Bài giảng Hoàng nhất thống chí
I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ HOÀNG NHẤT THỐNG CHÍ
1. Nhan đề
-
Hoàng nhất thống chí:
cuốn sách ghi lại công cuộc nhất thống quyền lực của vương triều
Lê. Chí một thể văn của sử, người viết ngụ ý viết sử về thời đại chứ không phải sáng tác văn
học. Tuy nhiên Hoàng Lê nhất thống chí một tác phẩm văn chương đích thực.
- Tên Hoàng nhất thống chí do người khởi thảo Ngô Thì Chí đặt. Mục đích sáng tác ban
đầu của người viết tái hiện lại quá trình Tây Sơn phò diệt Trịnh, tập trung quyền lực về tay
vua Lê. Tuy nhiên, Chiêu Thống sau đó đã không giữ được quyền bính, những biến cố lịch
sử tiếp tục được các tác giả Ngô gia ghi lại: công cuộc đánh đuổi ngoại xâm bán nước,
thống nhất đất nước của hoàng đế Quang Trung; công cuộc thống nhất đất nước của hoàng đế
Gia Long. Nhan đề
Hoàng nhất thống chí
không còn phù hợp với nội dung được phản ánh,
bởi thế, người viết tiếp Ngô Thì Du đã đổi lại tên tác phẩm An Nam nhất thống chí. Tuy
nhiên, Hoàng Lê nhất thống chí vẫn tên gọi phổ biến của tác phẩm.
2. Cấu trúc
Hoàng nhất thống chí 17 hồi, gồm 7 hồi chính biên 10 hồi tục biên. 7 hồi chính biên tập
trung phản ánh những biến cố lịch sử từ khi chúa Trịnh Sâm mất cho đến khi Nguyễn Huệ ra
Bắc lần thứ nhất (1786), tiêu diệt nhà Trịnh, trao trả quyền lực cho vua Lê. 10 hồi tục biên kể các
sự kiện lịch sử từ sau năm 1786, quân Tây Sơn rút về Nam rồi lại trở ra Bắc dẹp loạn, vua
Chiêu Thống không thể kiểm soát được tình hình, chạy sang Trung Quốc cầu viện, 20 vạn quân
Thanh xâm lược nước ta bị đánh bại bởi đội quân hùng mạnh Tây Sơn ới sự chỉ huy của
người chủ tướng tài ba Quang Trung Nguyễn Huệ kết thúc với sự kiện Nguyễn Gia Long
thống nhất đất nước, lập nên nhà Nguyễn. 17 hồi một chỉnh thể thống nhất về nội dung
nghệ thuật, tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu, ba hồi cuối, đặc biệt hồi 17 so về mặt công phu
phần ít hơn các hồi trước đó.
3. Tác gi
- Tác giả của 7 hồi chính biên, phần lớn các tài liệu đều khẳng định Ngô Thì Chí. ý kiến
cho rằng Ngô Thì Nhậm viết nhưng không nhiều học giả đồng tình với quan điểm này. Ngô Thì
Chí (1752 - 1788) con trai thứ hai của Ngô T Sĩ, em Ngô T Nhậm. Ông bề tôi trung
thành của Chiêu Thống, được vua giao nhiệm vụ lên Lạng Sơn chiêu binh mãi chuẩn
bị cho phong trào Cần Vương. Việc chưa thành, ông mất trên đường công cán.
- Tác giả của 10 hồi tục biên, nhiều quan điểm khác nhau. Theo Ngô Giáp Đậu, con cháu
họ Ngô Thì thì Ngô T Du (1772 - 1840) người soạn 10 hồi cuối. Cuốn
Ngô gia thế phả
cho
biết Ngô Thì Du chỉ viết 7 hồi. Nhiều nhà nghiên cứu như Ngô Tất Tố, Dương Quảng Hàm, Trần
Văn Giáp, đều cho rằng phần tục biên do cả Ngô Thì Du Ngô Thì Thuyến (chưa năm
sinh, năm mất; thể Ngô Thì Thập, con út của Ngô Thì Nhậm) viết. Tuy nhiên ai viết từ hồi
nào đến hồi nào thì các học giả hoặc chưa xác quyết, hoặc khẳng định Ngô T Du tác giả của
7 hồi tiếp theo 3 hồi cuối do Ngô Thì Thuyến (Thiến) viết.
- “Ngô gia văn phái” vốn tên bộ tùng thư gồm 30 tập, tập hợp tác phẩm của các tác giả
thuộc dòng họ Ngô Thì làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, Tây (nay Thanh Trì,
Nội). Cụm từ “Ngô gia văn phái” đi cùng tác phẩm
Hoàng nhất thống chí
với hàm nghĩa đây
sáng tác của nhóm tác giả họ Ngô Thì.
èTựu trung,
Hoàng nhất thống c
kết quả sáng tạo của không phải một người. Tác phẩm
được viết nhiều thời điểm khác nhau. Mặc thế, Hoàng nhất thống chí một chỉnh thể
nghệ thuật thống nhất dựa trên qua điểm phản ánh hiện thực: tôn trọng sự thật lịch sử.
II. NHỮNG ĐIỂM ĐẶC SẮC CỦA HOÀNG NHẤT THỐNG CHÍ
(Trích bài viết trong Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập 3: Tiểu thuyết chương hồi -
PGS.TS Nguyễn Đăng Na)
1. Hoàng nhất thống chí cuốn tiểu thuyết đầu tiên duy nhất phá bỏ lối kể chuyện
theo trình tự thời gian.
Đọc tác phẩm, ta thấy họ Ngô Thì đã “vi phạm” nguyên tắc biên niên trên hai bình diện: một mặt,
niên đại không được đặt lên đầu các sự kiện, mặt khác cách ghi niên đại cũng hết sức tùy tiện,
lúc thì ghi đủ cả ba yếu tố
niên hiệu, tuế thứ, can chi;
lúc lại chỉ ghi
can chi
hoặc chỉ
niên
hiệu. Lấy bất cứ sự kiện nào ghi thời gian trong tác phẩm này ta cũng đều thấy như vậy.
dụ, sau sự kiện chém 7 tên lính, họ Ngô viết: “Bữa ấy nhằm ngày 15 tháng 2 năm Nhâm Thìn,
niên hiệu Cảnh Hưng” sau sự kiện Trịnh Sâm qua đời câu “bữa ấy nhằm ngày 13 tháng 9
năm Nhâm Dần”. Cùng hai sự kiện, trước thì ghi thời gian với hai yếu tố can chi (Nhâm Thìn)
niên hiệu (Cảnh Hưng), còn dưới chỉ ghi can chi (Nhâm Dần) ràng sự kiện sau (Trịnh
m chết) quan trọng hơn s kin trước (chém 7 tên lính). Hãy theo dõi cách ghi thời gian trong
4 hồi đầu của
Hoàng nhất thống chí
, ta s thấy hơn. Bốn hồi đầu 16 lần ghi thời gian và
đưc trình bày theo th t sau: Năm Đinh Dậu 1777 Trịnh n ra đời, m Quý i 1763 Trịnh
ng sinh, m Giáp Nh 1774 quận Vip đánh Đàng Trong, m 1780 vụ án năm Canh Tí,
năm Nhâm Dần 1782 Trịnh Sâm qua đời, cùng năm đó kiêu binh nổi loạn, năm 1771 thái tử Duy
b Trịnh m giết, m Nhâm Thìn 1772 chém 7 tên lính, năm Nhâm Dần 1782 Hu Chỉnh
o Nam theo y Sơn, m Giáp Ng 1774 quận Vip vào Nam, m Bính Ng 1786 Nguyn
Như Phu vào y Sơn, năm Giáp Ngọ Thuận Hóa về tay Bắc triều, năm Bính Ngọ 1786: tháng 4
Nguyễn Huệ đánh Phú Xuân, tháng 5 Thuận Hóa mất, tháng 6 ngày 27 Trịnh Tông b chết, ngày
29 Lý Trần Quán tự tử,… Bây gi, y tạm lược b các s kiện và ch gi lại thời gian xảy ra
của mi s kiện tính theo đơn vị m. Bốn hồi đầu, trình tự về thi gian như sau: 1777, 1763,
1774, 1780, 1782, 1782, 1771, 1772, 1782, 1774, 1786, 1774, 1786, 1786, 1786, 1786.
Để dễ hình dung về tuyến thời gian trong tác phẩm của Ngô gia văn phái, chúng tôi trình bày
dưới dạng đồ thị :
Đồ thị cho thấy, họ Ngo không tuân thủ nguyên tắc biên niên như họ Nguyễn (chú thích: Nguyễn
Khoa Chiêm trong
Nam triều công nghiệp diễn chí
). Do đó, cốt truyện tác phẩm của Ngô gia
không phát triển theo đường thẳng tuyến thời gian. Những hồi ức ngược dòng về quá khứ đã
tạo thành chất keo quyện kết các sự kiện, các nhân vật, các tình tiết,… thành một hệ thống chặt
chẽ, khiến câu chuyện hấp dẫn, i cuốn người đọc. Bước chuyển quan trọng về nhận thức thời
gian nghệ thuật đó đã đưa tiểu thuyết chương hồi Việt Nam thoát dần lối duy trung đại tiến
gần tới tiểu thuyết cận
hiện đại. Khi truyện kể còn đi theo tuyến tính thời gian thì văn xuôi tự sự
vẫn quẩn quanh trong bút pháp viết sử, nghĩa là, chưa ra khỏi phạm trù văn học chức năng hành
chính. H Ngô đã vượt qua tr ngại này đưa tiểu thuyết chương hồi tới bên kia b của văn
học đích thực. Chúng ta cần ghi nhận công lao to lớn ấy, sau đấy hàng trăm năm, vào cuối thế
kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khi viết Hoàng Việt long ng chí, Việt Lam tiểu sử, các tác giả của
chúng, trong đó cả con cháu họ Ngô Thì lại vẫn quay về con đường biên niên.
2. Biết chọn thời điểm nóng bỏng, thời điểm ng nổ những xung đột gay gắt nhất, thời
điểm xảy ra những biến cố quyết định bước ngoặt lịch s để đưa vào tác phẩm phẩm
chất của Ngô gia văn phái.
Sở như vậy họ Ngô thực sự tài năng, đã kế thừa truyền thống k chuyện lịch s từ Tế
Xuyên đầu thế kỷ XIV đến Nguyễn Khoa Chm đầu thế kỷ XVIII họ may mắn hơn các thế hệ
trước đấy, được sống trong cơn lốc của thời đại.
Nền chung cho
Hoàng nhất thống c
lịch sử hội Việt Nam từ khi chúa Trịnh Sâm say
thị họ Đặng của một Tiệp
năm 1776
đến khi vua Gia Long đánh bại phong trào
Tây Sơn
năm 1802. Trong vòng 1/4 thế kỷ ấy, tác giả lại tập trung vào giai đoạn bảy, tám năm
chủ chốt nhất: từ năm 1782 khi Trịnh Sâm qua đời, kiêu binh nổi loạn giết quận Huy, truất ngôi
vương tử Cán, đưa Trịnh Tông n thay, nhân đấy phế ngôi Đông cung Duy Cận, phò Duy K
làm hoàng tự tôn cho đến lúc Nguyễn Bình (Nguyễn Huệ) đem quân ra Bắc dẹp họ Trịnh năm
1786, sau đó m 1789 ra Bắc lần thứ ba quét sạch tập đoàn Chiêu Thống cùng 20 vạn quân
Thanh xâm lược… Họ Ngô đã dành 14/17 hồi cho s kiện của gần 8 năm này. Trong khoảng
thời gian Ngô gia tập trung cho tác phẩm, những biến cố lịch s lớn lao mang ý nghĩa thời
đại đã dồn dập diễn ra: các tập đoàn phong kiến thống trị đương thời Nguyễn Trịnh nối
tiếp nhau sụp đổ, cuộc đấu tranh của nhân dân kết tinh người anh hùng Nguyễn Huệ, cùng
một lúc đập tan các thế lực phản động trong ngoài nước nhưng cuối cùng cũng bị dập tắt.
Nếu lấy tỷ lệ số trang miêu tả hiện thực lịch sử một năm để so sánh, ta sẽ ý niệm về độ đậm
đặc nội dung của từng tác phẩm. Xin xem thống dưới đây (theo văn bản in trong
Tổng tập
tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam Nxb Thế giới, Nội, 1997).
TT
Tác phẩm
Số trang
Số năm miêu tả
Số trang /1 m
1
Nam triều công nghiệp diễn chí
365
116
3.1
2
Thiên Nam liệt truyện
123
109
1.1
3
Hoàng nhất thống chí
284
27
10,5
Đứng về mặt hình thức t, số trang dành cho việc miêu tả các sự kiện trong một m
của Hoàng nhất thống chí gấp 3.5 lần Nam triều công nghiệp diễn chí (10.5/3.1) gấp 9.5
lần Thiên Nam liệt truyện (10.5/1/1). Chỉ riêng việc này thôi cũng đủ cho thấy khả năng cất
hiện thực của Ngô gia. Hơn nữa, Hoàng nhất thống chí tác phẩm duy nhất nếu như không
muốn nói rằng độc nhất nhị phản ánh phản ánh một cách tuyệt với phong trào Tây Sơn đã
cùng một lúc tiến hành thắng lợi hai cuộc cách mạng: lật đổ các tập đoàn phong kiến thống trị
đương thời trong nước đánh đuổi giặc ngoại xâm.
3. Đưa vào tác phẩm một không gian nghệ thuật rất rộng lớn
Đồng thời với vic lựa chọn những thời điểm nóng bỏng nhất trong lịch sử, nhng xung đột gay
gắt nht ca dân tc, họ Ngô đã đưa vào tác phm một không gian ngh thuật cực kỳ rng lớn,
trải i khp đất c từ Bình Định, Phú Xuân đến Thăng Long, Kinh Bắc, Cao Bằng, vượt
khi biên gii hàng ngàn dm về phía Bắc, n tận Nhiệt Hà, Bc Kinh của Trung Hoa. Lần đầu
tiên trong n xuôi t sự xuất hiện mt c phm phn ánh hin thc tn b mặt không gian
rộng lớn như vậy. Với không gian hin thc ấy, người cầm bút điều kiện tung hoành, thâu
tóm, lựa chọn các sự kiện lịch sử, c nhân vật lịch sử, c tính cách con ngưi,vừa liên quan
đến vn mệnh n tộc, vừa tiêu biu cho thời đi. qu thật, h Ngô đã m tốt vic y. Hu
hết các s kiện lịch s quan trọng nhất của giai đoạn đầy biến động ấy đều được
Hoàng nhất
thống chí
thu nạp. Nội b phong trào Tây Sơn cùng hai tập đn phong kiến Lê
Trịnh cả nội
bộ triều đình nhà Thanh dều được tái hiện một cách tận tường như chính tác giả người trong
cuc. Hơn nữa, để hiện thc trong c phẩm sống động như chúng đang tồn tại ngoài đi, ngưi
viết không bỏ qua từng chi tiết tưởng chng vụn vạt nhưng lại hết sức quan trng đối với c
phẩm nghệ thuật. Chẳng hạn chi tiết Thị Huệ “xây xẩm mặt mày” nhõng nhẽo chúa Sâm; Thánh
mẫu “sụt sịt ngập ngng
mun i đến ngôi thế tử nhưng vì Th Hu đấy nên ng khó
răng lúc chúa Sâm đang hấp hi; rồi việc Bình ngồi ghé vào mt góc chiếu cuối sập, mt
chân bỏ thõng xung đất” trong buổi yết kiến vua Cảnh Hưng lần đầu tiên khi mi tới Bc Hà,
hoc kiêu căng hỏi Ngc n sau ngày cưới rằng “Con trai con i nhà vua đã my người
đưc vẻ vang như ng? và c chi tiết chúa Cán “bụng to rốn lồi, da nhợt n xanh, chân tay
khng khiu ng đưc Ngô gia chp lấy đưa vào tác phm.
4. Hệ thống nhân vật tương đối đồ sộ
Lịch sử do con người làm ra, trong đó các yếu nhân lịch sử giữ vai trò gần như quyết định.
thế, không thể hình dung rằng, tiểu thuyết lịch sử lại vắng bóng họ. Trong Hoàng Lê nhất thống
chí,
những nhân vật quan trọng của cả hai phía: nhân dân phong kiến, dân tộc ngoại xâm,
yêu nước và bán nước, chính nghĩa phi nghĩa, anh ng tướng cướp,… đều mặt
góp phần tái hiện diện mạo hội Việt Nam những năm cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Đọc
tác phẩm, ta thấy cả thế giới những con người thực y ùn ùn đi lại, nói năng, khóc cười,
thắng bại,… như chúng đã đang tồn tại. Từ những người đứng đầu “thiên triều” như vua Càn
Long đến các bề tôi thân cận của ông như Tổng đốc Tôn Nghị, Thái thú Sầm Điền Châu,
Tổng đốc Phúc Khang An, các đại thần Hòa Thân, Thang Hùng Nghiệp…; từ vua Cảnh Hưng,
Chiêu Thống…, từ chúa nh Vương Trịnh Sâm, Đoan Nam Vương Trịnh Tông, thế tử Trịnh
n, Án Đô Vương Trnh Bồng, Thy qun công Trịnh Lệ, đến các vị tai to mt lớn của triều
đình Bắc by gi như Tham tụng i Huy Bích, Bồi tụng Nguyn Khản, Đồng Bình chương
Trần Công Xán, o tướng Hoàng Nguyn Khản, danh tướng 18 đời Đinh Tích Nhưng, Tiến sĩ
Trn Quán, quan n Dương Trọng Tế, thái hậu ơng thị, quốc cu Dương Khuông,; từ
vua Thái Đức Nguyễn Nhc, hoàng đế Quang Trung đến Đại mã Ngô Văn S, quân sư Ngô
Thì Nhậm, Đô đốc Phan n Lân, Đô đốc Nguyn Văn Tuyết, đều hin din trong c phm.
Yếu nhân lịch sử đương nhiên phải nhân vật chính trong tiểu thuyết lịch sử. Nhưng con người
vốn sự tổng hòa của các mối quan hệ hội. Cho nên bên cạnh hệ thống nhân vật đại diện
quốc gia, tai mắt triều đình, trong tác phẩm của Ngô gia còn hệ thống nhân vật cả hai phía,
thể coi
dưới đáy hoặc thấp cổ bé họng như bọn kiêu binh, đám lính tráng, quân ô
hợp… tìm đục nước béo cò, lợi dụng lúc loạn lạc để cướp bóc phố phường, thậm chí
sờ nắn túi áo nhà vua, lột cả ngực bào hoàng đế đang mặc.
Chúng vừa sản phẩm của
thời đại “mũ dép đảo lộn, cương thường sai trái” vừa làm hoàn chỉnh bức tranh hội Việt Nam
thời Hoàng Lê.
Nhân vật mt trong hai hạt nhân cơ bản cấu thành loại hình tự sự. Không nhân vật thì
chng có mà k, ng nghĩa là không có truyn. Bởi vậy, đ phn ánh c ngot lịch s -
hội Vit Nam những năm cuối thế kỷ XVIII đầu XIX dưới nh thức n xuôi t sự, Ngô gia đã
thu chọn o c phẩm của mình
gần 400 nhân vật.
Hệ thống nhân vật y đại diện khá đầy đủ
cho các tập đoàn người, các xu thế chính trị, các tầng lớp xã hội, đó già
trẻ , trai
gái có, thành thị
nông thôn có, Việt Nam
Trung Hoa có, triều đình có
dân gian có, văn
quan - võ tướng có, vua chúa có
dịch lại , quân tử
tiểu nhân có, o hoa phong nhã
dung tục b i có, anh hùng cái thế
luồn cúi đê hèn có, Với khối lượng nhân vt đồ sộ
phong phú ấy, người viết d rảnh tay trong việc khái quát hóa ngh thut. Tuy nhiên, s
lượng mới ch điều kiện cần nhưng chưa đủ. Cái tạo n đặc trưng phân biệt gia văn học
ngh thuật với các loại hình văn học khác người cầm t phi xây dng được hệ thống nhân
vật sao cho, i như V.G. Biêlinxki, mỗi nhân vật một “người này”, mt cá thể vừa lạ lại vừa
quen mà vẫn mang ý nghĩa xã hội thẩm mĩ cao.
Bằng tài năng của mình, họ Ngô đã xây dựng khá thành công gần 100 trong số 400 nhân vật
của tác phẩm. Gần 100 nhân vật này, mỗi người một tính cách vừa độc đáo vừa biệt vẫn
rất hiện thực. Nhiều nhân vật được xây dựng thành công tới mức thể nói xuất sắc. Nếu đã
đọc Hoàng nhất thống chí thì khi nghe nhắc đến tên những nhân vật ấy, ai cũng thể
mường tượng ngay ra họ đang đi lại, nói năng, hành động như thế nào trước mắt mình. Nào
Cảnh Hưng, Chiêu Thống, Quýnh, Duy Cận, Nguyễn Khản, Dương Khuông, Bùi
Huy Bích, Phan Huy Ích, Trần Công Xán, Ngô Nho, Trần Quán, Nguyễn Trấn Quốc, Nguyễn
Hữu Chỉnh, Hoàng Phùng Cơ, Hoàng Tố Lí, Dương Trọng Tế, Đinh Tích Nhưỡng, tuần huyện
Trang, Nguyễn Cảnh Thước, Đặng Thị Huệ, Trịnh Sâm, Trịnh Tông, Trịnh Lệ, Trịnh Bồng, Trịnh
Cán, Đặng Mậu Lân, Sử Trung hầu, Nguyễn Hoàn, Phan Phiên, ơng Thái phi, Nguyễn
Bình, Nguyễn Nhạc, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Ngô Thì Nhiệm, Văn Nhậm, Nguyễn Văn
Tuyết, Tôn Nghị, Phú Khang An,… Đó những con người bằng xương thịt, tính.
Những nhân vật xuất hiện nhiều trên trang viết hoặc trong nhiều hối như Nguyễn Bình, Cảnh
ng, Hữu Chnh, Trịnh Bồng, Trịnh m, Dương Trọng Tế, Đinh ch Nhưng, Chiêu
Thng, tạo n n tượng không phai m trong ng người đọc đã đành. Nhưng ng
nhng nhân vt ch được phác qua đôi ng hoặc trên vài ba trang viết, song chúng vẫn khc
u được vào m trí ngưi đc. Chng hạn Trn Quán, tuần huyn Trang, Nguyn Cảnh
Thước, Nguyn Trn Quốc, Nguyễn Triêm, huyện úy Th ơng, Cái đó nói n điều gì, nếu
không phi tài ng người cm t? được như vậy phần thì do thời đại đem lại
cui thế
kỷ XVIII đầu XIX sinh ra lắm con người quái kiệt, nhưng chủ yếu do các c gi kh ng lao
động ngh thut tạo nên.
Khi miêu tả tính cách nhân vật, tác giả thường tỏ ra khách quan”, đứng ngoài thời cuộc,
chỉ là người quan sát, cuộc sống sao thì ghi lại như vậy. Ngay cả những đoạn phân
tích tâm nhân vật, người viết vẫn tỏ ra “hững hờ ngoài cuộc”. Chẳng hạn, về quận Huy,
tác giả viết:
“Huy nghĩ rằng, Thị Huệ tuy được chúa yêu nhưng con trai của Thị Huệ còn nhỏ, trong khi đó thế
tử đã lớn rồi, hùa theo Thị Huệ e không phải kế lâu bền. vậy, sau khi đã vào hầu chúa, Huy
liền lấy châu báu đút lót cho những kẻ chân tay của thế tử để xin nương tựa vào thế tử. Rồi Huy
lại đem một trăm lạng vàng mười tấm đoạn Nam Kinh làm lễ yết kiến để xin vào ra mắt thế tử.
Nhưng thế tử không nhận đồ lễ, cũng không cho vào gặp
(…)
Quận Huy biết thế tử không dung
mình bèn quyết ý hùa theo Thị Huệ và âm thầm chí phế lập”.
đây nữa, lúc Nhưỡng nhóm hp triu thn để đối lập vi cuộc họp trước đây của Tế, h Ngô
kể:
“Tuy nhiên, để phòng nga l mng thô bạo hỏng việc như bọn Thần Trung hầu, Dương
Trọng Tế n Nhưỡng ng không m dùng uy thế ăn hiếp c viên triều thần hin đang
theo nhà vua. Ngưc lại, các viên triều thần khi mi gặp Nhưng cũng ch ngồi im để xem
Nhưỡng ng bên nào cân nhắc nặng nh. Lúc thấy Nhưng u gọi hội họp, mọi người tuy
không dám theo Nhưỡng nhưng trong bụng lại s Nhưỡng, vì thế việc theo phò nhà vua cũng có
phn chnh mng.
Người viết càng tỏ ra dửng dưng bao nhiêu thì người đọc càng tin rằng nhân vật ấy thực bấy
nhiêu.
Để khắc họa tính cách nhân vật, tác giả thường chọn những thời điểm vào khoảnh khắc
đó, hoàn cảnh cuộc sống trong mối quan h phức tạp đa phương với hội, nhân vật
buộc phải bộc lộ bản chất, bộc lộ tính cách, phải hiện nguyên hình. N gia đã rất tài việc
tạo dựng tình hung như vậy. Trong hoàn cảnh của c thi điểm đánh Phú Xuân hoc khi mới
nghe tin quân Thanh vào m lược, c tuyên dụ ba quân tại Tam Điệp để chun bị gii phóng
Thăng Long k c các buổi ra mt vua Cnh Hưng lần đầu, lúc chuyện trò với Ngc Hân sau
lễ cưới hoặc sau đám tang b vợ,… Nguyn Bình mi điều kiện th hin cht anh hùng quyết
đoán, u nước thương n, tài kiêm văn những ng thật thà đến vụng về, đôi lúc kiêu
ng, hm hc đến tức cười. Trần Quán ch có th y t ng trung lit của mình trưc thảm
trạng b Nguyn Trang, n học trò lừa thầy phn chủ, n đng chúa ng. Nguyn Cnh
Thước ch tr thành Cảnh Thước khi vua Chiêu Thống sai y ch mình qua ng c đang chy
loạn.
Khi đã chọn được thời điểm “thử vàng: ấy, họ Ngô
không dừng lại k lể dài dòng, chỉ “chụp”
lấy một vài lời nói, cử chỉ, nh động mang ý nghĩa như những tín hiệu đặc trưng nhất
cho tính cách nhân vật chỉ anh ta “con người này mới nói năng, hành động như
vậy.
Nhắc đến Cảnh Hưng, ta nhớ ngay câu ông nói: “Trời sai chúa p ta, chúa gánh cái lo, ta
hưởng cái vui. Mất chúa tức cái lo lại về ta, ta còn vui gì?” hoặc nhớ tới việc ông “treo tranh
Tam Quốc, sai các cung nữ mặc áo trận, cầm giáo mác chia thế trận ba ớc Ngụy, Ngô, Thục
rồi dạy h cách ngồi, đứng, đâm, đỡ để mua vui” trong suốt 47 năm làm vua. Người đọc nhớ
Hữu Chỉnh câu nói khi bị Tây Sơn bỏ rơi, cái chết đang kề cổ: “Ta đi khắp bốn biển chín châu,
chẳng lẽ khi trở về bếp lại bị chuột chù gặm chân ư?”; tuần huyện Trang câu: “Sợ thầy
không bằng sợ giặc, yêu chúa chưa bằng yêu thân mình” khi bị thầy quở trách: “Chúa chúa
chung của thiên hạ. ta lại thầy anh. Vua tôi nghĩa lớn, sao anh nỡ làm như thế?”;
Nguyễn Cảnh Thước câu: “Các thuyền đều không đây. Bệ hạ muốn sang sông gấp thì xin
cho thần ít nhiều vàng lụa mới thể thuê được… Giả sử quân giặc đuổi đến, thần xin dùng
thùng gỗ để đưa bệ hạ qua sông”,… Rồi việc tự chôn sống mình của Trần Quán, việc mang
gông nằm sấp của Trần ng Xán, việc bỏ bút mực vào ống tay ao đem xuống Diêm vương kiện
“triều đình không mắt” của Nguyễn Trấn Quốc trước khi lên đoạn đầu đài; việc nuốt 6 chữ
“trung nghĩa tráng liệt đại vương” do Tông viết ban cho rồi dương dương tự đắc bảo kiêu binh:
“Bây giờ tao không thi đấu võ, nhưng vẫn còn thi can đảm. Thế mới lạ chứ! của Triêm hầu;
việc trấn thủ Nguyễn Cảnh Thước sai người lột nốt chiếc áo ngự nhà vua đang mặc; việc Phan
Huy Ích ba hoa giữa triều đình rằng, phải làm chiếc trống trận “cho lớn, thể chứa được
người vào trong để khi bắt được Chỉnh (…) sẽ chọc thủng mặt trống nhồi vào trong đó
khiêng về dưới cửa khuyết” với ng điệu khúm núm “run sợ xin lỗi” khi bị Chỉnh tóm được và
hỏi về cái trống… Tất cả những chi tiết đó đã khắc họa đậm nét tính cách từng nhân vật. Bằng
đôi ba câu đối thoại, một vài cử chỉ của nhân vật,… người viết đã thâu đúng thần thái anh ta.
Với cách thức đó, Ngô gia xây dựng thành công thành công xuất sắc hàng loạt nhân vật đại
diện cho cả một thời k giông tố của dân tộc.
5. Sau mỗi sự kiện lịch sử, Nguyễn Khoa Chiêm thường kết lại bằng bài thơ với ý nghĩa
thay lời bình giá.
cách sử dụng thể thơ giới thiệu từng bài thơ mang dấu ấn sáng tạo nhưng về hình thức
nói, việc làm đó của Nguyễn Khoa Chiêm chưa vượt khỏi khung hình tiểu thuyết La Quán
Trung. Để tháo thoát tình trạng này, Ngô gia triệt bỏ hình thức thơ ca thay bằng một kiểu
nhân vật mới: nhân vật dân gian trời. Thật khôn ngoan. Dân gian và trời chẳng ai cả,
nhưng lại tất cả; chúng có sức mạnh như những “lời cẩn án thay cho thái độ của người
cầm bút trước hiện thực.
Để lên án tội ác giết thái tử Duy của chúa Sâm, sau sự kiện thái tử bị khép vào tội thắt cổ,
thay bài thơ, Ngô gia viết: “Ngày hành hình, bầu trời tự nhiên tối tăm, giữa ban ngày chỉ
cách nhau gang tấc cũng không trông rõ. Chừng hơn một khắc mới lại sáng sủa. Già, trẻ, trai,
gái trong thiên h không ai không rơi nước mắt. Họ đều cho rằng, đó việc trái ngược nhất,
bi thảm nhất từ xưa đến nay”. Trước việc quận Huy lộng quyền “tự mình làm chủ, mọi việc tự
mình gánh vác
người khác đồng ý hay không
cũng chẳng thèm kể đến” trở thành
người riêng của Thị Huệ, Ngô gia đưa ra nhận xét của
dân gian
thay cho bài thơ:
phố
phường người ta túm năm tụm ba bàn tán, kẻ nói chúa mới (chỉ Trịnh Căn) bị bệnh rất nặng,
chưa biết chừng ngày nào đó trong cung sẽ biến; quận Huy uy quyền lớn quá, không khéo
hắn sẽ cướp nước mất. Người bảo chính cung thông với Huy, sắp đem tắc giao phó cho
quận Huy. Bấy giờ,
đầu đường ch
câu ca dao như sau:
Trăm quan ng ít nhiều mờ
Để cho Huy quận vào rờ chính cung
Về việc Chiêu Thống rước quân Thanh đến xâm lược nước ta, “ngày ngày sau các buổi chầu
lại tới chờ doanh của Tôn Nghị để nghe truyền việc qn việc nước
quân lính hộ vệ chỉ
vài chục người”, tác giả
Hoàng nhất thống chí
viết:
Người trong kinh
kẻ không biết vua,
hoặc người biết thì họ nói riêng với nhau: Nước Nam ta từ khi đế vương tới nay, chưa
thấy bao giờ ông vua luồn cúi đê hèn như thế. Tiếng làm vua, nhưng niên hiệu thì viết
Càn Long, việc cũng do viên tổng đốc, khác phụ thuộc vào Trung Quốc”, v.v…
Bằng phương thức đó, họ Ngô một mặt bỏ những hình thức mang dáng dấp tiểu thuyết Trung
Hoa, mặt khác vẫn đạt đạt một cách tuyệt vời tới đích nghệ thuật mình mong mỏi.
6. Hai giọng điệu ngợi ca trào lộng
Dòng văn xuôi tự sự lịch Việt Nam từ Tế Xuyên (nửa đầu thế k XIV), Trần Thế Pháp (nửa
cuối XIV), Nguyễn Hàng (nửa đầu thế kỷ XVI) đến Nguyễn Khoa Chiêm (cuối thế kỷ XVII đầu
XVIII), Gia Cát thị (nửa sau thế kỷ XVIII), chủ yếu viết về cái hào hùng, cái bi tráng, do đó ngợi
ca giọng điệu nổi bật. Nhưng bước vào cuối thế kỷ XVIII đầu XIX, hội Việt Nam không chỉ
cái hùng cái bi còn tồn tại cả cái hài hoặc cái bi xen hài. hội đó đã đi vào tác phẩm
của Ngô gia. Bởi vậy, trong
Hoàng nhất thống c
cả cái
hào hùng
, cái
bi tráng
cái
hài
hước. Hai giọng điệu ngợi ca trào lộng dường như song hành và hỗ trợ cho nhau tạo thành
tiếng nói riêng vừa mới vừa độc đáo cho
Hoàng nhất thống chí.
Lần đầu tiên một tác phẩm sử thi hoành tráng lại chứa đựng khá đậm chất hài. Cái giỏi của
người cầm bút tạo cho người đọc một cảm giác rằng anh ta đứng ngoài cuộc. Với thái độ đó,
sức mạnh tiếng cười châm biếm được nhân đôi. họ Ngô sự kết hợp hài hòa giữa lối bao
biếm
của bút pháp
xuân thu
với truyền thống trào phúng của văn học dân gian Việt Nam cái
nhìn sắc sảo của một người thiệp liệp uyên thâm, “lạnh lùng” mổ xẻ. Dường như nhân vật nào
trong tác phẩm cũng bị tác giả đưa ra đùa cợt trong tiếng cười thường pha chút nước mắt
đắng cay.
Dưới đây một dụ: phút m chung của chúa Sâm.
“Bấy giờ bệnh chúa đã nguy kịch, nhân có Thánh mẫu vào thăm, Thị Huệ phải ôm chúa ngồi
dậy. Thánh mẫu đứng đầu sập vừa khóc vừa hỏi han, chúa cũng khóc rằng:
- Con xin chắp tay cúi đầu lạy mẹ. Nay con chẳng may xấu số, không được thờ mẹ cho đến
cùng. Nghĩ đến đạo hiếu chưa tròn, ruột gan con đau như dao cắt. Xin mẹ hãy ngự giá về cung,
cố ăn ngủ cho thảnh thơi, đừng nghĩ đến con đau lòng mẹ.
Thánh mẫu nức nở, sụt sịt, ngập ngừng hồi lâu, ý muốn nói đến ngôi thế tử, nhưng Thị
Huệ đấy nên cũng khó răng, dùng dằng mãi chưa ra.
Chúa thấy vậy lại nói:
- Mẹ quá thương con, không nỡ dứt tình đi. Con trông thấy mẹ cũng đau lòng không thể
nhắm mắt.
Vậy cúi xin mẹ hãy ngự giá về cung.
Thánh mẫu bèn ứa nước mắt trở ra.
Chúa quay sang dặn Thị Huệ:
-
Bệnh ta không khỏi, không được cùng khanh đến c bạc đầu
…,
duyên sắt cầm đành hẹn
đến kiếp khác.
Thị Huệ nấc lên đến hơn một khắc, rồi cắt tóc thề rằng:
- Chúa thượng chẳng thương thiếp, nỡ bỏ thiếp một mình. Thiếp xin liều thân chết
theo chúa.
Rồi thị
khóc òa
n.
Chúa ngoảnh sang Thùy Trung hầu nói:
- Sau khi ta qua đời, các người phải nên khuyên giải chính cung cho khéo, chớ để nàng liều
mình. Vạn nhất nếu không ngăn cản nổi ý chí của nàng, thì cứ đ nàng chung thuyền với ta
đưa đi, cho nàng được hầu hạ ta nơi lăng tẩm”.
Màn kịch không dài, diễn ra với ba nhân vật: Trịnh Sâm, mẹ (thánh mẫu) vợ (Đặng Thị Huệ)
trong mối quan hệ chúa
tôi, mẹ - con, vợ - chồng. Cả ba đều khóc, nhưng chỉ Trịnh Sâm
khóc thật. Sâm khóc “nghĩ đến đạo hiếu chưa tròn” kiếp này “duyên sắt cầm” dang dở. Con
chim sắp lìa tổ thì kêu những tiếng bi thương. Người sắp lìa đời thì nói những lời chân thật.
Nhưng Sâm càng nói những điều chân thật bao nhiêu thì tấn hài kịch càng bị đẩy tới cao trào
bấy nhiêu. Thấy mẹ “nức nở sụt sịt”, Sâm tưởng quá thương mình, thấy mẹ “ngập ngừng” lại
tưởng “không nỡ dứt tình mà đi”. Thực ra, đến đây đâu phải để vĩnh biệt đứa con trai ruột
thịt của mình? dùng dằng mãi chưa ra bởi “muốn nói đến ngôi thế tử, nhưng Thị Huệ
đấy nên cũng khó răng”. Cho Sâm “ruột gan đau như dao cắt”, chết “không thể nhắm
mắt” hai lần vật nài “xin mẹ hãy ngự giá v cung” cũng mặc, Thánh mẫu về làm sao được khi
mục đích chuyến viếng thăm chưa đạt yêu cầu? Thị Huệ cũng vậy. “cắt tóc thề” bồi,
“nấc lên đến hơn một khắc” hoặc “xin liều thân chết theo chúa” thì tất cả chỉ đóng kịch
“sợ không dự định trước, đến lúc tình thế khẩn cấp sẽ bị người khác cướp mất” ngôi thế tử của
con mình. Vậy Sâm lại tưởng nghĩa tình với mình tới mức sẵn sàng liều chết, nên trước khi
trút hơi thở cuối cùng, ông còn quay sang dặn Thùy Trung hầu rằng: “Sau khi ta qua đời, các
người phải nên khuyên giải chính cung cho khéo, chớ để nàng liều mình”. Thật tội nghiệp! Đọc
đến đây, chẳng biết nên khóc hay cười? Những mẩu hài kịch như vậy trong
Hoàng nhất
thống chí rất nhiều. Ta thể kể một s cảnh. Chẳng hạn, các màn Trần Quán tự tử, Nguyễn
Cảnh Thước “phò” Chiêu Thống qua sông, Phan Huy Ích ra trận, Hữu Chỉnh bị bắt, Dương
Trọng Tế vào cũi về kinh, Trịnh Bồng đi tu, Đinh Tích Nhưỡng lập chúa, Trịnh Tông lên ngôi,
Chiêu Thống chạy loạn, Tôn Nghị vượt cầu phao, Hữu Chỉnh bị bỏ rơi, Trần Công Xán đi sứ,
Nguyễn Khản bàn giết kiêu binh, thánh mẫu xin tha mạng quốc cữu, v.v v.v…
Tiếng cười của Ngô gia thâm trầm uyên áo, tiếng cười của sự thỏa mãn trí tuệ. Khi thì
được bộc lộ ngay ra trong cảnh huống, lúc lại thể hiện qua lời nói hoặc cử ch nhân vật.
Nhưng đôi kkhi phải thông qua một chuỗi sự kiện, người đọc mới khám phá ra tiếng
cười.
Dưới đây một dụ: Khi Thị Huệ mang Trịnh Cán, tác giả kể: “Chúa liền sai người đi
lễ khắp trăm thần để cầu sinh con thánh”. Cán ra đời, “chúa hết sức yêu mến…, lúc đầy trăm
ngày, chúa lấy tên của mình lúc nhỏ Cán đặt cho đ tỏ ra
cũng giống mình
”. Khoa thi
Hương năm ấy, “chúa lấy hai câu:
Sơn xuyên anh các, hà hải chung
(nghĩa
khí thiêng
của
sông núi
tụ lại, s tốt đẹp
của biển hồ
đúc nên
) để làm đề thi. Các quan văn cũng nhiều
kẻ lấy ch
Tinh huy hải nhuận
(nghĩa “sao sáng biển hòa”
điềm sinh thánh nhân) m câu
chúc mừng. Tóm lại, Trịnh Cán “con thánh”, nòi đích Trịnh Sâm, - “nó cũng giống mình”
anh của núi sông hồ biển tụ lại đúc nên, điềm sao sáng biển hòa. Người đọc hồi hộp
chờ đợi đấng “thánh nhân” xuất thế. Nhưng đùng một cái, họ Ngô cho ra mắt bạn đọc cái quái
thai: “bụng to, rốn lồi, da nhợt gân xanh, chân tay gày khẳng khiu”. Tiếng cười bật ra. “Chúa phải
sai người đi tìm danh y khắp bốn phương chữa cho Cán”, phải sai người đi “lễ bái khắp các đền
đài tiếng linh thiêng” rồi “thiết lập đàn tràng ngay trong cung để ngày đêm đèn nhang cầu
khấn” mặc “Thị Huệ làm chay làm bùa tha hồ cúng lễ”. Song danh y nào chữa được con bệnh
họ Trịnh? Thần thánh nào cứu đặng Trịnh vương? Sau cơn binh biến, chúa Cán “vì quá sợ hãi
không ăn uống gì được
ít lâu sau thì
qua đời”. Người đọc mỉm cười thở phào. Tiếng kèn
đưa ma vui vẻ tấu lên để tiễn chúa Trịnh Cán
“tinh hoa” của họ Trịnh xuống mồ.
7. Hoàng nhất thống chí phản ánh trực tiếp hiện thực đương thời. Người cầm bút
không chỉ chứng nhân lịch sử, mà còn vừa tác giả, vừa là nhân vật ngay trong tác
phẩm của mình.
Nam triều công nghiệp diễn chí
viết về các s kiện lịch sử từ năm 1559 đến 1689 nghĩa viết
về hiện thực cuộc sống trước khi tác giả ra đời 100 năm sau khi tác giả ra đời 30 năm. Như
vậy, Nguyễn Khoa Chiêm vừa viết về quá khứ, vừa viết về hiện tại, nhưng hiện tại đã được lắng
đọng trên 1/4 thế kỷ (Nguyễn Khoa Chiêm sinh năm 1659, hoàn thành tác phẩm năm 1719, sự
kiện cuối cùng trong tác phẩm xảy ra năm 1689). Ngược lại, Hoàng nhất thống chí phản ánh
trực tiếp hiện thực đương thời. Người cầm bút không chỉ chứng nhân lịch sử, n vừa
tác giả, vừa nhân vật ngay trong tác phẩm của mình. Điều này sẽ tạo nên nét độc đáo riêng
chi phối tác phẩm một cách toàn diện, sâu sắc từ nội dung đến hình thức, từ việc lựa chọn sự
kiện, tình tiết, nhân vật,… đến phương thức phản ánh, cách khái quát a nghệ thuật ngôn
ngữ người kể chuyện.
Viết về quá kh lịch sử, người cầm t được một s thuận lợi đáng kể.
Một , các s kiện lịch sử đã thế n định, trắng đen phi trái đã ràng. Cái đáng lụi tàn đã lụi
tàn, i phi chiến thắng đã chiến thắng. Hai là, c nhân vật lịch sử v bn đã đưc công
luận thừa nhận, hoặc bị phê phán hoặc được ngi ca ch yếu tất c đều đã chết. Người
cầm bút không phải đương đầu với ờng quyền kiểm duyệt. Phản ánh những sự kiện đang vận
động thì kc. Khi đó, lịch sử đang diễn tiến, các xu thế hội đan xen nhau, cái nhất thời và i
bản cht d lẫn lộn. c thì i này tạm thi thng thế, c thì i kia tạm thời thất bi. Cho n,
mun phản ánh trc tiếp hiện thực đương thi một ch u sắc, ý nghĩa hội
thm mĩ,
người cầm t cn mt số phm cht đc biệt. Trước hết, anh ta phi nhãn quan tinh
nhy để vượt qua mọi thiên kiến nhân. Trong i mớ hỗn tạp của những sự kiện lịch sử đang
đẩy va đập nhau bởi các tầng lớp, các nhân, các tập đn hội kia tạo n, người
cầm t phi
d cảm
đưc i tất yếu dẫn tới chung cục ca chúng: hội sẽ đi theo chiu
ng nào, vai t ca từng cá nhân, từng tập đn trong s phát triển lịch s,… Có chế ng
đưc thiên kiến bản thân thì hiện thực trong tác phẩm mới hin n mt ch trung thực mới
giúp nhà n gi đúng vai trò
thư ký thời đi.
Đấy cũng “con đường đau khổ” của những
người viết tiểu thuyết lịch sử đương đại. A. Tônxtôi hoàn toàn có lý khi kể rằng: “Tôi không chỉ
chấp nhận cách mạng
chỉ với sự chấp nhận không thôi chưa đ để viết về cách mạng
tôi yêu
cái đại đầy bi tráng, tôi yêu cái tầm vóc toàn thế giới của cách mạng. bởi vậy, nhiệm vụ
cuốn tiểu thuyết (
Con đường đau khổ
) của tôi tái tạo lại cái tầm vóc ấy với tất cả sự phức tạp,
gian nan của nó”. nhiên, Ngô gia văn phái chưa ý thức được như A. Tônxtôi nhưng ràng
“với sự chấp nhận thôi chưa đủ” phải biết “yêu cái đại” “yêu cái tầm vóc” của phong trào
Tây Sơn, của dân tộc thì mới viết ra được Hoàng nhất thống chí.
Tác giả Hoàng nhất thống chí một tập thể, trong đó quan Thiêm thư bình chương Học
Tốn, người cả cuộc đời gắn với triều Lê. Mặc dù bị bệnh nặng nhưng nghĩ đến “nghĩa vua
tôi” trong cơn “cơn nguy biến”, ông vẫn “nguyện đeo bệnh tật để dấn bước” trên con đường
khuông phò cỗ xe chính trị đang nghiêng đổ của Chiêu Thống. Đối với vua Chiêu Thống,
Học Tốn không chỉ “phận ưa
tình nặng” chủ yếu “chí hợp
tâm đồng”. Ông từng chủ
trương “ngoài dựa vào thượng quốc, trong nhóm họp quân cần vương”. ch lược trung dưng
đó được Chiếu Thống tâm đắc sau này, khi Học Tốn qua đời, Chiêu Thống vẫn kiên trì thực
hiện. Nêu lên điều đó, chúng tôi muốn nói rằng, về quan điểm chính trị, Học Tốn thù địch với Tây
Sơn đứng bên trận tuyến nhà Lê. Khi bắt tay vào sáng tác, ông kể cả Ngô Thì Du phải
đương đầu trước một vấn đề: Viết như thế nào đây về phong trào Tây Sơn? May mắn thay, họ
đã chế ngự được thiên kiến bản thân, nhìn thẳng vào sự thực. Do vậy, họ không những miêu tả
phong trào Tây n một ch chân thật, sinh động còn miêu t bẳng cả tấm lòng ngưỡng
mộ yêu thương. Nếu Nguyễn Khoa Chiêm đại chỗ ông người đầu tiên tuyên bố mình
sáng tác văn chương thì Ngô gia văn phái đại chỗ họ đã nhìn nhận phản ánh đúng đắn
phong trào Tây Sơn.
Trong văn học Việt Nam trung đại, chưa một tác phẩm nào phong trào Tây Sơn được tái
hiện một cách tuyệt vời như Hoàng nhất thống chí. Tác giả đã nhìn thấu bản chất q
trình tiến triển của cuộc khởi nghĩa này.
Thi kỳ đầu Tây n còn non yếu, phải lẩn t nơi rừng i. Rồi phong trào lớn mạnh dần. Lần
đầu tiên thể đánh chiếm một thành lớn
thành Quy Nhơn. T đấy, Tây n đến độ
trưng thành, trên có vua Thái Đức, dưới có thưng công n nh, tả quân đô đốc Vũ n
Nhm, quân nh thì đầy đủ hai đạo thy bộ. Thành Phú Xuân
địa đầu củ Bắc kiên cố,
quân đông, lương đủ, vậy mà Nguyn Bình chỉ đánh một trận đã làm cho “mấy vạn ng
đều không n sống sót lấy một mống”. Rồi Động Hải, “tướng giữ đồn Vị Phái hầu cùng viên
hiệp trấn Ninh Tốn mới tng thy bóng quân y Sơn đã chạy trốn. Chiếm xong Phú Xuân,
trên đà trúc ch ngói tan, ch mạng y Sơn như n o p, cuốn sạch c rưởi trên đường
đi qua. H Ngô không dừng lại miêu tả tỉ mỉ từng trận đánh c trấn Ngh An, Thanh Hoa,
Ninh Bình như mu t trận đánh đồn Phú Xuân chúng diễn ra quá nhanh, nhanh mức ch cần
dừng lại một vài chi tiết không th din t được khí thế bão của . Không khí trong c
phm cũng ào ào chuyn động như cuc nh quân chiến thng của Tây Sơn. Các v trấn th
Ngh An Bùi Thế Toi, Thanh Hoa là T Danh Thùy đu b thành mà trn. Quân trong đồn
Vị Hoàng “mới trông thấy bóng quân Tây Sơn đã bỏ chạy”. Các đội quân tinh nhuệ nhất của triều
đình lần lượt b bẻ gãy: Danh tướng 18 đời Đinh Tích Nhưỡng bị bại, Trưng Trung hầu quân
thua tướng chạy, Thái Đình hu tự v quân tan, Triều đình phi dốc hết tướng tinh nhu
nht ra trn: đồng nh chương Trần Công n lẫn tham tng i Huy Bích, lão tướng Thạc
qun ng Hoàng Phùng Cơ lẫn tướng tr Thái Đình hu chúa ng phi xut chinh. Vậy mà
thua vẫn hoàn thua. Trn Nam Dư, quân không kịp xung thuyn, b cả cơm đang ăn mà trốn,
thây chất ngổn ngang, xác nằm gối i. Trận Ty Ái lính tráng sợ i cuống cuồng đến nhảy cả
xung hồ chết. Lão tướng Hoàng Phùng Cơ ch kịp cướp đường tháo thân, chúa ng sợ
mất mật, đến nỗi qung cả khí giới giáp trận để chui o hòm sau voi mà lủi. Quân nh thì
khi phi nói, mnh ai nấy chy, dẫm đạp n nhau.
Khi mới tới kinh đô, đối với vua Lê, Nguyễn Bình còn thế dưới. Trong buổi triều kiến, Bình phải
“sụp xuống đất lạy hai lạy, rập đầu vái năm vái” không dám ngồi vào sập đặt cạnh vua. Lúc
đã nhận thức được vai trò của mình, Bình thế khác: “ung dung uống nước chè” cùng nhà
vua; ngày cưới công chúa Ngọc Hân thì đàng hoàng nào “thết tiệc các vị hoàng thân, hoàng phi,
công chúa quan văn đi đưa dâu”, nào sai lấy bạc “kính tặng các vị nhà gái” khi h ra về;
ngày lễ yết Tiên hoàng n nhà Thái miếu, “Bình công chúa dóng kiệu cùng đi, lúc lễ
xong lại dóng kiệu cùng về”. Vua Cảnh Hưng từng nói rằng, công chúa Ngọc Hân “ngày sau nên
gả làm vương phi, không nên gả cho hạng p mã tầm thường”, vậy ông lại đem gả nàng
cho Nguyễn Bình. Chẳng những thế, các quan ai cũng mừng rỡ “n vua kén được rể tốt”
bản thân hoàng thượng Cảnh Hưng cũng thấy tự hào vội xuống lệnh “truyền cho các hoàng
thân, hng phi, công chúa các quan văn sử soạn ngựa xe,… đợi cửa điện để đưa công
chúa về phủ của Bình”. Lời di chúc của Cảnh Hưng cho tân quốc quân Chiêu Thống
cháu đích
tôn càng khẳng định vai trò của Bình: “Chuyện cũng phải bẩm qua với ông ấy”.
Sự tuần du tới kinh đô của Nguyễn Nhạc làm dân Bắc bàng hoàng. Vua Chiêu Thống phải
ra tận cửa nam để đón. Cuộc hội kiến thì dùng lễ hai vua gặp nhau, không ai phải lạy ai. Trong
buổi yết triều, vua một rằng “do thánh thượng gây dựng”, hai rằng “nhờ cậy vào oai linh của
thánh thượng”, “nhờ thượng công của quý quốc”, rồi “”chúng tôi xin nhất nhất ng mệnh, xin
đời đời
không dám sai trái”.
Đấy phong trào Tây Sơn trong 7 hồi đầu do chính Ngô Thì Chí viết.
Trước sức mạnh “nghiêng trời uy linh” của Tây Sơn, Chiêu Thống đã rước ngoại bang vào
bảo vệ ngai vàng cho mình. Vậy là, từ nhiệm vụ dân chủ, Tây Sơn chuyển sang làm cách mạng
dân tộc.
Nghe tin quân giặc giày xéo đất nước, Bắc Bình vương bừng bừng nổi giận “liền họp các tướng
định
cầm quân đi ngay”. Không chậm trễ một giây, ngài lập tức dựng đàn “tế cáo trời đất
lên ngôi hoàng đế” để chính danh đánh giặc. Lời dụ quân của hoàng đế Quang Trung như lời
non nước vọng về, như hùng khí thiêng liêng của bài
Thơ thần
trên sông Như Nguyệt, như âm
vang của Hịch tướng Đại cáo bình Ngô,… Từ lãnh tụ của một giai cấp, Quang Trung trở
thành lãnh tụ của dân tộc tác giả Hoàng Lê nhất thống chí đã phát hiện được ý nghĩa đó. Ra
quân lần này, dân tộc, nghĩa cử của kẻ “có lương tri lương năng”. Cho nên, điều day dứt đối
với Quang Trung không phải chỉ đánh giặc, thắng giặc chủ yếu hạnh phúc lâu dài,
hòa bình vĩnh viễn cho dân tộc. Lần này quân “chẳng qua mười ngày thể đuổi được người
Thanh. Nhưng nghĩ chúng nước lớn gấp mười lần nước mình, sau khi bị thua một trận, ắt lấy
làm thẹn lo mưu báo thù. Như thế thì việc binh đao không bao giờ dứt, không phải phúc
cho nhân dân, n nào mà làm được như vậy”. Nắm chắc phần thắng trong tay, Quang Trung
nghĩ đến ngay mai “chờ mười năm nữa cho ta được yên ổn nuôi dưỡng lực lượng, bấy giờ
nước giàu dân mạnh, thì ta sợ chúng?”. Chưa đầy ba năm sau, quả nhiên hoàng đế Quang
Trung đã một đội quân hùng hậu với lương thảo đủ đầy, tàu biển thật lớn thể chở được voi
quyết định việc đánh Trung Quốc”. Ngài sai “Vũ Văn Dũng sang nhà Thanh dâng biểu cầu
hôn (công chúa Càn Long) đòi lại hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây”. Cho “đó không phải
bản tâm của vua Quang Trung, chẳng qua chỉ muốn thử xem ý nhà Thanh ra sao”, song
cũng phản ánh sự đại của phong trào Tây Sơn. Chưa bao giờ hình tượng người anh hùng
dân tộc mang tầm vóc lớn lao như vậy, vừa làm chủ hiện tại, vừa nắm chắc tương lai. Tất cả
quá khứ, hiện tại tương lai của dân tộc như chung đúc vào một con người Nguyễn Huệ.
Cuộc tập kích chiến lược mùa xuân năm Kỉ Dậu 1789 đập tan 20 vạn quân Thanh cùng bọn tay
sai bán nước bản hùng ca. Chưa cuộc hành quân nào thần tốc bão như cuộc hành
quân của chiến dịch này; đi gần 500 km đường dài từ Nghệ An đến Nam Quan trong 7 ngày.
Bằng i t đại lược, Ngô gia đã phác ra bức tranh hoành tráng ca chiến dịch: Ngày 25 tháng
12 năm 1788 làm lễ lên ngôi hoàng đế rồi xuất quân từ P Xuân. Ngày 29, đến Ngh An. Ny
30 tới Tam Điệp. Tại đây, Quang Trung cho ba quân mở tiệc ăn tết trước. Ngài nói: Hẹn ngày
mồng 7 năm mới thì o thành Thăng Long m tiệc ăn mừng. c ngươi nh lấy, đng cho ta
i khoác”. Rồi đó ngài chia quân làm 5 đo ngay đêm 30 tết khởi hành. Thi gian như ng
lên đưng đón xuân cùng binh đoàn áo vải. Quân Quang Trung đi đến đâu thì quân của thiên
triều “s quốc chạy dài tới đây. Từ trận ng Gián, sông Thanh Quyết đến đồn Hà Hi,
Ngc Hi, Khương Thưng,... nh Thanh quân triều đình c thế giày xéo lên nhau y chy.
Chiến công nối tiếp chiến công. Các sự kiện trong tác phẩm dập dồn. Mạch văn như tiếng reo
thắng trận của Tây Sơn. Đt nước vang khúc khi ca. Sm Nghi Đống phải tht c. Tôn Sĩ Ngh
“sợ mt mật, nga không kịp đóng n, người không kịp mặc áo giáp
chuồn trước qua cầu
phao, rồi nhằm ng Bắc mà chy”. Quân lính tan tác tả tơi, c chết làm “sông Nhĩ tắc
nghẽn không chảy được”; số còn lại thì chạy bán sống bán chết suốt ngày đêm không dám nghỉ.
Ngay c dân chúng tại s quốc ca “thiên triều cũng i ng bng bế dt díu nhau chạy
trốn, sut vài trăm dặm lặng ngắt không còn một ng ngưi”. Vua quan nhà Thanh hết sc
hoang mang. Phúc Khang An thì “rụt rè lo sợ” ch mun giảng hòa; Càn Long thì sai ngay người
sang phong vương cho Nguyễn Huệ. Khi “Quang Trung giả” sang chầu “trong ngoài ai cũng biết
gi dối mà không ai m nói” còn Càn Long thì “sai th v truyn thn bức chân dung (Quang
Trung giả) mà ban cho, ân lễ rất là trng hậu, thực là một cách đối đãi khác thường từ ngàn xưa
hiếm có”.
Viết về phong trào Tây Sơn được như vậy, quả thật Ngô gia đã phải tự chiến thắng những ác
cảm nhân, những thiên kiến bản thân phải tấm lòng yêu nước thiết tha, yêu dân tộc sâu
sắc.
Chặng đường “đau khổ” thứ nhất, họ Ngô đã vượt qua.
Cùng với thành tựu trên, họ Ngô còn phát hiện ra và miêu tả đúng quá trình diệt vong tất yếu của
vua chúa Trịnh, của bọn ngoại xâm.
Trước hết nói về chúa Trịnh: Tĩnh vương vốn không phải tay tầm thường. Ông “thông minh
sáng suốt, trí tuệ hơn người, đủ c tài văn lẫn võ”. Khi lên ngôi, ông đã thi hành ng loạt
biện pháp chấn chỉnh “từ kỷ cương trong triều đến chính trị trong nước, hết thảy đều được sửa
đổi. Bao nhiêu tướng giặc đảng nghịch đều lần lượt bị dẹp tan”. Quân nhà chúa đến đâu thì
“không chỗ nào không thắng”. Trịnh Sâm như một bậc thánh chúa đưa đất nước đến thái bình
thịnh trị, “bốn phương yên ổn, kho đụn đầy đủ”. Tuy vậy, Ngô gia vẫn nhìn thấu bản chất của tộc
họ này tiên liệu trước rằng Trịnh tộc sẽ bị diệt bởi chính bàn tay của Tĩnh vương Trịnh Sâm
một con người đầy tài năng gây ra. Cái tham vọng muốn làm chủ đẩy ông tới tội ác giết vua,
vu hãm thái tử Duy Vĩ, khiến “thái tử bị ghép vào tội thắt cổ”. Việc giết thái tử chẳng những làm
“thiên hạ không ai không rơi nước mắt” còn khiến đất bằng nổi giận: “giếng Tam Sơn
bỗng tiếng nổ như sấm” trời xanh thì bất bình: “Bầu trời tự nhiên tối tăm, giữa ban ngày
chỉ cách nhau gang tấc cũng không trông rõ”. Sâm còn đi theo vết xe đ của Tần Thủy
Hoàng: Phi tần thị nữ kén vào rất nhiều, mặc ý vui chơi thỏa thích”. Nhất từ khi say thị
họ Đặng, Sâm bất chấp tất cả. Nào gả con gái cưng của mình cho em vợ, nào tự ý phế trưởng
lập thứ, khiến “phủ chúa dần dần sinh ra nọ cánh kia” nơi “bọn đồng cốt ra vào tấp nập”.
Trịnh Sâm trở thành đầu mối của mọi mâu thuẫn: mâu thuẫn với mẹ - thánh mẫu Thái Tôn, với
con trưởng
Trịnh Tông, với vợ
Ngọc Hoan,… Từ đó, hàng loạt mâu thuẫn khác kéo theo:
mâu thuẫn giữa cung tần Ngọc Hoan với tuyên phi họ Đặng, giữa con trưởng Trịnh Tông với
con thứ Trịnh Cán, giữa thánh mẫu với cháu nội Trịnh Cán, giữa con gái Ngọc Lan
với em vợ Đặng Mậu Lân, giữa cánh Trịnh Tông với phe Thị Huệ, giữa các quan trong triều,…
Những mâu thuẫn trên lại cực kỳ gay gắt, bất cộng đới thiên. Do đó, khi chúa Sâm vừa nằm
xuống, “loạn kiêu binh” vỡ ra. Một cuộc chém giết tàn khốc giữa các phe phái bùng lên. Bên
Tông thắng thế. Ông ta vội leo lên ngôi. Chẳng cần đến nghi trượng của một buổi lễ đăng
quang, ông ngự ngay lên chiếc mâm vẫn bày cỗ lộc để đám kiêu binh kề vai vào khiêng, “chốc
chốc họ lại nâng bổng chiếc mâm lên trên đầu đội, đầu mỏi lại hạ xuống vai, rồi vai mỏi lại
nâng lên đầu. Cứ thế lên n xuống xuống y n người ta dỡn quả cầu hoặc rước pho tượng Phật”.
Lễ đăng quang chẳng khác một trò hề, khiến “những kẻ buôn bán các phố phường chợ búa
đều tranh nhau kéo đến xem
Sân phủ đông như họp chợ”. Dưới mắt Ngô gia, ngôi chúa chẳng
qua chỉ một mâm cỗ để tiểu nhân tranh nhau chọc đũa vào. Thì chính quận Thạc đã nói
toạc điều đó trước mặt ba quân: “Người ta khó nhọc mới làm được mâm cỗ ngon, mình bỗng xông
đến
chọc đũa ngay vào ăn
, còn ra cái mặt mũi nữa”. Mâm c đây Án Đố vương Trịnh
Bồng người khó nhọc làm ra mâm c đó Đinh Tích Nhưỡng
một tên tráo trở hai lòng, lật
lọng cả đối với nhà vua. thế, khi thấy mâm cỗ đã thiu, tiểu nhân đánh i chuồn, khiến Án
Đô vương phải khóc dở mếu dở than rằng: “Ta chẳng may đẻ ra nhà chúa, lại bị một tiểu
nhân làm lầm lỡ. Nếu sớm biết thế này thà cứ Chương Đức làm ông già, chống gậy thiền
trượng dưới của thiền lại hóa hay”. Nhưng hối thì đã muộn. Nếu trước kia, Bồng dựa vào
Nhưỡng, chày cối ép Chiêu Thống phải phong cho mình bằng được tước vương, thì giờ đây ông ta
lại thấy đau khổ “trót đã làm chúa
vào thế cưỡi hổ, không thể xuống được”. Bức thư gửi
quan bình chương tiếng thổn thức thốt lên từ đáy lòng ông: Kiếp này sinh ra lỗi thời
lạm
dụng vào dòng đích nhà chúa
Con chim bị cháy tổ, bay quanh không biết nương nhờ vào đâu
thế phải phiêu bạt giang hồ”. Cuối cùng trong vòng chưa đầy sáu năm (từ 1782 đến 1788), 5
chúa Sâm, Cán, Tông, Lệ, Bồng đều bị chết, thay nhau chết không một chúa nào được
chết một cách trọn vẹn. Sâm qua đời năm 45 tuổi bởi quá nhiều bệnh tật và khi ông vừa nằm
xuống, xác còn quàn tại đó thì các con ông đã giết hại lẫn nhau để giành giật ngôi chúa. Cán
chết khi mới 5 tuổi đầu bẩm sinh ốm yếu, lại gặp cơn binh đao do người anh gây ra làm cho sợ
hãi suốt một ngày nên không cứu được. Trịnh Tông thì bị phơi xác ngoài cửa tuyên Vũ khi
mới 23 tuổi. Trịnh L phải bỏ trốn rồi mất tích. Còn Trịnh Bồng thì lại bị dân Lạng Sơn nổi dậy
đuổi đi, phải nấp náu trong chốn núi rừng từ đó “cả nước không còn thấy mặt chúa đâu nữa”.
Sự căm phẫn của N gia dường như dồn lên đầu các chúa Trịnh. Điều này cũng dễ hiểu bởi h
Ngô đứng về phía nhà Lê. Song, điều đáng nói , trong tiếng cười phê phán h Trịnh của tác
giả, người đọc vẫn nghe được tiếng th i rầu pha chút t thương. Ngô gia sự nui
tiếc chúa Trịnh.
Nếu viết về phong trào Tây Sơn một cuộc vật lộn gian khổ trong tưởng để chiến thắng bản
thân thì viết về vua cũng phức tạp vất vả chẳng kém. Họ Ngô đã dành khá nhiều trang viết để
miêu tả các ông vua cuối cùng: Cảnh Hưng, Chiêu Thống Duy Cận
thái tử bị phế truất.
Trong con mắt Ngô gia t thế k XVIII tr đi, nhà không ai đáng mặt làm vua, trừ ti tử Duy
người đã b Trịnh Sâm treo c khi chưa kịp bước n ngai vàng.
Vị vua mở đầu
Hoàng nhất thống chí
Cảnh Hưng.
Kể từ khi triều được thiết lập năm 1428 tới lúc bị diệt vong 1789 trải 27 đời vua với 362 năm
lịch sử thì chỉ Cảnh Hưng người sống thọ nhất: 70 tuổi (1717 -1786), ngôi dài nhất: 47
năm nhưng vô tích sự nhất. Công tích duy nhất trong 47 năm làm vua của ông “treo tranh
Tam Quốc, sai các cung nữ mặc áo trận, cầm giáo mác, chia thế trận ba nước Ngụy, Ngô, Thục
rồi dạy họ cách ngồi, đứng, đâm, đỡ để mua vui”. Phương châm chỉ đạo chi phối cả cuộc đời
ông “Chúa gánh cái lo, ta hưởng cái vui”. Cho nên bị nhà chúa lấn hiếp “có nước không
được tham dự”, ông vẫn vui vẻ. Chẳng những vậy, ông còn tự hào cho rằng mọi người chỉ biết
một không biết hai. Điều đáng sợ nhất đối với ông chính s nhất thống, vì, nhất thống
nghĩa rằng nhà chúa bị diệt “mất chúa thì cái lo về ta, ta còn vui gì”. muốn hưởng cái vui,
để chúa gánh cái lo, nên khi chúa sai người xông vào tận trong điện ngủ của hoàng thượng, bắt
con trai ông
thái tử Duy đem ra treo cổ, ông không biết cách hơn ngoài sự im lặng, mặc
chúa muốn làm thì làm. Tiếp đó, chúa lại ép nhà vua lấy người con trai thứ Duy Cận làm
hoàng thái tử, Cảnh Hưng cũng gật.
Nếu Cảnh Hưng điển hình cho loại vua tích sự thì Chiêu Thống lại điển hình cho loại vua luồn
cúi đê hèn.
Tính cách luồn cúi đê hèn Chu Thống nhất quán từ đầu chí cuối. Khi nghe tin vua Tây Sơn
Nguyễn Nhạc tuần du ra Bắc, Chiêu Thống định theo lời xúi của Hữu Chỉnh “sắp xẵn ngọc tỉ
giục các quan trong triều thảo gấp một tờ biểu xin hàng”. Buổi hội kiến với Nguyễn Nhạc, Chiêu
Thống sai viên quan nói thay mình rằng: “Đất đai cùng dân chúng nước Nam đều do thánh
thượng (Nguyễn Nhạc) y dựng lại. Nếu như thánh thượng muốn thu nhận một i quận ấp
của nước tôi để làm quà khao thưởng quân sĩ, thì quốc quân chúng tôi nhất nhất vâng mệnh”.
Thì ra ý tưởng bán nước đã nảy mầm trong đầu Chiêu Thống khá sớm, ngay t khi vừa ngồi
vào chiếc ngai vàng chưa kịp đặt niên hiệu. nhiên, nói bán nước không nghĩa rằng, chúng
tôi coi Tây Sơn người nước ngoài. Bấy giờ Nguyễn Nhạc đang làm vua một triều đình khác,
cho nên nếu cắt đất cho ông ta “làm quà khao quân sĩ” nghĩa bán nước. Việc này
nguyên nhân sâu sa của nó. Trước hết, Chiêu Thống con người nhỏ nhen, luôn lấy t riêng
làm mục đích cho mọi hành động. Khi thấy Trịnh Tông bị chết Tây Sơn, Chiêu Thống (bấy giờ
đang còn hoàng tự tôn, chưa được lên ngôi) đã tới gặp Nguyễn Bình nói: “Tôi thù cha
chưa trả (Trịnh Sâm, b của Trịnh Tông đã treo c Duy Vĩ, cha của Chiêu Thống). Nay ông trả
thù thay cho tôi. Đời tôi không còn mong hơn thế”. Rồi ông ta thề với Nguyễn Bình: Nếu thân
này phải chết quý quốc tôi cũng không hề phàn nàn. Vì thế sau này khi chúa Án Đô bỏ
chạy, Chiêu Thống “tức thì ngầm sai người phóng hỏa đốt hết phủ chúa
…,
khói lửa bốc lên ngút
trời, hơn 10 ngày chưa tắt”. Con người nhỏ nhen y lại đầy tham vọng, lúc nào cũng muốn thâu
tóm quyền lực về mình. Song nếu tham vọng tài thì còn khả dĩ. Đằng này, Chiêu Thống
vừa lắm tham dục, vừa đại bất tài. Muốn làm vua, chí ít phài bậc trí giả. Phàn Trì hỏi về phẩm
chất của bậc trí giả, Khổng Tử chỉ trả lời hai chữ “tri nhân”. bất tri nhân, Chiêu Thống cứ
loăng qng chẳng biết cất nhắc ai vào vị trí nào. Thoạt đầu, đ trừ Trịnh Lệ, ông dựa vào Trịnh
Bồng. Nhưng tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa. Nếu Trịnh Lệ mới chỉ dám khinh Chiêu Thống đ cho bề
tôi của mình Trọng Tế chỉ dụ của nhà vua trước mặt sứ giả thì Trịnh Bồng còn tệ hơn. Ông
đã từng cho quân lính vây cung vua, định phế Chiêu Thống, lập Duy Cận. Đúng “cái đã vỡ
đó, hết kẻ kia đi, lại đến kẻ này lại, ồn ào bụi bặm bẩn con người”. Ai gây ra tình trạng ấy?
Chiêu Thống chưa bao giờ tự hỏi mình n vậy. Đã biết thế rồi, song để khử Trịnh Bồng, Chiêu
Thống lại vời Hữu Chỉnh về triều, khác nào muốn diệt một con cáo lại đi nuôi một con sói. Đúng
như Ngô Vi Quý Nguyễn Xuân Hợp nhận xét, Hữu Chỉnh kẻ “ý ng cực kỳ hiểm độc, bụng
dạ quá tàn nhẫn, mưu hết sức sâu sắc, giả trá rất đỗi khôn ngoan ứng biến thì mau lẹ
tuyệt vời. Con người ấy thực một kẻ gian ng đời loạn, chưa chắc kẻ bề i hiền đời
trị. Cũng như loài chồn sói không phải vật thể dạy dỗ, giống yêu ma không phải là vật
thể kiềm chế”. thế, sau khi đuổi được Trịnh Bồng, đốt được phủ chúa, Chiêu Thống lại sống
dở chết dở tên loạn thần Hữu Chỉnh. Cuối cùng, để giết Hữu Chỉnh, Chiêu Thống lại phải nhờ
đến tay của Ngô Vi Quý Nguyễn Xuân Hợp. Suốt đời, ông chỉ loay hoay “xoay sở một mình,
không ai người giúp đỡ”. “Ngoài thành bãi chiến trường, thiên hạ đang loạn lớn”. Mặc!
Không cần biết. Ông chỉ quan tâm mỗi một việc “lập mưu chế ngự chúa” sau đó lại “lp
mưu giết Chỉnh”. Dưới mắt Ngô gia, các chúa Trịnh đã thảm, những vua còn thảm hơn nhiều.
Với Cảnh Hưng, nếu ông ta mới bị đem đùa giỡn bông phèng thì với Chiêu Thống, họ Ngô khinh
bỉ ra mặt. Chiếu chỉ đổi niên hiệu của tân quốc quân khi mới lên ngôi văn kiện hành chính
quốc gia cực kỳ trọng đại, ấy vậy mà, trong chiếu chỉ đó “chỗ nào cũng một rằng nhờ đức vua
của q quốc, hai rằng nhờ thượng công của quý quốc” mặc đức vua thượng công của
“quý quốc” đã rút về Nam. q tham vọng lại dốt nát nhỏ nhen, tân quốc quân Chiêu
Thống hành động, nói năng chẳng khác đứa trẻ ngoài đường đang cãi nhau:
- “Cứ nằng nặc đòi phong vương để ăn hiếp mới sướng hay sao?”
- “Muốn phủ, tức muốn làm chúa rồi
- “Ta nay không còn ai giúp giập nữa rồi. Tuy vậy, cũng không thể cậy đông ăn hiếp ta
được”.
Con người như vậy làm sao đủ uy đức làm vua? Bởi vậy, Dương Trọng Tế chỉ kẻ bề tôi
dám chỉ dụ của ông. Trịnh Bồng vừa mới được phong vương đã đem quân đến vây cung điện
dân kinh thành Thăng Long “có kẻ giữ lấy vua, sờ nắn trong lưng không mới tha cho đi”.
Trấn thủ Nguyễn Cảnh Thước thì không những “trấn” vàng lụa của nhà vua còn “cho người
đuổi theo lột chiếc ngự bào vua đang mặc”. Đúng quân bất quân, thần bất thần.
Trước sức mạnh của phong trào Tây Sơn, Chiêu Thống chỉ còn một con đường duy nhất quỳ
gối dâng đất ớc cho ngoại bang. Khỏi phải kể lại những hành vi
luồn cúi đê hèn
trước Tôn
Nghị của ông ta. Quýnh kẻ mạt hạng nhất trong loại mạt hạng: khi con trẻ “chỉ biết uống
rượu đánh bạc, việc văn chưa hề luyện tập qua”, lúc làm quan thì “suốt ngày say tửu sắc,
ân oán riêng bằng cái sợi tóc cũng đều đền báo không đ sót”, việc “chinh chiến được hay
thua, nước nhà còn hay mất, Quýnh chẳng cần biết đến m gì”. Ấy thế mà, lúc Phúc Khang An
bàn việc gọt đầu gióc tóc, đổi đồ mặc cho giống người Thanh thì ít ra Quýnh cũng còn nói được
một câu th gọi khả thủ: “Chúng ta đây, đầu thể chặt, tóc thể cắt, da thể lột, đồ
mặc không thể đổi”. Ông vua Chiêu Thống chưa nói được một câu nào đáng gọi làm
người. Đã thế, ông còn đáp: “Chúng tôi không giữ được nước nhà, may nhờ thiên triều cứu viện,
cả nước phải ăn mặc như người Trung Quốc, cũng xin vâng mệnh. Việc ấy còn tiếc gì”.
Thật không còn hèn hạ hơn.
Nếu để ý một chút, người đọc thể nhận ra rằng họ Ngô đã lộ chung cục cuộc đời Chiêu
Thống từ khi ông ta mới được lập làm Đông cung. Ta hãy nhớ lại sự kiện tháng 9 năm 1782 khi
Sâm vừa nằm xuống. Lúc đó, đám kiêu binh nhân p Trịnh Tông lên ngôi chúa, đã đem kiệu
xông vào nhà giam đón Duy Kỳ - con của Duy ra, ép thái tử Duy Cận thoái vị, bắt Cảnh Hưng
phong Duy Kỳ làm Đông cung. Dưới sự p trợ của đám kiêu binh, Trịnh Tông Duy Kỳ kẻ
được làm chúa, người thì lên ngôi vua. Song đám kiêu binh chỉ ung nhọt của triều chính,
cặn của hội. Chúng dựng vua, lập chúa chẳng qua chỉ đ dễ bề hoành hành cướp bóc, đổi
trắng thay đen. Đất nước còn hay mất, nhân dân sống hay chết, Duy Kỳ hay Duy Cận làm vua,
Tông hay Cán làm chúa, đi với chúng cũng vậy. Núp dưới đám rác rưởi thối tha như vậy để lên
ngôi thì chung cục đã nn tiền hiển hiện. Nếu Trịnh Tông bị phơi thây ngoài cửa Tuyên thì
kết cục cuộc đời Chiêu Thống cũng không thể tốt đẹp hơn.
Còn Duy Cận thì sao? Do cầu may mà được làm Đông cung, do dựa dẫm vào người khác
được làm giám quốc. Dân kinh thành Thăng Long nhận xét rằng ông chẳng qua chỉ “giám
quốc lại mục”
viên thư lại coi việc ớc, hay nói như Ngô Văn Sở, Cận chỉ là “cục thịt trong túi
da”, “đứa tôi đòi ngoài chợ”. Chính Duy Cận cũng nhận ra điều đó. Ông nói: “Ta nay tiếng làm
giám quốc, thực ra chỉ một ông t giữ đền”. sao? ông bất tài, thất đức “ví như cây tầm
gửi bám vào cành cây khác, rễ không bén đất, sống lâu dài làm sao được”.
Trên quan điểm chính thống, lẽ ra họ Ngô phải xót xa trước sự sụp đổ của triều Lê, song qua ba
vị vua cuối ng nêu trên, người đọc chỉ thấy tác giả dành tất cả những khinh bỉ nhất của
mình cho nhà Lê. Đó sự thắng lợi tự vượt mình của Ngô gia văn phái.
Trong cái mớ bòng bong đang hỗn loạn Việt Nam cuối thế kỷ XVIII đầu XIX, họ N vẫn nhìn
thấy khá các xu hướng phát triển cũng như chung cục của các thế lực hội lúc bấy giờ. Về
Tây n, qua hình tượng người anh hùng Nguyễn Huệ với các mối quan hệ gia đình, hội
phức tạp, người đọc thấy được sự lớn mạnh không cưỡng nổi thế tất thắng của phong trào
vừa tiêu diệt các tập đoàn phong kiến thống trị trong nước vừa đạp tan mọi thế lực ngoại xâm.
Về chúa Trịnh vua Lê, qua số phận của 5 ông chúa cuối cùng: Trịnh Sâm, Trịnh Cán, Trịnh
Tông, Trịnh Lệ, Trịnh Bồng cũng như 3 ông vua đời chót: Duy Diên Cảnh Hưng, Duy Kỳ Chiêu
Thống. Giám quốc Duy Cận, người đọc thấy được sự khủng hoảng triền miên sự đổ không
cứu vãn được của họ. Phải con mắt tinh đời, phải cực kỳ dũng cảm, Ngô gia mới viết được
như vậy. Về phương diện này, họ Ngô Thì đất Bắc giống họ Nguyễn Khoa đất Nam Hà. Tuy
hai thời khác nhau, phục vụ hai triều đình đối lập nhưng họ đều xuất phát từ một chỗ đứng
điểm nhìn giống nhau: cùng người Việt Nam yêu ớc, cùng một nguyện vọng thống nhất non
sông, cùng chiến thắng thiên kiến bản thân, nhận trắng đen phải trái cùng i năng nghệ
thuật bậc thầy.
8. Phá vỡ những thói quen suy nghĩ đã trở thành truyền thống
Chiến thắng thiên kiến bản thân cuộc vật lộn cực kỳ gian khổ nhưng phá vỡ những thói quen
suy nghĩ đã trở thành truyền thống của cả một cộng đồng còn gian khổ gấp ngàn lần.
Trong văn xuôi t sự Việt Nam, c nhân vật nếu anh hùng n tộc thường được tác gi hoc
thần thánh a để đưa họ vào nới điện thờ tôn nghm như Tế Xuyên đã làm đối với
Trưng, Nam Đế, Phc Man, Phùng Hưng, Thưng Kit, hoặc huyền thoi hóa, biến
họ thành nhng con người siêu phàm, d tướng như Trn Thế Pháp Nguyễn Hàng đã làm đối
với Lạc Long Quân, An Dương Vương, Triệu Quang Phc, Trương Hng, Trương Hát, Người
đọc thưng gặp nhng ng thức miêu tả v h. Chng hạn: “mt ng như chớp, tiếng i như
chuông
sức khe n người, ngày đi ngàn dặm. Ngay c bộ sử gọi thực lục cũng không
t khỏi thông lệ k trên. Chẳng hạn, về Lê Lợi, Lam Sơn thc lục viết: “Lúc vua sinh, ánh
ng đỏ đầy nhà, i hương lạ khp m. Ngay từ , vua đã
mt ng, ming rộng, i
cao, mt rồng, hai vai có 7 nốt ruồi, đi như rồng, c như h, ng tóc đầy người , tiếng nói như
chuông lớn, ngồi xổm như cọp”. Ngô gia n phái thì khác, họ đã phá b nếp nghĩ c truyn.
lẽ trong văn học Vit Nam trung đi, chưa một tác giả phẩm nào đó, hình tượng ngưi
anh ng Nguyn Hu mang tầm c lớn lao như Hoàng Lê nht thống chí. y vậy mà người
đọc vn thấy Nguyn Hu có cái gì đó thân quen, nh dị. Chàng chng phi là thánh thần
giáng sinh, không có s tr giúp của pht tiên, ma quỷ. Như ng ngàn k khác, Nguyễn Hu
ch một dân nghèo, gốc Ngh An, tổ tiên b bắt vào khẩn khoang min đất Tây n. chàng
ng nhng nhược điểm, những t nh ch của ngưi nông dân nơi rng núi hẻo lánh.
lúc thấy “k chinh phu xa nhà, tình khuê phòng rất cần thiết” nhưng cũng có c “kiêu căng,
“nhơn nhơn tự đc”, c hậm hực vì chỉ được phong c ng mà nếu
không nhn e
hoàng thượng bảo
kiêu căng. Song nhận mà không i gì, người trong nước lại bảo
mọi rợ. khi chàng giận di tự ái vì người ta m việc trng đại
khâm liệm Cảnh ng
mà
không báo cho biết; đôi khi ng thích đưc nịnh. Nghe ng chúa Ngc Hân ca tụng rằng, ch
nh nàng có duyên lấy đưc chàng, như ht a, bi ngọc bay gia trời, đưc sa vào
chn u đài” thì chàng lấy làm “thích thú lắm”. lúc chàng lại tỏ ra vng về quê kch. Chẳng
hạn hôm ra mắt vua Cnh Hưng điện Vạn Th. Trước mặt văn võ bá quan triều đình, khi được
nhà vua mời ngi, c đu chàng “không m ngi”, mãi sau “hoàng thượng phi hai ba lần dụ”
chàng “mi ngồi ghé o một góc chiếu cui sập, một chân b thõng xung đất”. y nhưng
con ngưi y lại một sức mạnh phi thưng, một trí tuệ siêu việt, m tuốt ơm đứng n
san phẳng bt nh. Vì thế, cả non ng đứng v phía chàng do vậy chàng s kết tinh
quá kh, hin tại tương lại của n tộc. Sự kết hợp i tình giữa bút pháp hiện thực với t
pháp sử thi đã tạo ra hình tượng ngưi anh ng n tộc Quang Trung Nguyn Hu độc đáo,
vừa chân thực o hùng, va gn i thân quen mà chưa một tác giả n xuôi t s nào trưc
đó làm đc. Vi ch suy nghĩa mới như vậy, Ngô gia đã cố gắng cải biên hiện thực ngoài đời
sao cho chúng phù hợp vi ý đồ sáng tạo ngh thut của nh.
Huy quận ng Hoàng Tố nhân vật có tht.
Việt sử cương mc
c nhn: “Luôn my năm
hạn hán mất mùa
đầy đưng thây chết đói. Triều đình
dựng quán tế sinh
nấu cơm cháo
chia ra phát chn, ngưi bệnh thì cp cho thuốc thang. Lại h lệnh cho các trấn khuyên nh
n sở tại, người giàu ngưi nghèo giúp đỡ ln nhau; cấm nhân dân đóng cửa không n gạo.
Tuy thế nhưng kẻ trên người dưới che đậy lẫn nhau, mệnh lệnh triều đình cũng ch thi hành một
ch cẩu th trên giy tờ suông thôi. Ch Hoàng Đình Bảo (quận Huy)
n nhng người
nghèo trong hạt
bắt ngưi quyn thế vật lực c nhn lĩnh về, ủy thác sự chu cấp cho họ
hoc chiu theo nhân khu để cấp phát thc tiền. Nh thế mà nhiu người toàn hot”. Như vậy,
quốc sử khẳng định quận Huy người tốt, hoặc chí ít người không xấu. Hơn nữa, Hữu
Trác, như chúng ta đã biết, không chỉ nhà y học xuất sắc còn nhà đạo đức mẫu mực;
dưới mắt ông, quận Huy người “vốn tài của Chu Công ngày xưa, thường rất khiêm tốn đối
với kẻ trong thiên hạ”. Còn Ngô Thì Nhậm đã đau đớn khóc khi quận Huy qua đời:
Khí tiết ngang dọc trời thu
Lòng trung sáng ngời nhật nguyệt
Không đổi mặt như Phạm Chất
Vẫn hết lòng tựa hầu
Thung dung mấy chữ để lại triều
Không thẹn với anh linh, thác như còn sống
Khảng khái chiếc đao ra đánh trận
Làm cho kẻ gian thần chưa chết đã lạnh ơng
Ấy nhưng khi vào
Hoàng nhất thống chí,
quận Huy trở thành tên phản phúc, ti tiện. Huy tính
toán: “Thị Huệ tuy được chúa yêu nhưng con trai Thị Huệ còn nhỏ, hùa vào không phải kế lâu
bền.”. Thế rồi chẳng đếm xỉa đến cách của bậc khanh tướng, một mặt quận Huy “lấy châu
báu đút lót cho những kẻ tay chân của thế tử Tông”, một mặt đem “trăm lạng vàng mười tấm
đoạn Nam Kinh làm lễ yết kiến để xin vào ra mắt thế tử”. Chẳng ngờ, thế tử Tông không dung,
thế Huy trở mặt như trở bàn tay, “âm thầm chí phế lập”. Cũng từ đó, Huy trở thành người
riêng của Thi Huệ, hoa mắt khi được m giao làm phụ chính cho chú sài đẹn “bụng to rốn
lồi”, “mê mẩn” trong thời cuộc, quay cuồng trong danh vọng. tự “làm chủ” gánh vác mọi việc
“không cần đùn đẩy cho ai” chẳng thấy mối họa đang sắp vồ lấy mình. Những hạng người
như quân Huy trong
Hoàng nhất thống c
đầy rẫy: nào Hữu Chỉnh, Trọng Tế, Nguyễn Huy
Bá, tuần huyện Trang, nào Trịnh Lệ, Văn Nhiệm, Đinh Tích Nhưỡng, Nguyễn Cảnh Thước,
đám kiêu binh,… Tiếp đó, Ngô gia đi sâu phanh phui tâm địa quận Huy. Làm phụ chính, Huy
chưa thỏa mãn. Ông ta còn muốn cướp cả nước, rồi “tư thông” với chính cung khi chúa vừa mới
nằm xuống để cho khắp phố phường đầu đường chợ vàng lên lời chửi rủa:
Trăm quan ít sáng nhiều mờ
Để cho Huy quận vào r chính cung
Xây dựng quận Huy thành nhân vật như vậy, phải chăng Ngô gia đi ngược lại lịch sử? Không. A.
Tônxtôi, tác giả tiểu thuyết Pi e đệ nhất đã chỉ ra rằng, tiểu thuyết về đề tài lịch sử “nhất nhất
không được biến thành một thứ ghi chép thời sự lịch sử. Đấy một cuốn tiểu thuyết, một cuốn
sách về cuộc sống, về các tính cách, về những con người,
…,
về những sự kiện,…”, rằng đấy,
nhà văn phải “đóng góp vào lịch sử ý đồ của mình”. Bằng cách đó, văn phái Ngô gia đã góp
thêm luồng gió mạnh vào cơn lốc cách mạng cuối thế kỷ XVIII đầu XIX và dần t khỏi phương
thức duy nghệ thuật kiểu trung đại.
III. Tổng kết
- Hoàng nhất thống chí cuốn tiểu thuyết đạt đến giá trị chân thực lịch sử chân thực văn
học, phản ánh sống động, tài tình bức tranh hiện thực lịch sử nửa cuối thế kỷ XVIII. Tác phẩm
khẳng định sự thắng thế của nhãn quan hiện thực trước thành kiến nhân, sự lấn át của tinh
thần dân tộc trước thiên kiến giai cấp. Người viết không chỉ ghi chép sự việc một ch đơn
thuần luôn thể hiện quan điểm, đánh giá về nhân vật, sự kiện lịch sử bằng những lời nhận
xét, nghị luận sắc sảo.
Hoàng nhất thống chí khẳng định những thành tựu nghệ thuật của văn xuôi tự sự dân tộc, từ
kể chuyện cho tới miêu tả, từ xây dựng không gian
thời gian nghệ thuật cho đến xây dựng
nhân vật, từ kết cấu cốt truyện cho đến tổ chức giọng điệu. “Trong văn xuôi chữ Hán của văn
học dân tộc, trước sau Hoàng nhất thống chí, không một tác phẩm thứ hai nào quy
to lớn đạt được nhiều thành công như vậy” (Nguyễn Lộc).

Preview text:

Bài giảng Hoàng Lê nhất thống chí
I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ
1. Nhan đề
- Hoàng Lê nhất thống chí: cuốn sách ghi lại công cuộc nhất thống quyền lực của vương triều
Lê. Chí là một thể văn của sử, người viết ngụ ý viết sử về thời đại chứ không phải sáng tác văn
học. Tuy nhiên Hoàng Lê nhất thống chí là một tác phẩm văn chương đích thực.
- Tên Hoàng Lê nhất thống chí do người khởi thảo là Ngô Thì Chí đặt. Mục đích sáng tác ban
đầu của người viết là tái hiện lại quá trình Tây Sơn phò Lê diệt Trịnh, tập trung quyền lực về tay
vua Lê. Tuy nhiên, Lê Chiêu Thống sau đó đã không giữ được quyền bính, những biến cố lịch
sử tiếp tục được các tác giả Ngô gia ghi lại: công cuộc đánh đuổi ngoại xâm và bè lũ bán nước,
thống nhất đất nước của hoàng đế Quang Trung; công cuộc thống nhất đất nước của hoàng đế
Gia Long. Nhan đề Hoàng Lê nhất thống chí không còn phù hợp với nội dung được phản ánh,
bởi thế, người viết tiếp là Ngô Thì Du đã đổi lại tên tác phẩm là An Nam nhất thống chí. Tuy
nhiên, Hoàng Lê nhất thống chí vẫn là tên gọi phổ biến của tác phẩm. 2. Cấu trúc
Hoàng Lê nhất thống chí có 17 hồi, gồm 7 hồi chính biên và 10 hồi tục biên. 7 hồi chính biên tập
trung phản ánh những biến cố lịch sử từ khi chúa Trịnh Sâm mất cho đến khi Nguyễn Huệ ra
Bắc lần thứ nhất (1786), tiêu diệt nhà Trịnh, trao trả quyền lực cho vua Lê. 10 hồi tục biên kể các
sự kiện lịch sử từ sau năm 1786, quân Tây Sơn rút về Nam rồi lại trở ra Bắc dẹp loạn, vua Lê
Chiêu Thống không thể kiểm soát được tình hình, chạy sang Trung Quốc cầu viện, 20 vạn quân
Thanh xâm lược nước ta và bị đánh bại bởi đội quân hùng mạnh Tây Sơn dưới sự chỉ huy của
người chủ tướng tài ba Quang Trung Nguyễn Huệ và kết thúc với sự kiện Nguyễn Gia Long
thống nhất đất nước, lập nên nhà Nguyễn. 17 hồi là một chỉnh thể thống nhất về nội dung và
nghệ thuật, tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu, ba hồi cuối, đặc biệt hồi 17 so về mặt công phu
có phần ít hơn các hồi trước đó. 3. Tác giả -
Tác giả của 7 hồi chính biên, phần lớn các tài liệu đều khẳng định là Ngô Thì Chí. Có ý kiến
cho rằng Ngô Thì Nhậm viết nhưng không nhiều học giả đồng tình với quan điểm này. Ngô Thì
Chí (1752 - 1788) là con trai thứ hai của Ngô Thì Sĩ, em Ngô Thì Nhậm. Ông là bề tôi trung
thành của Lê Chiêu Thống, được vua Lê giao nhiệm vụ lên Lạng Sơn chiêu binh mãi mã chuẩn
bị cho phong trào Cần Vương. Việc chưa thành, ông mất trên đường công cán. -
Tác giả của 10 hồi tục biên, có nhiều quan điểm khác nhau. Theo Ngô Giáp Đậu, con cháu
họ Ngô Thì thì Ngô Thì Du (1772 - 1840) là người soạn 10 hồi cuối. Cuốn Ngô gia thế phả cho
biết Ngô Thì Du chỉ viết 7 hồi. Nhiều nhà nghiên cứu như Ngô Tất Tố, Dương Quảng Hàm, Trần
Văn Giáp,… đều cho rằng phần tục biên do cả Ngô Thì Du và Ngô Thì Thuyến (chưa rõ năm
sinh, năm mất; có thể là Ngô Thì Thập, con út của Ngô Thì Nhậm) viết. Tuy nhiên ai viết từ hồi
nào đến hồi nào thì các học giả hoặc chưa xác quyết, hoặc khẳng định Ngô Thì Du là tác giả của
7 hồi tiếp theo và 3 hồi cuối do Ngô Thì Thuyến (Thiến) viết. -
“Ngô gia văn phái” vốn là tên bộ tùng thư gồm 30 tập, tập hợp tác phẩm của các tác giả
thuộc dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, Hà Tây (nay là Thanh Trì, Hà
Nội). Cụm từ “Ngô gia văn phái” đi cùng tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí với hàm nghĩa đây
là sáng tác của nhóm tác giả họ Ngô Thì.
èTựu trung, Hoàng Lê nhất thống chí là kết quả sáng tạo của không phải một người. Tác phẩm
được viết ở nhiều thời điểm khác nhau. Mặc dù thế, Hoàng Lê nhất thống chí là một chỉnh thể
nghệ thuật thống nhất dựa trên qua điểm phản ánh hiện thực: tôn trọng sự thật lịch sử.
I . NHỮNG ĐIỂM ĐẶC SẮC CỦA HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ
(Trích bài viết trong Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập 3: Tiểu thuyết chương hồi - PGS.TS Nguyễn Đăng Na)
1. Hoàng Lê nhất thống chí là cuốn tiểu thuyết đầu tiên và duy nhất phá bỏ lối kể chuyện
theo trình tự thời gian.
Đọc tác phẩm, ta thấy họ Ngô Thì đã “vi phạm” nguyên tắc biên niên trên hai bình diện: một mặt,
niên đại không được đặt lên đầu các sự kiện, mặt khác cách ghi niên đại cũng hết sức tùy tiện,
lúc thì ghi đủ cả ba yếu tố niên hiệu, tuế thứ, can chi; lúc lại chỉ ghi can chi hoặc chỉ có niên
hiệu. Lấy bất cứ sự kiện nào có ghi thời gian trong tác phẩm này ta cũng đều thấy như vậy. Ví
dụ, sau sự kiện chém 7 tên lính, họ Ngô viết: “Bữa ấy nhằm ngày 15 tháng 2 năm Nhâm Thìn,
niên hiệu Cảnh Hưng” và sau sự kiện Trịnh Sâm qua đời là câu “bữa ấy nhằm ngày 13 tháng 9
năm Nhâm Dần”. Cùng hai sự kiện, trước thì ghi thời gian với hai yếu tố can chi (Nhâm Thìn)
niên hiệu (Cảnh Hưng), còn dưới chỉ ghi can chi (Nhâm Dần) mà rõ ràng sự kiện sau (Trịnh
Sâm chết) quan trọng hơn sự kiện trước (chém 7 tên lính). Hãy theo dõi cách ghi thời gian trong
4 hồi đầu của Hoàng Lê nhất thống chí, ta sẽ thấy rõ hơn. Bốn hồi đầu có 16 lần ghi thời gian và
được trình bày theo thứ tự sau: Năm Đinh Dậu 1777 Trịnh Căn ra đời, năm Quý Mùi 1763 Trịnh
Tông sinh, năm Giáp Nhọ 1774 quận Việp đánh Đàng Trong, năm 1780 vụ án năm Canh Tí,
năm Nhâm Dần 1782 Trịnh Sâm qua đời, cùng năm đó kiêu binh nổi loạn, năm 1771 thái tử Duy
Vĩ bị Trịnh Sâm giết, năm Nhâm Thìn 1772 chém 7 tên lính, năm Nhâm Dần 1782 Hữu Chỉnh
vào Nam theo Tây Sơn, năm Giáp Ngọ 1774 quận Việp vào Nam, năm Bính Ngọ 1786 Nguyễn
Như Phu vào Tây Sơn, năm Giáp Ngọ Thuận Hóa về tay Bắc triều, năm Bính Ngọ 1786: tháng 4
Nguyễn Huệ đánh Phú Xuân, tháng 5 Thuận Hóa mất, tháng 6 ngày 27 Trịnh Tông bị chết, ngày
29 Lý Trần Quán tự tử,… Bây giờ, hãy tạm lược bỏ các sự kiện và chỉ giữ lại thời gian xảy ra
của mỗi sự kiện tính theo đơn vị năm. Bốn hồi đầu, trình tự về thời gian như sau: 1777, 1763,
1774, 1780, 1782, 1782, 1771, 1772, 1782, 1774, 1786, 1774, 1786, 1786, 1786, 1786.
Để dễ hình dung về tuyến thời gian trong tác phẩm của Ngô gia văn phái, chúng tôi trình bày dưới dạng đồ thị :
Đồ thị cho thấy, họ Ngo không tuân thủ nguyên tắc biên niên như họ Nguyễn (chú thích: Nguyễn
Khoa Chiêm trong Nam triều công nghiệp diễn chí). Do đó, cốt truyện tác phẩm của Ngô gia
không phát triển theo đường thẳng tuyến thời gian. Những hồi ức ngược dòng về quá khứ đã
tạo thành chất keo quyện kết các sự kiện, các nhân vật, các tình tiết,… thành một hệ thống chặt
chẽ, khiến câu chuyện hấp dẫn, lôi cuốn người đọc. Bước chuyển quan trọng về nhận thức thời
gian nghệ thuật đó đã đưa tiểu thuyết chương hồi Việt Nam thoát dần lối tư duy trung đại và tiến
gần tới tiểu thuyết cận – hiện đại. Khi truyện kể còn đi theo tuyến tính thời gian thì văn xuôi tự sự
vẫn quẩn quanh trong bút pháp viết sử, nghĩa là, chưa ra khỏi phạm trù văn học chức năng hành
chính. Họ Ngô đã vượt qua trở ngại này và đưa tiểu thuyết chương hồi tới bên kia bờ của văn
học đích thực. Chúng ta cần ghi nhận công lao to lớn ấy, vì sau đấy hàng trăm năm, vào cuối thế
kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khi viết Hoàng Việt long hưng chí, Việt Lam tiểu sử, các tác giả của
chúng, trong đó có cả con cháu họ Ngô Thì lại vẫn quay về con đường biên niên.
2. Biết chọn thời điểm nóng bỏng, thời điểm bùng nổ những xung đột gay gắt nhất, thời
điểm xảy ra những biến cố quyết định bước ngoặt lịch sử để đưa vào tác phẩm là phẩm
chất của Ngô gia văn phái.
Sở dĩ như vậy vì họ Ngô thực sự tài năng, đã kế thừa truyền thống kể chuyện lịch sử từ Lý Tế
Xuyên đầu thế kỷ XIV đến Nguyễn Khoa Chiêm đầu thế kỷ XVIII và họ may mắn hơn các thế hệ
trước đấy, được sống trong cơn lốc của thời đại.
Nền chung cho Hoàng Lê nhất thống chí là lịch sử xã hội Việt Nam từ khi chúa Trịnh Sâm say
mê cô thị tì họ Đặng của một Tiệp dư – năm 1776 – đến khi vua Gia Long đánh bại phong trào
Tây Sơn – năm 1802. Trong vòng 1/4 thế kỷ ấy, tác giả lại tập trung vào giai đoạn bảy, tám năm
chủ chốt nhất: từ năm 1782 khi Trịnh Sâm qua đời, kiêu binh nổi loạn giết quận Huy, truất ngôi
vương tử Cán, đưa Trịnh Tông lên thay, nhân đấy phế ngôi Đông cung Duy Cận, phò Duy Kỳ
làm hoàng tự tôn cho đến lúc Nguyễn Bình (Nguyễn Huệ) đem quân ra Bắc dẹp họ Trịnh năm
1786, sau đó năm 1789 ra Bắc lần thứ ba quét sạch tập đoàn Lê Chiêu Thống cùng 20 vạn quân
Thanh xâm lược… Họ Ngô đã dành 14/17 hồi cho sự kiện của gần 8 năm này. Trong khoảng
thời gian mà Ngô gia tập trung cho tác phẩm, những biến cố lịch sử lớn lao mang ý nghĩa thời
đại đã dồn dập diễn ra: các tập đoàn phong kiến thống trị đương thời Nguyễn – Trịnh – Lê nối
tiếp nhau sụp đổ, cuộc đấu tranh của nhân dân kết tinh ở người anh hùng Nguyễn Huệ, cùng
một lúc đập tan các thế lực phản động trong và ngoài nước nhưng cuối cùng cũng bị dập tắt.
Nếu lấy tỷ lệ số trang miêu tả hiện thực lịch sử một năm để so sánh, ta sẽ có ý niệm về độ đậm
đặc nội dung của từng tác phẩm. Xin xem thống kê dưới đây (theo văn bản in trong Tổng tập
tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam – Nxb Thế giới, Hà Nội, 1997). TT Tác phẩm Số trang Số năm miêu tả Số trang /1 năm
1 Nam triều công nghiệp diễn chí 365 116 3.1
2 Thiên Nam liệt truyện 123 109 1.1
3 Hoàng Lê nhất thống chí 284 27 10,5
Đứng về mặt hình thức mà xét, số trang dành cho việc miêu tả các sự kiện trong một năm
của Hoàng Lê nhất thống chí gấp 3.5 lần Nam triều công nghiệp diễn chí (10.5/3.1) và gấp 9.5
lần Thiên Nam liệt truyện (10.5/1/1). Chỉ riêng việc này thôi cũng đủ cho thấy khả năng cô cất
hiện thực của Ngô gia. Hơn nữa, Hoàng Lê nhất thống chí là tác phẩm duy nhất nếu như không
muốn nói rằng độc nhất vô nhị phản ánh và phản ánh một cách tuyệt với phong trào Tây Sơn đã
cùng một lúc tiến hành thắng lợi hai cuộc cách mạng: lật đổ các tập đoàn phong kiến thống trị
đương thời trong nước và đánh đuổi giặc ngoại xâm.
3. Đưa vào tác phẩm một không gian nghệ thuật rất rộng lớn
Đồng thời với việc lựa chọn những thời điểm nóng bỏng nhất trong lịch sử, những xung đột gay
gắt nhất của dân tộc, họ Ngô đã đưa vào tác phẩm một không gian nghệ thuật cực kỳ rộng lớn,
trải dài khắp đất nước từ Bình Định, Phú Xuân đến Thăng Long, Kinh Bắc, Cao Bằng,…và vượt
khỏi biên giới hàng ngàn dặm về phía Bắc, lên tận Nhiệt Hà, Bắc Kinh của Trung Hoa. Lần đầu
tiên trong văn xuôi tự sự xuất hiện một tác phẩm phản ánh hiện thực trên bề mặt không gian
rộng lớn như vậy. Với không gian hiện thực ấy, người cầm bút có điều kiện tung hoành, thâu
tóm, lựa chọn các sự kiện lịch sử, các nhân vật lịch sử, các tính cách con người,…vừa liên quan
đến vạn mệnh dân tộc, vừa tiêu biểu cho thời đại. Và quả thật, họ Ngô đã làm tốt việc này. Hầu
hết các sự kiện lịch sử quan trọng nhất của giai đoạn đầy biến động ấy đều được Hoàng Lê nhất
thống chí thu nạp. Nội bộ phong trào Tây Sơn cùng hai tập đoàn phong kiến Lê – Trịnh và cả nội
bộ triều đình nhà Thanh dều được tái hiện một cách tận tường như chính tác giả là người trong
cuộc. Hơn nữa, để hiện thực trong tác phẩm sống động như chúng đang tồn tại ngoài đời, người
viết không bỏ qua từng chi tiết tưởng chừng vụn vạt nhưng lại hết sức quan trọng đối với tác
phẩm nghệ thuật. Chẳng hạn chi tiết Thị Huệ “xây xẩm mặt mày” nhõng nhẽo chúa Sâm; Thánh
mẫu “sụt sịt ngập ngừng … muốn nói đến ngôi thế tử nhưng vì có Thị Huệ ở đấy nên cũng khó
hé răng” lúc chúa Sâm đang hấp hối; rồi việc Bình “ngồi ghé vào một góc chiếu cuối sập, một
chân bỏ thõng xuống đất” trong buổi yết kiến vua Cảnh Hưng lần đầu tiên khi mới tới Bắc Hà,
hoặc kiêu căng hỏi Ngọc Hân sau ngày cưới rằng “Con trai con gái nhà vua đã có mấy người
được vẻ vang như nàng?” và cả chi tiết chúa Cán “bụng to rốn lồi, da nhợt gân xanh, chân tay
khẳng khiu…” cũng được Ngô gia chớp lấy đưa vào tác phẩm.
4. Hệ thống nhân vật tương đối đồ sộ
Lịch sử do con người làm ra, trong đó các yếu nhân lịch sử giữ vai trò gần như quyết định. Vì
thế, không thể hình dung rằng, tiểu thuyết lịch sử lại vắng bóng họ. Trong Hoàng Lê nhất thống
chí, những nhân vật quan trọng của cả hai phía: nhân dân và phong kiến, dân tộc và ngoại xâm,
yêu nước và bán nước, chính nghĩa và phi nghĩa, anh hùng và tướng cướp,… đều có mặt và
góp phần tái hiện diện mạo xã hội Việt Nam những năm cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Đọc
tác phẩm, ta thấy cả thế giới những con người có thực ấy ùn ùn đi lại, nói năng, khóc cười,
thắng bại,… như chúng đã và đang tồn tại. Từ những người đứng đầu “thiên triều” như vua Càn
Long đến các bề tôi thân cận của ông như Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị, Thái thú Sầm Điền Châu,
Tổng đốc Phúc Khang An, các đại thần Hòa Thân, Thang Hùng Nghiệp…; từ vua Cảnh Hưng,
Chiêu Thống…, từ chúa Tĩnh Vương Trịnh Sâm, Đoan Nam Vương Trịnh Tông, thế tử Trịnh
Cán, Án Đô Vương Trịnh Bồng, Thụy quận công Trịnh Lệ,… đến các vị tai to mặt lớn của triều
đình Bắc Hà bấy giờ như Tham tụng Bùi Huy Bích, Bồi tụng Nguyễn Khản, Đồng Bình chương
Trần Công Xán, lão tướng Hoàng Nguyễn Khản, danh tướng 18 đời Đinh Tích Nhưỡng, Tiến sĩ
Lý Trần Quán, quan văn Dương Trọng Tế, thái hậu Dương thị, quốc cữu Dương Khuông,…; từ
vua Thái Đức Nguyễn Nhạc, hoàng đế Quang Trung đến Đại tư mã Ngô Văn Sở, quân sư Ngô
Thì Nhậm, Đô đốc Phan Văn Lân, Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết,… đều hiện diện trong tác phẩm.
Yếu nhân lịch sử đương nhiên phải là nhân vật chính trong tiểu thuyết lịch sử. Nhưng con người
vốn là sự tổng hòa của các mối quan hệ xã hội. Cho nên bên cạnh hệ thống nhân vật đại diện
quốc gia, tai mắt triều đình, trong tác phẩm của Ngô gia còn có hệ thống nhân vật ở cả hai phía,
có thể coi là dưới đáy hoặc thấp cổ bé họng như bọn kiêu binh, đám lính tráng, quân ô
hợp… tìm cơ đục nước béo cò, lợi dụng lúc loạn lạc để cướp bóc phố phường, thậm chí
sờ nắn túi áo nhà vua, lột cả ngực bào hoàng đế đang mặc. Chúng vừa là sản phẩm của
thời đại “mũ dép đảo lộn, cương thường sai trái” vừa làm hoàn chỉnh bức tranh xã hội Việt Nam thời Hoàng Lê.
Nhân vật là một trong hai hạt nhân cơ bản cấu thành loại hình tự sự. Không có nhân vật thì
chẳng có gì mà kể, cũng nghĩa là không có truyện. Bởi vậy, để phản ánh bước ngoặt lịch sử - xã
hội Việt Nam những năm cuối thế kỷ XVIII đầu XIX dưới hình thức văn xuôi tự sự, Ngô gia đã
thu chọn vào tác phẩm của mình gần 400 nhân vật. Hệ thống nhân vật này đại diện khá đầy đủ
cho các tập đoàn người, các xu thế chính trị, các tầng lớp xã hội, ở đó già có – trẻ có, trai có –
gái có, thành thị có – nông thôn có, Việt Nam có – Trung Hoa có, triều đình có – dân gian có, văn
quan có - võ tướng có, vua chúa có – dịch lại có, quân tử có – tiểu nhân có, hào hoa phong nhã
có – dung tục bỉ ổi có, anh hùng cái thế có – luồn cúi đê hèn có,… Với khối lượng nhân vật đồ sộ
và phong phú ấy, người viết dễ rảnh tay trong việc khái quát hóa nghệ thuật. Tuy nhiên, số
lượng mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ. Cái tạo nên đặc trưng phân biệt giữa văn học
nghệ thuật với các loại hình văn học khác là người cầm bút phải xây dựng được hệ thống nhân
vật sao cho, nói như V.G. Biêlinxki, mỗi nhân vật là một “người này”, một cá thể “vừa lạ lại vừa
quen” mà vẫn mang ý nghĩa xã hội thẩm mĩ cao.
Bằng tài năng của mình, họ Ngô đã xây dựng khá thành công gần 100 trong số 400 nhân vật
của tác phẩm. Gần 100 nhân vật này, mỗi người một tính cách vừa độc đáo vừa cá biệt mà vẫn
rất hiện thực. Nhiều nhân vật được xây dựng thành công tới mức có thể nói là xuất sắc. Nếu đã
đọc Hoàng Lê nhất thống chí thì khi nghe nhắc đến tên những nhân vật ấy, ai cũng có thể
mường tượng ngay ra họ đang đi lại, nói năng, hành động như thế nào trước mắt mình. Nào là
Lê Cảnh Hưng, Lê Chiêu Thống, Lê Quýnh, Lê Duy Cận, Nguyễn Khản, Dương Khuông, Bùi
Huy Bích, Phan Huy Ích, Trần Công Xán, Ngô Nho, Lí Trần Quán, Nguyễn Trấn Quốc, Nguyễn
Hữu Chỉnh, Hoàng Phùng Cơ, Hoàng Tố Lí, Dương Trọng Tế, Đinh Tích Nhưỡng, tuần huyện
Trang, Nguyễn Cảnh Thước, Đặng Thị Huệ, Trịnh Sâm, Trịnh Tông, Trịnh Lệ, Trịnh Bồng, Trịnh
Cán, Đặng Mậu Lân, Sử Trung hầu, Nguyễn Hoàn, Phan Lê Phiên, Dương Thái phi, Nguyễn
Bình, Nguyễn Nhạc, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Ngô Thì Nhiệm, Vũ Văn Nhậm, Nguyễn Văn
Tuyết, Tôn Sĩ Nghị, Phú Khang An,… Đó là những con người bằng xương thịt, có cá tính.
Những nhân vật xuất hiện nhiều trên trang viết hoặc trong nhiều hối như Nguyễn Bình, Lê Cảnh
Hưng, Hữu Chỉnh, Trịnh Bồng, Trịnh Sâm, Dương Trọng Tế, Đinh Tích Nhưỡng, Lê Chiêu
Thống,… tạo nên ấn tượng không phai mờ trong lòng người đọc đã đành. Nhưng cũng có
những nhân vật chỉ được phác qua đôi dòng hoặc trên vài ba trang viết, song chúng vẫn khắc
sâu được vào tâm trí người đọc. Chẳng hạn Lý Trần Quán, tuần huyện Trang, Nguyễn Cảnh
Thước, Nguyễn Trấn Quốc, Nguyễn Triêm, huyện úy Thọ Xương,… Cái đó nói lên điều gì, nếu
không phải là tài năng người cầm bút? Có được như vậy phần thì do thời đại đem lại – cuối thế
kỷ XVIII đầu XIX sinh ra lắm con người quái kiệt, nhưng chủ yếu do các tác giả khổ công lao
động nghệ thuật tạo nên.
Khi miêu tả tính cách nhân vật, tác giả thường tỏ ra “khách quan”, đứng ngoài thời cuộc,
chỉ là người quan sát, cuộc sống có sao thì ghi lại như vậy. Ngay cả những đoạn phân
tích tâm lý nhân vật, người viết vẫn tỏ ra “hững hờ ngoài cuộc”. Chẳng hạn, về quận Huy, tác giả viết:
“Huy nghĩ rằng, Thị Huệ tuy được chúa yêu nhưng con trai của Thị Huệ còn nhỏ, trong khi đó thế
tử đã lớn rồi, hùa theo Thị Huệ e không phải là kế lâu bền. Vì vậy, sau khi đã vào hầu chúa, Huy
liền lấy châu báu đút lót cho những kẻ chân tay của thế tử để xin nương tựa vào thế tử. Rồi Huy
lại đem một trăm lạng vàng và mười tấm đoạn Nam Kinh làm lễ yết kiến để xin vào ra mắt thế tử.
Nhưng thế tử không nhận đồ lễ, cũng không cho vào gặp (…) Quận Huy biết thế tử không dung
mình bèn quyết ý hùa theo Thị Huệ và âm thầm có chí phế lập”.
Và đây nữa, lúc Nhưỡng nhóm họp triều thần để đối lập với cuộc họp trước đây của Tế, họ Ngô kể:
“Tuy nhiên, để phòng ngừa vì lỗ mạng thô bạo mà hỏng việc như bọn Thần Trung hầu, Dương
Trọng Tế nên Nhưỡng cũng không dám dùng uy thế mà ăn hiếp các viên triều thần hiện đang
theo nhà vua. Ngược lại, các viên triều thần khi mới gặp Nhưỡng cũng chỉ ngồi im để xem
Nhưỡng ngả bên nào mà cân nhắc nặng nhẹ. Lúc thấy Nhưỡng kêu gọi hội họp, mọi người tuy
không dám theo Nhưỡng nhưng trong bụng lại sợ Nhưỡng, vì thế việc theo phò nhà vua cũng có phần chểnh mảng”.
Người viết càng tỏ ra dửng dưng bao nhiêu thì người đọc càng tin rằng nhân vật ấy có thực bấy nhiêu.
Để khắc họa tính cách nhân vật, tác giả thường chọn những thời điểm mà vào khoảnh khắc
đó, hoàn cảnh cuộc sống trong mối quan hệ phức tạp đa phương với xã hội, nhân vật
buộc phải bộc lộ bản chất, bộc lộ tính cách, phải hiện nguyên hình. Ngô gia đã rất tài ở việc
tạo dựng tình huống như vậy. Trong hoàn cảnh của các thời điểm đánh Phú Xuân hoặc khi mới
nghe tin quân Thanh vào xâm lược, lúc tuyên dụ ba quân tại Tam Điệp để chuẩn bị giải phóng
Thăng Long và kể cả các buổi ra mắt vua Cảnh Hưng lần đầu, lúc chuyện trò với Ngọc Hân sau
lễ cưới hoặc sau đám tang bố vợ,… Nguyễn Bình mới có điều kiện thể hiện chất anh hùng quyết
đoán, yêu nước thương dân, tài kiêm văn võ những cũng thật thà đến vụng về, đôi lúc kiêu
căng, hậm hực đến tức cười. Lý Trần Quán chỉ có thể bày tỏ lòng trung liệt của mình trước thảm
trạng bị Nguyễn Trang, tên học trò lừa thầy phản chủ, bán đứng chúa Tông. Nguyễn Cảnh
Thước chỉ trở thành Cảnh Thước khi vua Chiêu Thống sai y chở mình qua sông lúc đang chạy loạn.
Khi đã chọn được thời điểm “thử vàng: ấy, họ Ngô không dừng lại kể lể dài dòng, chỉ “chụp”
lấy một vài lời nói, cử chỉ, hành động mang ý nghĩa như những tín hiệu đặc trưng nhất
cho tính cách nhân vật mà chỉ anh ta – “con người này” mới nói năng, hành động như
vậy. Nhắc đến Cảnh Hưng, ta nhớ ngay câu ông nói: “Trời sai chúa phò ta, chúa gánh cái lo, ta
hưởng cái vui. Mất chúa tức là cái lo lại về ta, ta còn vui gì?” hoặc nhớ tới việc ông “treo tranh
Tam Quốc, sai các cung nữ mặc áo trận, cầm giáo mác chia thế trận ba nước Ngụy, Ngô, Thục
rồi dạy họ cách ngồi, đứng, đâm, đỡ để mua vui” trong suốt 47 năm làm vua. Người đọc nhớ
Hữu Chỉnh ở câu nói khi bị Tây Sơn bỏ rơi, cái chết đang kề cổ: “Ta đi khắp bốn biển chín châu,
chẳng lẽ khi trở về xó bếp lại bị chuột chù gặm chân ư?”; ở tuần huyện Trang là câu: “Sợ thầy
không bằng sợ giặc, yêu chúa chưa bằng yêu thân mình” khi bị thầy quở trách: “Chúa là chúa
chung của thiên hạ. Mà ta lại là thầy anh. Vua tôi là nghĩa lớn, sao anh nỡ làm như thế?”; ở
Nguyễn Cảnh Thước là câu: “Các thuyền đều không ở đây. Bệ hạ muốn sang sông gấp thì xin
cho thần ít nhiều vàng lụa mới có thể thuê được… Giả sử quân giặc đuổi đến, thần xin dùng
thùng gỗ để đưa bệ hạ qua sông”,… Rồi việc tự chôn sống mình của Lý Trần Quán, việc mang
gông nằm sấp của Trần Công Xán, việc bỏ bút mực vào ống tay ao đem xuống Diêm vương kiện
“triều đình không có mắt” của Nguyễn Trấn Quốc trước khi lên đoạn đầu đài; việc nuốt 6 chữ
“trung nghĩa tráng liệt đại vương” do Tông viết ban cho rồi dương dương tự đắc bảo lũ kiêu binh:
“Bây giờ tao không thi đấu võ, nhưng vẫn còn thi can đảm. Thế mới lạ chứ!” của Triêm Vũ hầu;
việc trấn thủ Nguyễn Cảnh Thước sai người lột nốt chiếc áo ngự nhà vua đang mặc; việc Phan
Huy Ích ba hoa giữa triều đình rằng, phải làm chiếc trống trận “cho rõ lớn, có thể chứa được
người vào trong để khi bắt được Chỉnh (…) sẽ chọc thủng mặt trống nhồi … vào trong đó mà
khiêng về dưới cửa khuyết” với dáng điệu khúm núm “run sợ và xin lỗi” khi bị Chỉnh tóm được và
hỏi về cái trống… Tất cả những chi tiết đó đã khắc họa đậm nét tính cách từng nhân vật. Bằng
đôi ba câu đối thoại, một vài cử chỉ của nhân vật,… người viết đã thâu đúng thần thái anh ta.
Với cách thức đó, Ngô gia xây dựng thành công và thành công xuất sắc hàng loạt nhân vật đại
diện cho cả một thời kỳ giông tố của dân tộc.
5. Sau mỗi sự kiện lịch sử, Nguyễn Khoa Chiêm thường kết lại bằng bài thơ với ý nghĩa thay lời bình giá.
Dù cách sử dụng thể thơ và giới thiệu từng bài thơ mang dấu ấn sáng tạo nhưng về hình thức
mà nói, việc làm đó của Nguyễn Khoa Chiêm chưa vượt khỏi khung mô hình tiểu thuyết La Quán
Trung. Để tháo thoát tình trạng này, Ngô gia triệt bỏ hình thức thơ ca và thay bằng một kiểu
nhân vật mới: nhân vật dân gian trời. Thật là khôn ngoan. Dân gian trời chẳng là ai cả,
nhưng lại là tất cả; chúng có sức mạnh như những “lời cẩn án” và thay cho thái độ của người
cầm bút trước hiện thực.
Để lên án tội ác giết thái tử Duy Vĩ của chúa Sâm, sau sự kiện thái tử bị khép vào tội thắt cổ,
thay vì bài thơ, Ngô gia viết: “Ngày hành hình, bầu trời tự nhiên tối tăm, giữa ban ngày mà chỉ
cách nhau gang tấc cũng không trông rõ. Chừng hơn một khắc mới lại sáng sủa. Già, trẻ, trai,
gái trong thiên hạ không ai là không rơi nước mắt. Họ đều cho rằng, đó là việc trái ngược nhất,
bi thảm nhất từ xưa đến nay”. Trước việc quận Huy lộng quyền “tự mình làm chủ, mọi việc tự
mình gánh vác … người khác có đồng ý hay không … cũng chẳng thèm kể đến” và trở thành
người riêng của Thị Huệ, Ngô gia đưa ra nhận xét của dân gian thay cho bài thơ: “ Ở phố
phường người ta túm năm tụm ba bàn tán, kẻ nói chúa mới (chỉ Trịnh Căn) bị bệnh rất nặng,
chưa biết chừng ngày nào đó trong cung sẽ có biến; quận Huy uy quyền lớn quá, không khéo
hắn sẽ cướp nước mất. Người bảo chính cung tư thông với Huy, ả sắp đem xã tắc giao phó cho
quận Huy. Bấy giờ, đầu đường xó chợ có câu ca dao như sau:
Trăm quan sáng ít nhiều mờ
Để cho Huy quận vào rờ chính cung”
Về việc Chiêu Thống rước quân Thanh đến xâm lược nước ta, “ngày ngày sau các buổi chầu …
lại tới chờ ở doanh của Tôn Sĩ Nghị để nghe truyền việc quân việc nước … quân lính hộ vệ chỉ
vài chục người”, tác giả Hoàng Lê nhất thống chí viết: “Người trong kinh có kẻ không biết là vua,
hoặc có người biết thì họ nói riêng với nhau: Nước Nam ta từ khi có đế có vương tới nay, chưa
thấy bao giờ có ông vua luồn cúi đê hèn như thế. Tiếng là làm vua, nhưng niên hiệu thì viết là
Càn Long, việc gì cũng do viên tổng đốc, có khác gì phụ thuộc vào Trung Quốc”, v.v…
Bằng phương thức đó, họ Ngô một mặt rũ bỏ những hình thức mang dáng dấp tiểu thuyết Trung
Hoa, mặt khác vẫn đạt và đạt một cách tuyệt vời tới đích nghệ thuật mà mình mong mỏi.
6. Hai giọng điệu ngợi ca và trào lộng
Dòng văn xuôi tự sự lịch Việt Nam từ Lý Tế Xuyên (nửa đầu thế kỷ XIV), Trần Thế Pháp (nửa
cuối XIV), Nguyễn Hàng (nửa đầu thế kỷ XVI) đến Nguyễn Khoa Chiêm (cuối thế kỷ XVII đầu
XVIII), Gia Cát thị (nửa sau thế kỷ XVIII),… chủ yếu viết về cái hào hùng, cái bi tráng, do đó ngợi
ca là giọng điệu nổi bật. Nhưng bước vào cuối thế kỷ XVIII đầu XIX, xã hội Việt Nam không chỉ
có cái hùng và cái bi mà còn tồn tại cả cái hài hoặc cái bi xen hài. Xã hội đó đã đi vào tác phẩm
của Ngô gia. Bởi vậy, trong Hoàng Lê nhất thống chí có cả cái hào hùng, cái bi tráng và cái hài
hước. Hai giọng điệu ngợi ca trào lộng dường như song hành và hỗ trợ cho nhau tạo thành
tiếng nói riêng vừa mới vừa độc đáo cho Hoàng Lê nhất thống chí.
Lần đầu tiên một tác phẩm sử thi hoành tráng lại chứa đựng khá đậm chất hài. Cái giỏi của
người cầm bút là tạo cho người đọc một cảm giác rằng anh ta đứng ngoài cuộc. Với thái độ đó,
sức mạnh tiếng cười châm biếm được nhân đôi. Ở họ Ngô là sự kết hợp hài hòa giữa lối bao
biếm của bút pháp xuân thu với truyền thống trào phúng của văn học dân gian Việt Nam và cái
nhìn sắc sảo của một người thiệp liệp uyên thâm, “lạnh lùng” mổ xẻ. Dường như nhân vật nào
trong tác phẩm cũng bị tác giả đưa ra đùa cợt và trong tiếng cười thường pha chút nước mắt đắng cay.
Dưới đây là một ví dụ: phút lâm chung của chúa Sâm.
“Bấy giờ bệnh chúa đã nguy kịch, nhân có Thánh mẫu vào thăm, Thị Huệ phải ôm chúa ngồi
dậy. Thánh mẫu đứng ở đầu sập vừa khóc vừa hỏi han, chúa cũng khóc mà rằng:
- Con xin chắp tay cúi đầu lạy mẹ. Nay con chẳng may xấu số, không được thờ mẹ cho đến
cùng. Nghĩ đến đạo hiếu chưa tròn, ruột gan con đau như dao cắt. Xin mẹ hãy ngự giá về cung,
cố ăn ngủ cho thảnh thơi, đừng nghĩ đến con mà đau lòng mẹ.
Thánh mẫu nức nở, sụt sịt, ngập ngừng hồi lâu, ý muốn nói đến ngôi thế tử, nhưng vì có Thị
Huệ ở đấy nên cũng khó hé răng, dùng dằng mãi chưa ra. Chúa thấy vậy lại nói:
- Mẹ quá thương con, không nỡ dứt tình mà đi. Con trông thấy mẹ cũng đau lòng không thể
nhắm mắt. Vậy cúi xin mẹ hãy ngự giá về cung.
Thánh mẫu bèn ứa nước mắt trở ra.
Chúa quay sang dặn Thị Huệ:
- Bệnh ta không khỏi, không ở được cùng khanh đến lúc bạc đầu …, duyên sắt cầm đành hẹn đến kiếp khác.
Thị Huệ nấc lên đến hơn một khắc, rồi ả cắt tóc thề rằng:
- Chúa thượng chẳng thương thiếp, nỡ bỏ thiếp vò võ một mình. Thiếp xin liều thân mà chết theo chúa.
Rồi thị khóc òa lên.
Chúa ngoảnh sang Thùy Trung hầu nói:
- Sau khi ta qua đời, các người phải nên khuyên giải chính cung cho khéo, chớ để nàng liều
mình. Vạn nhất nếu không ngăn cản nổi ý chí của nàng, thì cứ để nàng chung thuyền với ta mà
đưa đi, cho nàng được hầu hạ ta ở nơi lăng tẩm”.
Màn kịch không dài, diễn ra với ba nhân vật: Trịnh Sâm, mẹ (thánh mẫu) và vợ (Đặng Thị Huệ)
trong mối quan hệ chúa – tôi, mẹ - con, vợ - chồng. Cả ba đều khóc, nhưng chỉ có Trịnh Sâm
khóc thật. Sâm khóc vì “nghĩ đến đạo hiếu chưa tròn” và kiếp này “duyên sắt cầm” dang dở. Con
chim sắp lìa tổ thì kêu những tiếng bi thương. Người sắp lìa đời thì nói những lời chân thật.
Nhưng Sâm càng nói những điều chân thật bao nhiêu thì tấn hài kịch càng bị đẩy tới cao trào
bấy nhiêu. Thấy mẹ “nức nở sụt sịt”, Sâm tưởng bà quá thương mình, thấy mẹ “ngập ngừng” lại
tưởng bà “không nỡ dứt tình mà đi”. Thực ra, bà đến đây đâu phải để vĩnh biệt đứa con trai ruột
thịt của mình? Bà dùng dằng mãi chưa ra bởi “muốn nói đến ngôi thế tử, nhưng vì có Thị Huệ ở
đấy nên cũng khó hé răng”. Cho dù Sâm có “ruột gan đau như dao cắt”, chết “không thể nhắm
mắt” và hai lần vật nài “xin mẹ hãy ngự giá về cung” cũng mặc, Thánh mẫu về làm sao được khi
mục đích chuyến viếng thăm chưa đạt yêu cầu? Thị Huệ cũng vậy. Dù ả có “cắt tóc thề” bồi,
“nấc lên đến hơn một khắc” hoặc “xin liều thân mà chết theo chúa” thì tất cả chỉ là đóng kịch vì ả
“sợ không dự định trước, đến lúc tình thế khẩn cấp sẽ bị người khác cướp mất” ngôi thế tử của
con mình. Vậy mà Sâm lại tưởng ả nghĩa tình với mình tới mức sẵn sàng liều chết, nên trước khi
trút hơi thở cuối cùng, ông còn quay sang dặn Thùy Trung hầu rằng: “Sau khi ta qua đời, các
người phải nên khuyên giải chính cung cho khéo, chớ để nàng liều mình”. Thật tội nghiệp! Đọc
đến đây, chẳng biết nên khóc hay cười? Những mẩu hài kịch như vậy trong Hoàng Lê nhất
thống chí rất nhiều. Ta có thể kể một số cảnh. Chẳng hạn, các màn Lý Trần Quán tự tử, Nguyễn
Cảnh Thước “phò” Chiêu Thống qua sông, Phan Huy Ích ra trận, Hữu Chỉnh bị bắt, Dương
Trọng Tế vào cũi về kinh, Trịnh Bồng đi tu, Đinh Tích Nhưỡng lập chúa, Trịnh Tông lên ngôi,
Chiêu Thống chạy loạn, Tôn Sĩ Nghị vượt cầu phao, Hữu Chỉnh bị bỏ rơi, Trần Công Xán đi sứ,
Nguyễn Khản bàn giết kiêu binh, thánh mẫu xin tha mạng quốc cữu, v.v và v.v…
Tiếng cười của Ngô gia thâm trầm uyên áo, tiếng cười của sự thỏa mãn trí tuệ. Khi thì nó
được bộc lộ ngay ra trong cảnh huống, lúc lại thể hiện qua lời nói hoặc cử chỉ nhân vật.
Nhưng đôi kkhi phải thông qua một chuỗi sự kiện, người đọc mới khám phá ra tiếng
cười. Dưới đây là một ví dụ: Khi Thị Huệ có mang Trịnh Cán, tác giả kể: “Chúa liền sai người đi
lễ khắp trăm thần để cầu sinh con thánh”. Cán ra đời, “chúa hết sức yêu mến…, lúc đầy trăm
ngày, chúa lấy tên của mình lúc nhỏ là Cán đặt cho nó để tỏ ra nó cũng giống mình”. Khoa thi
Hương năm ấy, “chúa lấy hai câu: Sơn xuyên anh các, hà hải tú chung (nghĩa là khí thiêng của
sông núi tụ lại, sự tốt đẹp của biển hồ đúc nên) để làm đề thi. Các quan văn võ cũng có nhiều
kẻ lấy chữ Tinh huy hải nhuận (nghĩa là “sao sáng biển hòa” – điềm sinh thánh nhân) làm câu
chúc mừng. Tóm lại, Trịnh Cán là “con thánh”, là nòi đích Trịnh Sâm, - “nó cũng giống mình”
anh tú của núi sông hồ biển tụ lại đúc nên, là điềm sao sáng biển hòa. Người đọc hồi hộp
chờ đợi đấng “thánh nhân” xuất thế. Nhưng đùng một cái, họ Ngô cho ra mắt bạn đọc cái quái
thai: “bụng to, rốn lồi, da nhợt gân xanh, chân tay gày khẳng khiu”. Tiếng cười bật ra. “Chúa phải
sai người đi tìm danh y khắp bốn phương chữa cho Cán”, phải sai người đi “lễ bái khắp các đền
đài có tiếng linh thiêng” rồi “thiết lập đàn tràng ở ngay trong cung để ngày đêm đèn nhang cầu
khấn” và mặc “Thị Huệ làm chay làm bùa tha hồ cúng lễ”. Song danh y nào chữa được con bệnh
họ Trịnh? Thần thánh nào cứu đặng Trịnh vương? Sau cơn binh biến, chúa Cán “vì quá sợ hãi
không ăn uống gì được … ít lâu sau thì … qua đời”. Người đọc mỉm cười thở phào. Tiếng kèn
đưa ma vui vẻ tấu lên để tiễn chúa Trịnh Cán – “tinh hoa” của họ Trịnh xuống mồ.
7. Hoàng Lê nhất thống chí phản ánh trực tiếp hiện thực đương thời. Người cầm bút
không chỉ là chứng nhân lịch sử, mà còn vừa là tác giả, vừa là nhân vật ngay trong tác phẩm của mình.
Nam triều công nghiệp diễn chí viết về các sự kiện lịch sử từ năm 1559 đến 1689 nghĩa là viết
về hiện thực cuộc sống trước khi tác giả ra đời 100 năm và sau khi tác giả ra đời 30 năm. Như
vậy, Nguyễn Khoa Chiêm vừa viết về quá khứ, vừa viết về hiện tại, nhưng hiện tại đã được lắng
đọng trên 1/4 thế kỷ (Nguyễn Khoa Chiêm sinh năm 1659, hoàn thành tác phẩm năm 1719, sự
kiện cuối cùng trong tác phẩm xảy ra năm 1689). Ngược lại, Hoàng Lê nhất thống chí phản ánh
trực tiếp hiện thực đương thời. Người cầm bút không chỉ là chứng nhân lịch sử, mà còn vừa là
tác giả, vừa là nhân vật ngay trong tác phẩm của mình. Điều này sẽ tạo nên nét độc đáo riêng
và chi phối tác phẩm một cách toàn diện, sâu sắc từ nội dung đến hình thức, từ việc lựa chọn sự
kiện, tình tiết, nhân vật,… đến phương thức phản ánh, cách khái quát hóa nghệ thuật và ngôn ngữ người kể chuyện.
Viết về quá khứ lịch sử, người cầm bút có được một số thuận lợi đáng kể.
Một là, các sự kiện lịch sử đã ở thế ổn định, trắng đen phải trái đã rõ ràng. Cái đáng lụi tàn đã lụi
tàn, cái phải chiến thắng đã chiến thắng. Hai là, các nhân vật lịch sử về cơ bản đã được công
luận thừa nhận, hoặc bị phê phán hoặc được ngợi ca và chủ yếu là tất cả đều đã chết. Người
cầm bút không phải đương đầu với cường quyền kiểm duyệt. Phản ánh những sự kiện đang vận
động thì khác. Khi đó, lịch sử đang diễn tiến, các xu thế xã hội đan xen nhau, cái nhất thời và cái
bản chất dễ lẫn lộn. Lúc thì cái này tạm thời thắng thế, lúc thì cái kia tạm thời thất bại. Cho nên,
muốn phản ánh trực tiếp hiện thực đương thời một cách sâu sắc, có ý nghĩa xã hội – thẩm mĩ,
người cầm bút cần có một số phẩm chất đặc biệt. Trước hết, anh ta phải có nhãn quan tinh
nhạy để vượt qua mọi thiên kiến cá nhân. Trong cái mớ hỗn tạp của những sự kiện lịch sử đang
xô đẩy và va đập nhau bởi các tầng lớp, các cá nhân, các tập đoàn xã hội kia tạo nên, người
cầm bút phải dự cảm được cái tất yếu dẫn tới chung cục của chúng: xã hội sẽ đi theo chiều
hướng nào, vai trò của từng cá nhân, từng tập đoàn trong sự phát triển lịch sử,… Có chế ngự
được thiên kiến bản thân thì hiện thực trong tác phẩm mới hiện lên một cách trung thực và mới
giúp nhà văn giữ đúng vai trò thư ký thời đại. Đấy cũng là “con đường đau khổ” của những
người viết tiểu thuyết lịch sử đương đại. A. Tônxtôi hoàn toàn có lý khi kể rằng: “Tôi không chỉ
chấp nhận cách mạng – chỉ với sự chấp nhận không thôi chưa đủ để viết về cách mạng – tôi yêu
cái vĩ đại đầy bi tráng, tôi yêu cái tầm vóc toàn thế giới của cách mạng. Và bởi vậy, nhiệm vụ
cuốn tiểu thuyết (Con đường đau khổ) của tôi là tái tạo lại cái tầm vóc ấy với tất cả sự phức tạp,
gian nan của nó”. Dĩ nhiên, Ngô gia văn phái chưa ý thức được như A. Tônxtôi nhưng rõ ràng
“với sự chấp nhận thôi chưa đủ” mà phải biết “yêu cái vĩ đại” “yêu cái tầm vóc” của phong trào
Tây Sơn, của dân tộc thì mới viết ra được Hoàng Lê nhất thống chí.
Tác giả Hoàng Lê nhất thống chí là một tập thể, trong đó có quan Thiêm thư bình chương Học
Tốn, người mà cả cuộc đời gắn bó với triều Lê. Mặc dù bị bệnh nặng nhưng nghĩ đến “nghĩa vua
tôi” trong cơn “cơn nguy biến”, ông vẫn “nguyện đeo bệnh tật để dấn bước” trên con đường
khuông phò cỗ xe chính trị đang nghiêng đổ của Lê Chiêu Thống. Đối với vua Lê Chiêu Thống,
Học Tốn không chỉ “phận ưa … tình nặng” mà chủ yếu vì “chí hợp … tâm đồng”. Ông từng chủ
trương “ngoài dựa vào thượng quốc, trong nhóm họp quân cần vương”. Sách lược trung dưng
đó được Chiếu Thống tâm đắc và sau này, khi Học Tốn qua đời, Chiêu Thống vẫn kiên trì thực
hiện. Nêu lên điều đó, chúng tôi muốn nói rằng, về quan điểm chính trị, Học Tốn thù địch với Tây
Sơn và đứng bên trận tuyến nhà Lê. Khi bắt tay vào sáng tác, ông và kể cả Ngô Thì Du phải
đương đầu trước một vấn đề: Viết như thế nào đây về phong trào Tây Sơn? May mắn thay, họ
đã chế ngự được thiên kiến bản thân, nhìn thẳng vào sự thực. Do vậy, họ không những miêu tả
phong trào Tây Sơn một cách chân thật, sinh động mà còn miêu tả bẳng cả tấm lòng ngưỡng
mộ yêu thương. Nếu Nguyễn Khoa Chiêm vĩ đại ở chỗ ông là người đầu tiên tuyên bố mình
sáng tác văn chương thì Ngô gia văn phái vĩ đại ở chỗ họ đã nhìn nhận và phản ánh đúng đắn phong trào Tây Sơn.
Trong văn học Việt Nam trung đại, chưa có một tác phẩm nào mà phong trào Tây Sơn được tái
hiện một cách tuyệt vời như Hoàng Lê nhất thống chí. Tác giả đã nhìn thấu bản chất và quá
trình tiến triển của cuộc khởi nghĩa này.
Thời kỳ đầu Tây Sơn còn non yếu, phải lẩn lút nơi rừng núi. Rồi phong trào lớn mạnh dần. Lần
đầu tiên nó có thể đánh chiếm một thành lớn – thành Quy Nhơn. Từ đấy, Tây Sơn đến độ
trưởng thành, trên có vua Thái Đức, dưới có thượng công Văn Bình, tả quân đô đốc Vũ Văn
Nhậm…, quân lính thì đầy đủ hai đạo thủy bộ. Thành Phú Xuân – địa đầu củ Bắc Hà kiên cố,
quân đông, lương đủ, vậy mà Nguyễn Bình chỉ đánh một trận đã làm cho “mấy vạn tướng sĩ …
đều không còn sống sót lấy một mống”. Rồi ở Động Hải, “tướng giữ đồn là Vị Phái hầu cùng viên
hiệp trấn là Ninh Tốn mới trông thấy bóng quân Tây Sơn đã chạy trốn”. Chiếm xong Phú Xuân,
trên đà trúc chẻ ngói tan, cách mạng Tây Sơn như cơn bão táp, cuốn sạch rác rưởi trên đường
nó đi qua. Họ Ngô không dừng lại miêu tả tỉ mỉ từng trận đánh các trấn Nghệ An, Thanh Hoa,
Ninh Bình như miêu tả trận đánh đồn Phú Xuân vì chúng diễn ra quá nhanh, nhanh mức chỉ cần
dừng lại ở một vài chi tiết là không thể diễn tả được khí thế vũ bão của nó. Không khí trong tác
phẩm cũng ào ào chuyển động như cuộc hành quân chiến thắng của Tây Sơn. Các vị trấn thủ ở
Nghệ An là Bùi Thế Toại, ở Thanh Hoa là Tạ Danh Thùy đều bỏ thành mà trốn. Quân trong đồn
Vị Hoàng “mới trông thấy bóng quân Tây Sơn đã bỏ chạy”. Các đội quân tinh nhuệ nhất của triều
đình lần lượt bị bẻ gãy: Danh tướng 18 đời là Đinh Tích Nhưỡng bị bại, Trướng Trung hầu quân
thua tướng chạy, Thái Đình hầu tự vỡ quân tan,… Triều đình phải dốc hết tướng tá tinh nhuệ
nhất ra trận: đồng bình chương Trần Công Xán lẫn tham tụng Bùi Huy Bích, lão tướng Thạc
quận công Hoàng Phùng Cơ lẫn tướng trẻ Thái Đình hầu và chúa cũng phải xuất chinh. Vậy mà
thua vẫn hoàn thua. Trận Nam Dư, quân không kịp xuống thuyền, bỏ cả cơm đang ăn mà trốn,
thây chất ngổn ngang, xác nằm gối bãi. Trận Thúy Ái lính tráng sợ hãi cuống cuồng đến nhảy cả
xuống hồ mà chết. Lão tướng Hoàng Phùng Cơ chỉ kịp cướp đường tháo thân, chúa Tông sợ
mất mật, đến nỗi quẳng cả khí giới và giáp trận để chui vào hòm sau voi mà lủi. Quân lính thì
khỏi phải nói, mạnh ai nấy chạy, dẫm đạp lên nhau.
Khi mới tới kinh đô, đối với vua Lê, Nguyễn Bình còn ở thế dưới. Trong buổi triều kiến, Bình phải
“sụp xuống đất lạy hai lạy, rập đầu vái năm vái” và không dám ngồi vào sập đặt cạnh vua. Lúc
đã nhận thức được vai trò của mình, Bình ở tư thế khác: “ung dung uống nước chè” cùng nhà
vua; ngày cưới công chúa Ngọc Hân thì đàng hoàng nào “thết tiệc các vị hoàng thân, hoàng phi,
công chúa và quan văn võ đi đưa dâu”, nào sai lấy bạc “kính tặng các vị nhà gái” khi họ ra về;
ngày lễ yết Tiên hoàng ở nhà ở nhà Thái miếu, “Bình và công chúa dóng kiệu cùng đi, lúc lễ
xong lại dóng kiệu cùng về”. Vua Cảnh Hưng từng nói rằng, công chúa Ngọc Hân “ngày sau nên
gả làm vương phi, không nên gả cho hạng phò mã tầm thường”, vậy mà ông lại đem gả nàng
cho Nguyễn Bình. Chẳng những thế, các quan ai cũng mừng rỡ vì “nhà vua kén được rể tốt” và
bản thân hoàng thượng Cảnh Hưng cũng thấy tự hào vội xuống lệnh “truyền cho các hoàng
thân, hoàng phi, công chúa và các quan văn võ sử soạn ngựa xe,… đợi ở cửa điện để đưa công
chúa về phủ của Bình”. Lời di chúc của Cảnh Hưng cho tân quốc quân Chiêu Thống – cháu đích
tôn càng khẳng định vai trò của Bình: “Chuyện gì cũng phải bẩm qua với ông ấy”.
Sự tuần du tới kinh đô của Nguyễn Nhạc làm dân Bắc Hà bàng hoàng. Vua Lê Chiêu Thống phải
ra tận cửa nam để đón. Cuộc hội kiến thì dùng lễ hai vua gặp nhau, không ai phải lạy ai. Trong
buổi yết triều, vua Lê một rằng “do thánh thượng gây dựng”, hai rằng “nhờ cậy vào oai linh của
thánh thượng”, “nhờ thượng công của quý quốc”, rồi “”chúng tôi xin nhất nhất vâng mệnh, xin
đời đời … không dám sai trái”.
Đấy là phong trào Tây Sơn trong 7 hồi đầu do chính Ngô Thì Chí viết.
Trước sức mạnh “nghiêng trời uy linh” của Tây Sơn, Lê Chiêu Thống đã rước ngoại bang vào
bảo vệ ngai vàng cho mình. Vậy là, từ nhiệm vụ dân chủ, Tây Sơn chuyển sang làm cách mạng dân tộc.
Nghe tin quân giặc giày xéo đất nước, Bắc Bình vương bừng bừng nổi giận “liền họp các tướng
sĩ định … cầm quân đi ngay”. Không chậm trễ một giây, ngài lập tức dựng đàn “tế cáo trời đất …
lên ngôi hoàng đế” để chính danh đánh giặc. Lời dụ quân sĩ của hoàng đế Quang Trung như lời
non nước vọng về, như hùng khí thiêng liêng của bài Thơ thần trên sông Như Nguyệt, như âm
vang của Hịch tướng sĩ Đại cáo bình Ngô,… Từ lãnh tụ của một giai cấp, Quang Trung trở
thành lãnh tụ của dân tộc và tác giả Hoàng Lê nhất thống chí đã phát hiện được ý nghĩa đó. Ra
quân lần này, vì dân tộc, vì nghĩa cử của kẻ “có lương tri lương năng”. Cho nên, điều day dứt đối
với Quang Trung không phải chỉ là đánh giặc, thắng giặc mà chủ yếu vì hạnh phúc lâu dài, vì
hòa bình vĩnh viễn cho dân tộc. Lần này quân “chẳng qua mười ngày có thể đuổi được người
Thanh. Nhưng nghĩ chúng là nước lớn gấp mười lần nước mình, sau khi bị thua một trận, ắt lấy
làm thẹn mà lo mưu báo thù. Như thế thì việc binh đao không bao giờ dứt, không phải là phúc
cho nhân dân, nỡ nào mà làm được như vậy”. Nắm chắc phần thắng trong tay, Quang Trung
nghĩ đến ngay mai “chờ mười năm nữa cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng, bấy giờ
nước giàu dân mạnh, thì ta có sợ gì chúng?”. Chưa đầy ba năm sau, quả nhiên hoàng đế Quang
Trung đã có một đội quân hùng hậu với lương thảo đủ đầy, tàu biển thật lớn có thể chở được voi
và quyết định việc đánh Trung Quốc”. Ngài sai “Vũ Văn Dũng sang nhà Thanh dâng biểu cầu
hôn (công chúa Càn Long) và đòi lại hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây”. Cho dù “đó không phải
là bản tâm của vua Quang Trung, chẳng qua chỉ muốn thử xem ý nhà Thanh ra sao”, song nó
cũng phản ánh sự vĩ đại của phong trào Tây Sơn. Chưa bao giờ hình tượng người anh hùng
dân tộc mang tầm vóc lớn lao như vậy, vừa làm chủ hiện tại, vừa nắm chắc tương lai. Tất cả
quá khứ, hiện tại và tương lai của dân tộc như chung đúc vào một con người Nguyễn Huệ.
Cuộc tập kích chiến lược mùa xuân năm Kỉ Dậu 1789 đập tan 20 vạn quân Thanh cùng bọn tay
sai bán nước là bản hùng ca. Chưa cuộc hành quân nào thần tốc và vũ bão như cuộc hành
quân của chiến dịch này; đi gần 500 km đường dài từ Nghệ An đến Nam Quan trong 7 ngày.
Bằng vài nét đại lược, Ngô gia đã phác ra bức tranh hoành tráng của chiến dịch: Ngày 25 tháng
12 năm 1788 làm lễ lên ngôi hoàng đế rồi xuất quân từ Phú Xuân. Ngày 29, đến Nghệ An. Ngày
30 tới Tam Điệp. Tại đây, Quang Trung cho ba quân mở tiệc ăn tết trước. Ngài nói: “Hẹn ngày
mồng 7 năm mới thì vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Các ngươi nhớ lấy, đừng cho ta là
nói khoác”. Rồi đó ngài chia quân làm 5 đạo và ngay đêm 30 tết khởi hành. Thời gian như cũng
lên đường đón xuân cùng binh đoàn áo vải. Quân Quang Trung đi đến đâu thì quân của “thiên
triều” và “sở quốc” chạy dài tới đây. Từ trận sông Gián, sông Thanh Quyết đến đồn Hà Hồi,
Ngọc Hồi, Khương Thượng,... lính Thanh và quân triều đình cứ thế giày xéo lên nhau mày chạy.
Chiến công nối tiếp chiến công. Các sự kiện trong tác phẩm dập dồn. Mạch văn như tiếng hò reo
thắng trận của Tây Sơn. Đất nước vang khúc khải ca. Sầm Nghi Đống phải thắt cổ. Tôn Sĩ Nghị
“sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp … chuồn trước qua cầu
phao, rồi nhằm hướng Bắc mà chạy”. Quân lính tan tác tả tơi, xác chết làm “sông Nhĩ Hà tắc
nghẽn không chảy được”; số còn lại thì chạy bán sống bán chết suốt ngày đêm không dám nghỉ.
Ngay cả dân chúng tại sở quốc của “thiên triều” cũng hãi hùng mà “bồng bế dắt díu nhau chạy
trốn, suốt vài trăm dặm lặng ngắt không còn một bóng người”. Vua quan nhà Thanh hết sức
hoang mang. Phúc Khang An thì “rụt rè lo sợ” chỉ muốn giảng hòa; Càn Long thì sai ngay người
sang phong vương cho Nguyễn Huệ. Khi “Quang Trung giả” sang chầu “trong ngoài ai cũng biết
là giả dối mà không ai dám nói” còn Càn Long thì “sai thợ vẽ truyền thần bức chân dung (Quang
Trung giả) mà ban cho, ân lễ rất là trọng hậu, thực là một cách đối đãi khác thường từ ngàn xưa hiếm có”.
Viết về phong trào Tây Sơn được như vậy, quả thật Ngô gia đã phải tự chiến thắng những ác
cảm cá nhân, những thiên kiến bản thân và phải có tấm lòng yêu nước thiết tha, yêu dân tộc sâu sắc.
Chặng đường “đau khổ” thứ nhất, họ Ngô đã vượt qua.
Cùng với thành tựu trên, họ Ngô còn phát hiện ra và miêu tả đúng quá trình diệt vong tất yếu của
vua Lê chúa Trịnh, của bọn ngoại xâm.
Trước hết nói về chúa Trịnh: Tĩnh vương vốn không phải là tay tầm thường. Ông “thông minh …
sáng suốt, trí tuệ hơn người, có đủ cả tài văn lẫn võ”. Khi lên ngôi, ông đã thi hành hàng loạt
biện pháp chấn chỉnh “từ kỷ cương trong triều đến chính trị trong nước, hết thảy đều được sửa
đổi. Bao nhiêu tướng giặc đảng nghịch đều lần lượt bị dẹp tan”. Quân nhà chúa đến đâu thì
“không chỗ nào là không thắng”. Trịnh Sâm như một bậc thánh chúa đưa đất nước đến thái bình
thịnh trị, “bốn phương yên ổn, kho đụn đầy đủ”. Tuy vậy, Ngô gia vẫn nhìn thấu bản chất của tộc
họ này và tiên liệu trước rằng Trịnh tộc sẽ bị diệt bởi chính bàn tay của Tĩnh vương Trịnh Sâm –
một con người đầy tài năng gây ra. Cái tham vọng muốn làm bá chủ đẩy ông tới tội ác giết vua,
vu hãm thái tử Duy Vĩ, khiến “thái tử bị ghép vào tội thắt cổ”. Việc giết thái tử chẳng những làm
“thiên hạ không ai là không rơi nước mắt” mà còn khiến đất bằng nổi giận: “giếng Tam Sơn …
bỗng có tiếng nổ như sấm” và trời xanh thì bất bình: “Bầu trời tự nhiên tối tăm, giữa ban ngày
mà chỉ cách nhau gang tấc cũng không trông rõ”. Sâm còn đi theo vết xe đổ của Tần Thủy
Hoàng: “Phi tần thị nữ kén vào rất nhiều, mặc ý vui chơi thỏa thích”. Nhất là từ khi say mê cô thị
tì họ Đặng, Sâm bất chấp tất cả. Nào gả con gái cưng của mình cho em vợ, nào tự ý phế trưởng
lập thứ, khiến “phủ chúa dần dần sinh ra bè nọ cánh kia” và là nơi “bọn đồng cốt ra vào tấp nập”.
Trịnh Sâm trở thành đầu mối của mọi mâu thuẫn: mâu thuẫn với mẹ - thánh mẫu Thái Tôn, với
con trưởng – Trịnh Tông, với vợ cũ – Ngọc Hoan,… Từ đó, hàng loạt mâu thuẫn khác kéo theo:
mâu thuẫn giữa cung tần Ngọc Hoan với tuyên phi họ Đặng, giữa con trưởng là Trịnh Tông với
con thứ là Trịnh Cán, giữa bà là thánh mẫu với cháu nội là Trịnh Cán, giữa con gái là Ngọc Lan
với em vợ là Đặng Mậu Lân, giữa cánh Trịnh Tông với phe Thị Huệ, giữa các quan trong triều,…
Những mâu thuẫn trên lại cực kỳ gay gắt, bất cộng đới thiên. Do đó, khi chúa Sâm vừa nằm
xuống, “loạn kiêu binh” vỡ ra. Một cuộc chém giết tàn khốc giữa các phe phái bùng lên. Bên
Tông thắng thế. Ông ta vội vã leo lên ngôi. Chẳng cần gì đến nghi trượng của một buổi lễ đăng
quang, ông ngự ngay lên chiếc mâm vẫn bày cỗ lộc để đám kiêu binh kề vai vào khiêng, “chốc
chốc họ lại nâng bổng chiếc mâm lên trên đầu mà đội, đầu mỏi lại hạ xuống vai, rồi vai mỏi lại
nâng lên đầu. Cứ thế lên lên xuống xuống y như người ta dỡn quả cầu hoặc rước pho tượng Phật”.
Lễ đăng quang chẳng khác gì một trò hề, khiến “những kẻ buôn bán ở các phố phường chợ búa
đều tranh nhau kéo đến xem … Sân phủ đông như họp chợ”. Dưới mắt Ngô gia, ngôi chúa chẳng
qua chỉ là một mâm cỗ để lũ tiểu nhân tranh nhau chọc đũa vào. Thì chính quận Thạc đã nói
toạc điều đó trước mặt ba quân: “Người ta khó nhọc mới làm được mâm cỗ ngon, mình bỗng xông
đến chọc đũa ngay vào mà ăn, còn ra cái mặt mũi gì nữa”. Mâm cỗ ở đây là Án Đố vương Trịnh
Bồng và người khó nhọc làm ra mâm cỗ đó là Đinh Tích Nhưỡng – một tên tráo trở hai lòng, lật
lọng cả đối với nhà vua. Vì thế, khi thấy mâm cỗ đã thiu, lũ tiểu nhân đánh bài chuồn, khiến Án
Đô vương phải khóc dở mếu dở than rằng: “Ta chẳng may đẻ ra ở nhà chúa, lại bị một lũ tiểu
nhân làm lầm lỡ. Nếu sớm biết thế này thà cứ ở Chương Đức làm ông sư già, chống gậy thiền
trượng ở dưới của thiền mà lại hóa hay”. Nhưng hối thì đã muộn. Nếu trước kia, Bồng dựa vào
Nhưỡng, chày cối ép Chiêu Thống phải phong cho mình bằng được tước vương, thì giờ đây ông ta
lại thấy đau khổ vì “trót đã làm chúa … ở vào thế cưỡi hổ, không thể xuống được”. Bức thư gửi
quan bình chương là tiếng thổn thức thốt lên từ đáy lòng ông: “Kiếp này sinh ra lỗi thời … lạm
dụng vào dòng đích nhà chúa … Con chim bị cháy tổ, bay quanh không biết nương nhờ vào đâu
vì thế phải phiêu bạt giang hồ”. Cuối cùng trong vòng chưa đầy sáu năm (từ 1782 đến 1788), 5
chúa Sâm, Cán, Tông, Lệ, Bồng đều bị chết, thay nhau mà chết và không một chúa nào được
chết một cách trọn vẹn. Sâm qua đời năm 45 tuổi bởi quá nhiều bệnh tật và khi ông vừa nằm
xuống, xác còn quàn tại đó thì các con ông đã giết hại lẫn nhau để giành giật ngôi chúa. Cán
chết khi mới 5 tuổi đầu vì bẩm sinh ốm yếu, lại gặp cơn binh đao do người anh gây ra làm cho sợ
hãi suốt một ngày nên không cứu được. Trịnh Tông thì bị phơi xác ở ngoài cửa tuyên Vũ khi
mới 23 tuổi. Trịnh Lệ phải bỏ trốn rồi mất tích. Còn Trịnh Bồng thì lại bị dân Lạng Sơn nổi dậy
đuổi đi, phải nấp náu trong chốn núi rừng và từ đó “cả nước không còn thấy mặt chúa ở đâu nữa”.
Sự căm phẫn của Ngô gia dường như dồn lên đầu các chúa Trịnh. Điều này cũng dễ hiểu bởi họ
Ngô đứng về phía nhà Lê. Song, điều đáng nói là, trong tiếng cười phê phán họ Trịnh của tác
giả, người đọc vẫn nghe được tiếng thở dài rầu rĩ pha chút xót thương. Ở Ngô gia có sự nuối tiếc chúa Trịnh.
Nếu viết về phong trào Tây Sơn là một cuộc vật lộn gian khổ trong tư tưởng để chiến thắng bản
thân thì viết về vua Lê cũng phức tạp vất vả chẳng kém. Họ Ngô đã dành khá nhiều trang viết để
miêu tả các ông vua Lê cuối cùng: Cảnh Hưng, Chiêu Thống và Duy Cận – thái tử bị phế truất.
Trong con mắt Ngô gia từ thế kỷ XVIII trở đi, nhà Lê không ai đáng mặt làm vua, trừ thái tử Duy
Vĩ – người đã bị Trịnh Sâm treo cổ khi chưa kịp bước lên ngai vàng.
Vị vua mở đầu Hoàng Lê nhất thống chí là Cảnh Hưng.
Kể từ khi triều Lê được thiết lập năm 1428 tới lúc bị diệt vong 1789 trải 27 đời vua với 362 năm
lịch sử thì chỉ có Cảnh Hưng là người sống thọ nhất: 70 tuổi (1717 -1786), ở ngôi dài nhất: 47
năm nhưng vô tích sự nhất. Công tích duy nhất trong 47 năm làm vua của ông là “treo tranh
Tam Quốc, sai các cung nữ mặc áo trận, cầm giáo mác, chia thế trận ba nước Ngụy, Ngô, Thục
rồi dạy họ cách ngồi, đứng, đâm, đỡ để mua vui”. Phương châm chỉ đạo và chi phối cả cuộc đời
ông là “Chúa gánh cái lo, ta hưởng cái vui”. Cho nên dù bị nhà chúa lấn hiếp “có nước mà không
được tham dự”, ông vẫn vui vẻ. Chẳng những vậy, ông còn tự hào cho rằng mọi người chỉ biết
một mà không biết hai. Điều đáng sợ nhất đối với ông chính là sự nhất thống, vì, nhất thống có
nghĩa rằng nhà chúa bị diệt mà “mất chúa thì cái lo về ta, ta còn vui gì”. Vì muốn hưởng cái vui,
để chúa gánh cái lo, nên khi chúa sai người xông vào tận trong điện ngủ của hoàng thượng, bắt
con trai ông – thái tử Duy Vĩ đem ra treo cổ, ông không biết cách gì hơn ngoài sự im lặng, mặc
chúa muốn làm gì thì làm. Tiếp đó, chúa lại ép nhà vua lấy người con trai thứ tư là Duy Cận làm
hoàng thái tử, Cảnh Hưng cũng gật.
Nếu Cảnh Hưng điển hình cho loại vua vô tích sự thì Chiêu Thống lại điển hình cho loại vua luồn cúi đê hèn.
Tính cách luồn cúi đê hèn ở Chiêu Thống nhất quán từ đầu chí cuối. Khi nghe tin vua Tây Sơn
Nguyễn Nhạc tuần du ra Bắc, Chiêu Thống định theo lời xúi của Hữu Chỉnh “sắp xẵn ngọc tỉ …
giục các quan trong triều thảo gấp một tờ biểu xin hàng”. Buổi hội kiến với Nguyễn Nhạc, Chiêu
Thống sai viên quan nói thay mình rằng: “Đất đai cùng dân chúng nước Nam đều do thánh
thượng (Nguyễn Nhạc) gây dựng lại. Nếu như thánh thượng muốn thu nhận một vài quận ấp
của nước tôi để làm quà khao thưởng quân sĩ, thì quốc quân chúng tôi nhất nhất vâng mệnh”.
Thì ra ý tưởng bán nước đã nảy mầm trong đầu Chiêu Thống khá sớm, ngay từ khi vừa ngồi
vào chiếc ngai vàng chưa kịp đặt niên hiệu. Dĩ nhiên, nói bán nước không có nghĩa rằng, chúng
tôi coi Tây Sơn là người nước ngoài. Bấy giờ Nguyễn Nhạc đang làm vua ở một triều đình khác,
cho nên nếu cắt đất cho ông ta “làm quà khao quân sĩ” có nghĩa là bán nước. Việc này có
nguyên nhân sâu sa của nó. Trước hết, Chiêu Thống là con người nhỏ nhen, luôn lấy thù riêng
làm mục đích cho mọi hành động. Khi thấy Trịnh Tông bị chết vì Tây Sơn, Chiêu Thống (bấy giờ
đang còn là hoàng tự tôn, chưa được lên ngôi) đã tới gặp Nguyễn Bình và nói: “Tôi có thù cha
chưa trả (Trịnh Sâm, bố của Trịnh Tông đã treo cổ Duy Vĩ, cha của Chiêu Thống). Nay ông trả
thù thay cho tôi. Đời tôi không còn mong gì hơn thế”. Rồi ông ta thề với Nguyễn Bình: Nếu thân
này có phải chết ở quý quốc tôi cũng không hề phàn nàn. Vì thế sau này khi chúa Án Đô bỏ
chạy, Chiêu Thống “tức thì ngầm sai người phóng hỏa đốt hết phủ chúa …, khói lửa bốc lên ngút
trời, hơn 10 ngày chưa tắt”. Con người nhỏ nhen ấy lại đầy tham vọng, lúc nào cũng muốn thâu
tóm quyền lực về mình. Song nếu tham vọng mà có tài thì còn khả dĩ. Đằng này, Chiêu Thống
vừa lắm tham dục, vừa đại bất tài. Muốn làm vua, chí ít phài là bậc trí giả. Phàn Trì hỏi về phẩm
chất của bậc trí giả, Khổng Tử chỉ trả lời có hai chữ “tri nhân”. Vì bất tri nhân, Chiêu Thống cứ
loăng quăng chẳng biết cất nhắc ai vào vị trí nào. Thoạt đầu, để trừ Trịnh Lệ, ông dựa vào Trịnh
Bồng. Nhưng tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa. Nếu Trịnh Lệ mới chỉ dám khinh Chiêu Thống để cho bề
tôi của mình là Trọng Tế xé chỉ dụ của nhà vua trước mặt sứ giả thì Trịnh Bồng còn tệ hơn. Ông
đã từng cho quân lính vây cung vua, định phế Chiêu Thống, lập Duy Cận. Đúng là “cái ổ đã vỡ
đó, hết kẻ kia đi, lại đến kẻ này lại, ồn ào bụi bặm dơ bẩn con người”. Ai gây ra tình trạng ấy?
Chiêu Thống chưa bao giờ tự hỏi mình như vậy. Đã biết thế rồi, song để khử Trịnh Bồng, Chiêu
Thống lại vời Hữu Chỉnh về triều, khác nào muốn diệt một con cáo lại đi nuôi một con sói. Đúng
như Ngô Vi Quý và Nguyễn Xuân Hợp nhận xét, Hữu Chỉnh là kẻ “ý nghĩ cực kỳ hiểm độc, bụng
dạ quá tàn nhẫn, mưu mô hết sức sâu sắc, giả trá rất đỗi khôn ngoan mà ứng biến thì mau lẹ
tuyệt vời. Con người ấy thực là một kẻ gian hùng ở đời loạn, chưa chắc là kẻ bề tôi hiền ở đời
trị. Cũng ví như loài chồn sói không phải là vật có thể dạy dỗ, giống yêu ma không phải là vật có
thể kiềm chế”. Vì thế, sau khi đuổi được Trịnh Bồng, đốt được phủ chúa, Chiêu Thống lại sống
dở chết dở vì tên loạn thần Hữu Chỉnh. Cuối cùng, để giết Hữu Chỉnh, Chiêu Thống lại phải nhờ
đến tay của Ngô Vi Quý và Nguyễn Xuân Hợp. Suốt đời, ông chỉ loay hoay “xoay sở một mình,
không ai là người giúp đỡ”. “Ngoài thành là bãi chiến trường, thiên hạ đang loạn lớn”. Mặc!
Không cần biết. Ông chỉ quan tâm mỗi một việc là “lập mưu chế ngự chúa” và sau đó lại “lập
mưu giết Chỉnh”. Dưới mắt Ngô gia, các chúa Trịnh đã thảm, những vua Lê còn thảm hơn nhiều.
Với Cảnh Hưng, nếu ông ta mới bị đem đùa giỡn bông phèng thì với Chiêu Thống, họ Ngô khinh
bỉ ra mặt. Chiếu chỉ đổi niên hiệu của tân quốc quân khi mới lên ngôi là văn kiện hành chính
quốc gia cực kỳ trọng đại, ấy vậy mà, trong chiếu chỉ đó “chỗ nào cũng một rằng nhờ đức vua
của quý quốc, hai rằng nhờ thượng công của quý quốc” mặc dù đức vua và thượng công của
“quý quốc” đã rút về Nam. Vì quá tham vọng lại dốt nát và nhỏ nhen, tân quốc quân Chiêu
Thống hành động, nói năng chẳng khác gì đứa trẻ ngoài đường đang cãi nhau:
- “Cứ nằng nặc đòi phong vương để ăn hiếp mới sướng hay sao?”
- “Muốn ở phủ, tức là muốn làm chúa rồi”
- “Ta nay không còn ai giúp giập nữa rồi. Tuy vậy, nó cũng không thể cậy đông mà ăn hiếp ta được”.
Con người như vậy làm sao đủ uy đức làm vua? Bởi vậy, Dương Trọng Tế chỉ là kẻ bề tôi mà
dám xé chỉ dụ của ông. Trịnh Bồng vừa mới được phong vương đã đem quân đến vây cung điện
và dân kinh thành Thăng Long “có kẻ giữ lấy vua, sờ nắn trong lưng không có gì mới tha cho đi”.
Trấn thủ Nguyễn Cảnh Thước thì không những “trấn” vàng lụa của nhà vua mà còn “cho người
đuổi theo lột chiếc ngự bào vua đang mặc”. Đúng là quân bất quân, thần bất thần.
Trước sức mạnh của phong trào Tây Sơn, Chiêu Thống chỉ còn một con đường duy nhất là quỳ
gối dâng đất nước cho ngoại bang. Khỏi phải kể lại những hành vi luồn cúi đê hèn trước Tôn Sĩ
Nghị của ông ta. Lê Quýnh là kẻ mạt hạng nhất trong loại mạt hạng: khi con trẻ “chỉ biết uống
rượu đánh bạc, việc văn võ chưa hề luyện tập qua”, lúc làm quan thì “suốt ngày say mê tửu sắc,
ân oán riêng dù bằng cái tơ sợi tóc cũng đều đền báo không để sót”, việc “chinh chiến được hay
thua, nước nhà còn hay mất, Quýnh chẳng cần biết đến làm gì”. Ấy thế mà, lúc Phúc Khang An
bàn việc gọt đầu gióc tóc, đổi đồ mặc cho giống người Thanh thì ít ra Quýnh cũng còn nói được
một câu có thể gọi là khả thủ: “Chúng ta đây, đầu có thể chặt, tóc có thể cắt, da có thể lột, đồ
mặc không thể đổi”. Ông vua Lê Chiêu Thống chưa nói được một câu nào đáng gọi là làm
người. Đã thế, ông còn đáp: “Chúng tôi không giữ được nước nhà, may nhờ thiên triều cứu viện,
dù cả nước phải ăn mặc như người Trung Quốc, cũng xin vâng mệnh. Việc ấy còn có tiếc gì”.
Thật không còn gì hèn hạ hơn.
Nếu để ý một chút, người đọc có thể nhận ra rằng họ Ngô đã hé lộ chung cục cuộc đời Chiêu
Thống từ khi ông ta mới được lập làm Đông cung. Ta hãy nhớ lại sự kiện tháng 9 năm 1782 khi
Sâm vừa nằm xuống. Lúc đó, đám kiêu binh nhân phò Trịnh Tông lên ngôi chúa, đã đem kiệu
xông vào nhà giam đón Duy Kỳ - con của Duy Vĩ ra, ép thái tử Duy Cận thoái vị, bắt Cảnh Hưng
phong Duy Kỳ làm Đông cung. Dưới sự phò trợ của đám kiêu binh, Trịnh Tông và Duy Kỳ kẻ
được làm chúa, người thì lên ngôi vua. Song đám kiêu binh chỉ là ung nhọt của triều chính, là
cặn bã của xã hội. Chúng dựng vua, lập chúa chẳng qua chỉ để dễ bề hoành hành cướp bóc, đổi
trắng thay đen. Đất nước còn hay mất, nhân dân sống hay chết, Duy Kỳ hay Duy Cận làm vua,
Tông hay Cán làm chúa, đối với chúng cũng vậy. Núp dưới đám rác rưởi thối tha như vậy để lên
ngôi thì chung cục đã nhãn tiền hiển hiện. Nếu Trịnh Tông bị phơi thây ngoài cửa Tuyên Vũ thì
kết cục cuộc đời Chiêu Thống cũng không thể tốt đẹp hơn.
Còn Lê Duy Cận thì sao? Do cầu may mà được làm Đông cung, do dựa dẫm vào người khác
mà được làm giám quốc. Dân kinh thành Thăng Long nhận xét rằng ông chẳng qua chỉ là “giám
quốc lại mục” – viên thư lại coi việc nước, hay nói như Ngô Văn Sở, Cận chỉ là “cục thịt trong túi
da”, “đứa tôi đòi ngoài chợ”. Chính Duy Cận cũng nhận ra điều đó. Ông nói: “Ta nay tiếng làm
giám quốc, thực ra chỉ là một ông từ giữ đền”. Vì sao? Vì ông bất tài, thất đức “ví như cây tầm
gửi bám vào cành cây khác, rễ không bén đất, sống lâu dài làm sao được”.
Trên quan điểm chính thống, lẽ ra họ Ngô phải xót xa trước sự sụp đổ của triều Lê, song qua ba
vị vua cuối cùng nêu trên, người đọc chỉ thấy tác giả dành tất cả những gì khinh bỉ nhất của
mình cho nhà Lê. Đó là sự thắng lợi tự vượt mình của Ngô gia văn phái.
Trong cái mớ bòng bong đang hỗn loạn ở Việt Nam cuối thế kỷ XVIII đầu XIX, họ Ngô vẫn nhìn
thấy khá rõ các xu hướng phát triển cũng như chung cục của các thế lực xã hội lúc bấy giờ. Về
Tây Sơn, qua hình tượng người anh hùng Nguyễn Huệ với các mối quan hệ gia đình, xã hội
phức tạp, người đọc thấy được sự lớn mạnh không gì cưỡng nổi và thế tất thắng của phong trào
– vừa tiêu diệt các tập đoàn phong kiến thống trị trong nước vừa đạp tan mọi thế lực ngoại xâm.
Về chúa Trịnh và vua Lê, qua số phận của 5 ông chúa cuối cùng: Trịnh Sâm, Trịnh Cán, Trịnh
Tông, Trịnh Lệ, Trịnh Bồng cũng như 3 ông vua đời chót: Duy Diên Cảnh Hưng, Duy Kỳ Chiêu
Thống. Giám quốc Duy Cận, người đọc thấy được sự khủng hoảng triền miên và sự đổ không gì
cứu vãn được của họ. Phải có con mắt tinh đời, phải cực kỳ dũng cảm, Ngô gia mới viết được
như vậy. Về phương diện này, họ Ngô Thì đất Bắc Hà giống họ Nguyễn Khoa đất Nam Hà. Tuy
ở hai thời khác nhau, phục vụ hai triều đình đối lập nhưng họ đều xuất phát từ một chỗ đứng và
điểm nhìn giống nhau: cùng là người Việt Nam yêu nước, cùng một nguyện vọng thống nhất non
sông, cùng chiến thắng thiên kiến bản thân, nhận rõ trắng đen phải trái và cùng có tài năng nghệ thuật bậc thầy.
8. Phá vỡ những thói quen suy nghĩ đã trở thành truyền thống
Chiến thắng thiên kiến bản thân là cuộc vật lộn cực kỳ gian khổ nhưng phá vỡ những thói quen
suy nghĩ đã trở thành truyền thống của cả một cộng đồng còn gian khổ gấp ngàn lần.
Trong văn xuôi tự sự Việt Nam, các nhân vật nếu là anh hùng dân tộc thường được tác giả hoặc
thần thánh hóa để đưa họ vào nới điện thờ tôn nghiêm như Lý Tế Xuyên đã làm đối với Bà
Trưng, Lý Nam Đế, Lý Phục Man, Phùng Hưng, Lý Thường Kiệt,… hoặc huyền thoại hóa, biến
họ thành những con người siêu phàm, dị tướng như Trần Thế Pháp và Nguyễn Hàng đã làm đối
với Lạc Long Quân, An Dương Vương, Triệu Quang Phục, Trương Hống, Trương Hát,… Người
đọc thường gặp những công thức miêu tả về họ. Chẳng hạn: “mắt sáng như chớp, tiếng nói như
chuông … sức khỏe hơn người, ngày đi ngàn dặm”. Ngay các bộ sử gọi là thực lục cũng không
vượt khỏi thông lệ kể trên. Chẳng hạn, về Lê Lợi, Lam Sơn thực lục viết: “Lúc vua sinh, ánh
sáng đỏ đầy nhà, mùi hương lạ khắp xóm. Ngay từ bé, vua đã … mắt sáng, miệng rộng, mũi
cao, mặt rồng, hai vai có 7 nốt ruồi, đi như rồng, bước như hổ, lông tóc đầy người , tiếng nói như
chuông lớn, ngồi xổm như cọp”. Ngô gia văn phái thì khác, họ đã phá bỏ nếp nghĩ cổ truyền. Có
lẽ trong văn học Việt Nam trung đại, chưa có một tác giả phẩm nào mà ở đó, hình tượng người
anh hùng Nguyễn Huệ mang tầm vóc lớn lao như ở Hoàng Lê nhất thống chí. Ấy vậy mà người
đọc vẫn thấy ở Nguyễn Huệ có cái gì đó thân quen, bình dị. Chàng chẳng phải là thánh thần
giáng sinh, không có sự trợ giúp của phật tiên, ma quỷ. Như hàng ngàn kẻ khác, Nguyễn Huệ
chỉ là một dân nghèo, gốc Nghệ An, tổ tiên bị bắt vào khẩn khoang miền đất Tây Sơn. Ở chàng
cũng có những nhược điểm, những nét tính cách của người nông dân nơi rừng núi hẻo lánh. Có
lúc thấy “kẻ chinh phu xa nhà, tình khuê phòng rất là cần thiết” nhưng cũng có lúc “kiêu căng”,
“nhơn nhơn tự đắc”, có lúc hậm hực vì chỉ được phong tước công mà “nếu … không nhận e
hoàng thượng bảo … là kiêu căng. Song nhận mà không nói gì, người trong nước lại bảo … là
mọi rợ”. Có khi chàng giận dỗi tự ái vì người ta làm việc trọng đại – khâm liệm Cảnh Hưng – mà
không báo cho biết; đôi khi cũng thích được nịnh. Nghe công chúa Ngọc Hân ca tụng rằng, chỉ
mình nàng có duyên lấy được chàng, “ví như hạt mưa, bụi ngọc bay ở giữa trời, được sa vào
chốn lâu đài” thì chàng lấy làm “thích thú lắm”. Có lúc chàng lại tỏ ra vụng về quê kệch. Chẳng
hạn hôm ra mắt vua Cảnh Hưng ở điện Vạn Thọ. Trước mặt văn võ bá quan triều đình, khi được
nhà vua mời ngồi, lúc đầu chàng “không dám ngồi”, mãi sau “hoàng thượng phải hai ba lần dụ”
chàng “mới ngồi ghé vào một góc chiếu cuối sập, một chân bỏ thõng xuống đất”. Ấy nhưng ở
con người này lại có một sức mạnh phi thường, một trí tuệ siêu việt, dám tuốt gươm đứng lên
san phẳng bất bình. Vì thế, cả non sông đứng về phía chàng và do vậy ở chàng là sự kết tinh
quá khứ, hiện tại và tương lại của dân tộc. Sự kết hợp tài tình giữa bút pháp hiện thực với bút
pháp sử thi đã tạo ra hình tượng người anh hùng dân tộc Quang Trung Nguyễn Huệ độc đáo,
vừa chân thực hào hùng, vừa gần gũi thân quen mà chưa một tác giả văn xuôi tự sự nào trước
đó làm đc. Với cách suy nghĩa mới như vậy, Ngô gia đã cố gắng cải biên hiện thực ngoài đời
sao cho chúng phù hợp với ý đồ sáng tạo nghệ thuật của mình.
Huy quận công Hoàng Tố Lý là nhân vật có thật. Việt sử cương mục xác nhận: “Luôn mấy năm
hạn hán mất mùa … đầy đường thây chết đói. Triều đình … dựng quán tế sinh … nấu cơm cháo
chia ra phát chẩn, người có bệnh thì cấp cho thuốc thang. Lại hạ lệnh cho các trấn khuyên nhủ
dân sở tại, người giàu người nghèo giúp đỡ lẫn nhau; cấm nhân dân đóng cửa không bán gạo.
Tuy thế nhưng kẻ trên người dưới che đậy lẫn nhau, mệnh lệnh triều đình cũng chỉ thi hành một
cách cẩu thả trên giấy tờ suông thôi. Chỉ có Hoàng Đình Bảo (quận Huy) … kê tên những người
nghèo trong hạt … bắt người có quyền thế vật lực xác nhận lĩnh về, ủy thác sự chu cấp cho họ
hoặc chiểu theo nhân khẩu để cấp phát thực tiền. Nhờ thế mà nhiều người toàn hoạt”. Như vậy,
quốc sử khẳng định quận Huy là người tốt, hoặc chí ít là người không xấu. Hơn nữa, Lê Hữu
Trác, như chúng ta đã biết, không chỉ là nhà y học xuất sắc mà còn là nhà đạo đức mẫu mực;
dưới mắt ông, quận Huy là người “vốn có tài của Chu Công ngày xưa, thường rất khiêm tốn đối
với kẻ sĩ trong thiên hạ”. Còn Ngô Thì Nhậm đã đau đớn khóc khi quận Huy qua đời:
Khí tiết ngang dọc trời thu
Lòng trung sáng ngời nhật nguyệt
Không đổi mặt như Phạm Chất
Vẫn hết lòng tựa Vũ hầu
Thung dung mấy chữ để lại triều
Không thẹn với anh linh, dù thác như còn sống
Khảng khái chiếc đao ra đánh trận
Làm cho kẻ gian thần chưa chết đã lạnh xương
Ấy nhưng khi vào Hoàng Lê nhất thống chí, quận Huy trở thành tên phản phúc, ti tiện. Huy tính
toán: “Thị Huệ tuy được chúa yêu nhưng con trai Thị Huệ còn nhỏ, hùa vào không phải là kế lâu
bền.”. Thế rồi chẳng đếm xỉa đến tư cách của bậc khanh tướng, một mặt quận Huy “lấy châu
báu đút lót cho những kẻ tay chân của thế tử Tông”, một mặt đem “trăm lạng vàng và mười tấm
đoạn Nam Kinh làm lễ yết kiến để xin vào ra mắt thế tử”. Chẳng ngờ, thế tử Tông không dung,
thế là Huy trở mặt như trở bàn tay, “âm thầm có chí phế lập”. Cũng từ đó, Huy trở thành người
riêng của Thi Huệ, hoa mắt khi được Sâm giao làm phụ chính cho chú bé sài đẹn “bụng to rốn
lồi”, “mê mẩn” trong thời cuộc, quay cuồng trong danh vọng. tự “làm chủ” gánh vác mọi việc
“không cần đùn đẩy cho ai” mà chẳng thấy mối họa đang sắp vồ lấy mình. Những hạng người
như quân Huy trong Hoàng Lê nhất thống chí đầy rẫy: nào Hữu Chỉnh, Trọng Tế, Nguyễn Huy
Bá, tuần huyện Trang, nào Trịnh Lệ, Vũ Văn Nhiệm, Đinh Tích Nhưỡng, Nguyễn Cảnh Thước,
đám kiêu binh,… Tiếp đó, Ngô gia đi sâu phanh phui tâm địa quận Huy. Làm phụ chính, Huy
chưa thỏa mãn. Ông ta còn muốn cướp cả nước, rồi “tư thông” với chính cung khi chúa vừa mới
nằm xuống để cho khắp phố phường đầu đường xó chợ vàng lên lời chửi rủa:
Trăm quan ít sáng nhiều mờ
Để cho Huy quận vào rờ chính cung
Xây dựng quận Huy thành nhân vật như vậy, phải chăng Ngô gia đi ngược lại lịch sử? Không. A.
Tônxtôi, tác giả tiểu thuyết Pi e đệ nhất đã chỉ ra rằng, tiểu thuyết về đề tài lịch sử “nhất nhất
không được biến thành một thứ ghi chép thời sự lịch sử. Đấy là một cuốn tiểu thuyết, một cuốn
sách về cuộc sống, về các tính cách, về những con người, …, về những sự kiện,…”, rằng ở đấy,
nhà văn phải “đóng góp vào lịch sử ý đồ của mình”. Bằng cách đó, văn phái Ngô gia đã góp
thêm luồng gió mạnh vào cơn lốc cách mạng cuối thế kỷ XVIII đầu XIX và dần rút khỏi phương
thức tư duy nghệ thuật kiểu trung đại. I I. Tổng kết
- Hoàng Lê nhất thống chí là cuốn tiểu thuyết đạt đến giá trị chân thực lịch sử và chân thực văn
học, phản ánh sống động, tài tình bức tranh hiện thực lịch sử nửa cuối thế kỷ XVIII. Tác phẩm
khẳng định sự thắng thế của nhãn quan hiện thực trước thành kiến cá nhân, sự lấn át của tinh
thần dân tộc trước thiên kiến giai cấp. Người viết không chỉ ghi chép sự việc một cách đơn
thuần mà luôn thể hiện quan điểm, đánh giá về nhân vật, sự kiện lịch sử bằng những lời nhận
xét, nghị luận sắc sảo.
Hoàng Lê nhất thống chí khẳng định những thành tựu nghệ thuật của văn xuôi tự sự dân tộc, từ
kể chuyện cho tới miêu tả, từ xây dựng không gian – thời gian nghệ thuật cho đến xây dựng
nhân vật, từ kết cấu cốt truyện cho đến tổ chức giọng điệu. “Trong văn xuôi chữ Hán của văn
học dân tộc, trước và sau Hoàng Lê nhất thống chí, không có một tác phẩm thứ hai nào có quy
mô to lớn và đạt được nhiều thành công như vậy” (Nguyễn Lộc).
Document Outline

  • 1.Nhan đề
  • 2.Cấu trúc
  • 3.Tác giả
  • 2.Biết chọn thời điểm nóng bỏng, thời điểm bùng nổ n
  • 3.Đưa vào tác phẩm một không gian nghệ thuật rất rộn
  • 4.Hệ thống nhân vật tương đối đồ sộ
  • Khi miêu tả tính cách nhân vật, tác giả thường tỏ
  • 5.Sau mỗi sự kiện lịch sử, Nguyễn Khoa Chiêm thường
  • 6.Hai giọng điệu ngợi ca và trào lộng
  • 7.Hoàng Lê nhất thống chí phản ánh trực tiếp hiện th
  • 8.Phá vỡ những thói quen suy nghĩ đã trở thành truyề
  • III.Tổng kết