Bài giảng môn Cải cách hành chính | Trường Đại học Hà Tĩnh
Bài giảng môn Cải cách hành chính | Trường Đại học Hà Tĩnh. Tài liệu được biên soạn dưới dạng file PDF gồm 39 trang, giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
1 CHƯƠNG 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Nền hành chính nhà nước
Nền hành chính nhà nước là một thuật ngữ được sử dụng nhiều trong hoạt động
quản lý nhà nước hiện nay. Xét một cách chung nhất, nền hành chính nhà nước là khái
niệm được dùng để chỉ tất cả những yếu tố bảo đảm cho hoạt động hành chính nhà
nước được tiến hành, bao gồm hệ thống thể chế hành chính nhà nước là nền tảng pháp
lý cho hoạt động hành chính nhà nước, hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước
hợp thành bộ máy hành chính nhà nước, đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong bộ
máy đó để thực thi công vụ và các nguồn nhân lực vật chất cần thiết để tiến hành hoạt
động hành chính bao gồm công sở, công sản và các nguồn lực tài chính khác.
Nền hành chính của một quốc gia là một thể thống nhất, ở đó, các yếu tố cấu thành
có một mối liên hệ gắn bó hữu cơ, chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Nền hành chính
nhà nước được điều hành thống nhất bởi Chính phủ nhằm bảo đảm tính hệ thống và ổn
định trong phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, để nền hành chính hoạt động tốt, hướng
đến việc đạt được mục tiêu chung, cần đảm bảo sự thống nhất, hài hòa, đồng bộ giữa
các yếu tố cấu thành và các chủ thể hành chính nhà nước ở các cấp trên cơ sở phân
định rõ thẩm quyền, chức năng của chúng.
1.1.2. Khái niệm cải cách
Thuật ngữ "cải cách" được sử dụng phổ biến trong ngôn ngữ phương Tây và
phương Đông, được hiểu là một quá trình, một hoạt động có ý thức, có mục đích làm
thay đổi, cải biến những cái cũ theo hướng tốt hơn hoặc thay thế cái cũ bằng cái mới.
Theo cách hiểu chung nhất, cải cách là những thay đổi có tính hệ thống và có mục
đích nhằm làm cho một hệ thống hoạt động tốt hơn. Cải cách có thể diễn ra ở những
cấp độ, mức độ khác nhau. Cải cách còn được xem là 2
"Một biện pháp giải quyết những đòi hỏi của thực tiễn với mục tiêu rõ ràng, chương
trình cụ thể và yêu cầu phải hoàn tất trong một thời gian nhất định".
1.1.3. Khái niệm cải cách hành chính nhà nước
Theo Từ điển Luật học thì cải cách hành chính (CCHC) là một chủ trương, công
cuộc có tính đổi mới nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của nhà nước.
Theo quan điểm của Liên hiệp quốc thì CCHC là những nỗ lực có chủ định nhằm
tạo nên những thay đổi cơ bản trong hệ thống hành chính nhà nước thông qua các cải
cách có hệ thống hoặc thay đổi các phương thức để cải tiến ít nhất một trong những
yếu tố cấu thành hành chính nhà nước: thể chế, cơ cấu tổ chức, nhân sự, tài chính công và tiến trình quản lý.
CCHC nhà nước chính là hoạt động có ý thức và mục đích của con người nhằm
hợp lý hóa, hay khắc phục các khiếm khuyết trong hoạt động hành chính nhà nước.
CCHC nhà nước được hiểu là những thay đổi có tính hệ thống, lâu dài và có mục
đích nhằm làm cho hệ thống hành chính nhà nước hoạt động tốt hơn, thực hiện tốt hơn
các chức năng, nhiệm vụ của mình. CCHC được xác định là hành vi có tính hướng đích
của con người nhằm cải biến nền hành chính của một quốc gia theo hướng hoàn thiện
hơn, đáp ứng được những yêu cầu nội tại từ chính bên trong nền hành chính và những
đòi hỏi từ xã hội, người dân và tổ chức. 1.2.
Mục đích và vai trò của cải cách hành chính nhà nước
1.2.1. Mục đích cải cách hành chính nhà nước
Thứ nhất, CCHC có mục đích lớn nhất là phục vụ người dân, tổ chức, doanh
nghiệp tốt hơn. Do đó, mức độ hài lòng của khách hàng là tiêu chí chính để đánh giá
hiệu quả CCHC của mỗi cơ quan bộ ngành, địa phương nói riêng và cả nền hành chính nói chung. 3
Thứ hai, CCHC nhằm mục đích thay đổi và làm hợp lý hóa bộ máy hành chính,
với mục đích tăng cường tính hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước. CCHC hướng tới
mục đích chung nhất là làm cho hệ thống trở nên hiệu quả hơn, chất lượng các thể chế
nhà nước đồng bộ, khả thi, đi vào cuộc sống, cơ chế hoạt động, chức năng, nhiệm vụ
của bộ máy, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan nhà nước
đạt hiệu quả, hiệu lực cao hơn.
Thứ ba, CCHC có mục đích là xây dựng một nền hành chính công chuyên
nghiệp, hiện đại, vận hành thông suốt, hiệu quả, một nền hành chính trong sạch, vững
mạnh, thống nhất, đồng bộ. Giảm thủ tục hành chính, quy trình hóa, minh bạch hóa,
siết chặt kỷ cương hành chính do đó trở thành nhiệm vụ chính, cốt yếu của hoạt động này.
Thứ tư, CCHC hướng tới mục đích tăng cường khả năng thích ứng của nền hành
chính trước những biến đổi không ngừng của bối cảnh bên trong và bên ngoài. Đồng
thời, đây cũng là yêu cầu của một nền hành chính hiện đại trong bối cảnh hội nhập, toàn cầu hóa.
1.2.2. Vai trò của cải cách hành chính nhà nước
Thứ nhất, CCHC nhà nước có vai trò quan trọng để đổi mới phương thức hoạt
động của nền hành chính, từ nội dung, phương pháp, lề lối làm việc, thống nhất từ
trung ương tới địa phương.
Thứ hai, CCHC thúc đẩy quá trình dân chủ, củng cố niềm tin của người dân, tăng
cường sự tham gia của người dân vào hoạt động của hành chính nhà nước nói riêng,
hoạt động quản lý nhà nước nói chung.
Thứ ba, CCHC giúp kiểm soát tốt hơn hoạt động hành chính nhà nước - vốn là
hoạt động có tính phức tạp, nhạy cảm.
Thứ tư, CCHC có vai trò thúc đẩy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức trong hệ thống hành chính nhà nước.
Thứ năm, CCHC giúp nâng cao chất lượng dịch vụ công, đáp ứng ngày càng tốt
hơn nhu cầu của người dân, tổ chức.
1.3. Sự cần thiết phải cải cách hành chính nhà nước
Cải cách nền hành chính nhà nước là một quá trình liên tục mang tính định nhằm
làm cho hoạt động thực thi quyền hành pháp ngày càng thích ứng hơn với yêu cầu của
sự vận động và phát triển nền kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia. Cải cách hành chính nhà
nước là một bộ phận của cải cách tổ chức và hoạt động của hệ thống bộ máy nhà nước 4 nói chung.
Các quốc gia phải thường xuyên cải cách nền hành chính bởi:
1.3.1. Yếu tố tác động bên ngoài
Có nhiều lý do khách quan đòi hỏi nền hành chính nhà nước phải được cải cách:
- Xu hướng phát triển chung của các nhà nước là phải thu hẹp phạm vi hoạt
động của bộ máy hành chính.
- Trình độ dân trí và tinh thần dân chủ ngày càng cao đã đặt ra những yêu cầu
nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành chính và người dân càng tham gia
trực tiếp vào công việc của cơ quan hành chính;
- Xu thế toàn cầu hóa hoá và hội nhập kinh tế đã đòi hỏi hoạt động hành chính
nhà nước phải thay đổi cả về hình thức, nội dung; phải tuân theo nhiều thông lệ quốc
tế trong hoạt động hành chính nhà nước.
- Khu vực phi chính phủ và kinh tế tư nhân ngày càng phát triển, tạo cơ hội để
họ tham gia nhiều hơn vào các lĩnh vực hoạt động vốn do nhà nước độc quyền.
- Trình độ khoa học công nghệ ngày càng phát triển nhanh chóng, điều này tác
động mạnh mẽ đến cách thức hoạt động của nền hành chính nhà nước. Điều này đặt ra
yêu cầu đổi mới, cải cách nền hành chính cho phù hợp với sự phát triển của khoa học công nghệ.
1.3.2. Các yếu tố tác động bên trong
Đó chính là những yếu kém, hạn chế, không phù hợp từ bên trong bộ máy hành
chính nhà nước. Kết quả phân tích cho thấy những hạn chế bên trong nền hành chính như sau:
Một là, nền hành chính công truyền thống vốn có sức ỳ và trì trệ, nhất là tồn tại
trong cơ chế tập trung, quan liêu. Nay chuyển sang nền kinh tế thị trường nhưng cơ chế
xin - cho vẫn tồn tại trong hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước.
Hai là, hệ thống thể chế hành chính nhà nước, nhất là thể chế về kinh tế rất chậm được đổi mới.
Ba là, tổ chức bộ máy quản chính nhà nước cồng kềnh, kém hiệu lực cần phải được
tổ chức lại cho phù hợp với hoàn cảnh mới.
Bốn là, phương thức tác động của chủ thể hành chính đến các đối tượng quản lý
cần được thay đổi theo yêu cầu quản lý vĩ mô nền kinh tế xã hội.
Năm là, hành chính nhà nước có nhiều cơ hội lựa chọn phương thức quản lý của
mình do có sự trợ giúp của công nghệ mới. 5
1.4. Nội dung cải cách hành chính nhà nước
1.4.1. Cải cách thể chế hành chính nhà nước
Cải cách thể chế - là xây dựng và hoàn thiện các thể chế mà trước hết là thể chế
kinh tế trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi
mới quy định xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật; đảm bảo tổ chức thực
thi pháp luật nghiêm của các cơ quan Nhà nước; cải cách thủ tục hành chính phù hợp.
Cải cách thể chế hành chính có thể được hiểu: (i) là cải cách quy trình xây dựng
và thông qua các VBQPPL liên quan đến hoạt động quản lý hành chính, nhằm làm rõ
trách nhiệm giữa cơ quan chủ trì soạn thảo, cơ quan phối hợp và lấy ý kiến của người
dân; (ii) là biểu hiện sự kết hợp giữa CCHC và cải cách lập pháp nhằm hoàn thiện các
chế định pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động quản lý hành chính phát sinh
trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; (iii) là việc xây dựng và hoàn thiện thể chế
về kinh tế, tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính, xây dựng và hoàn thiện các
chế định pháp luật để điều chỉnh các quan hệ pháp luật hành chính giữa các cơ quan nhà
nước với công dân, giữa các cơ quan hành chính nhà nước với các tổ chức, doanh nghiệp
và giữa các cơ quan, tổ chức với nhau.
Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu rộng như hiện nay, cải cách thể chế hành
chính luôn được coi là nhiệm vụ trọng tâm của cải cách hành chính mà trong đó cải cách
thủ tục hành chính (TTHC) là khâu đột phá. Những đổi mới này không chỉ tạo môi
trường pháp lý ổn định cho thị trường phát triển mà còn định hướng tốt cho sự phát triển
của thị trường và hỗ trợ các chủ thể kinh tế, củng cố niềm tin của các nhà đầu tư đối với
nhà nước và nền kinh tế Việt Nam.
1.4.2. Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước
Bộ máy hành chính nhà nước bao gồm hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước
ở trung ương và địa phương. Hoạt động của bộ máy này được trực tiếp thực hiện thông
qua từng cơ quan hành chính nhà nước. Hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà
nước nói chung và triển khai tổ chức thực hiện pháp luật, đưa pháp luật vào đời sống phụ
thuộc lớn vào chính năng lực của các cơ quan hành chính nhà nước cũng như bộ máy hành chính nhà nước.
Mỗi tổ chức và cả bộ máy hành chính nhà nước đều phải xác định thật rõ ràng, cụ
thể các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của từng yếu tố cấu thành. Tuy nhiên, hoạt
động quản lý hành chính nhà nước của các cơ quan hành chính nhà nước vẫn còn nhiều
vấn đề thách thức. Do vậy, cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước là đòi hỏi tất 6
yếu từ cả những nguyên nhân mang tính khách quan lẫn chủ quan.
Cải cách tổ chức bộ máy hành chính - là việc điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của
Chính phủ, các cơ quan Bộ, ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa
phương các cấp cho phù hợp với yêu cầu quản lí nhà nước trong tình hình mới; khắc
phục những chồng chéo về chức năng của các cơ quan nhà nước; chuyển một số công
việc sang cho tổ chức phi chính phủ đối với các công việc dịch vụ; thực hiện phân cấp
quản lý; cải tiến phương thức làm việc của cơ quan hành chính các cấp.
1.4.3. Cải cách chế độ công vụ, công chức
Đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức - bao gồm việc đổi mới
chế độ quản lí công chức; cải cách chế độ tiền lương của cán bộ công chức; đào tạo bồi
dưỡng cán bộ công chức, nâng cao tỉnh thần trách nhiệm và đạo đức của công chức.
Cải cách công vụ, công chức trên cơ sở chuyển nền công vụ chức nghiệp sang nền
công vụ theo vị trí việc làm để xây dựng nền công vụ tiên tiến, chuyên nghiệp và hiện
đại, phù hợp với mục tiêu hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế là một cuộc chuyển
đổi cơ bản, có tính cách mạng, phải vượt qua nhiều thách thức. Theo đó, xây dựng, nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức để họ có đầy đủ phẩm chất, năng lực mới theo
yêu cầu của một nền công vụ tiên tiến, chuyên nghiệp và hiện đại là nhiệm vụ hết sức
quan trọng, đòi hỏi cả hệ thống chính trị cùng dốc sức, quyết tâm thực hiện.
Cải cách chế độ công vụ, công chức tập trung vào các nội dung chính sau:
- Đổi mới, hoàn thiện các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ
trách nhiệm và trách nhiệm giải trình. Rà soát, hoàn thiện thể chế quản lý công vụ, công chức.
- Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức có số lượng, cơ cấu hợp lý, chuyên nghiệp, hiện đại.
- Xây dựng, thực hiện chế độ đãi ngộ và khuyến khích đối với cán bộ, công chức,
đặc biệt chú trọng cải cách cơ bản hệ thống tiền lương và các chính sách đãi ngộ khác đối với công chức.
- Xây dựng đạo đức, nâng cao phẩm chất và trách nhiệm của cán bộ, công chức.
- Chú trọng nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm đối với cán bộ, công chức.
- Kiện toàn bộ máy quản lý cán bộ, công chức phù hợp với hệ thống công vụ
chuyên nghiệp, hiện đại. 7
1.4.4. Cải cách tài chính công
Tài chính công là một bộ phận hợp thành nền hành chính của quốc gia, là công cụ
đảm bảo nguồn lực tài chính cho việc tồn tại và hoạt động có hiệu quả của Nhà nước. Tài
chính công huy động các nguồn lực từ mọi lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế, thành phần
xã hội để hình thành nên nguồn tài chính quốc gia và phân bổ nguồn lực đó cho các chủ
thể, đảm bảo sự hoạt động của tổ chức bộ máy nhà nước thực hiện các chức năng quản
lý, điều hành các lĩnh vực đời sống xã hội.
Tài chính công đóng vai trò định hướng, hướng dẫn cho hoạt động của các chủ thể
trong nền kinh tế, như việc hướng dẫn tiêu dùng, đầu tư qua các chính sách về thuế, qua
đó thúc đẩy phát triển kinh tế, nâng cao hiệu quả kinh doanh, định hướng đầu tư, điều
chỉnh cơ cấu của nền kinh tế theo lãnh thổ, ngành nghề, lĩnh vực...
Cải cách tài chính công là xu hướng phổ biến của các quốc gia trên thế giới vì yêu
cầu đảm bảo sự vận hành của nền hành chính đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội,
bảo đảm quốc phòng, an ninh và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Cải cách tài chính công bao gồm đổi mới cơ chế phân cấp quản lí tài chính và ngân
sách; bảo đảm quyền quyết định ngân sách địa phương; đổi mới cơ bản cơ chế tài chính
đối với khu vực dịch vụ công. Cải cách tài chính công là cải cách việc thu - chi ngân
sách nhà nước; doanh nghiệp nhà nước; tín dụng nhà nước; tài chính các cơ quan hành
chính nhà nước; tài chính các đơn vị sự nghiệp nhà nước; các quỹ tài chính nhà nước;
trong đó thu - chi ngân sách nhà nước là bộ phận quan trọng nhất...
Cải cách tài chính công phải đáp ứng một số yêu cầu như: Phải tạo điều kiện tập
trung nguồn lực tài chính nhà nước để giải quyết các nhiệm vụ quan trọng, đúng với
chức năng của nhà nước; sử dụng tập trung nguồn lực cho các ưu tiên chiến lược với
chính sách nhất quán, thống nhất và thực tế. Đồng thời, phải nâng cao được tính chủ
động, quyền hạn và trách nhiệm của các đơn vị trong việc quản lý, sử dụng kinh phí
ngân sách và với vấn đề tài chính của mình.
Cải cách tài chính công tập trung vào các nội dung cơ bản sau:
- Hoàn thiện hệ thống chính sách thu đi đôi với cơ cấu lại thu ngân sách nhà nước,
hướng đến xây dựng một hệ thống thuế đồng bộ, có cơ cấu bền vững, đảm bảo nhu cầu
chi tiêu cần thiết, hợp lý của ngân sách nhà nước.
- Hoàn thiện thể chế về quản lý ngân sách nhà nước, tăng cường hiệu quả phân bổ,
quản lý, sử dụng nguồn lực tài chính ngân sách nhà nước.
- Cơ cấu nợ công hợp lý, đảm bảo an ninh, an toàn tài chính công. 8
- Đẩy mạnh đổi mới quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp và đổi mới cơ
chế tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập.
- Tăng cường tính minh bạch tài chính và trách nhiệm giải trình trong quản lý và sử dụng nguồn lực công.
- Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý tài chính công.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát tài chính công.
- Tuyên truyền, vận động cán bộ, công chức, viên chức thực hành tiết kiệm, sử
dụng hợp lý tài sản công để tránh lãng phí.
1.4.5. Hiện đại hóa nền hành chính
Hiện đại hóa hành chính là xu hướng tất yếu trong bối cảnh cách mạng khoa học -
công nghệ phát triển mạnh mẽ hiện nay nhằm không chỉ làm tăng năng suất lao động mà
còn góp phần quan trọng thay đổi phương thức làm việc của cán bộ, công chức, hướng
tới một môi trường hành chính hiện đại. Xây dựng nền hành chính theo hướng chuyên
nghiệp, hiện đại, chuyển từ “quản lý” sang “phục vụ” là mục tiêu mà các cơ quan hành
chính nhà nước hướng tới. Để thực hiện được mục tiêu này yêu cầu đặt ra là phải tiếp tục
hiện đại hóa nền hành chính, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý nhà nước.
Ngay sau khi cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư xuất hiện ở Đức năm 2011,
đến tháng 5-2012, Mỹ công bố “Chiến lược Chính phủ số” (DGS) nhằm “xây dựng
Chính phủ số trong thế kỷ XXI - bảo đảm các dịch vụ số mang lại sự phục vụ tốt hơn
cho người dân”, trong đó đề cập đến xây dựng thành phố thông minh - lĩnh vực mà Mỹ
đang đi đầu. Năm 2014, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) lần đầu tiên đưa
ra khuyến nghị về các chiến lược chính phủ số. Khác với Chính phủ điện tử (E-
Government) sử dụng các công nghệ thông tin và truyền thông (ICT), đặc biệt là internet
như một công cụ để đạt được hiệu quả quản lý tốt hơn, Chính phủ số (D-Government) sử
dụng các công nghệ số như một phần thiết yếu trong các chiến lược hiện đại hóa chính
phủ để tạo ra các giá trị công tốt nhất. Quá trình này dựa trên một hệ sinh thái chính phủ
số, bao gồm các tác nhân liên quan đến chính phủ, các tổ chức phi chính phủ, doanh
nghiệp, tổ chức xã hội và người dân, tạo ra dữ liệu, thúc đẩy truy cập dữ liệu, dịch vụ và
các nội dung thông qua tương tác đa chiều với chính phủ.
Năm 2018, Liên hợp quốc đưa ra một khung phương pháp luận mới để đánh giá
chính phủ điện tử của các quốc gia, yêu cầu các nước cần ưu tiên Chương trình chuyển
đổi số (DA) và các nguyên tắc về Chính phủ số (DGP). Khung phương pháp luận mới 9
này gắn liền với các mục tiêu trong Chương trình Nghị sự 2030 về phát triển bền vững
của Liên hợp quốc. Đồng thời, trong khung phương pháp luận này cũng đưa ra khái niệm
khung Chính phủ số (DGF) nhằm bao quát các vấn đề và lĩnh vực khác nhau liên quan
đến việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến cho người dân, doanh nghiệp. Tháng 3-2018,
bộ phận chịu trách nhiệm đánh giá và xuất bản báo cáo về Chính phủ điện tử của Liên
hợp quốc cũng được đổi tên từ Ban Quản trị công và Quản lý phát triển (DPADM) thành
Ban các Tổ chức công và Chính phủ số (DPIDG), trong đó thành lập riêng một Nhóm
phụ trách về Chính phủ số. Sự thay đổi tên gọi mới phản ánh sự sắp xếp, cơ cấu lại các
bộ phận chức năng để phù hợp với Chương trình Nghị sự 2030 về phát triển bền vững.
Sự thay đổi này nằm trong kế hoạch cải tổ của Ủy ban các vấn đề kinh tế - xã hội của
Liên hợp quốc (UNDESA) nhằm hỗ trợ tốt hơn các nước thành viên thực hiện Chương
trình 2030 và các Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs). 10 CHƯƠNG 2.
CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI
Hiện nay, cải cách khu vực công ở các quốc gia trên thế giới trở thành một hoạt
động phổ biến, có những điểm chung trong nội dung, phương thức, biện pháp tiến
hành cải cách. Các nước tập trung vào CCHC với những nhiệm vụ trọng tâm xác định
rõ vai trò của Nhà nước (Chính phủ), đẩy mạnh phân quyền, tư nhân hóa (xã hội hóa),
cắt giảm chi tiêu ngân sách, hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật, tinh gọn bộ máy,
nâng cao năng lực đội ngũ công chức, nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ công,
hiện đại hóa nhằm giúp nền hành chính thông suốt, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đáp
ứng các yêu cầu của công dân, doanh nghiệp, thích ứng với thay đổi xã hội và hội nhập thế giới.
Tuy nhiên, xuất phát từ từ trình độ phát triển của nền hành chính, từ điểm đặc thù
về tự nhiên, địa lý, kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, lịch sử, tôn giáo,... của từng quốc
gia, CCHC ở các nước có nhiều điểm khác biệt. Phạm vi, nội dung, mục tiêu, cấp độ,
tiêu chí của cải cách cũng khác nhau giữa các nước, giữa các giai đoạn, thời kỳ nhất định.
2.1. Các xu hướng cải cách hành chính trên thế giới
Ngày nay, cải cách hành chính nhà nước là một tiến trình diễn ra ở hầu hết các
nước trên thế giới. Nhiều quốc gia coi cải cách hành chính là một phương thức tất yếu để
nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước và là nhân tố
quan trọng để thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Có thể nhận thấy một trong những
xu hướng chung của cải cách hành chính trên thế giới hiện nay là hướng tới làm thế nào
xây dựng một chính phủ gọn nhẹ hơn để có thể vận động một cách nhanh nhạy và hiệu
quả hơn nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh của Nhà nước trong bối cảnh toàn cầu
hóa. Xu hướng này ở các nước phát triển thường được thể hiện qua thuật ngữ “Quản lý
công mới” (Anh), “Tái tạo lại Chính phủ” (Mỹ), “Mô hình quản lý mới” (CHLB Đức),
“Hành chính công định hướng hiệu quả” (Thụy Sỹ)… Cuộc cải cách này không chỉ
mang ý nghĩa của một cuộc thay đổi nội bộ mà còn phản ánh một xu hướng mới trong
hoạt động của Nhà nước: Nền hành chính không chỉ làm chức năng “cai trị” mà chuyển
dần sang chức năng “phục vụ”, cung cấp các dịch vụ công cho xã hội.
Ở mỗi quốc gia, tùy thuộc vào điều kiện phát triển cụ thể mà việc cải cách hành
chính tập trung vào những khâu, những bộ phận nhất định. Do đó, phạm vi và nội dung 11
cải cách hành chính ở các quốc gia khác nhau là không giống nhau song tựu chung lại
có các xu hướng cải cách hành chính sau:
2.1.1. Nâng cao hiệu quả hoạt động của Chính phủ
Mục tiêu của mô hình quản lý công mới là làm tăng hiệu quả hoạt động do đó các
nhà quản lý phải tính toán, dự đoán, sáng tạo và năng động để đạt được mục tiêu. Họ
không quan tâm đến chu trình, cách thức tiến hành mà quan tâm đến mục tiêu cần đạt
được, cụ thể là hiệu quả đo đếm được bằng một hệ thống chỉ tiêu đánh giá, so sánh giữa kết quả và chi phí.
Bên cạnh hiệu quả về mặt kinh tế, thước đo để đánh giá hoạt động quản lý hành
chính còn được đo bằng hiệu quả xã hội như mức độ phục vụ, mức độ thỏa mãn, hài lòng
của xã hội đối với nền hành chính,…
Với mục đích tăng cường hiệu quả của hoạt động hành chính nhà nước, thay cho
việc kiểm soát nghiêm ngặt các yếu tố đầu vào và quy trình, thủ tục như trong mô hình
truyền thống, trong mô hình Quản lý công mới người ta hướng tới việc kiểm soát đầu ra,
đánh giá các hoạt động theo kết quả thu được. Điều này giúp cho các cơ quan hành chính
nhà nước và cán bộ, công chức có thể phát huy tính sáng tạo trong quá trình thực thi
công vụ, cải tiến quy trình, thủ tục cho phù hợp với đặc điểm của mỗi công việc và theo
hoàn cảnh cụ thể để mang lại hiệu quả hoạt động cao nhất.
2.1.2. Nâng cao chất lượng dịch vụ công
Quá trình tư nhân hóa là giải pháp mạnh mẽ nhất được áp dụng trong cải cách hành
chính ở các nước phát triển. Các nhà nước theo đuổi mô hình Quản lý công mới luôn tìm
cách giảm bớt số lượng và quy mô của các dịch vụ vốn trước đây do nhà nước tự mình
cung cấp và chuyển giao lại cho khu vực tư nhân đảm nhiệm. Quá trình tái cơ cấu khu
vực công bằng cách chuyển giao cho tư nhân và huy động các nguồn lực của tư nhân
tham gia cùng với nhà nước cung cấp dịch vụ công làm giảm gánh nặng chi ngân sách
của nhà nước, giảm nợ công, đồng thời giúp bộ máy nhà nước tái cơ cấu để trở nên gọn
nhẹ hơn, vận động nhanh nhạy hơn, đáp ứng các đòi hỏi của quá trình toàn cầu hóa.
Nhưng việc đẩy mạnh tư nhân hoá không đồng nghĩa với việc giảm trách nhiệm của Nhà
nước trong việc cung cấp dịch vụ cho công dân và xã hội. Thay cho việc trực tiếp đứng
ra cung cấp các hàng hoá và dịch vụ công thiết yếu ("chèo thuyền"), Nhà nước chỉ cần
đứng ra điều tiết, đảm bảo sự có mặt của các hàng hoá và dịch vụ công đó, việc trực tiếp
cung ứng được giao cho các chủ thể khác ("lái thuyền").
Các nước trên thế giới áp dụng nhiều biện pháp để nâng cao chất lượng dịch vụ 12 công như:
Thứ nhất, cải tiến thủ tục hành chính để phục vụ nhân dân nhanh, gọn, có hiệu quả
và công bằng. Những hoạt động để cải tiến thủ tục hành chính có thể thông qua việc đơn
giản hóa, giảm số lượng các thủ tục hành chính hoặc áp dụng mô hình "một cửa – one
stop shop" trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Hiện nay, các nước trên thế
giới đều áp dụng mô hình "một cửa", nghĩa là một loại công việc được xác định và do
một cơ quan quản lý thực hiện. Mô hình "một cửa" cũng là tiền đề quan trọng để áp dụng
hệ thống tiêu chuẩn chất lượng ISO vào quản lý hành chính nhà nước.
Thứ hai, xây dựng các quy định chính thức về trách nhiệm của nhà nước trong cung
ứng dịch vụ công cho xã hội như "Hiến chương khách hàng", bộ tiêu chuẩn dịch vụ...
Thiết lập cơ chế tiếp nhận và xử lý phản hồi của người sử dụng dịch vụ công một cách
nhanh chóng và có hiệu quả.
Thứ ba, tư nhân hóa và thiết lập đối tác công – tư trong hoạt động cung ứng các dịch vụ công.
Nhiều nước đã chuyển một số dịch vụ công trước kia do Nhà nước độc quyền cung
ứng như: giáo dục, y tế, cung cấp điện – nước, vệ sinh công cộng, phục vụ cơ quan và
các dịch vụ khác cho khu vực tư nhân đảm nhận. Tuy nhiên, đây là lĩnh vực mang tính
phục vụ là chính nên mặc dù đã chuyển giao cho khu vực tư nhân, Nhà nước vẫn có
trách nhiệm kiểm soát để đảm bảo người dân được cung ứng các dịch vụ một cách tốt
nhất. Mặt khác, do chuyển những dịch vụ này cho khu vực tư nhân nên bộ máy hành
chính gọn nhẹ hơn để tập trung vào việc hoạch định và thực thi chính sách.
Trong bối cảnh chung của nền kinh tế thị trường, đối tác công – tư trong hoạt động
cung ứng dịch vụ sẽ là một giải pháp quan trọng nhằm hoàn thiện hoạt động cung ứng
dịch vụ công. Đối tác công – tư thực chất là sự liên kết giữa các chủ thể của khu vực
công với khu vực tư (tư nhân, tổ chức phi chính phủ, tổ chức phi lợi nhuận, nhóm cộng
đồng) nhằm cung cấp các dịch vụ công và các sản phẩm khác. Đối tác công – tư trong
hoạt động cung cấp dịch vụ công không phải là sự chuyển trách nhiệm cung cấp dịch vụ
công từ nhà nước sang các khu vực khác. Trong mô hình đối tác này, trách nhiệm đối với
việc cung cấp dịch vụ công vẫn thuộc về nhà nước. Mô hình đối tác chỉ nhằm tạo ra
những cách thức để nhà nước có thể cung cấp dịch vụ công tốt hơn.
2.1.3. Tăng cường sự tham gia của người dân vào hoạt động hành chính nhà nước
- Xây dựng nền hành chính phục vụ nhân dân với quan điểm "coi công dân như
khách hàng" và đưa nền hành chính về gần dân, làm cho dân gắn với hoạt động của 13 Chính phủ.
Trong tiến trình cải cách hành chính nhà nước, vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu
đề cập đến là mối quan hệ giữa nhà nước và công dân được xác lập trên nguyên tắc nào
và nhà nước làm gì để đáp ứng nhu cầu của công dân. Một số nước đã và đang áp dụng
các nguyên tắc của "Quản lý chất lượng toàn bộ - TQM", trong tiến trình cải cách hành
chính. Nguyên tắc cơ bản của TQM là lấy công dân làm trung tâm của mọi hoạt động và
việc đáp ứng đòi hỏi của công dân là mục tiêu quan trọng trong mọi chiến lược cải cách.
Tuy nhiên, việc chuyển đổi từ một nền hành chính "cai trị" sang nền hành chính "phục
vụ" là một quá trình khó khăn mà trước hết cần thay đổi tư duy về vai trò của người dân trong nền hành chính.
- Tăng cường sự tham gia của nhân dân vào quản lý nhà nước, tạo ra hệ thống quản
lý mở, tạo cơ hội để nhân dân có thể bày tỏ quan điểm của mình để hoàn thiện các chính
sách, quyết định nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hành chính công.
Để khuyến khích sự tham gia của người dân, các nước áp dụng nhiều biện pháp
như: Tạo điều kiện cho người dân được biết những gì đang diễn ra trong hệ thống hành
chính theo quy định của Luật về tiếp cận thông tin; Mở rộng khả năng tiếp cận của công
dân với các cơ quan quản lý hành chính nhà nước cả về thời gian lẫn nội dung; Đơn giản
hóa và đa dạng hóa các hình thức tham gia của công dân; Mở rộng hình thức tư vấn nhân
dân và phản biện xã hội; Thông báo công khai các ý kiến của nhân dân mà hành chính
nhà nước đã nhận được…
Một trong những đặc trưng tiêu biểu nhất của mô hình quản trị nhà nước tốt chính
là tăng cường sự tham gia của xã hội đối với hoạt động của hệ thống hành chính từ trung
ương đến địa phương. Các cá nhân, tổ chức trong xã hội có thể tham gia vào hoạt động
của Chính phủ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua người đại diện hoặc các tổ chức hợp pháp.
Bên cạnh đó, khi ban hành và tổ chức thực hiện các quyết định hành chính, các
chính sách, những đối tượng dễ tổn thương nhất trong xã hội được các chủ thể quản lý
quan tâm hợp lý. Các cơ quan chức năng phải thông báo và sắp xếp các buổi gặp gỡ với
công dân để đảm bảo quyền tự do ngôn luận và đảm bảo mọi nguyện vọng của công dân
được bày tỏ và thực hiện.
2.1.4. Đẩy mạnh phân quyền
Hướng tới một nền hành chính hiệu quả, nhiều Chính phủ đã và đang chuyển giao
bớt thẩm quyền từ Trung ương xuống địa phương. Một nguyên tắc quan trọng trong 14
phân quyền là việc gì cấp dưới có khả năng làm tốt, tiện lợi hơn cho dân và doanh
nghiệp thì kiên quyết phân cấp để cấp dưới làm và chịu trách nhiệm trên cơ sở bảo đảm
tính thống nhất và thể chế quản lý nhà nước.
Xu hướng này một mặt tăng cường sự quản lý thống nhất và sự điều hành vĩ mô
của Chính phủ Trung ương đối với toàn quốc và địa phương; mặt khác tăng cường thẩm
quyền và trách nhiệm của chính quyền địa phương, phát huy tính chủ động của địa phương.
Như vậy có thể hiểu phân quyền là hình thức tổ chức nền hành chính theo cách giao
cho một cộng đồng dân cư, một đơn vị hành chính hay cho một công sở quyền tự quản lý
với những nhiệm vụ, quyền hạn nhất định, có tư cách pháp nhân riêng nhưng tất cả chịu
sự kiểm soát của Nhà nước.
Có 2 hình thức phân quyền là phân quyền theo lãnh thổ và theo chức năng.
Phân quyền trong cải cách hành chính nhằm đạt các mục đích sau:
- Tăng cường hoạch định chính sách ở cấp hành chính Trung ương bằng cách giảm
bớt các hoạt động có tính chất tác nghiệp.
- Phát huy tính chủ động, sáng tạo của chính quyền địa phương, làm cho nền hành
chính sát và phù hợp hơn với đặc điểm kinh tế - xã hội địa phương.
- Phát triển dịch vụ đa dạng hơn theo hướng người tiêu dùng là khách hàng; làm
cho dịch vụ công cộng có hiệu quả cao.
- Phát triển nền dân chủ, tăng cường sự tham gia của công dân trong nền hành chính công.
- Thúc đẩy sự công bằng, giúp cho các công dân dễ dàng giám sát hoạt động của các nhà chức trách.
2.1.5. Cải cách chế độ công vụ
Công vụ, công chức là yếu tố quan trọng cấu thành nên nền hành chính công do nó
quyết định sự thành công hay thất bại của mọi tổ chức. Xu hướng chung của các nước là
cải cách công vụ theo hướng dân chủ, công bằng, cạnh tranh, lấy năng lực làm việc và
công trạng là tiêu chí cơ bản trong tuyển dụng và đề bạt. Các giải pháp cơ bản trong cải
cách công vụ bao gồm: Cải cách chế độ tiền lương; Áp dụng các mô hình quản lý công
chức mới; Tăng cường đào tạo công chức hành chính; Chú trọng tới đạo đức công chức.
Trong lĩnh vực nhân sự, các cơ quan nhà nước đưa các yếu tố của mô hình quản lý
nguồn nhân lực từ lâu đã là một động lực quan trọng trong khu vực tư nhân vào khu vực
nhà nước thay thế cho mô hình quản trị nhân sự truyền thống. Quá trình thay đổi này 15
khiến cho đội ngũ công chức hoạt động tích cực hơn và mang lại hiệu quả hoạt động cao
hơn. Đồng thời, việc giao lưu nhân sự giữa khu vực công và khu vực tư trở nên dễ dàng
hơn và nhờ đó những ý tưởng quản lý theo kiểu doanh nghiệp được vận dụng vào khu
vực nhà nước cũng ngày càng nhiều hơn.
2.1.6. Vận dụng các nguyên tắc và phương pháp quản lý doanh nghiệp vào hành
chính nhà nước
Việc vận dụng các nguyên tắc và phương pháp quản lý doanh nghiệp vào hành
chính nhà nước, đặc biệt vào quản lý cơ quan hành chính nhằm nâng cao tính kinh tế,
hiệu lực và hiệu quả của hành chính. Nhiều phương pháp, nguyên tắc quản lý có hiệu
quả của khu vực tư được đưa vào áp dụng trong khu vực công như: Quản lý theo mục
tiêu MBO, cạnh tranh, đấu thầu…
2.1.7. Hiện đại hóa nền hành chính nhà nước
Việc ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại vào các hoạt động hành
chính góp phần quan trọng làm giảm số lượng nhân sự và nâng cao năng suất lao động
trong các cơ quan nhà nước. Ngoài ra, việc ứng dụng khoa học-công nghệ còn làm thay
đổi cách thức làm việc, ứng xử của đội ngũ cán bộ, công chức theo hướng chuyên nghiệp.
Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới hướng tới việc xây dựng chính phủ điện tử
(E-Government) hoặc chính phủ số (D-Government). Các nước kỳ vọng ba vấn đề chủ
yếu thông qua chính phủ điện tử là:
- Cung cấp các loại thông tin của chính phủ cho công dân, các doanh nghiệp ngay tại cổng Internet;
- Trao đổi thông tin giữa chính phủ và công dân, các nhà doanh nghiệp, các tổ chức
khác thông qua mạng dưới hình thức: thư điện tử, hội nghị trực tuyến, đường dây nóng qua Internet;
- Cung cấp các loại dịch vụ (dịch vụ hành chính/pháp lý) cho công dân, doanh
nghiệp qua mạng Internet; đăng ký kinh doanh; cấp giấy phép, kê khai thuế...
2.2. Cải cách hành chính ở một số quốc gia cụ thể
2.2.1. Cải cách hành chính ở Hoa Kỳ
1) Về cải cách tổ chức bộ máy
Là quốc gia phân quyền mạnh mẽ, Mỹ quy định trong Hiến pháp Liên bang: “Sẽ
đảm bảo cho mỗi bang trong Liên bang này một thể chể chính quyền Cộng
hòa”(Khoản 4 Điều 4). Trên cơ sở đó, Chính quyền địa phương được trao quyền chủ 16
động mạnh mẽ trong quản lý trên địa bàn, nhờ đó chính quyền địa phương đã đại diện
tốt hơn cho cộng đồng mà mình phục vụ, đảm bảo minh bạch và dễ tiếp cận hơn với
công dân trong quá trình hoạt động. Với tinh thần "Sáng tạo lại Chính phủ", Chính
quyền địa phương ở Mỹ đã tự chuyển mình một cách hữu hiệu sang mô hình chính
quyền với tinh thần doanh nghiệp. Mô hình này đang phát triển mạnh trong những năm
gần đây với phong trào đổi mới hoạt động của Chính phủ theo hướng doanh nghiệp
bằng cách thuê một nhà quản lý chuyên nghiệp để quản lý và thi hành chính sách do
Hội đồng thành phố lập ra.
Trong cuốn sách “Tái sáng tạo Chính phủ” (Reinventing Government) xuất bản năm
1991, tác giả David Osborne và Ted Gaebler đã luận chứng cho sự cần thiết chuyển đổi
từ mô hình các cơ quan hành chính tập quyền, thứ bậc sang mô hình các tổ chức phân
quyền, hoạt động theo chức năng thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và mang
tinh thần doanh nghiệp, đáp ứng các yêu cầu của cách mạng khoa học - công nghệ với
mũi nhọn là công nghệ thông tin. Bộ máy hành chính cồng kềnh với các thủ tục quan
liêu, chồng chéo trước đây đã cản trở sự phát triển kinh tế, không khuyến khích doanh
nghiệp đổi mới sáng tạo để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế. Vì vậy, yêu cầu đặt ra
là cần tái tạo để “chính phủ mang tinh thần doanh nghiệp” với 10 nguyên tắc: 1) Chính
phủ đóng vai trò “chất xúc tác”: chú trọng vào việc “định hướng” thay vì “thực hiện”; 2)
Chính phủ dựa trên cộng đồng: tăng cường quyền hạn thay vì trực tiếp phục vụ; 3) Chính
phủ có tính cạnh tranh: tạo cạnh tranh trong các quá trình sử dụng dịch vụ công; 4)
Chính phủ hoạt động dựa trên thực tiễn: thay đổi những tổ chức nặng về quy chế, thủ tục
hành chính; 5) Chính phủ hoạt động theo định hướng kết quả: không cấp kinh phí trên cơ
sở yếu tố đầu vào mà căn cứ vào kết quả đầu ra; 6) Chính phủ quan tâm tới khách hàng:
đáp ứng các nhu cầu của mọi công dân chứ không phải yêu cầu từ nội tại của bộ máy
hành chính; 7) Chính phủ dám mạo hiểm: đầu tư để tăng thêm nguồn thu; 8) Chính phủ
có tầm nhìn: phòng ngừa hơn là chữa trị; 9) Chính phủ phân quyền: chuyển từ thứ bậc
hành chính sang tăng cường sự tham gia và cách thức làm việc nhóm; 10) Chính phủ
hoạt động theo định hướng thị trường: vận dụng cơ chế thị trường để tạo động lực thay đổi.
Mười nguyên tắc trên đặt ra yêu cầu đổi mới cơ bản hệ thống - cấu trúc của các
cơ quan hành chính, doanh nghiệp nhà nước tại Mỹ nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh trong nước và quốc tế, bảo đảm minh bạch, trách nhiệm giải trình đối với kết quả
cuối cùng cũng như huy động tối đa sự chung tay, góp sức của cộng đồng và xã hội. 17
Định hướng này giúp chính quyền Mỹ tạo nên những bước đột phá trong hiện đại hóa
quản trị công nói chung và cải cách hành chính nói riêng. Đồng thời, các nguyên tắc
này cũng có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong quá trình hoạch định chương
trình hiện đại hóa quản trị công của các quốc gia khác trên thế giới. 2) Về cải cách công vụ
Nguyên tắc tuyển dụng thi tuyển là công bằng, công khai, mở, cạnh tranh. Công
bằng thể hiện trên hai phương diện chính là công bằng về cơ hội và công bằng trong
đánh giá chất lượng của người dự tuyển qua kết quả thi tuyển, tập trung vào điều kiện
về năng lực chuyên môn theo đúng “chế độ thực tài”.
3) Về cải cách ngân sách
Một trong những cải cách nổi bật về ngân sách trong những năm gần đây của Mỹ
là quy định “ngân sách kiểm soát chi”. Quy định này cho phép ngân sách của chính
quyền địa phương trong trường hợp không chi hết ngân sách năm đó được linh hoạt
chuyển sang năm sau, thay vì việc bị cắt giảm. Chính vì sự linh hoạt của ngân sách
như cách làm của một doanh nghiệp, cải cách này giúp chính quyền địa phương Mỹ
hoạt động hiệu quả hơn.
4) Về hiện đại hóa nền hành chính
Nước Mỹ đã xây dựng và thực hiện hiệu quả chính quyền điện tử từ những năm
2000 cho đến nay. Vào những năm 2000, trong số 84% cổng web điện tử của các bang
Hoa Kỳ, các dịch vụ công được tổ chức dựa trên những nhu cầu nảy sinh thường
xuyên nhất trong cuộc sống hàng ngày của người Mỹ. Cổng điện tử của Khối thịnh
vượng chung bang Virginia cung cấp trang “Tìm kiếm nhanh” (Find it Fast) liên kết
tới hơn 35 dịch vụ công được người dân tiếp cận nhiều nhất. Từ trang này, bất cứ ai
cũng có thể liên kết trực tiếp với các dịch vụ cấp phép kinh doanh, đặt chỗ công viên
và khu cắm trại của Nhà nước, chứng thực khai sinh,... mà không cần biết tổ chức
chính quyền nào giải quyết những yêu cầu đó.
Năm 1991, mạng lưới thông tin toàn cầu ra đời. Ngày 3/12/1992, giao thức viễn
thông dịch vụ tin nhắn ngắn (SMS) lần đầu tiên xuất hiện. Sự phát triển của công nghệ
thông tin và internet trên thế giới đã thúc đẩy xu hướng xây dựng chính phủ điện tử và
Mỹ là quốc gia đi tiên phong trong lĩnh vực này. Trong Thông điệp Liên bang Mỹ năm
1996, Tổng thống Mỹ B. Clin-tơn đã nhấn mạnh: “Kỷ nguyên của chính phủ lớn đã
qua”. Có thể thấy, xây dựng “chính phủ nhỏ nhưng mạnh” trở thành nhu cầu tất yếu 18
khách quan và có khả năng trở thành hiện thực nhờ áp dụng các thành tựu mới nhất của
cách mạng khoa học - công nghệ với mũi nhọn là công nghệ thông tin.
Ngay sau khi cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư xuất hiện ở Đức năm 2011,
đến tháng 5-2012, Mỹ công bố “Chiến lược Chính phủ số” (DGS) nhằm “xây dựng
Chính phủ số trong thế kỷ XXI - bảo đảm các dịch vụ số mang lại sự phục vụ tốt hơn
cho người dân”, trong đó đề cập đến xây dựng thành phố thông minh - lĩnh vực mà Mỹ đang đi đầu.
2.2.2. Cải cách hành chính ở Singapore
Có diện tích nhỏ, dân số ít, tài nguyên thiên nhiên hầu như không có, nhưng
Singapore là một hình mẫu phát triển kinh tế đầy năng động trong nhiều năm qua và
cũng được coi là “một con hổ” của châu Á. Sự thần kỳ trong quản lý và phát triển kinh tế
của nước này xuất phát từ việc CCHC được quan tâm thực hiện từ đầu những năm 70
của thế kỷ XX và có chính sách thu hút nhân tài rõ ràng, đúng đắn. Vào những năm 80,
giới lãnh đạo Singapore đề ra phong trào "hướng tới sự thay đổi" mà trọng tâm là đổi
mới cơ chế quản lý để thích ứng với sự thay đổi. Đến năm 1991 khởi động chương trình
cải cách mang tên "Nền công vụ thế kỷ 21" nhằm xây dựng nền công vụ có hiệu quả,
hiệu lực với lực lượng công chức liêm chính, tận tuỵ, có năng suất lao động và chất
lượng dịch vụ cao. Một số biện pháp đồng bộ đã được áp dụng, đó là:
- Áp dụng bộ quy chuẩn ISO 9000 trong BMHC, coi đó vừa là công cụ cải tiến lề
lối làm việc, vừa là công cụ đánh giá hiệu quả, phân loại công chức.
- Đưa tinh thần "doanh nghiệp" vào hoạt động của BMHC mà cốt lõi là lấy hiệu quả làm thước đo.
- Thành lập Uỷ ban hỗ trợ doanh nghiệp nhằm tìm hiểu, đánh giá và đề xuất
phương án giải quyết các kiến nghị của doanh nghiệp.
- Đề ra Chương trình xoá bỏ cách làm việc quan liêu, nhiều tầng nấc của BMHC
với mục tiêu là việc gì cũng phải có cơ quan chịu trách nhiệm.
- Thường xuyên rà soát để loại bỏ những quy định lỗi thời không còn phù hợp.
- Đặc biệt chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức, coi đó là giải
pháp cơ bản nhất để xây dựng nền công vụ có hiệu quả.
1) Cải cách thể chế hành chính
Singapore lâu nay nổi tiếng là đất nước có nhiều luật lệ, chế tài áp dụng cho những
hành động nhỏ nhất, như vứt bã cao su ra đường. Tuy nhiên cùng với phong trào PS21,
việc rà soát thu gọn thủ tục và loại bỏ những quy định lỗi thời trở thành nhu cầu cấp 19
bách, dẫn đến sự ra đời của cuộc vận động xóa bỏ thói quan liêu. Việc loại bỏ những quy
định không còn cần thiết giúp giảm gánh nặng lên khách hàng, đồng thời khiến nền công
vụ trở nên gọn nhẹ, hiệu quả hơn.
Cuộc vận động xóa bỏ thói quan liêu được thực hiện thông qua nhiều cơ chế: Hội
đồng Vì Doanh nghiệp (PEP), Quy trình Zero (ZIP), Công chức Xóa bỏ Quan liêu
(POWER) và Hội đồng Rà soát Luật lệ (RRP). Thông qua các kênh này cũng như ý kiến
từ công chúng, ngành dịch vụ công tìm ra nhiều cách để hoàn thiện quy định, bao gồm
đơn giản hóa, xóa bỏ hoặc nới lỏng.
RRP ra đời năm 2002 nhằm giám sát quy trình rà soát luật lệ trong khu vực công.
Mọi quy định hiện hành của các cơ quan công quyền đều phải được rà soát mỗi 3 đến 5
năm. Chỉ trong 5 năm đầu tiên, tổng cộng 19.4000 quy định đã được xem xét lại.
Năm 2005, RRP được nâng cấp thành Ủy ban Luật lệ Thông minh (SRC) với quyền
hạn lớn hơn, không chỉ có vai trò rà soát luật lệ mà còn làm nhiệm vụ phát triển tư duy,
văn hóa và khả năng cạnh tranh. Chỉ số của Singapore trên bảng xếp hạng "Dễ dàng kinh
doanh" của Ngân hàng Thế giới (tính đến tháng 6/2017, Singapore xếp thứ 2) được SRC
theo dõi, các cơ quan công quyền được khuyến khích tiến hành tự rà soát luật lệ.
Các cơ quan cũng ngăn chặn thói quan liêu trong tương lai ngay từ lúc manh nha,
chẳng hạn bằng cách đưa ra "luật hoàng hôn" theo đó các quy định sẽ tự động hết hiệu
lực sau một mốc thời gian nhất định, hoặc bằng cách đưa ra danh sách những việc không
được làm thay vì những việc được làm.
2) Về cải cách chế độ công vụ
Nhà nước đã có chính sách cụ thể trong việc trả lương xứng đáng cho cán bộ,
công chức, qua đó hạn chế tối đa nạn tham nhũng, minh bạch hóa chính phủ, tạo đà cho
cán bộ công chức dành hết tâm sức cho công việc được giao.
Có chính sách thu hút và sử dụng nhân tài ngoại quốc rất bài bản, từ hàng chục
năm nay, Singapore đã xác định rằng, người tài là yếu tố then chốt quyết định khả năng
cạnh tranh và phát triển của nền kinh tế với bước đột phá là việc sử dụng nhân tài ngoại
quốc trong bộ máy nhà nước. Một Bộ trưởng của Singapore đã tuyên bố, Singapore tích
cực tham gia vào "cuộc chiến toàn cầu để giành giật nhân tài", còn cựu Thủ tướng Lý
Quang Diệu từng khẳng định: "Nhân tài nước ngoài là chìa khoá bước tới tương lai",
chính vì thế, "các công ty cần các nhân tài hàng đầu để cạnh tranh trên toàn cầu".
Với Singapore, những kết quả đạt được trong quản lý và phát triển kinh tế của nước
này xuất phát từ việc CCHC được quan tâm thực hiện từ đầu những năm 1970 và có 20
chính sách thu hút nhân tài rõ ràng, đúng đắn, đặc biệt là từ năm 1991, Singapore khởi
động chương trình “Nền công vụ thế kỷ 21”. Một số biện pháp đồng bộ đã được áp
dụng, đó là: Bộ quy chuẩn ISO 9000 trong bộ máy hành chính; đưa tinh thần “doanh
nghiệp” vào hoạt động của bộ máy hành chính mà cốt lõi là lấy hiệu quả làm thước đo;
thành lập Ủy ban hỗ trợ doanh nghiệp nhằm tìm hiểu, đánh giá và đề xuất phương án giải
quyết các kiến nghị của doanh nghiệp; đề ra chương trình xoá bỏ cách làm việc quan
liêu, nhiều tầng nấc của bộ máy hành chính với mục tiêu là việc gì cũng phải có cơ quan
chịu trách nhiệm; thường xuyên rà soát để loại bỏ những quy định lỗi thời không còn
phù hợp; chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức, coi đó là giải pháp
cơ bản nhất để xây dựng nền công vụ hiệu quả.
Một trong những sự kiện đánh dấu sự chuyển mình trong quá trình cải cách hành
chính của Singapore là việc ra mắt PS21 vào năm 1995. Phong trào này hướng đến mục
tiêu xây dựng nền công vụ sẵn sàng trước thay đổi và sẵn sàng để thay đổi để đảm bảo
sự thành công ở hiện tại và tương lai của đất nước và người dân Singapore.
PS21 thúc đẩy tinh thần sáng tạo và sẵn sàng trước thay đổi trong khu vực công,
nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thay đổi tư duy và tạo ra các quy chuẩn, văn hóa tổ
chức khác biệt. Trọng tâm của phong trào là trao quyền cho nhân viên nhà nước để họ
cảm thấy tự tin đưa ra quyết định trong hoàn cảnh thay đổi liên tục.
PS21 khuyến khích công chức sáng tạo, dám nghĩ dám làm qua chương trình Đề
xuất của Nhân viên (SSS) với quy định mỗi công chức trong 1 năm tối thiểu phải có 1
sáng kiến cải tiến hoặc đề xuất cải thiện các dịch vụ hành chính công và mỗi đơn vị phải
đạt được tỷ lệ 100% người tham gia. Trong năm đầu thực hiện SSS, mỗi công chức đã
thực hiện được trung bình 2,7 đề xuất, trong năm 2000 tăng lên tới 4,7 đề xuất (trong đó
60% sáng kiến đề xuất được chấp thuận và triển khai thực hiện). Năm 2004, sáng kiến đề
xuất của công chức đã tiết kiệm được gần 180 triệu đôla Singapore (SGD) và trong vòng
10 năm thực hiện Chương trình PS21 giúp tiết kiệm được gần 5 tỷ SGD.
Trong quản lý nguồn nhân lực, ở cấp độ cá nhân công chức, Singapore triệt để áp
dụng các nguyên tắc: Liêm chính (phòng chống tham nhũng), Thực tài (lựa chọn và
tuyển dụng những người có tài năng, không chịu ảnh hưởng từ thành kiến, quan hệ cá
nhân…), Định hướng kết quả (Đãi ngộ và thăng tiến của công chức gắn chặt với kết quả
thực thi và đóng góp của họ vào thành quả chung), đãi ngộ công bằng đối với đóng góp
của người có tài năng trong nền công vụ (thực hiện chế độ tiền lương cạnh tranh và các
biện pháp khác để giữ chân những người có phẩm chất, năng lực trong nền công vụ); Ở