cơ thể với môi trường.
Sự vận động phát triển của một xã hội là do sự tương tác của chính các yếu tố
cấu thành một cơ thể xã hội.
- Những hình thức vận động cơ bản của vật chất
Hình thức vận động của vật chất rất đa dạng, được biểu hiện ra với các quy mô,
trình độ và tính chất hết sức khác nhau. Dựa vào những thành tựu khoa học của thời
đại mình, Ăngghen đã chia vận động của vật chất thành năm hình thức cơ bản:
+ Vận động cơ giới: Đó là sự di chuyển vị trí của vật thể trong không gian
+ Vận động vật lý: Đó vận động của các phân tử, điện tử, các hạt cơ bản, các
quá trình nhiệt, điện …
+ Vận động h: Đó là quá trình hoá hợp và phân giải các chất.
+ Vận động sinh vật: Đó sự biến đổi của các thể sống, biến đổi của cấu
trúc gien…
+ Vận động hội: Đó sự biến đổi của các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hoá.., sự thay thế của các hình thái kinh tế - xã hội.
Các hình thức vận động trên có quan hệ với nhau như sau:
* Thứ nhất, các hình thức vận động trên các trình độ tthấp đến cao, tương
ứng với trình độ kết cấu của vật chất.
* Thứ hai, chúng khác nhau về chất. Nhưng có quan hệ mật thiết với nhau, trong
đó, các hình thức vận động cao xuất hiện trên sở các hình thức vận động thấp,
bao hàm trong các hình thức vận động thấp hơn. Các hình thức vận động thấp
không có khả năng bao hàm hình thức vận động ở trình độ cao hơn. Bởi vậy mọi sự
quy giản các hình thức vận động cao về hình thức vận động thấp đều là sai lầm. Giữa
hai hình thức vận động cao thấp thể hình thức vận động trung gian, đó
những mắt khâu chuyển tiếp trong quá trình chuyển hoá lẫn nhau của các hình thức
vận động.
* Thứ ba, trong sự tồn tại của mình, mỗi một sự vật thể nhiều hình thức
vận động khác nhau, nhưng bản thân sự vật ấy bao giờ cũng đợc đặc trưng, bởi hình
thức vận động cao nhất mà nó có.
- Vận động và đứng im
Sự vận động không ngừng của vật chất không những không loại trừ mà trái lại
còn bao hàm trong đó sự đứng im tương đối, tạm thời.
+ Đứng im khái niệm triết học phản ánh trạng thái ổn định về chất của sự
vật, hiện tượng trong những mối quan hệ và điều kiện cụ thể, là hình thức biểu hiện
lOMoARcPSD| 61573419
sự tồn tại thực sự của các sự vật, hiện tượng và là điều kiện cho sự vận động chuyển
hoá của vật chất.
+ Đứng im mang tính tương đối, tạm thời thể hiện ở chỗ: chỉ xảy ra trong một
mối quan hệ nhất định chứ không phải trong mọi mối quan hệ cùng một thời điểm,
chỉ xảy ra với một hình thức vận động nào đó, một lúc nào đó, chứ không phải
cùng một lúc đối với mọi hình thức vận động.
dụ: Tàu hỏa đang đtrên sân ga là đứng im đó trong mối quan hệ với
đường ray, còn so với mặt trời các thiên thể khác thì vận động theo sự vận
động của quả đất.
Đứng im chỉ sự biểu hiện của một trạng thái vận động - vận động trong thăng
bằng, trong sự ổn định tương đối. Vận động cá biệt có xu hướng hình thành, duy trì
sự tồn tại ổn định của một sự vật, hiện tượng nào đó. Nhưng, vận động nói chung,
tức là sự tác động qua lại của vô số các sự vật, hiện tượng, lại làm cho tất cả các sự
vật, hiện tượng không ngừng biến đổi, cho nên đứng im chỉ tương đối, tạm thời. Mặc
dù mang tính chất tương đối tạm thời, nhưng đứng im lại là hình thức “chứng thực”
sự tồn tại thực scủa vật chất, điều kiện cho sự vận động chuyển hoá của vật chất.
- Ý nghĩa phương pháp luận:
Trong nhận thức thực tiễn phải quan điểm vận động. Quan điểm vận động
đòi hỏi phải xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng trong quá trình vận động, đồng
thời khi tiến hành cải tạo sự vật, hiện tượng phải thông qua những hình thức vận
động vốn có, đặc trưng của chúng.
1.2.2. Không gian và thời gian
Dựa trên những thành tựu của khoa học thực tiễn, chủ nghĩa duy vật biện
chứng đã khẳng định tính khách quan của không gian và thời gian, xem không gian
và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động.
- Khái niệm không gian và thời gian:
+ Không gian nh thức tồn tại của vật chất t về mặt quảng tính, sự cùng
tồn tại, trật tự, kết cấu và sự tác động lẫn nhau.
Như vậy, phạm trù không gian là sự khái quát các thuộc tính chung của mọi sự
vật tồn tại khách quan về vị trí, quảng tính (độ dài - ngắn, cao- thấp, hình thức kết
cấu…) mối tương quan với các dạng vật chất khác (trên hay dưới, trước hay sau,
phải hay trái…).
+ Thời gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động xét về mặt độ dài diễn
biến, sự kế tiếp của các quá trình.
Như vậy, phạm trù thời gian sự khái quát các thuộc tính chung của mọi sự
vật tồn tại khách quan về sự vận động biến đổi diễn ra nhanh hay chậm, trình tự vận
động, biến đổi diễn ra kế tiếp qua các giai đoạn trước, sau …
lOMoARcPSD| 61573419
- Vai trò của không gian và thời gian
Không gian thời gian những hình thức tồn tại của vật chất vận động, được
con người khái quát khi nhận thức thế giới.
+ Không gian và thời gian là những thuộc tính vốn có của vật chất. Không
không gian thời gian thuần tuý tách rời vật chất vận động. V. I. Lênin viết: “Trong
thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật chất đang vận động không
thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời gian”
2
.
+ Các sự vật vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình qua không gian, thời gian
của nó.
Đó là, chỉ có trong không gian và thời gian của mình thì các sự vật vật chất mới
thể hiện được sự tồn tại của là như thế nào. Chính vậy để nhận thức được về
các sự vật vật chất ta phải nhận thức chúng trong không gian thời gian của chúng.
Điều này Ăngghen đã viết: “Các hình thức bản của mọi tồn tại không gian
thời gian: tồn tại ngoài thời gian cũng hết sức như tồn tại ngoài không
gian”.
dụ: Để biết nước Cộng hòa hội chnghĩa Việt Nam hiện nay là thế nào
thì phải nhận thức nó gắn với cả không gian và thời gian của nó. + Không gian và
thời gian phụ thuộc vào vật chất vận động
Vấn đề này đã được xác nhận bởi những thành tựu của KHTN, đặc biệt là đầu
TK XX thuyết tương đối của Anhxtanh đã chứng minh rằng, không gian thời gian
không tự nó tồn tại tách rời vật chất và luôn phụ thuộc vào vật chất vận động.
- Mối quan hệ giữa không gian và thời gian
+ Không gian thời gian là hai thuộc tính, hai hình thức tồn tại khác nhau của
vật chất vận động, nhưng chúng không tách rời nhau.
Không có sự vật, hiện tượng nào tồn tại trong không gian mà lại không có một
quá trình diễn biến của nó. Cũng không thể sự vật, hiện tượng nào thời gian
tồn tại mà lại không có quảng tính, kết cấu nhất định.
+ Tính chất của không gian sự biến đổi của bao giờ cũng gắn liền với tính
chất sự biến đổi của thời gian ngược lại. Do đó, không gian thời gian, về
thực chất là một thể thống nhất không - thời gian.
- Tính chất của không gian và thời gian
+ Vật chất có ba chiều không gian và một chiều thời gian.
Theo nghĩa chung nhất không gian có 3 chiều: dài, rộng, cao. Còn thời gian chỉ
có 1 chiều: từ quá khứ đến tương lai.
2
V. I. Lênin, Toàn tập, tập 18, Nxb Tiến bộ, M. 1980, tr. 209.
lOMoARcPSD| 61573419
Các tính chất của không gian thời gian chính biểu hiện hình thức tồn tại
về quảng tính và quá trình diễn biến của vật chất vận động.
+ Không gian và thời gian của vật chất nói chung tận, xét về cả phạm vi
lẫn tính chất.
Nghĩa là không gian và thời gian không có giới hạn, không có tận cùng về một
phía nào cả, xét cả về quá khứ lẫn tương lai, cả về đằng trước - sau, trên dưới, phải
- trái.
- Ý nghĩa phương pháp luận: Nhận thức cải tạo sự vật phải luôn gắn
với không gian và thời gian của nó.
1.3. Tính thống nhất vật chất của thế giới
Vấn đề tính thống nhất của thế giới là một nội dung lớn trong thế giới quan triết
học, nhưng trong đó luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa CNDV với CNDT. Tuy vậy,
chỉ khi triết học Mác - Lênin ra đời mới quan điểm đúng đắn về tính thống nhất
của thế giới.
1.3.1. Tồn tại của thế giới là tiền đề cho sự thống nhất của thế giới
- Tồn tại của thế giới là tiền đề cho sự thống nhất của thế giới
Để xem xét về tính thống nhất của thế giới phải thừa nhận sự tồn tại của nó.
Theo nghĩa chung nhất, tồn tại phạm trù dùng để chỉ tính thực của thế giới
xung quanh con người.
- Tính thống nhất của thế giới không phải ở sự tồn tại của nó
Chủ nghĩa duy vật quan niệm tồn tại của thế giới như một chỉnh thể bản
chất của nó là vật chất. Trái lại, các nhà triết học duy tâm khẳng định chỉ có thế giới
tinh thần mới tồn tại nên bản chất của tồn tại cũng là tinh thần.
1.3.2. Thế giới thống nhất ở tính vật chất
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định bản chất của thế giới là vật chất, thế
giới thống nhất tính vật chất. Điều đó được thể hiện những điểm bản sau đây:
- Chỉ một thế giới duy nhất thống nhất thế giới vật chất. Thế giới
vậtchất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức con người, được ý thức
con người phản ánh.
- Mọi bộ phận của thế giới có mối quan hệ vật chất thống nhất với nhau,
biểuhiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là sản phẩm của vật
chất, cùng chịu sự chi phối của những quy luật khách quan, phổ biến của thế giới
vật chất.
- Thế giới vật chất không do ai sinh ra và cũng không tmất đi, tồn
tạivĩnh viễn, vô hạn và vô tận. Trong thế giới, các sự vật và hiện tượng luôn luôn
vận động, biến đổi không ngừng chuyển hoá lẫn nhau, nguồn gốc, nguyên
nhân và kết quả của nhau, về thực chất, đều là những quá trình vật chất.
lOMoARcPSD| 61573419
Việc triết học Mác - Lênin khẳng định bản chất của thế giới là vật chất, thế giới
thống nhất ở tính vật chất của nó chính là không phải được rút ra từ chủ quan mà là
được rút ra từ việc khái quát các thành tựu khoa học, được khoa học cuộc sống
hiện thực của con người kiểm nghiệm. Đó là, thế giới cả tự nhiên hội, con
người về bản chất là vật chất, thống nhất ở tính vật chất của nó. Thế giới vật chất có
nguyên nhân tự nó, vĩnh hằng và vô tận với vô số những biểu hiện muôn hình muôn
vẻ.
- Ý nghĩa phương pháp luận và định hướng vận dụng
+ Học thuyết c - Lênin về vật chất sở luận khoa học trực tiếp của
nguyên tắc khách quan trong nhận thức thực tiễn i chung, trong nhận thức
thực tiễn quân sự nói riêng.
+ Nguyên tắc này khẳng định: con người muốn đạt được mục đích không
cách nào khác là phải nhận thức và tác động vào thế giới đúng như nó có; không bao
giờ được hồng, bóp méo bản chất của sự vật, hay tác động vào sự vật bằng các
phương thức chủ quan tuỳ tiện. Mục đích, chủ trương, giải pháp chúng ta đề ra
chỉ có phản ánh đúng đắn thế giới khách quan, hoàn toàn xuất phát từ thực tế khách
quan thì mới có khả năng được thực hiện. Nguyên tắc này cũng yêu cầu các chủ thể
phải coi nguyên nhân, điều kiện, khả năng, phương tiện, lợi ích vật chất là nền tảng,
cái suy đến cùng quyết định mọi hiện tượng, qtrình hội. Nếu chỉ xuất phát
từ nguyện vọng chủ quan, bất chấp hiện thực khách quan, ắt sẽ rơi vào chủ nghĩa
chủ quan, duy ý chí và phải trả giá trong thực tiễn.
+ Nguyên tắc khách quan đòi hỏi các chủ thể của lĩnh vực quân sự phải phân
tích nguồn gốc chiến tranh từ trong tồn tại hội, chủ yếu tmâu thuẫn đối kháng
trong phương thức sản xuất ra của cải vật chất; phải nhận thức một cách dứt khoát
sự phụ thuộc của phương thức tiến hành chiến tranh và toàn bộ khoa học, nghệ thuật
quân sự vào chế độ kinh tế, vào vũ khí trang bị yếu tố con người… Đồng thời,
cũng đòi hỏi việc xác định, đánh giá kẻ thù phải dựa trên sự phân tích một cách khoa
học xu thế vận động của các lực lượng xã hội trong các nước liên quan, dựa vào sự
vận động của các nhân tố lịch sử, kinh tế, chính trị và vào các nguồn thông tin toàn
diện, thường xuyên được bổ sung theo kịp với sự biến đổi của tình hình.
2. Ý thức và mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
2.1. Nguồn gốc, bản chất và kết cấu ý thức
2.1.1 .Nguồn gốc của ý thức
Ý thức toàn bộ hoạt động tinh thần diễn ra trong bộ não người, là sự phản
ánh thế giới khách quan vào bộ óc người
- Quan điểm của triết học ngoài mácxit
+ Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm
lOMoARcPSD| 61573419
* Chủ nghĩa duy tâm khách quan: khẳng định thế giới “ý niệm”, hay “ý niệm
tuyệt đối” là bản thể, sinh ra toàn bộ thế giới vật chất.
* Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: coi cảm giác là tồn tại duy nhất, tiên thiên, sản
sinh ra thế giới vật chất.
+ Quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình: đồng nhất ý thức với vật chất.
Triệt để lợi dụng những sai lầm, hạn chế của chủ nghĩa duy tâm và duy vật siêu
hình trong quan niệm về ý thức, các giai cấp thống trị lấy đó làm cơ sở lý luận, công
cụ để nô dịch tinh thần quần chúng lao động.
- Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
+ Nguồn gốc tự nhiên: bộ óc người, sự tác động của thế giới khách quan vào
bộ óc người, được bộ óc người phản ánh Bởi vì:
* Ý thức là một thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộnão
con người.
Bộ não chính quan vật chất của ý thức. Ý thức chức năng của bộ não
người. Hoạt động ý thức của con người diễn ra trên sở hoạt động sinh thần kinh
của bộ não người, nên khi bộ não người bị tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ bị rối
loạn thậm cmất một phần hoặc toàn bộ ý thức. Vì vậy, không thể tách rời ý thức
ra khỏi hoạt động của bộ não, ý thức không thể diễn ra tách rời hoạt động sinh
thần kinh của bnão người. Quá trình ý thức xảy ra trong o người và hoạt động
sinh thần kinh 2 mặt của một quá trình - quá trình sinh lý thần kinh diễn ra trong
não người mang nội dung ý thức, cũng giống như tín hiệu vật chất mang nội dung
thông tin.
Khoa học đã chứng minh, não người hiện đại sản phẩm của quá trình tiến hoá
lâu dài về mặt sinh vật - hội, sau quá trình vượn chuyển biến thành người, não
vượn chuyển biến thành não người. Bộ não người là một tổ chức vật chất sống đặc
biệt, có cấu trúc tinh vi, phức tạp bao gồm 14 -15 tỷ tế bào thần kinh. Chúng liên hệ
với nhau liên hệ với các giác quan con người, tạo thành số các mối liên hệ qua
lại với thế giới bên ngoài thông qua các phản xạ không điều kiện và có điều kiện.
* Thuộc tính ý thức của bộ não người hình thức phát triển cao nhất củathuộc
tính phản ánh của vật chất.
Bởi vì, phản ánh là thuộc tính chung của vật chất. Phản ánh là sự tái tạo những
đặc điểm của hệ thống vật chất này hệ thống vật chất khác trong qtrình tác động
qua lại của chúng.
Kết quả phản ánh phụ thuộc vào vật tác động vật nhận tác động trong đó bao
giờ vật nhận tác động cũng mang thông tin của vật tác động. Đây là điều quan trọng
làm sáng tỏ nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
lOMoARcPSD| 61573419
Thuộc tính phản ánh của vật chất sự phát triển từ thấp đến cao cùng với sự
phát triển của thế giới vật chất: Từ phản ánh của thế giới vô sinh đến phản ánh sinh
vật khi con người hình thành thì xuất hiện phản ánh ý thức Trong đó, phản ánh
(cơ, lý, hoá) còn mang tính thụ động, chưa sự định hướng, chưa lựa chọn
(như sự thay đổi vị trí, sự biến động, sự phá huỷ). Phản ánh sinh vật sđịnh
hướng, lựa chọn để thích nghi. Phản ánh sinh vật được thực hiện thông qua các hình
thức như:
Ở thực vật có phản ánh kích thích là phản ứng trả lời tác động của môi trường
ở bên ngoài có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình trao đổi chất của chúng. Hình thức
phản ánh tiếp theo của các động vật chưa có hệ thần kinh là tính cảm ứng, tính nhạy
cảm đối với sự thay đổi của môi trường. Hình thức phản ánh của các động vật có hệ
thống thần kinh các phản xạ. Hình thức phản ánh động vật bậc cao khi hệ
thần kinh trung ương xuất hiện tâm động vật - đây trình độ phản ánh cao nhất
động vật, tuy nhiên đây chưa phải ý thức, mới là phản ánh tính chất bản
năng do nhu cầu trực tiếp của sinh lý cơ thể và do quy luật sinh học chi phối. Ý thức
là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực. Ý thức chỉ nảy sinh ở giai
đoạn phát triển cao của thế giới vật chất cùng với sự xuất hiện con người. Ý thức là
ý thức con người, nằm trong con người, không thể tách rời con người.
* Nội dung của ý thức con người phản ánh về thế giới khách quan khi thế
giới khách quan tác động lên các giác quan và qua đó được bộ não phản ánh.
+ Nguồn gốc xã hội: lao động và ngôn ngữ
Để ý thức ra đời nguồn gốc tự nhiên là tiền đề quan trọng không thể thiếu song
chưa đủ. Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là nguồn gốc xã hội. Nguồn
gốc xã hội của ý thức là: Lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội.
Lao động: Lao động là quá trình con người sử dụng các công cụ lao động tác
động vào tự nhiên tạo ra của cải vật chất để thoả mãn các nhu cầu của mình.
Lao động là nguồn gốc làm ý thức ra đời vì:
Lao động điều kiện đầu tiên chủ yếu đcon người tồn tại. Lao động cung
cấp cho con người những cái cần thiết để sống, đồng thời lao động sáng tạo ra cả
bản thân con người, làm cho sự tiến hoá của con vượn thành con người. Bộ não vượn
chuyển dần thành bộ óc người.
Lao động làm cho các giác quan và bộ não người ngày càng phát triển hoàn
thiện có khả năng phản ánh năng động sáng tạo đối với thế giới khách quan
Thông qua lao động, con người tác động vào thế giới khách quan làm thế giới
khách quan bộc lộ các thuộc nh, kết cấu, quy luật vận động của và được phản
ánh vào não người hình thành nên các tri thức.
lOMoARcPSD| 61573419
Lao động còn làm cho con người hình thành được các phương pháp duy
khoa học.
Ngôn ngữ
Ngôn ngữ là tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức, là vỏ vật chất của tư duy,
là hiện thực trực tiếp của tư tưởng.
Ngôn ngữ bao gồm có 2 yếu tố cơ bản là: tiếng nói, chữ viết
Ngôn ngữ ra đời do nhu cầu của lao động nhờ lao động. Bởi vì, lao động
ngay từ đầu nó đã mang tính tập thể xã hội. Trong đó con người có nhu cầu trao đổi
kinh nghiệm lao động, trao đổi tư tưởng với nhau nên đã làm cho ngôn ngữ xuất
hiện.
Ngôn ngữ là nguồn gốc làm ý thức ra đời vì:
Ngôn ngữ vừa phương tiện để giao tiếp vừa công cụ của duy nhằm
khái quát hóa, trừu tượng hoá trong phản ánh hiện thực, ghi nhận sự hiểu biết của
con người về thế giới.
Ngôn ngữ giúp con người tổng kết được thực tiễn, trao đổi thông tin, trao đổi
tri thức từ thế hệ này sang thế hệ khác thế hệ khác, nhờ đó ý thức của loài người
không ngừng phát triển.
Bởi ý thức một hiện tượng có tính XH, do đó không phương tiện trao
đổi xã hội về mặt ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển được.
+ Mối quan hệ giữa nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội
Nguồn gốc tự nhiên điều kiện cần, còn nguồn gốc xã hội là điều kiện đủ để
ý thức hình thành, tồn tại và phát triển.
Ý thức là hình thức phản ánh cao nhất riêng của óc người vhiện thực
khách quan trên cơ sở thực tiễn xã hội - lịch sử
- Ý nghĩa phương pháp luận
+ Phải coi trọng cả yếu tố tự nhiên và hội trong qtrình hình thành, phát
triển ý thức cuả con người. Đặc biệt, phải thấy vai trò quyết định của yếu tố hội
trong quá trình hình thành và phát triển của ý thức.
+ Phải thông qua hoạt động thực tiễn để phát triển nhận thức của mình về thế
giới ngày càng sâu sắc hơn.
+ Thấy rõ vai trò quan trọng của bộ não người với việc hình thành ý thức. Từ
đó trong chăm lo sức khỏe cho con người phải chú ý chăm lo bảo vệ sự hoạt động
bình thường của bộ não người. Nếu người bệnh não bị tổn thương phải tích cực kịp
thời cứu chữa. Đồng thời là thầy thuốc phải tích cực hoạt động trong lĩnh vực xã hội
để tuyên truyền cho mọi người biết phòng các bệnh tật ảnh hưởng đến hoạt động của
bộ não.
2.1.2. Bản chất của ý thức
lOMoARcPSD| 61573419
- Quan điểm của triết học ngoài mácxit
+ Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm
Ý thức là một thực thể tồn tại độc lập, là thực tại duy nhất, là nguồn gốc từ đó
sinh ra toàn bộ thế giới vật chất.
+ Quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình
Coi ý thức cũng chỉ là một dạng cấu trúc của vật chất; hoặc coi ý thức chỉ là sự
phản ánh giản đơn, thụ động thế giới vật chất, tách rời thực tiễn xã hội.
- Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
+ Bản chất ý thức là “hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”
* Xem xét ý thức từ mặt bản thể luận, thì ý thức chỉ là “hình ảnh” về hiện thực
khách quan trong óc người. Kết quả phản ánh của ý thức tùy thuộc vào nhiều yếu tố:
đối tượng phản ánh, điều kiện lịch sử - hội, phẩm chất, năng lực, kinh nghiệm
sống của chủ thể phản ánh.
Ý thức cái phản ánh thế giới khách quan, ý thức không phải sự vật, mà
chỉ là hình ảnh của sự vật ở trong óc người
Ý thức tồn tại phi cảm tính, đối lập với các đối tượng vật chất phản ánh
luôn tồn tại cảm tính.
* Về nội dung ý thức phản ánh khách quan còn hình thức phản ánh
là chủ quan.
Vật chất được phản ánh vào óc người sẽ bị biến đổi tùy thuộc vào các yếu tố
khách quan chủ quan của mỗi người. Như đối tượng phản ánh, điều kiện lịch sử
- xã hội, phẩm chất, năng lực, kinh nghiệm sống của chủ thể phản ánh.
+ Ý thức có đặc tính tích cực, sáng tạo gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã hội. *
Ý thức mang tính tích cực, sáng tạo
Thông qua thực tiễn, con người làm biến đổi thế giới qua đó chủ động khám
phá sâu, rộng các đối tượng phản ánh.
Phản ánh sáng tạo của ý thức là quá trình thống nhất của ba mặt:
Thứ nhất, trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh
Thứ hai, mô hình hoá đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần.
Thứ ba, chuyển hoá mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan.
* Ý thức mang tính xã hội
Bởi vì, ý thức một hiện tượng hội. Sự ra đời, tồn tại của ý thức gắn liền
với hoạt động thực tiễn xã hội, chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật sinh vật
mà còn chủ yếu chịu sự chi phối của các quy luật xã hội, nhu cầu giao tiếp xã hội và
các điều kiện sinh hoạt hiện thực xã hội của con người quy định.
Theo C.Mác: ý thức “chẳng qua chỉ vật chất được đem chuyển vào trong đầu
óc con người và được cải biến đi trong đó”
lOMoARcPSD| 61573419
(C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, t.23,
tr.35)
- Ý nghĩa phương pháp luận
+ Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải tôn trọng khách quan
+ Trong hoạt động thực tiễn phải phát huy tính năng động chủ quan của con
người. Nghĩa là phát huy vai trò tích cực của ý thức và của nhân tố con người.
Khắc phục bệnh bảo thủ trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động trong hoạt động thực tiễn
+ Trong công tác khám, điều trbệnh, cần xuất phát từ thực tế khách quan
người bệnh với các triệu chứng thực tế. Từ đó chẩn đoán, tiên lượng, xác định phác
đồ điều trị phù hợp cho từng người bệnh.Tránh chủ quan, duy ý chí khi khám điều
trị. Tuy nhiên cần phát huy tính năng động sáng tạo, chủ động trong khám điều
trị.
2.1.3. Kết cấu của ý thức và vấn đề “trí tuệ nhân tạo”
- Kết cấu của ý thức
Để nhận thức được sâu sắc về ý thức, cần xem xét nắm vững tổ chức kết cấu
của nó; từ các góc độ tiếp cận khác nhau sẽ đem lại những tri thức nhiều mặt về cấu
trúc, hoặc cấp độ của ý thức. Có thể chia kết cấu của ý thức theo hai cách:
+ Tiếp cận theo các yếu tố hợp thành:
* Tri thức phương thức tồn tại cơ bản của ý thức.
Tri thức bao hàm nhiều lĩnh vực khác nhau như tri thức về tự nhiên, hội, con
người và có nhiều cấp độ khác nhau như: tri thức cảm tính và tri thức lý tính; tri thức
kinh nghiệm và tri thức lý luận; tri thức tiền khoa học và tri thức khoa học...
Không thể đồng nhất ý thức với sự hiểu biết, tri thức về sự vật.
* Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh tồn tại, nó phản ánh quan
hệ giữa người với người và quan hệ giữa người với thế giới khách quan.
Tình cảm tham gia và trở thành một trong những động lực quan trọng của hoạt
động con người.
* Niềm tin được hình thành từ sự hòa quyện giữa tri thức tình cảm. thôi
thúc con người vươn lên trong mọi hoàn cảnh.
+ Tiếp cận theo chiều sâu nội tâm của ý thức
* Tự ý thức là ý thức hướng về nhận thức bản thân mình trong mối quan hệ với
ý thức về thế giới bên ngoài. Đây một thành tố rất quan trọng của ý thức, đánh
dấu trình độ phát triển của ý thức.
* Tiềm thức là những hoạt động tâm lý diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của ý
thức. Về thực chất, tiềm thức những tri thức chủ thể đã được từ trước nhưng
đã gần như trở thành bản năng, thành kỹ năng nằm trong tầng sâu ý thức của chủ
thể, là ý thức dưới dạng tiềm tàng
lOMoARcPSD| 61573419
* thức những hiện tượng tâm không phải do trí điều khiển, nằm ngoài
phạm vi của lý trí mà ý thức không kiểm soát được trong một lúc nào đó.
- Vấn đề “trí tuệ nhân tạo”.
+ “Trí tuệ nhân tạo” là trí tuệ của máy móc được con người tạo ra
+ Ý thức mang bản chất xã hội, do vậy, dù máy móc có hiện đại đến đâu chăng
nữa cũng không thể hoàn thiện được như bộ óc con người.
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần thấy rõ sức mạnh, vai trò to lớn và cả những hệ
quả của trí tuê nhân tạo.
2.2. Mối quan hệ vật chất và ý thức
2.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và duy vật siêu hình
- Chủ nghĩa duy tâm, coi ý thức tồn tại duy nhất, tuyệt đối, là tính thnhất
từ đó sinh ra tất cả; còn thế giới vật chất chỉ bản sao, biểu hiện khác của ý thức
tinh thần, là tính thứ hai, do ý thức tinh thần sinh ra.
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình, nhấn mạnh một chiều vai tcủa vật chất sinh
ra ý thức, quyết định ý thức, phủ nhận tính độc lập tương đối của ý thức, không thấy
được tính năng động, sáng tạo, vai tto lớn của ý thức trong hoạt động thực tiễn
cải tạo hiện thực khách quan.
2.2.2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Triết học Mác - Lênin ra đời đã dựa trên cơ sở kế thừa có phê phán đối với các
quan niệm trước Mác về vật chất, ý thức mối quan hệ giữa vật chất và ý thức;
Đồng thời dựa trên sở tổng kết các thành tựu của khoa học hiện đại và thực tiễn
nên đã có quan điểm đúng đắn về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức như sau:
- Vật chất là cái có trước ý thức và giữ vai trò quyết định ý thức. (Vậy vật chất
quyết định cái gì của ý thức?)
+ Vật chất quyết định ra đời của ý thức.
Đó là, ý thức thuộc tính phản ánh của bộ óc con người. Đó chính là kết quả
phát triển lâu dài của thế giới vật chất kết quả phát triển lâu dài của thuộc tính
phản ánh của vật chất. Đồng thời, nhờ thông qua lao động và ngôn ngữ là các hoạt
động vật chất của xã hội mà ý thức ra đời
+ Vật chất quyết định nội dung phản ánh của ý thức.
Đó là, nội dung phản ánh của ý thức không phải do chủ quan con người quyết
định, do các sự vật, hiện tượng trong thế vật chất quyết định. Bởi vì, đối
tượng phản ánh của ý thức là các sự vật, hiện tượng vật chất.
+ Vật chất quyết định sự biến đổi, phát triển của ý thức.
Bởi vì, vật chất quyết định sự ra đời, quyết định nội dung của ý thức nên nó
quyết định sự biến đổi phát triển của ý thức. Biểu hiện là khi các sự vật, hiện tượng
vật chất với tính cách là đối tượng phản ánh của ý thức biến đổi phát triển, khi trình
lOMoARcPSD| 61573419
độ phản ảnh ánh của bộ não người phát triển, trình độ hoạt động thực tiễn của con
người phát triển thì ý thức cũng có sự biến đổi phát triển theo.
- Ý thức có tính độc lập tương đối tác động trở lại to lớn đối với vật chất thông
qua hoạt động thực tiễn. (Tại sao? Diễn ra thế nào?)
Bởi vì, tự nó ý thức không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực. Nhưng ý
thức là của con người, nó giữ vai trò chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người nên
thông qua hoạt động thực tiễn của con người thì ý thức strở thành sức mạnh vật
chất nên tác động trở lại được vật chất.
ý thức tác động trở lại to lớn đối với vật chất theo hai chiều hướng khác nhau:
+ Nếu ý thức của con người phản ánh đúng đắn thế giới khách quan, con người
tri thức khoa học, có tình cảm cách mạng, nghị lực, có ý chí thì con người sẽ
hành động phù hợp với quy luật khách quan, năng lực vượt qua được những thách
thức trong quá trình thực hiện mục đích của mình thì sự tác động của ý thức trong
cải tạo thế giới vật chất sẽ mang tính tích cực.
+ Nếu ý thức của con người phản ánh không đúng đắn bản chất, quy luật của
thế giới khách quan thì hành động của con người sẽ trái với quy luật khách quan.
Điều đó sẽ tác dụng tiêu cực đối với hoạt động thực tiễn hiện thực khách quan.
2.2.3. Mối quan hệ biện chứng giữa khách quan và chủ quan
Khách quan là phạm trù dùng để chỉ tất cả những gì tồn tại không lệ thuộc vào
ý thức của chủ thể, hợp thành một hoàn cảnh hiện thực thường xuyên trực tiếp
quy định mọi hoạt động của chủ thể.
Như vậy, cái khách quan không đồng nhất với vật chất. Khách quan bao gồm:
điều kiện khách quan, khả năng khách quan, quy luật khách quan (bao hàm cả yếu
tố vật chất và cả yếu tố ý thức).
Chủ quan là phạm trù dùng để chỉ sự phản ánh cái khách quan vào ý thức của
chủ thể và toàn bộ hoạt động của chủ thể dựa trên sự phản ánh đó.
Như vậy, chủ quan cũng bao gồm cả yếu tố ý thức và yếu tố vật chất. Chủ quan
tất cả những thuộc về chủ thể tham gia chi phối tới hoạt động của chủ thể nhằm
cải tạo cái khách quan.
- Mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan
Khách quan chủ quan hai mặt không tách rời trong hoạt động thực tiễn
của con người, giữa chúng có sự tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó khách quan
tính thứ nhất, là cơ sở, tiền đề, xuất phát điểm, là cái giữ vai trò quyết định suy đến
cùng đối với chủ quan; chủ quan vai trò to lớn trong việc biến đổi, cải tạo cái
khách quan.
Khách quan quyết định sự ra đời, nội dung, sự biến đổi của chủ quan. Đồng
thời, chủ quan không hoàn toàn thụ động vai trò to lớn trong việc biến đổi,
lOMoARcPSD| 61573419
cải tạo cái khách quan, thông qua hoạt động thực tiễn. Vai trò tác động trở lại của
chủ quan với khách quan được biểu hiện: con người thể tác động vào điều kiện
khách quan, cải tạo những điều kiện khách quan cần thiết cho hoạt động của mình.
Trên cơ sở nhận thức quy luật khách quan và những điều kiện hoạt động của nó, con
người thể điều chỉnh sự tác động của quy luật khách quan theo mục đích của
mình. Để xác định chính xác khách quan và chủ quan, đỏi hỏi phải xác định rõ mối
quan hệ giữa khách thể (đối tượng) chủ thể của từng hoạt động trong hiện thực.
Con người lao động sáng tạo đduy trì sự sống với chất lượng ngày càng cao của
mình. Qua đó, dần dần ý thức đầy đủ về những cái tồn tại đối diện, quy định hoạt
động của mình và giới hạn sức mạnh của bản thân mình.
Khách quan quyết định sự ra đời, nội dung, sự biến đổi của chủ quan. Đồng
thời, chủ quan không hoàn toàn thụ động vai trò to lớn trong việc biến đổi,
cải tạo cái khách quan, thông qua hoạt động thực tiễn. Vai trò tác động trở lại của
chủ quan với khách quan được biểu hiện: con người thể tác động vào điều kiện
khách quan, cải tạo những điều kiện khách quan cần thiết cho hoạt động của mình.
Trên cơ sở nhận thức quy luật khách quan và những điều kiện hoạt động của nó, con
người thể điều chỉnh sự c động của quy luật khách quan theo mục đích của
mình. Để xác định chính xác khách quan và chủ quan, đỏi hỏi phải xác định rõ mối
quan hệ giữa khách thể (đối tượng) chủ thể của từng hoạt động trong hiện thực.
Con người lao động sáng tạo đduy trì sự sống với chất lượng ngày càng cao của
mình. Qua đó, dần dần ý thức đầy đủ về những cái tồn tại đối diện, quy định hoạt
động của mình và giới hạn sức mạnh của bản thân mình.
Khi nhận thức hành động phải xuất phát từ bản thân sự vật, hiện tượng của
thực tế khách quan, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan, không lấy ý muốn
chủ quan của mình làm cơ sở định ra chính sách, không lấy ý chí áp đặt cho thực tế.
Nắm vững nguyên tắc khách quan đòi hỏi phải tôn trọng sự thật, tránh thái độ ch
quan, duy ý chí, nóng vội, định kiến, thiếu trung thực. Yêu cầu của nguyên tắc khách
quan đòi hỏi phải tôn trọng quy luật khách quan và hành động theo quy luật khách
quan.
Để thực hiện tốt nguyên tắc khách quan, đòi hỏi:
Phải luôn tôn trọng khách quan, xuất phát từ thực tế khách quan. Nhận thức
đúng đắn khách quan tiền đề xác định mục tiêu, phương hướng, nội dung, biện
pháp phù hợp làm sở cho hoạt động thực tiễn của chủ thể từng bước cải biến
khách quan theo mục đích đặt ra. Đó là thực chất của nguyên tắc khách quan của
triết học mácxít. Mặt khác, cần khắc phục ngăn ngừa bệnh chủ quan, duy ý chí,
cũng như thái độ thụ động, ỷ lại, bảo thủ, trì trệ trong các hoạt động của con người.
Để khắc phục có hiệu quả bệnh chủ quan, duy ý chí, bảo thủ, trì trệ, thói quen ỷ lại,
lOMoARcPSD| 61573419
đòi hỏi phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp. Trước hết phải đổi mới duy luận,
nâng cao năng lực trí tuệ, trình độ lý luận. Trong hoạt động thực tiễn phải tôn trọng
và hành động theo quy luật khách quan. Kết hợp đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, đổi
mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, chống bảo thủ, trì trệ,
quan liêu.
Đồng thời, luôn phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò
nhân tố con người. Nguyên tắc khách quan không bài trừ mà trái lại còn đòi hỏi con
người luôn phát huy tính năng động chủ quan, tính sáng tạo của ý thức. Để nhận thức
được sâu sắc cải biến được thế giới khách quan theo nhu cầu của mình, con người
phải hình thành được mục đích, phương hướng, biện pháp ý chí cần thiết cho hoạt
động của mình. Để nâng cao hiệu quả hoạt động thực tiễn của con người, đòi hỏi
Đảng, nhà nước phải chiến lược giáo dục nhằm nâng cao trình độ tri thức khoa
học cho toàn dân trình đchuyên sâu cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là trong
điều kiện nền văn minh trí tuệ ngày nay. Mặt khác, phải bồi dưỡng lòng nhiệt tình,
ý chí cách mạng cho nhân dân, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng cho cán bộ,
đảng viên, đảm bảo sự thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng tri thức khoa học,
phẩm chất và năng lực, đạo đức và tài năng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tưởng Hồ Chí Minh hthống luận khoa học
phản ánh đúng đắn quy luật vận động tất yếu khách quan của lịch snhân loại nói
chung tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam nói riêng. Thắng lợi của cách
mạng Việt Nam 85 năm qua tkhi Đảng đã chứng minh tính đúng đắn của luận
khoa học năng lực vận dụng sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Đảng
ta đã rút ra bài học: “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế,
tôn trọng quy luật khách quan”
3
. Đồng thời, cũng từ chính những sai lầm, thất bại
trong thực tiễn cách mạng Đảng ta đã chỉ rõ, phải ra sức học tập luận khoa học
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, để hành động theo quy luật khách
quan, chống duy tâm, duy ý chí, nóng vợi chủ quan, cũng như thái độ bảo thủ, tâm
lý ỷ nại, bảo thủ, trì trệ...
* Định hướng vận dụng, giải quyết mối quan hệ khách quan và chủ quan trong
lĩnh vực quân sự
Hoạt động quân sự là một lĩnh vực đặc thù của thực tiễn xã hội, nó luôn diễn ra
với ờng đcao, trong điều kiện hoàn cảnh khó khăn, phức tạp đòi hỏi cao cả về
trí lực và thể lực, thậm chí là sự đối mặt giữa sự sống và cái chết của mỗi chủ thể.
3
Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb CTQG, H.
1991, tr. 5.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61573419
VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
Phần 1: Nội dung chính của bài
1. Vật chất và các hình thức tồn tại của vật chất
1.1. Phạm trù vật chất
1.1.1. Quan niệm của triết học ngoài Mác xít về phạm trù vật chất

Trước Mác từ rất sớm, các nhà triết học đã nghiên cứu về vật chất và đã đưa ra
phạm trù vật chất với tính cách là phạm trù triết học cách đây khoảng 2500 năm.
Song xoay quanh phạm trù này đã diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt giữa chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm.
- Các nhà triết học duy tâm: thừa nhận sự tồn tại của các sự vật, hiện tượng của
thế giới nhưng phủ nhận đặc trưng “tự thân tồn tại” của chúng và cho rằng: Cơ sở
của mọi sự tồn tại là bản nguyên tinh thần nào đó. Đó có thể là “ý chí của thượng
đế” là “ý niệm tuyệt đối”, hay do cảm giác chủ quan của con người.

+ Platôn cho “ý niệm” là bản nguyên của thế giới.
+ Hêghen cho “ý niệm tuyệt đối” là bản nguyên của thế giới.
+ Béccơly cho “tồn tại nghĩa là được tri giác”. Mọi vật chỉ tồn tại trong chừng
mực người ta cảm giác được, không có chủ thể thì không có khách thể.
Như vậy, các nhà triết học duy tâm phủ nhận đặc trưng “tự thân tồn tại” của các
sự vật, hiện tượng trên thế giới. Con người chỉ nhận thức được cái bóng, cái bề ngoài
của sự vật, hiện tượng mà không nhận thức được bản chất của sự vật, hiện tượng ấy.
CNDT phủ nhận tính khách quan của vật chất, từ đó phủ nhận phạm trù nền tảng của CNDV.
- Các nhà triết học duy vật: khẳng định thế giới vật chất tồn tại khách quan
không lệ thuộc vào ý thức của con người. Nhưng họ đã quy vật chất về một hoặc một
vài dạng vật thể nào đó - coi chúng là các yếu tố đầu tiên hình thành nên các sự vật,
hiện tượng trên thế giới.

Như vậy, chủ nghĩa duy vật đã khẳng định thế giới này là thế giới vật chất, tồn
tại khách quan; giải thích sự vận động, phát triển của thế giới vật chất như một hiện
tượng tự thân, bác bỏ vai trò sáng thế của tinh thần, Thượng đế. Cùng với những tiến
bộ lịch sử, quan niệm của các nhà triết học duy vật về vật chất cũng từng bước phát
triển theo hướng ngày càng sâu sắc và trừu tượng hóa khoa học hơn.
Tuy vậy, cùng với những tiến bộ của lịch sử, quan niệm của các nhà triết học
duy vật về vật chất cũng từng bước phát triển theo hướng ngày càng sâu sắc và trừu tượng hơn. Cụ thể:
+ Trong thời cổ đại: Khuynh hướng chung trong phương pháp và quan niệm
của các nhà triết học duy vật cổ đại là tìm ra và đồng nhất vật chất với một vật thể, lOMoAR cPSD| 61573419
vật thể này vừa là bản nguyên đầu tiên sinh ra mọi sự vật, hiện tượng khác, vừa là
vật thể duy nhất mà mọi sự vật, hiện tượng sẽ hóa thành khi phân hủy, diệt vong.
Ví dụ: Talét coi bản nguyên của thế giới là “nước”;
Anaximen là “không khí”;
Lôkayata ở Ấn độ cho rằng: đất, nước, lửa, không khí sinh ra mọi vật.
Hêraclít lại là “lửa” (Trong cuốn “Bàn về những nguyên lý của sự sống”,
Hêraclít viết: “Thế giới, một chỉnh thể gồm mọi vật, không phải là do bất cứ một
thần thánh, hoặc là bất cứ một người nào sáng tạo ra, mà đã, đang và sẽ còn là một
ngọn lửa vĩnh viễn sống, bùng cháy và tắt đi theo những quy luật…”1).
Đỉnh cao của thời kỳ cổ đại là quan điểm của Lơxíp (khoảng 500 - 440 TCN)
và Đêmôcrít (khoảng 427 - 374 TCN) đã đưa ra quan niệm vật chất là nguyên tử, các
ông cho rằng: nguyên tử là những hạt nhỏ nhất, không thể phân chia, không khác
nhau về chất, tồn tại vĩnh viễn, nguyên tử có loại góc cạnh, xấu xí, có loại cứng,
nhẵn, có loại hình tròn, hình cầu... Chính sự kết hợp hoặc tách rời nguyên tử theo
các trật tự khác nhau của không gian sẽ tạo nên toàn bộ thế giới. Tư tưởng này được
đánh giá là đỉnh cao của CNDV cổ đại và được kéo dài cho đến thế kỷ XVIII. Đặc
biệt, những thành công kỳ diệu của Niutơn trong vật lý học cổ điển (nghiên cứu cấu
tạo và thuộc tính của các vật thể vật chất vĩ mô - bắt đầu tính từ nguyên tử trở lên),
nhất là với việc chứng minh được sự tồn tại thực sự của nguyên tử càng làm cho
quan niệm trên đây được củng cố thêm. Tuy nhiên, khi đó họ thường đồng nhất vật
chất với nguyên tử, khối lượng, vận động của vật chất chỉ là biểu hiện của vận động
cơ học; nguồn gốc vận động nằm ngoài vật chất; vật chất, vận động, không gian,
thời gian như những thực thể khác nhau, không có mối liên hệ nội tại với nhau
+ Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX diễn ra cuộc cách mạng trong khoa học tự
nhiên đã làm phá sản các quan điểm duy vật siêu hình về vật chất.
* Năm 1895, Rơnghen phát hiện ra tia X.
* Năm 1896, Béccơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ của nguyên tố Urani,đã
bác bỏ quan niệm về sự bất biến của nguyên tử.
* Năm 1897, Tômxơn phát hiện ra điện tử và chứng minh được nó là một trong
những thành phần cấu tạo nên nguyên tử. Nhờ phát minh này, lần đầu tiên trong
khoa học, sự tồn tại hiện thực của nguyên tử được chứng minh bằng thực nghiệm.
* Năm 1901, Kaufman đã chứng minh được khối lượng của điện tử khôngphải
là bất biến, mà thay đổi theo vận tốc vận động của nguyên tử.
1 V. I. Lênin, Toàn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ, M.1981, tr. 371. lOMoAR cPSD| 61573419
* Năm 1905, thuyết tương đối hẹp và năm 1916, thuyết tương đối tổng quátcủa
A. Anhxtanh ra đời đã chứng minh: không gian, thời gian, khối lượng luôn biến đổi
cùng với sự vận động của vật chất.
Đứng trước những phát hiện trên của khoa học tự nhiên đã làm không ít nhà
khoa học và triết học với tư duy máy móc, siêu hình hoang mang dao động, hoài
nghi tính đúng đắn của chủ nghĩa duy vật. Họ cho rằng: nguyên tử không phải là
phần tử nhỏ nhất, mà có thể bị phân chia, tan rã, bị “mất đi”, do đó vật chất cũng có
thể biến mất; có hiện tượng không có khối lượng cơ học, hạt chuyển thành trường,
cũng có nghĩa là vật chất chỉ còn là năng lượng, là sóng phi vật chất; quy luật cơ học
không còn tác dụng gì trong thế giới vật chất “kỳ lạ” ấy, thế giới tồn tại không có
quy luật, mọi khoa học trở thành thừa và nếu có chăng cũng chỉ là sự sáng tạo tuỳ
tiện của tư duy con người; khách thể tiêu tan, chủ thể trở thành cái có trước, cái còn
lại duy nhất là chúng ta và cảm giác cùng tư duy của chúng ta để tổ chức những cảm
giác đó. Điều này dẫn đến cuộc khủng hoảng thế giới quan và trượt dài từ CNDVSH
sang CNDT. Con đường thoát khỏi cuộc khủng hoảng này là thay CNDVSH bằng CNDVBC.
1.1.2. Quan niệm của triết học Mác - Lênin về phạm trù vật
chất - Tư tưởng của Mác, Ăngghen về vật chất:
Mác, Ăngghen trong khi đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, thuyết bất khả tri
và phê phán chủ nghĩa duy vật siêu hình, máy móc đã đưa ra những tư tưởng hết sức
thiên tài về vật chất.
+ Một là, cần phân biệt phạm trù vật chất với vật thể. Phạm trù vật chất phải
bao quát được những thuộc tính chung của các sự vật, hiện tượng đang tồn tại cảm
tính. Vật chất là sự thống nhất hữu cơ giữa tính cụ thể và tính trừu tượng.
+ Hai là, con người có thể nhận thức được thế giới vật chất thông qua sự phản
ánh của các giác quan về các sự vật hiện tượng cụ thể cảm tính.
Dựa trên những thành tựu rực rỡ của Khoa học tự nhiên, kế thừa những tư tưởng
khoa học của C.Mác và Ăngghen, Lênin đã đưa ra định nghĩa hoàn chỉnh về phạm trù vật chất.
- Định nghĩa phạm trù vật chất của Lênin
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
(Lênin TT, t.18, tr.151).
Định nghĩa vật chất của V. I. Lênin bao hàm các nội dung sau đây:
+ Thứ nhất: vật chất là một phạm trù triết học
Nội dung này khẳng định, nói về vật chất theo nghĩa rộng nhất, không phải nói
về các dạng vật chất cụ thể được các khoa học chuyên ngành nghiên cứu. lOMoAR cPSD| 61573419
* Vật chất với tư cách là phạm trù triết học là kết quả của sự khái quát hóa,trừu
tượng hóa những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có của các sự vật, hiện tượng
nên nó phản ánh cái chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi; còn tất cả
những sự vật, hiện tượng chỉ là những dạng biểu hiện cụ thể của vật chất nên nó có
quá trình phát sinh, phát triển và chuyển hóa. Vì vậy, không thể đồng nhất vật chất
với một hay một số dạng biểu hiện cụ thể của vật chất.
Do đó, theo Lênin không thể đưa định nghĩa vật chất bằng cách quy nó về vật
thể (chẳng hạn, quy về nguyên tử) hoặc quy về một hình thức, một thuộc tính cụ thể
nào đó (chẳng hạn, quy về khối lượng). Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, định nghĩa
bằng cách đó sẽ chỉ gây ra mơ hồ, sai lầm và tạo kẽ hở cho CNDT xuyên tạc, tấn
công vào CNDV. Cũng không thể định nghĩa nó bằng cách quy về một phạm trù
rộng hơn, vì cho đến nay, chưa có phạm trù nào rộng hơn phạm trù vật chất.
* Chỉ có thể định nghĩa một cách khoa học phạm trù vật chất bằng cách đốilập
nó với ý thức và trong định nghĩa đó chỉ rõ vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính
thứ hai. Thông qua sự đối lập với ý thức (vật chất có trước ý thức, quyết định ý thức),
định nghĩa phạm trù vật chất bao hàm điều kiện cần và đủ để phân biệt nó với những phạm trù khác.
+ Thứ hai, vật chất là thực tại khách quan, ở bên ngoài ý thức và không lệ thuộc vào ý thức
Nội dung này khẳng định, nói đến vật chất là nói đến tất cả những gì đã và đang
hiện hữu thực sự bên ngoài ý thức của con người. Vật chất là hiện thực chứ không
phải là hư vô và hiện thực này mang tính khách quan chứ không phải hiện thực chủ
quan. Tính khách quan là tính tồn tại bên ngoài ý thức, độc lập với ý thức, không
phụ thuộc vào ý thức của con người và loài người.
* Mọi sự vật, hiện tượng từ vi mô đến vĩ mô, từ những cái đã biết đến những
cái chưa biết, từ những sự vật “giản đơn nhất” đến những hiện tượng vô cùng “kỳ
lạ”, dù tồn tại trong tự nhiên hay trong xã hội cũng đều là những đối tượng tồn tại
khách quan, độc lập với ý thức con người, nghĩa là đều thuộc phạm trù vật chất, đều
là các dạng cụ thể của vật chất
. Cả con người cũng là một dạng vật chất, là sản phẩm
cao nhất trong thế giới tự nhiên mà chúng ta đã biết. Xã hội loài người cũng là một
dạng tồn tại đặc biệt của vật chất. Những quan hệ kinh tế - xã hội, những quan hệ
sản xuất của xã hội…tuy không tồn tại dưới những vật thể, cũng không mang các
thuộc tính khối lượng, năng lượng, cũng không có cấu trúc phân tử, nguyên tử,
nhưng chúng tồn tại khách quan có trước ý thức và quyết định ý thức. Bởi vậy, chúng
chính là vật chất dưới dạng xã hội.
* Khẳng định trên đây có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phê phán thế giới
quan duy tâm vật lý học, giải phóng khoa học tự nhiên khỏi cuộc khủng hoảng thế lOMoAR cPSD| 61573419
giới quan, khuyến khích các nhà khoa học đi sâu tìm hiểu thế giới vật chất, khám phá
ra những thuộc tính mới, kết cấu mới của vật chất, không ngừng làm phong phú tri
thức của con người về thế giới.
+ Thứ ba, vật chất là cái mà khi tác động vào các giác quan con người thì đem
lại cho con người cảm giác, được cảm giác của con người chép lại, chụp lại, phản ánh.
Nội dung này khẳng định:
* Vật chất là nguồn gốc khách quan của ý thức, vật chất là tính thứ nhất, ý thức
là tính thứ hai, vật chất quyết định ý thức. Chống lại quan điểm của CNDT
Vật chất tồn tại khách quan, nhưng không phải thần bí mà là luôn biểu hiện sự
tồn tại hiện thực của mình dưới dạng các thực thể, nên khi trực tiếp hoặc gián tiếp
tác động vào các giác quan sẽ đem lại cho con người những cảm giác.
* Con người có thể nhận thức được vật chất. Chống lại quan điểm của thuyết “bất khả tri”.
Trong thế giới vật chất không có cái gì là không thể biết, chỉ có những cái chưa
biết, nhưng rồi sẽ biết. Theo đó, xét trên phương diện nhận thức luận thì vật chất là
cái có trước, là tính thứ nhất, là cội nguồn của cảm giác (ý thức); còn cảm giác (ý
thức) là cái có sau, là tính thứ hai, là cái phụ thuộc vào vật chất.
- Ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận:
+ Quan niệm của triết học Mác - Lênin về vật chất nói chung và định nghĩa vật
chất của Lênin nói riêng đã giải quyết hai mặt vấn đề cơ bản của triết học trên lập
trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
+ Nó cung cấp những nguyên tắc thế giới quan và phương pháp luận khoa học
để đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, thuyết không thể biết, chủ nghĩa duy vật siêu
hình và mọi biểu hiện của chúng trong triết học tư sản hiện đại về phạm trù này.
+ Tạo cơ sở cho sự liên kết giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử thành một hệ thống lý luận thống nhất, góp phần tạo ra nền tảng lý
luận khoa học cho việc phân tích một cách duy vật biện chứng các vấn đề của chủ
nghĩa duy vật lich sử, trước hết là các vấn đề về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và
ý thức xã hội, giữa quy luật khách quan của lịch sử và hoạt động có ý thức của con người.
+ Trong nhận thức và hành động phải xuất phát từ khách quan, lấy khách quan
là cơ sở cho hoạt động của con người. Chống chủ quan, duy ý chí, suy nghĩ giản
đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan bất chấp qui luật khách quan.
+ Định hướng cho các khoa học cụ thể đi sâu vào nghiên cứu thế giới
1.2. Các hình thức tồn tại của vật chất 1.2.1. Vận động lOMoAR cPSD| 61573419 -
Khái niệm vận động:
Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, là mọi sự biến đổi nói chung.
Ăngghen viết: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được hiểu là một
phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, - thì bao gồm
tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí
đơn giản cho đến tư duy” (Mác và Ăngghen TT, t.20, tr.751). -
Vai trò của vận động với vật chất: Vận động là phương thức tồn tại của vật chất
+ Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất.
Không ở đâu và ở nơi nào lại có thể có vật chất không vận động. Các dạng tồn
tại cụ thể của vật chất không thể không có thuộc tính vận động. Vận động của vật chất diễn ra tự thân.
+ Vật chất chỉ có thể tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động mà
biểu hiện sự tồn tại của nó với các hình dạng phong phú muôn vẻ vô tận.
Đó là, chỉ có trong vận động và thông qua vận động thì các dạng vật chất mới
thể hiện được đặc tính của mình.
Ví dụ: Trong thực tế cho thấy rất rõ là phẩm chất, năng lực của một con người
cụ thể chỉ được thể hiện thông qua hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn của người đó.
Hay đặc tính của một căn bệnh cụ thể nào đó chỉ được thể hiện thông qua các
giai đoạn biển đổi của nó từ khới phát cho tới bùng phát cho tới lui bệnh và khỏi bệnh.
Chính vì vậy mà con người chỉ có thể nhận thức được các sự vật vật chất thông
qua sự vận động của nó. Về vấn đề này Ăngghen đã viết rằng: “Các hình thức và các
dạng khác nhau của vật chất chỉ có thể nhận thức được thông qua vận động, thuộc
tính của vật thể chỉ bộc lộ qua vận động, về một vật thể không vận động thì không
có gì nói cả”. (Mác và Ăngghen TT, t.20. tr.743).
+Vận động của vật chất tồn tại vĩnh viễn, không thể tạo ra và không bị tiêu diệt.
Đó là, sức mạnh làm cho vật chất vận động không phải nằm ngoài vật chất như
quan điểm duy tâm hoặc siêu hình về vận động mà là sức mạnh làm cho vật chất vận
động là của bản thân vật chất. Sức mạnh đó là do sự tác động lẫn nhau của chính các
thành tố nội tại trong cấu trúc vật chất gây nên sự vận động. Do đó, vận động của
vật chất không do ai sáng tạo ra và tiêu diệt được, vận động của vật chất được bảo
toàn cả về số lượng và chất lượng. Vận động của vật chất tồn tại vĩnh viễn cùng vật chất. lOMoAR cPSD| 61573419
Ví dụ: Sự vận động của nguyên tử là do sự tương tác giữa hạt nhân và điện tử
trong bản thân nguyên tử
Sự vận động phát triển của một cơ thể sống là do sự tương tác giữa các cơ
quan, các quá trình diễn ra trong cơ thể, giữa cơ thể với môi trường.
Sự vận động phát triển của một xã hội là do sự tương tác của chính các yếu tố
cấu thành một cơ thể xã hội.
- Những hình thức vận động cơ bản của vật chất
Hình thức vận động của vật chất rất đa dạng, được biểu hiện ra với các quy mô,
trình độ và tính chất hết sức khác nhau. Dựa vào những thành tựu khoa học của thời
đại mình, Ăngghen đã chia vận động của vật chất thành năm hình thức cơ bản:
+ Vận động cơ giới: Đó là sự di chuyển vị trí của vật thể trong không gian
+ Vận động vật lý: Đó là vận động của các phân tử, điện tử, các hạt cơ bản, các
quá trình nhiệt, điện …
+ Vận động hoá: Đó là quá trình hoá hợp và phân giải các chất.
+ Vận động sinh vật: Đó là sự biến đổi của các cơ thể sống, biến đổi của cấu trúc gien…
+ Vận động xã hội: Đó là sự biến đổi của các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hoá.., sự thay thế của các hình thái kinh tế - xã hội.
Các hình thức vận động trên có quan hệ với nhau như sau:
* Thứ nhất, các hình thức vận động trên là các trình độ từ thấp đến cao, tương
ứng với trình độ kết cấu của vật chất.
* Thứ hai, chúng khác nhau về chất. Nhưng có quan hệ mật thiết với nhau, trong
đó, các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp,
bao hàm trong nó các hình thức vận động thấp hơn. Các hình thức vận động thấp
không có khả năng bao hàm hình thức vận động ở trình độ cao hơn. Bởi vậy mọi sự
quy giản các hình thức vận động cao về hình thức vận động thấp đều là sai lầm. Giữa
hai hình thức vận động cao và thấp có thể có hình thức vận động trung gian, đó là
những mắt khâu chuyển tiếp trong quá trình chuyển hoá lẫn nhau của các hình thức vận động.
* Thứ ba, trong sự tồn tại của mình, mỗi một sự vật có thể có nhiều hình thức
vận động khác nhau, nhưng bản thân sự vật ấy bao giờ cũng đợc đặc trưng, bởi hình
thức vận động cao nhất mà nó có.
- Vận động và đứng im
Sự vận động không ngừng của vật chất không những không loại trừ mà trái lại
còn bao hàm trong đó sự đứng im tương đối, tạm thời.
+ Đứng im là khái niệm triết học phản ánh trạng thái ổn định về chất của sự
vật, hiện tượng trong những mối quan hệ và điều kiện cụ thể, là hình thức biểu hiện lOMoAR cPSD| 61573419
sự tồn tại thực sự của các sự vật, hiện tượng và là điều kiện cho sự vận động chuyển hoá của vật chất.
+ Đứng im mang tính tương đối, tạm thời thể hiện ở chỗ: chỉ xảy ra trong một
mối quan hệ nhất định chứ không phải trong mọi mối quan hệ cùng một thời điểm,
chỉ xảy ra với một hình thức vận động nào đó, ở một lúc nào đó, chứ không phải
cùng một lúc đối với mọi hình thức vận động.
Ví dụ: Tàu hỏa đang đỗ trên sân ga là đứng im đó là trong mối quan hệ với
đường ray, còn so với mặt trời và các thiên thể khác thì nó vận động theo sự vận động của quả đất.
Đứng im chỉ là sự biểu hiện của một trạng thái vận động - vận động trong thăng
bằng, trong sự ổn định tương đối. Vận động cá biệt có xu hướng hình thành, duy trì
sự tồn tại ổn định của một sự vật, hiện tượng nào đó. Nhưng, vận động nói chung,
tức là sự tác động qua lại của vô số các sự vật, hiện tượng, lại làm cho tất cả các sự
vật, hiện tượng không ngừng biến đổi, cho nên đứng im chỉ tương đối, tạm thời. Mặc
dù mang tính chất tương đối tạm thời, nhưng đứng im lại là hình thức “chứng thực”
sự tồn tại thực sự của vật chất, là điều kiện cho sự vận động chuyển hoá của vật chất.
- Ý nghĩa phương pháp luận:
Trong nhận thức và thực tiễn phải có quan điểm vận động. Quan điểm vận động
đòi hỏi phải xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng trong quá trình vận động, đồng
thời khi tiến hành cải tạo sự vật, hiện tượng phải thông qua những hình thức vận
động vốn có, đặc trưng của chúng.
1.2.2. Không gian và thời gian
Dựa trên những thành tựu của khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật biện
chứng đã khẳng định tính khách quan của không gian và thời gian, xem không gian
và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động.
- Khái niệm không gian và thời gian:
+ Không gian là hình thức tồn tại của vật chất xét về mặt quảng tính, sự cùng
tồn tại, trật tự, kết cấu và sự tác động lẫn nhau.
Như vậy, phạm trù không gian là sự khái quát các thuộc tính chung của mọi sự
vật tồn tại khách quan về vị trí, quảng tính (độ dài - ngắn, cao- thấp, hình thức kết
cấu…) mối tương quan với các dạng vật chất khác (ở trên hay dưới, trước hay sau, phải hay trái…).
+ Thời gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động xét về mặt độ dài diễn
biến, sự kế tiếp của các quá trình.
Như vậy, phạm trù thời gian là sự khái quát các thuộc tính chung của mọi sự
vật tồn tại khách quan về sự vận động biến đổi diễn ra nhanh hay chậm, trình tự vận
động, biến đổi diễn ra kế tiếp qua các giai đoạn trước, sau … lOMoAR cPSD| 61573419
- Vai trò của không gian và thời gian
Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất vận động, được
con người khái quát khi nhận thức thế giới.
+ Không gian và thời gian là những thuộc tính vốn có của vật chất. Không có
không gian và thời gian thuần tuý tách rời vật chất vận động. V. I. Lênin viết: “Trong
thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật chất đang vận động không
thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời gian”2.
+ Các sự vật vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình qua không gian, thời gian của nó.
Đó là, chỉ có trong không gian và thời gian của mình thì các sự vật vật chất mới
thể hiện được sự tồn tại của nó là như thế nào. Chính vì vậy để nhận thức được về
các sự vật vật chất ta phải nhận thức chúng trong không gian thời gian của chúng.
Điều này Ăngghen đã viết: “Các hình thức cơ bản của mọi tồn tại là không gian
và thời gian: tồn tại ngoài thời gian cũng hết sức vô lý như tồn tại ở ngoài không gian”.
Ví dụ: Để biết nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay là thế nào
thì phải nhận thức nó gắn với cả không gian và thời gian của nó. + Không gian và
thời gian phụ thuộc vào vật chất vận động

Vấn đề này đã được xác nhận bởi những thành tựu của KHTN, đặc biệt là đầu
TK XX thuyết tương đối của Anhxtanh đã chứng minh rằng, không gian và thời gian
không tự nó tồn tại tách rời vật chất và luôn phụ thuộc vào vật chất vận động.
- Mối quan hệ giữa không gian và thời gian
+ Không gian và thời gian là hai thuộc tính, hai hình thức tồn tại khác nhau của
vật chất vận động, nhưng chúng không tách rời nhau.
Không có sự vật, hiện tượng nào tồn tại trong không gian mà lại không có một
quá trình diễn biến của nó. Cũng không thể có sự vật, hiện tượng nào có thời gian
tồn tại mà lại không có quảng tính, kết cấu nhất định.
+ Tính chất của không gian và sự biến đổi của nó bao giờ cũng gắn liền với tính
chất và sự biến đổi của thời gian và ngược lại. Do đó, không gian và thời gian, về
thực chất là một thể thống nhất không - thời gian.

- Tính chất của không gian và thời gian
+ Vật chất có ba chiều không gian và một chiều thời gian.
Theo nghĩa chung nhất không gian có 3 chiều: dài, rộng, cao. Còn thời gian chỉ
có 1 chiều: từ quá khứ đến tương lai.
2 V. I. Lênin, Toàn tập, tập 18, Nxb Tiến bộ, M. 1980, tr. 209. lOMoAR cPSD| 61573419
Các tính chất của không gian và thời gian chính là biểu hiện hình thức tồn tại
về quảng tính và quá trình diễn biến của vật chất vận động.
+ Không gian và thời gian của vật chất nói chung là vô tận, xét về cả phạm vi lẫn tính chất.
Nghĩa là không gian và thời gian không có giới hạn, không có tận cùng về một
phía nào cả, xét cả về quá khứ lẫn tương lai, cả về đằng trước - sau, trên dưới, phải - trái.
- Ý nghĩa phương pháp luận: Nhận thức và cải tạo sự vật phải luôn gắn
với không gian và thời gian của nó.
1.3. Tính thống nhất vật chất của thế giới
Vấn đề tính thống nhất của thế giới là một nội dung lớn trong thế giới quan triết
học, nhưng trong đó luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa CNDV với CNDT. Tuy vậy,
chỉ khi triết học Mác - Lênin ra đời mới có quan điểm đúng đắn về tính thống nhất của thế giới.
1.3.1. Tồn tại của thế giới là tiền đề cho sự thống nhất của thế giới -
Tồn tại của thế giới là tiền đề cho sự thống nhất của thế giới
Để xem xét về tính thống nhất của thế giới phải thừa nhận sự tồn tại của nó.
Theo nghĩa chung nhất, tồn tại là phạm trù dùng để chỉ tính có thực của thế giới xung quanh con người. -
Tính thống nhất của thế giới không phải ở sự tồn tại của nó
Chủ nghĩa duy vật quan niệm tồn tại của thế giới như một chỉnh thể mà bản
chất của nó là vật chất. Trái lại, các nhà triết học duy tâm khẳng định chỉ có thế giới
tinh thần mới tồn tại nên bản chất của tồn tại cũng là tinh thần.
1.3.2. Thế giới thống nhất ở tính vật chất
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định bản chất của thế giới là vật chất, thế
giới thống nhất ở tính vật chất. Điều đó được thể hiện ở những điểm cơ bản sau đây: -
Chỉ một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế giới
vậtchất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức con người, được ý thức con người phản ánh. -
Mọi bộ phận của thế giới có mối quan hệ vật chất thống nhất với nhau,
biểuhiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là sản phẩm của vật
chất, cùng chịu sự chi phối của những quy luật khách quan, phổ biến của thế giới vật chất. -
Thế giới vật chất không do ai sinh ra và cũng không tự mất đi, nó tồn
tạivĩnh viễn, vô hạn và vô tận. Trong thế giới, các sự vật và hiện tượng luôn luôn
vận động, biến đổi không ngừng và chuyển hoá lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên
nhân và kết quả của nhau, về thực chất, đều là những quá trình vật chất. lOMoAR cPSD| 61573419
Việc triết học Mác - Lênin khẳng định bản chất của thế giới là vật chất, thế giới
thống nhất ở tính vật chất của nó chính là không phải được rút ra từ chủ quan mà là
được rút ra từ việc khái quát các thành tựu khoa học, được khoa học và cuộc sống
hiện thực của con người kiểm nghiệm. Đó là, thế giới cả tự nhiên và xã hội, con
người về bản chất là vật chất, thống nhất ở tính vật chất của nó. Thế giới vật chất có
nguyên nhân tự nó, vĩnh hằng và vô tận với vô số những biểu hiện muôn hình muôn vẻ. -
Ý nghĩa phương pháp luận và định hướng vận dụng
+ Học thuyết Mác - Lênin về vật chất là cơ sở lý luận khoa học trực tiếp của
nguyên tắc khách quan trong nhận thức và thực tiễn nói chung, trong nhận thức và
thực tiễn quân sự nói riêng.
+ Nguyên tắc này khẳng định: con người muốn đạt được mục đích không có
cách nào khác là phải nhận thức và tác động vào thế giới đúng như nó có; không bao
giờ được tô hồng, bóp méo bản chất của sự vật, hay tác động vào sự vật bằng các
phương thức chủ quan tuỳ tiện. Mục đích, chủ trương, giải pháp mà chúng ta đề ra
chỉ có phản ánh đúng đắn thế giới khách quan, hoàn toàn xuất phát từ thực tế khách
quan thì mới có khả năng được thực hiện. Nguyên tắc này cũng yêu cầu các chủ thể
phải coi nguyên nhân, điều kiện, khả năng, phương tiện, lợi ích vật chất là nền tảng,
là cái suy đến cùng quyết định mọi hiện tượng, quá trình xã hội. Nếu chỉ xuất phát
từ nguyện vọng chủ quan, bất chấp hiện thực khách quan, ắt sẽ rơi vào chủ nghĩa
chủ quan, duy ý chí và phải trả giá trong thực tiễn.
+ Nguyên tắc khách quan đòi hỏi các chủ thể của lĩnh vực quân sự phải phân
tích nguồn gốc chiến tranh từ trong tồn tại xã hội, chủ yếu là từ mâu thuẫn đối kháng
trong phương thức sản xuất ra của cải vật chất; phải nhận thức một cách dứt khoát
sự phụ thuộc của phương thức tiến hành chiến tranh và toàn bộ khoa học, nghệ thuật
quân sự vào chế độ kinh tế, vào vũ khí trang bị và yếu tố con người… Đồng thời, nó
cũng đòi hỏi việc xác định, đánh giá kẻ thù phải dựa trên sự phân tích một cách khoa
học xu thế vận động của các lực lượng xã hội trong các nước liên quan, dựa vào sự
vận động của các nhân tố lịch sử, kinh tế, chính trị và vào các nguồn thông tin toàn
diện, thường xuyên được bổ sung theo kịp với sự biến đổi của tình hình.
2. Ý thức và mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
2.1. Nguồn gốc, bản chất và kết cấu ý thức
2.1.1 .Nguồn gốc của ý thức

Ý thức là toàn bộ hoạt động tinh thần diễn ra trong bộ não người, là sự phản
ánh thế giới khách quan vào bộ óc người
- Quan điểm của triết học ngoài mácxit
+ Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm lOMoAR cPSD| 61573419
* Chủ nghĩa duy tâm khách quan: khẳng định thế giới “ý niệm”, hay “ý niệm
tuyệt đối” là bản thể, sinh ra toàn bộ thế giới vật chất.
* Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: coi cảm giác là tồn tại duy nhất, tiên thiên, sản
sinh ra thế giới vật chất.
+ Quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình: đồng nhất ý thức với vật chất.
Triệt để lợi dụng những sai lầm, hạn chế của chủ nghĩa duy tâm và duy vật siêu
hình trong quan niệm về ý thức, các giai cấp thống trị lấy đó làm cơ sở lý luận, công
cụ để nô dịch tinh thần quần chúng lao động.
- Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
+ Nguồn gốc tự nhiên: bộ óc người, sự tác động của thế giới khách quan vào
bộ óc người, được bộ óc người phản ánh Bởi vì:
* Ý thức là một thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộnão con người.
Bộ não chính là cơ quan vật chất của ý thức. Ý thức là chức năng của bộ não
người. Hoạt động ý thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh
của bộ não người, nên khi bộ não người bị tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ bị rối
loạn thậm chí mất một phần hoặc toàn bộ ý thức. Vì vậy, không thể tách rời ý thức
ra khỏi hoạt động của bộ não, ý thức không thể diễn ra tách rời hoạt động sinh lý
thần kinh của bộ não người. Quá trình ý thức xảy ra trong não người và hoạt động
sinh lý thần kinh là 2 mặt của một quá trình - quá trình sinh lý thần kinh diễn ra trong
não người mang nội dung ý thức, cũng giống như tín hiệu vật chất mang nội dung thông tin.
Khoa học đã chứng minh, não người hiện đại là sản phẩm của quá trình tiến hoá
lâu dài về mặt sinh vật - xã hội, sau quá trình vượn chuyển biến thành người, não
vượn chuyển biến thành não người. Bộ não người là một tổ chức vật chất sống đặc
biệt, có cấu trúc tinh vi, phức tạp bao gồm 14 -15 tỷ tế bào thần kinh. Chúng liên hệ
với nhau và liên hệ với các giác quan con người, tạo thành vô số các mối liên hệ qua
lại với thế giới bên ngoài thông qua các phản xạ không điều kiện và có điều kiện.
* Thuộc tính ý thức của bộ não người là hình thức phát triển cao nhất củathuộc
tính phản ánh của vật chất.
Bởi vì, phản ánh là thuộc tính chung của vật chất. Phản ánh là sự tái tạo những
đặc điểm của hệ thống vật chất này ở hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại của chúng.
Kết quả phản ánh phụ thuộc vào vật tác động và vật nhận tác động trong đó bao
giờ vật nhận tác động cũng mang thông tin của vật tác động. Đây là điều quan trọng
làm sáng tỏ nguồn gốc tự nhiên của ý thức. lOMoAR cPSD| 61573419
Thuộc tính phản ánh của vật chất có sự phát triển từ thấp đến cao cùng với sự
phát triển của thế giới vật chất: Từ phản ánh của thế giới vô sinh đến phản ánh sinh
vật và khi con người hình thành thì xuất hiện phản ánh ý thức Trong đó, phản ánh
vô cơ (cơ, lý, hoá) còn mang tính thụ động, chưa có sự định hướng, chưa có lựa chọn
(như sự thay đổi vị trí, sự biến động, sự phá huỷ). Phản ánh sinh vật có sự định
hướng, lựa chọn để thích nghi. Phản ánh sinh vật được thực hiện thông qua các hình thức như:
Ở thực vật có phản ánh kích thích là phản ứng trả lời tác động của môi trường
ở bên ngoài có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình trao đổi chất của chúng. Hình thức
phản ánh tiếp theo của các động vật chưa có hệ thần kinh là tính cảm ứng, tính nhạy
cảm đối với sự thay đổi của môi trường. Hình thức phản ánh của các động vật có hệ
thống thần kinh là các phản xạ. Hình thức phản ánh ở động vật bậc cao khi có hệ
thần kinh trung ương xuất hiện là tâm lý động vật - đây là trình độ phản ánh cao nhất
ở động vật, tuy nhiên đây chưa phải là ý thức, nó mới là phản ánh có tính chất bản
năng do nhu cầu trực tiếp của sinh lý cơ thể và do quy luật sinh học chi phối. Ý thức
là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực. Ý thức chỉ nảy sinh ở giai
đoạn phát triển cao của thế giới vật chất cùng với sự xuất hiện con người. Ý thức là
ý thức con người, nằm trong con người, không thể tách rời con người.
* Nội dung của ý thức con người là phản ánh về thế giới khách quan khi thế
giới khách quan tác động lên các giác quan và qua đó được bộ não phản ánh.
+ Nguồn gốc xã hội: lao động và ngôn ngữ
Để ý thức ra đời nguồn gốc tự nhiên là tiền đề quan trọng không thể thiếu song
chưa đủ. Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là nguồn gốc xã hội. Nguồn
gốc xã hội của ý thức là: Lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội.
Lao động: Lao động là quá trình con người sử dụng các công cụ lao động tác
động vào tự nhiên tạo ra của cải vật chất để thoả mãn các nhu cầu của mình.
 Lao động là nguồn gốc làm ý thức ra đời vì:
Lao động là điều kiện đầu tiên và chủ yếu để con người tồn tại. Lao động cung
cấp cho con người những cái cần thiết để sống, đồng thời lao động sáng tạo ra cả
bản thân con người, làm cho sự tiến hoá của con vượn thành con người. Bộ não vượn
chuyển dần thành bộ óc người.
Lao động làm cho các giác quan và bộ não người ngày càng phát triển hoàn
thiện có khả năng phản ánh năng động sáng tạo đối với thế giới khách quan
Thông qua lao động, con người tác động vào thế giới khách quan làm thế giới
khách quan bộc lộ các thuộc tính, kết cấu, quy luật vận động của nó và được phản
ánh vào não người hình thành nên các tri thức. lOMoAR cPSD| 61573419
Lao động còn làm cho con người hình thành được các phương pháp tư duy khoa học.  Ngôn ngữ
Ngôn ngữ là tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức, là vỏ vật chất của tư duy,
là hiện thực trực tiếp của tư tưởng.
Ngôn ngữ bao gồm có 2 yếu tố cơ bản là: tiếng nói, chữ viết
Ngôn ngữ ra đời do nhu cầu của lao động và nhờ lao động. Bởi vì, lao động
ngay từ đầu nó đã mang tính tập thể xã hội. Trong đó con người có nhu cầu trao đổi
kinh nghiệm lao động, trao đổi tư tưởng với nhau nên đã làm cho ngôn ngữ xuất hiện.
Ngôn ngữ là nguồn gốc làm ý thức ra đời vì:
Ngôn ngữ vừa là phương tiện để giao tiếp vừa là công cụ của tư duy nhằm
khái quát hóa, trừu tượng hoá trong phản ánh hiện thực, ghi nhận sự hiểu biết của
con người về thế giới.

Ngôn ngữ giúp con người tổng kết được thực tiễn, trao đổi thông tin, trao đổi
tri thức từ thế hệ này sang thế hệ khác thế hệ khác, nhờ đó mà ý thức của loài người
không ngừng phát triển
.
Bởi vì ý thức là một hiện tượng có tính XH, do đó không có phương tiện trao
đổi xã hội về mặt ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển được.
+ Mối quan hệ giữa nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội
 Nguồn gốc tự nhiên là điều kiện cần, còn nguồn gốc xã hội là điều kiện đủ để
ý thức hình thành, tồn tại và phát triển.
 Ý thức là hình thức phản ánh cao nhất riêng có của óc người về hiện thực
khách quan trên cơ sở thực tiễn xã hội - lịch sử
- Ý nghĩa phương pháp luận
+ Phải coi trọng cả yếu tố tự nhiên và xã hội trong quá trình hình thành, phát
triển ý thức cuả con người. Đặc biệt, phải thấy vai trò quyết định của yếu tố xã hội
trong quá trình hình thành và phát triển của ý thức.
+ Phải thông qua hoạt động thực tiễn để phát triển nhận thức của mình về thế
giới ngày càng sâu sắc hơn.
+ Thấy rõ vai trò quan trọng của bộ não người với việc hình thành ý thức. Từ
đó trong chăm lo sức khỏe cho con người phải chú ý chăm lo bảo vệ sự hoạt động
bình thường của bộ não người. Nếu người bệnh não bị tổn thương phải tích cực kịp
thời cứu chữa. Đồng thời là thầy thuốc phải tích cực hoạt động trong lĩnh vực xã hội
để tuyên truyền cho mọi người biết phòng các bệnh tật ảnh hưởng đến hoạt động của bộ não.
2.1.2. Bản chất của ý thức lOMoAR cPSD| 61573419
- Quan điểm của triết học ngoài mácxit
+ Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm
Ý thức là một thực thể tồn tại độc lập, là thực tại duy nhất, là nguồn gốc từ đó
sinh ra toàn bộ thế giới vật chất.
+ Quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình
Coi ý thức cũng chỉ là một dạng cấu trúc của vật chất; hoặc coi ý thức chỉ là sự
phản ánh giản đơn, thụ động thế giới vật chất, tách rời thực tiễn xã hội.
- Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
+ Bản chất ý thức là “hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”
* Xem xét ý thức từ mặt bản thể luận, thì ý thức chỉ là “hình ảnh” về hiện thực
khách quan trong óc người. Kết quả phản ánh của ý thức tùy thuộc vào nhiều yếu tố:
đối tượng phản ánh, điều kiện lịch sử - xã hội, phẩm chất, năng lực, kinh nghiệm
sống của chủ thể phản ánh.
• Ý thức là cái phản ánh thế giới khách quan, ý thức không phải là sự vật, mà
chỉ là hình ảnh của sự vật ở trong óc người
• Ý thức tồn tại phi cảm tính, đối lập với các đối tượng vật chất mà nó phản ánh
luôn tồn tại cảm tính.
* Về nội dung mà ý thức phản ánh là khách quan còn hình thức mà nó phản ánh là chủ quan.
Vật chất được phản ánh vào óc người sẽ bị biến đổi tùy thuộc vào các yếu tố
khách quan và chủ quan của mỗi người. Như đối tượng phản ánh, điều kiện lịch sử
- xã hội, phẩm chất, năng lực, kinh nghiệm sống của chủ thể phản ánh.
+ Ý thức có đặc tính tích cực, sáng tạo gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã hội. *
Ý thức mang tính tích cực, sáng tạo
Thông qua thực tiễn, con người làm biến đổi thế giới và qua đó chủ động khám
phá sâu, rộng các đối tượng phản ánh.
Phản ánh sáng tạo của ý thức là quá trình thống nhất của ba mặt:
Thứ nhất, trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh
Thứ hai, mô hình hoá đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần.
Thứ ba, chuyển hoá mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan.
* Ý thức mang tính xã hội
Bởi vì, ý thức là một hiện tượng xã hội. Sự ra đời, tồn tại của ý thức gắn liền
với hoạt động thực tiễn xã hội, chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật sinh vật
mà còn chủ yếu chịu sự chi phối của các quy luật xã hội, nhu cầu giao tiếp xã hội và
các điều kiện sinh hoạt hiện thực xã hội của con người quy định.
Theo C.Mác: ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu
óc con người và được cải biến đi trong đó” lOMoAR cPSD| 61573419
(C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, t.23, tr.35)
- Ý nghĩa phương pháp luận
+ Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải tôn trọng khách quan
+ Trong hoạt động thực tiễn phải phát huy tính năng động chủ quan của con
người. Nghĩa là phát huy vai trò tích cực của ý thức và của nhân tố con người.
Khắc phục bệnh bảo thủ trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động trong hoạt động thực tiễn
+ Trong công tác khám, điều trị bệnh, cần xuất phát từ thực tế khách quan là
người bệnh với các triệu chứng thực tế. Từ đó chẩn đoán, tiên lượng, xác định phác
đồ điều trị phù hợp cho từng người bệnh.Tránh chủ quan, duy ý chí khi khám và điều
trị. Tuy nhiên cần phát huy tính năng động sáng tạo, chủ động trong khám và điều trị.
2.1.3. Kết cấu của ý thức và vấn đề “trí tuệ nhân tạo” - Kết cấu của ý thức
Để nhận thức được sâu sắc về ý thức, cần xem xét nắm vững tổ chức kết cấu
của nó; từ các góc độ tiếp cận khác nhau sẽ đem lại những tri thức nhiều mặt về cấu
trúc, hoặc cấp độ của ý thức. Có thể chia kết cấu của ý thức theo hai cách:
+ Tiếp cận theo các yếu tố hợp thành:
* Tri thức là phương thức tồn tại cơ bản của ý thức.
Tri thức bao hàm nhiều lĩnh vực khác nhau như tri thức về tự nhiên, xã hội, con
người và có nhiều cấp độ khác nhau như: tri thức cảm tính và tri thức lý tính; tri thức
kinh nghiệm và tri thức lý luận; tri thức tiền khoa học và tri thức khoa học...
Không thể đồng nhất ý thức với sự hiểu biết, tri thức về sự vật.
* Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh tồn tại, nó phản ánh quan
hệ giữa người với người và quan hệ giữa người với thế giới khách quan.
Tình cảm tham gia và trở thành một trong những động lực quan trọng của hoạt động con người.
* Niềm tin được hình thành từ sự hòa quyện giữa tri thức và tình cảm. nó thôi
thúc con người vươn lên trong mọi hoàn cảnh.
+ Tiếp cận theo chiều sâu nội tâm của ý thức
* Tự ý thức là ý thức hướng về nhận thức bản thân mình trong mối quan hệ với
ý thức về thế giới bên ngoài. Đây là một thành tố rất quan trọng của ý thức, đánh
dấu trình độ phát triển của ý thức.
* Tiềm thức là những hoạt động tâm lý diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của ý
thức. Về thực chất, tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có được từ trước nhưng
đã gần như trở thành bản năng, thành kỹ năng nằm trong tầng sâu ý thức của chủ
thể, là ý thức dưới dạng tiềm tàng lOMoAR cPSD| 61573419
* Vô thức là những hiện tượng tâm lý không phải do lý trí điều khiển, nằm ngoài
phạm vi của lý trí mà ý thức không kiểm soát được trong một lúc nào đó.
- Vấn đề “trí tuệ nhân tạo”.
+ “Trí tuệ nhân tạo” là trí tuệ của máy móc được con người tạo ra
+ Ý thức mang bản chất xã hội, do vậy, dù máy móc có hiện đại đến đâu chăng
nữa cũng không thể hoàn thiện được như bộ óc con người.
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần thấy rõ sức mạnh, vai trò to lớn và cả những hệ
quả của trí tuê nhân tạo.̣
2.2. Mối quan hệ vật chất và ý thức
2.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và duy vật siêu hình

- Chủ nghĩa duy tâm, coi ý thức là tồn tại duy nhất, tuyệt đối, là tính thứ nhất
từ đó sinh ra tất cả; còn thế giới vật chất chỉ là bản sao, biểu hiện khác của ý thức
tinh thần, là tính thứ hai, do ý thức tinh thần sinh ra.
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình, nhấn mạnh một chiều vai trò của vật chất sinh
ra ý thức, quyết định ý thức, phủ nhận tính độc lập tương đối của ý thức, không thấy
được tính năng động, sáng tạo, vai trò to lớn của ý thức trong hoạt động thực tiễn
cải tạo hiện thực khách quan.
2.2.2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Triết học Mác - Lênin ra đời đã dựa trên cơ sở kế thừa có phê phán đối với các
quan niệm trước Mác về vật chất, ý thức và mối quan hệ giữa vật chất và ý thức;
Đồng thời dựa trên cơ sở tổng kết các thành tựu của khoa học hiện đại và thực tiễn
nên đã có quan điểm đúng đắn về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức như sau:
- Vật chất là cái có trước ý thức và giữ vai trò quyết định ý thức. (Vậy vật chất
quyết định cái gì của ý thức?)
+ Vật chất quyết định ra đời của ý thức.
Đó là, ý thức là thuộc tính phản ánh của bộ óc con người. Đó chính là kết quả
phát triển lâu dài của thế giới vật chất và kết quả phát triển lâu dài của thuộc tính
phản ánh của vật chất. Đồng thời, nhờ thông qua lao động và ngôn ngữ là các hoạt
động vật chất của xã hội mà ý thức ra đời
+ Vật chất quyết định nội dung phản ánh của ý thức.
Đó là, nội dung phản ánh của ý thức không phải do chủ quan con người quyết
định, mà do các sự vật, hiện tượng trong thế vật chất nó quyết định. Bởi vì, vì đối
tượng phản ánh của ý thức là các sự vật, hiện tượng vật chất.
+ Vật chất quyết định sự biến đổi, phát triển của ý thức.
Bởi vì, vật chất quyết định sự ra đời, quyết định nội dung của ý thức nên nó
quyết định sự biến đổi phát triển của ý thức. Biểu hiện là khi các sự vật, hiện tượng
vật chất với tính cách là đối tượng phản ánh của ý thức biến đổi phát triển, khi trình lOMoAR cPSD| 61573419
độ phản ảnh ánh của bộ não người phát triển, trình độ hoạt động thực tiễn của con
người phát triển thì ý thức cũng có sự biến đổi phát triển theo.
- Ý thức có tính độc lập tương đối tác động trở lại to lớn đối với vật chất thông
qua hoạt động thực tiễn. (Tại sao? Diễn ra thế nào?)
Bởi vì, tự nó ý thức không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực. Nhưng ý
thức là của con người, nó giữ vai trò chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người nên
thông qua hoạt động thực tiễn của con người thì ý thức sẽ trở thành sức mạnh vật
chất nên tác động trở lại được vật chất.
ý thức tác động trở lại to lớn đối với vật chất theo hai chiều hướng khác nhau:
+ Nếu ý thức của con người phản ánh đúng đắn thế giới khách quan, con người
có tri thức khoa học, có tình cảm cách mạng, có nghị lực, có ý chí thì con người sẽ
hành động phù hợp với quy luật khách quan, có năng lực vượt qua được những thách
thức trong quá trình thực hiện mục đích của mình thì sự tác động của ý thức trong
cải tạo thế giới vật chất sẽ mang tính tích cực.
+ Nếu ý thức của con người phản ánh không đúng đắn bản chất, quy luật của
thế giới khách quan thì hành động của con người sẽ trái với quy luật khách quan.
Điều đó sẽ có tác dụng tiêu cực đối với hoạt động thực tiễn và hiện thực khách quan.
2.2.3. Mối quan hệ biện chứng giữa khách quan và chủ quan
Khách quan là phạm trù dùng để chỉ tất cả những gì tồn tại không lệ thuộc vào
ý thức của chủ thể, hợp thành một hoàn cảnh hiện thực thường xuyên và trực tiếp
quy định mọi hoạt động của chủ thể.
Như vậy, cái khách quan không đồng nhất với vật chất. Khách quan bao gồm:
điều kiện khách quan, khả năng khách quan, quy luật khách quan (bao hàm cả yếu
tố vật chất và cả yếu tố ý thức).
Chủ quan là phạm trù dùng để chỉ sự phản ánh cái khách quan vào ý thức của
chủ thể và toàn bộ hoạt động của chủ thể dựa trên sự phản ánh đó.
Như vậy, chủ quan cũng bao gồm cả yếu tố ý thức và yếu tố vật chất. Chủ quan
là tất cả những gì thuộc về chủ thể tham gia chi phối tới hoạt động của chủ thể nhằm cải tạo cái khách quan.
- Mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan
Khách quan và chủ quan là hai mặt không tách rời trong hoạt động thực tiễn
của con người, giữa chúng có sự tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó khách quan
tính thứ nhất, là cơ sở, tiền đề, xuất phát điểm, là cái giữ vai trò quyết định suy đến
cùng đối với chủ quan; chủ quan có vai trò to lớn trong việc biến đổi, cải tạo cái khách quan.
Khách quan quyết định sự ra đời, nội dung, sự biến đổi của chủ quan. Đồng
thời, chủ quan không hoàn toàn thụ động mà có vai trò to lớn trong việc biến đổi, lOMoAR cPSD| 61573419
cải tạo cái khách quan, thông qua hoạt động thực tiễn. Vai trò tác động trở lại của
chủ quan với khách quan được biểu hiện: con người có thể tác động vào điều kiện
khách quan, cải tạo những điều kiện khách quan cần thiết cho hoạt động của mình.
Trên cơ sở nhận thức quy luật khách quan và những điều kiện hoạt động của nó, con
người có thể điều chỉnh sự tác động của quy luật khách quan theo mục đích của
mình. Để xác định chính xác khách quan và chủ quan, đỏi hỏi phải xác định rõ mối
quan hệ giữa khách thể (đối tượng) và chủ thể của từng hoạt động trong hiện thực.
Con người lao động sáng tạo để duy trì sự sống với chất lượng ngày càng cao của
mình. Qua đó, dần dần ý thức đầy đủ về những cái tồn tại đối diện, quy định hoạt
động của mình và giới hạn sức mạnh của bản thân mình.
Khách quan quyết định sự ra đời, nội dung, sự biến đổi của chủ quan. Đồng
thời, chủ quan không hoàn toàn thụ động mà có vai trò to lớn trong việc biến đổi,
cải tạo cái khách quan, thông qua hoạt động thực tiễn. Vai trò tác động trở lại của
chủ quan với khách quan được biểu hiện: con người có thể tác động vào điều kiện
khách quan, cải tạo những điều kiện khách quan cần thiết cho hoạt động của mình.
Trên cơ sở nhận thức quy luật khách quan và những điều kiện hoạt động của nó, con
người có thể điều chỉnh sự tác động của quy luật khách quan theo mục đích của
mình. Để xác định chính xác khách quan và chủ quan, đỏi hỏi phải xác định rõ mối
quan hệ giữa khách thể (đối tượng) và chủ thể của từng hoạt động trong hiện thực.
Con người lao động sáng tạo để duy trì sự sống với chất lượng ngày càng cao của
mình. Qua đó, dần dần ý thức đầy đủ về những cái tồn tại đối diện, quy định hoạt
động của mình và giới hạn sức mạnh của bản thân mình.
Khi nhận thức và hành động phải xuất phát từ bản thân sự vật, hiện tượng của
thực tế khách quan, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan, không lấy ý muốn
chủ quan của mình làm cơ sở định ra chính sách, không lấy ý chí áp đặt cho thực tế.
Nắm vững nguyên tắc khách quan đòi hỏi phải tôn trọng sự thật, tránh thái độ chủ
quan, duy ý chí, nóng vội, định kiến, thiếu trung thực. Yêu cầu của nguyên tắc khách
quan đòi hỏi phải tôn trọng quy luật khách quan và hành động theo quy luật khách quan.
Để thực hiện tốt nguyên tắc khách quan, đòi hỏi:
Phải luôn tôn trọng khách quan, xuất phát từ thực tế khách quan. Nhận thức
đúng đắn khách quan là tiền đề xác định mục tiêu, phương hướng, nội dung, biện
pháp phù hợp làm cơ sở cho hoạt động thực tiễn của chủ thể từng bước cải biến
khách quan theo mục đích đặt ra. Đó là thực chất của nguyên tắc khách quan của
triết học mácxít. Mặt khác, cần khắc phục và ngăn ngừa bệnh chủ quan, duy ý chí,
cũng như thái độ thụ động, ỷ lại, bảo thủ, trì trệ trong các hoạt động của con người.
Để khắc phục có hiệu quả bệnh chủ quan, duy ý chí, bảo thủ, trì trệ, thói quen ỷ lại, lOMoAR cPSD| 61573419
đòi hỏi phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp. Trước hết phải đổi mới tư duy lý luận,
nâng cao năng lực trí tuệ, trình độ lý luận. Trong hoạt động thực tiễn phải tôn trọng
và hành động theo quy luật khách quan. Kết hợp đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, đổi
mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, chống bảo thủ, trì trệ, quan liêu.
Đồng thời, luôn phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò
nhân tố con người. Nguyên tắc khách quan không bài trừ mà trái lại còn đòi hỏi con
người luôn phát huy tính năng động chủ quan, tính sáng tạo của ý thức. Để nhận thức
được sâu sắc và cải biến được thế giới khách quan theo nhu cầu của mình, con người
phải hình thành được mục đích, phương hướng, biện pháp và ý chí cần thiết cho hoạt
động của mình. Để nâng cao hiệu quả hoạt động thực tiễn của con người, đòi hỏi
Đảng, nhà nước phải có chiến lược giáo dục nhằm nâng cao trình độ tri thức khoa
học cho toàn dân và trình độ chuyên sâu cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là trong
điều kiện nền văn minh trí tuệ ngày nay. Mặt khác, phải bồi dưỡng lòng nhiệt tình,
ý chí cách mạng cho nhân dân, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng cho cán bộ,
đảng viên, đảm bảo sự thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học,
phẩm chất và năng lực, đạo đức và tài năng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống lý luận khoa học
phản ánh đúng đắn quy luật vận động tất yếu khách quan của lịch sử nhân loại nói
chung và tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam nói riêng. Thắng lợi của cách
mạng Việt Nam 85 năm qua từ khi có Đảng đã chứng minh tính đúng đắn của lý luận
khoa học và năng lực vận dụng sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Đảng
ta đã rút ra bài học: “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế,
tôn trọng quy luật khách quan”3. Đồng thời, cũng từ chính những sai lầm, thất bại
trong thực tiễn cách mạng mà Đảng ta đã chỉ rõ, phải ra sức học tập lý luận khoa học
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, để hành động theo quy luật khách
quan, chống duy tâm, duy ý chí, nóng vợi chủ quan, cũng như thái độ bảo thủ, tâm
lý ỷ nại, bảo thủ, trì trệ...
* Định hướng vận dụng, giải quyết mối quan hệ khách quan và chủ quan trong
lĩnh vực quân sự
Hoạt động quân sự là một lĩnh vực đặc thù của thực tiễn xã hội, nó luôn diễn ra
với cường độ cao, trong điều kiện hoàn cảnh khó khăn, phức tạp đòi hỏi cao cả về
trí lực và thể lực, thậm chí là sự đối mặt giữa sự sống và cái chết của mỗi chủ thể.
3 Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb CTQG, H. 1991, tr. 5.