lOMoARcPSD| 58412604
VẤN ĐỀ 1. TÂM LÝ HỌC LÀ MỘT NGÀNH KHOA HỌC
1. BẢN CHẤT CỦA HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ
1.1. Định nghĩa hiện tượng tâm lý
Tâm lý học nghiên cứu các hiện tượng tâm lý người, vậy thực chất hiện tượng tâm lý người là gì?
Tâm bao gồm tất cả c hiện tượng tinh thần nảy ra trong đầu óc con người, chúng gắn liền với quá trình
điều hành, điểu khiển mọi hoạt động của con người.
Hiện tượng tâm lý là hiện tượng có cơ sở tự nhiên, là hoạt động thần kinh và hoạt động nội tiết, được nảy
sinh bằng hoạt động sống của từng người và gắn bó mật thiết với các quan hệ xã hội.
1.2. Tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan của não mang tính chủ thể và có bản chất xã hội
lịch sử.
1.2.1. Tâm lý người là sự phản ảnh hiện thực khách quan của não
Tâm không sẵn hay nói cách khác con người vừa mới sinh ra chưa tâm lý, tâm không phải do
thượng đế sinh ra, cũng không phải do não tiết ra giống như gan tiết ra mật, khi hiện thực khách quan tác động vào
bộ não người, não tiếp nhận sự tác động đó đưa ra phản ứng hay hiện thực khách quan tác động tới các giác
quan, tác động vào não để lại dấu vết trên vỏ não, những dấu vết đó là hình ảnh vhiện thực khách quan đó với các
mức độ phức tạp khác nhau, hay còn gọi các hiện tượng tinh thần hay các hiện tượng tâm lý. Các hiện tượng tâm
lý từ đơn giản đến phức tạp đó chính là sản phẩm sau khi hiện thực khách quan tác động vào bộ não con người.
Một âm thanh, một bản nhạc, một con người, một màu sắc... tác động vào tai, vào mắt ta, khi chỉ mt
lần cũng để lại trong đầu những hình ảnh tương ứng. Hơn nữa những hình ảnh ấy không phải đơn giản, không phải
là một vật chất chết cứng như hình ảnh trong gương được tạo bởi quy luật quang học. Chúng ta thể gợi lại, tạo
dựng lại, cải biên một loạt ấn tượng, suy tư, cảm nghĩ, thái độ.
Bất kỳ một sự vật hiện tượng nào tồn tại trong hiện thực khách quan cũng luôn tồn tại bằng các thuộc tính
không gian, thời gian và trong sự vận động, biến đổi của chúng. Phản ánh là thuộc tính chung của mọi sự vật hiện
tượng đang vận động. Nói một cách tổng quát: Phản ánh quá trình tác động qua lại giữa hệ thống này và hệ thống
khác, kết quả để lại dấu vết tác động cả hai hệ thống tác động và btác động. Chẳng hạn phản ánh cơ học, viên
phấn được dùng để viết lên bảng đen để lại dấu vết trên bảng, ngược lại bảng làm mòn viên phấn. Hay phản ánh
hoá học là: 2H
2
+ O
2
= 2H
2
O
Phản ánh diễn ra từ đơn giản đến phức tạp và có sự chuyển hoá lẫn nhau: Từ phản ánh cơ, vật lý, hoá học,
sinh vật đến phản ánh xã hội, trong đó có phản ánh tâm lý.
* Phản ánh tâm lý là một phản ánh đặc biệt
Tâm lý người là sự phản ánh đặc biệt căn cứ vào những cơ sở sau:
+ Sự phản ánh tâm lý là sự tác động của hiện thực khách quan vào con người, vào hệ thần kinh, vào bộ não người
– cơ sở vật chất có tổ chức cao nhất. Chỉ có hệ thần kinh và bộ não con người mới có khả năng nhận tác động từ
hiện thực khách quan, tạo ra trên não hình ảnh tinh thần chứa đựng trong vết vật chất, đó là các quá trình sin lý,
sinh hoá ở trong hệ thần kinh và não bộ.
+ Phản ánh tâm lý chính là bản sao chép, sao chụp về thế giới hay đó chính là kết quả quá trình phản ánh thế giới
khách quan vào não. Hình ảnh tâm lý khác xa so với hình ảnh cơ, vật lý hay sinh vật ở chỗ:
* Thứ nhất: Hình ảnh tâm lý mang tính sinh động, sáng tạo.
Chẳng hạn: hình ảnh tâm lý về 1 con người trong đầu của một người biết nhận thức khác xa về chất với hình ảnh
vật tính chất chết cứng của con người đó trong gương, hay tấm ảnh được chụp qua phương tiện chiếc
máy ảnh.
* Thứ hai: Hình nh tâm mang tính chủ thể, mang đậm màu sắc nhân, hay nói cách khác tâm hình ảnhchủ
quan về thế giới khách quan. 2.2.2. m lý người mang tính chủ thể
lOMoARcPSD| 58412604
Tính chủ thể thể hiện ở chỗ: mỗi chủ thể trong khi tạo ra hình ảnh tâm lý về thế giới đã đưa vốn hiểu biết, vốn kinh
nghiệm, khả năng, khí chất... của mình vào trong hình ảnh đó làm cho nó mang đậm những nét riêng của cá nhân
đó hay mang đậm màu sắc chủ quan. Hay nói khác đi, tâm lý người sự phản ánh hiện thực khách quan thông qua
“Lăng kính chủ quan”.
* Biểu hiện của tính chủ thể là:
+ Cùng xuất phát từ một hiện thực khách quan tác động vào não của mỗi chủ thể khác nhau sẽ tạo ra những hình
ảnh tâm lý với những mức độ, sắc thái khác nhau.
Chẳng hạn: một bài toán đưa ra cho một nhóm học sinh, học sinh này cho là khó, học sinh khác thì cho là
dễ hay mức độ trung bình. Điều này phụ thuộc vào vốn kiến thức toán học của các em, khả năng nhận thức của
các em hay năng khiếu, sở thích...
+ Xuất phát từ một hiện thực khách quan tác động vào một chủ thể nhưng lại ở nhiều thời điểm khác nhau,
những điều kiện hoàn cảnh khác nhau, với trạng thái thể, tinh thần không giống nhau sẽ tạo ra mức độ biểu
hiện và các sắc thái tâm lý khác nhau ở bản thân chủ thể ấy.
Chẳng hạn: lứa tuổi thanh niên, khi xem một bộ phim, ta sẽ đưa ra một nhận xét khác với bộ phim ấy
được phát lại sau 10 năm, lúc đó ta đang lứa tuổi người trung niên với bao thay đổi của thời cuộc. Hay khi ăn một
bát phở ta sẽ cảm thấy ngon miệng sảng khoái hơn khi ta có sở thích về và lúc sức khoẻ tốt, vẫn là bát phở
do một người nấu nhưng lúc ta mệt mỏi hay gặp một sự trắc trở, vướng mắc nào đó trong cuộc sống ta sẽ cảm thấy
bát phở kém đi phần ngon nguyên vẹn của nó.
+ Chủ thể mang hình ảnh tâm lý là người cảm nhận và trải nghiệm nó rõ nhất. Chính xuất phát từ mức độ
hay sắc thái tâm lý khác nhau mà mỗi chủ thể những cách phản ứng, hành vi ứng xử, hành động khác nhau trong
cuộc sống, trong các mối quan hệ xã hội hay với người khác.
+ Thông qua các mức độ và sắc thái tâm lý khác nhau mà mỗi chủ thể tỏ thái độ và hành vi khác nhau đối
với hiện thực.
Ví dụ: Thực hiện chiến dịch bảo vệ môi trường hiện nay có nhiều ứng xử khác nhau ở các thế hệ, các lứa
tuổi, các nhân. Người trồng cây xanh, người vệ sinh nhà cửa, khu phố sạch sẽ, người tham gia cuộc hành trình
đi xe đạp,… Tuy nhiên, vẫn có có ít người vẫn vứt rác bừa bãi, chặt phá cây xanh,…
* Nguyên nhân tạo ra tính chủ thể trong tâm lý con người
Mỗi nhân sinh ra những đặc điểm riêng về thể hay khác nhau về cấu di truyền, cấu tạo của hệ thần
kinh, bộ não. Hơn nữa, “mỗi cây mỗi hoa” - sống trong hoàn cảnh, điều kiện khác nhau, môi trường giáo dục khác
nhau cơ bản là mỗi nhân thể hiện mức độ tích cực trong tính chủ thể thông qua hoạt động, giao lưu khác nhau.
Vì thế, tâm lý mỗi người không hoàn toàn giống người khác mà có những sắc thái rất riêng, điển hình cho cá nhân
đó.
Tóm lại: Tâm người hiện tượng tinh thần nguồn gốc vật chất từ bên ngoài đó chính hiện thực
khách quan. Hiện thực khách quan là yếu tố quy định nội dung tâm lý, còn bộ não là bộ máy phản ánh tạo nên tâm
con người. Hay hiện thực khách quan là điều kiện cần não điều kiện đủ làm nảy sinh tâm con người. Tâm
lý người là hình ảnh chủ quan về thể giới khách quan khi tác động vào não con người.
2.2.3. Tâm lý người mang bản chất xã hội lịch sử
Tâm lý người khác xa về chất so với tâm lý động vật. Bởi tâm con người được nảy sinh, hình thành
biến đổi trong các mối quan hệ xã hội và chịu sự chi phối của các mối quan hệ xã hội đó. Thực chất tâm lý người
đó chính là quá trình biến những kinh nghiệm của lịch sử xã hội thành cái riêng, điển hình cho mỗi cá nhân.
Bản chất xã hội tính lịch sử của tâm lý người thể hiện như sau:
+ Tâm lý người có nguồn gốc hiện thực khách quan, hiện thực khách quan bao gồm thế giới tự nhiên,
xã hội trong đó nguồn gốc xã hội là cái quyết định.
lOMoARcPSD| 58412604
Tâm lý người được hình thành từ các mối quan hệ hội từ mối quan hệ kinh tế, đạo đức, pháp quyền, các mối
quan hệ người - người từ quan hệ gia đình, bạn bè, làng xóm, nhóm, tập thhay cộng đồng... các quan hệ trên quyết
định bản chất tâm lý người. Thực tế cho thấy con người thoát ly khỏi các mối quan hệ xã hội, quan hệ người - người
đều làm cho tâm lý người mất bản tính người.
+ Tâm lý người là sản phẩm của hoạt động và giao lưu của con người trong các mối QHXH.
Khi mỗi cá nhân tham gia vào bất kỳ một hoạt động nào đều phải là chủ thể biết nhận thức, chủ thể tích cực, chủ
động, sáng tạo trong hoạt động, giao lưu đó thì tâm lý sẽ nảy sinh hình thành cũng như ngày một hoàn thiện ở
mức độ cao làm cho hoạt động mang lại hiệu quả tối ưu, nhân đó sẽ một đời sống tâm phong phú đa
dạng. Hay tâm con người được nảy sinh và phát triển sản phẩm củanhân khi tham gia vào hoạt động với
tư cách là một chủ thể xã hội.
+ Tâm lý của mỗi cá nhân là kết quả của quá trình lĩnh hội, tiếp thu vốn kinh nghiệm xã hội, nền văn hoá
xã hội thông qua hoạt động, giao lưu.
+ Tâm lý của mỗi cá nhân hình thành, phát triển và biến đổi cùng với sự biến đổi của lịch sử cá nhân, lịch
sử dân tộc, cộng đồng, xã hội. Tâm lý người chịu sự chế ước bởi lịch sử cá nhân, cộng đồng và của xã hội.
Mối quan hệ xã hội của con người không tĩnh tại, không bất biến luôn vận động, biến đổi cùng quá trình lịch
sử cá nhân, cộng đồng và xã hội. Do đó, tâm lý người phải biến đổi theo sao cho phù hợp với điều kiện đang sống.
2. PHÂN LOẠI HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ
2.1. Căn cứ vào diễn biến của các hiện tượng tâm lý
Theo căn cứ này thì tâm người bao gồm ba loại sau: các quá trình tâm lý, các trạng thái tâm các
thuộc tính tâm lý.
Các quá trình tâm lý là các hiện tượng tâm lý diễn ra có mở đầu, diễn biến và kết thúc 1 cách rõ ràng, diễn
ra trong tgian ngắn. Các quá trình tâm bao gồm các quá trình nhận thức (cảm giác, tri giác, duy...), các quá
trình cảm xúc (biểu thị sự vui mừng hay tức giận, dễ chịu, khó chịu, nhiệt tình, thờ ơ...) quá trình hành động ý
chí.
Các trạng thái tâm lý là những hiện tượng tâm lý diễn ra với mở đầu, diễn biến và kết thúc một cách không
rõ ràng, không cụ thể và diễn ra trong thời gian tương đối dài (chú ý, tâm trạng...)
Các thuộc nh tâm những hiện tượng tâm lý khó hình thành, khó mất đi đc hình thành trong
thời gian lâu dài và phức tạp, chúng tạo thành những nét riêng của nhân cách (xu hướng, tính cách, khí chất, năng
lực).
Các hiện tượng tâm thuộc cùng một thể loại hay một thể loại khác đều mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, chúng không tồn tại một cách biệt lập tách rời nhau mà hiện tượng tâm lý này sở để nảy sinh hiện
tượng tâm lý khác và ngược lại.
2.2. Căn cứ vào sự tham gia của ý thức
Tâm được nảy sinh trong hoạt động, trong giao lưu trong hoạt động, giao lưu muốn đạt hiệu quả
phải có sự tham gia của ý thức con người. Do đó, ý thức tham gia vào việc nảy sinh các hiện tượng tâm lý, nhưng
đôi khi có những hiện tượng tâm lý nảy sinh mà không có sự tham gia của ý thức. Theo căn cứ này thì tâm lý bao
gồm c loại sau: Hiện tượng tâm ý thức (tình cảm, nhận thức, ý chí, thế giới quan, nhu cầu...) các hiện
tượng tâm chủ đạo, các hiện tượng tâm thức mang tính chất bệnh (ảo giác, hoang tưởng, những hiện
tượng tâm lý xảy ra trong trạng thái ức chế, thôi miên, ngủ mê, hiện tượng trực giác - “vụt sáng”.
Như vậy, thế giới nội tâm hay đời sống tâm lý của con người vô cùng phong phú, phức tạp và đa dạng.
Tâm lý người có nhiều cấp độ, mức độ khác nhau, có quan hệ đan xen vào nhau và chuyển hoá cho nhau.
3. NHỮNG PHƯƠNG PHÁP CƠ BẢN CỦA TÂM LÝ HỌC
lOMoARcPSD| 58412604
3.1. Phương pháp quan sát
Một trong những phương pháp sử dụng phổ biến trong nghiên cứu tâm lý người là phương pháp quan sát. Phương
pháp quan sát là quá trình tri giác các hiện tượng tâm lý có tổ chức, có chủ định và có mục đích rõ rệt.
Đối tượng quan sát: Quan sát biểu hiện bên ngoài, thông qua đó để đoán biết những đặc điểm tâm lý bên trong. Có
thể quan sát nét mặt, cử động tay, chân, di chuyển cơ bản, tốc độ, phương hướng, chuyển động, sự va chạm của cá
nhân với các vật thể và người khác, nội dung của lời nói, thể hiện ở nguôn từ, ngữ điệu, âm điệu, cường độ của lời
nói, sử dụng định hướng, tần số của cử chỉ... kết hợp lại để xác định hành vi chung của con người.
Quan sát trong tâm học cũng tuân thủ những nguyên tắc chung cho bất kỳ quan sát khoa học nào. Đó là, phù hợp
với mục đích nghiên cứu, kế hoạch hóa và tiến hành quan sát tương tác giữa các cá nhân theo một sơ đồ nhất định,
diễn tả các hiện tượng và sự kiện mà chúng ta tri giác được bằng ngôn ngữ thích hợp sao cho người quan sát khác
hiểu được, lựa chọn các phương pháp quan sát ghi lại tùy theo tính chất hoạt động của con người khả năng
quan sát, kiểm tra tính khách quan và độ tin cậy của việc quan sát bằng những nhà nghiên cứu khác và những cách
nghiên cứu khác, cần phân biệt được ý nghĩa chủ quan của người quan sát và ý nghĩa chủ quan của hành động được
quan sát.
E.C. Kuzơmin chỉ ra 3 yêu cầu có tính nguyên tắc để đảm bảo sử dụng thành công của phương pháp quan sát là:
- Xác định rõ ràng mục đích
- Xây dựng đồ quan sát phù hợp: thiết kế bối cảnh sao cho nhận diện dễ dàng các phần tđược quan sát (mẫu,thời
gian, không gian quan sát).
- Xây dựng phương pháp ghi lại thích hợp.
Việc xây dựng sơ đồ quan sát được tiến hành theo nguyên tắc sau:
- Trước hết, người ta quan sát bối cảnh ghi lại tất cả những điều xảy ra và sắp xếp theo các phạm trù nhánh. - Dựa
vào các giả thuyết hoặc từ mộtthuyết xác định các khía cạnh quan sát quan trọng và để xây dựng đồ quan
sát.
Quan sát có nhiều hình thức: trực tiếp, gián tiếp; quan sát bộ phận hay toàn diện; quan sát trọng điểm, quan
sát khách quan hay tự quan sát (theo yêu cầu khách quan),...
Phương pháp quan sát cho phép nhà nghiên cứu thu thập được các tài liệu cụ thể, khách quan trong các
điều kiện tự nhiên của con người. Tuy nhiên, phương pháp này tốn nhiều thời gian, công sức của nhà nghiên cứu.
3.2. Phương pháp đàm thoại
Phương pháp đàm thoại là cách đặt ra câu hỏi cho đối tượngdựa vào trả lời của họ để trao đổi, hỏi thêm
nhằm thu thập những thông tin về vấn đề cần nghiên cứu.
Mục đích của đàm thoại: Hiểu được tâm trạng, cảm xúc, tính cách, khí chất, hứng thú, năng lực,... của con
người.
Có thể đàm thoại trực tiếp hoặc gián tiếp tuỳ sự liên quan của đối tượng với điều cần biết, cần nghiên cứu.
Điều kiện để đàm thoại có kết quả:
+ Xác định rõ mục đích đàm thoại;
+ Tìm hiểu đặc điểm tâm lý của đối tượng trước khi đàm thoại;
+ Chủ động trong đàm thoại;
+ Tránh lối đặt câu hỏi kiểu vấn đáp, kiểu câu hỏi có thể dẫn đối tượng đến chỗ trả lời máy móc, có hoặc
không? Ví dụ: Bạn có thích môn tâm lý học không?
+ Có thể biến cuộc đàm thoại thành cuộc tranh luận khi cần thiết.
3.3. Phương pháp thực nghiệm
Phương pháp thực nghiệm là phương pháp trong đó nhà nghiên cứu chủ động tạo ra các hiện tượng
mình nghiên cứu sau khi đã tạo ra điều kiện cần thiết loại trừ yếu tố ngẫu nhiên.
lOMoARcPSD| 58412604
Có hai loại thực nghiệm cơ bản đó là: thực nghiệm tự nhiên và thực nghiệm trong phòng thí nghiệm. Thực
nghiệm tự nhiên là loại thực nghiệm dựa vào điều kiện hoạt động bình thường của đối tượng nghiên cứu, lợi dụng
hoàn cảnh sinh hoạt, học tập, công tác để thực hiện chương trình đã xác định.
Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm là loại thực nghiệm nhà nghiên cứu tạo ra những điều kiện để làm nảy sinh
hay phát triển một hiện tượng tâm lý nào đó để nghiên cứu. Chủ yếu là dựa vào dụng cụ thí nghiệm, máy móc đặc
biệt.
Ví dụ dùng máy phát hiện nói dối qua chỉ số huyết áp, độ giãn đồng tử của mắt, nhịp tim.
Tuy nhiên dù thực nghiệm tự nhiên hay thực nghiệm trong phòng thí nghiệm đều khó có thể khống chế hoàn toàn
ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan của người bị thực nghiệm vì thế phải tiến hành thực nghiệm qua một số lần và
kết hợp sử dụng các phương pháp khác.
3.4. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động của con người
Qua sản phẩm hoạt động, nhà nghiên cứu thể biết được mức độ hiểu một vấn đề, cách suy nghĩ, xúc
cảm, kỹ năng, kỹ xảo, tài nghệ, sở thích, thậm chí cả tính nết, quan điểm của người đó.
Đây là phương pháp dựa vào kết quả, sản phẩm vật chất hoặc tinh thần của hoạt động do con người làm ra
để nghiên cứu các chức năng tâm lý của con người đó. Trong sản phẩm chứa đựng “dấu vết” tâm lý, ý thức, nhân
cách của con người. Cần chú ý rằng sản phẩm của hoạt động cần phải được xem xét trong điều kiện tiến hành hoạt
động mới đảm bảo độ khách quan trong nghiên cứu.
3.5. Phương pháp điều tra
Phương pháp điều tra bảng hỏi phương pháp dùng một số câu hỏi nhất loạt đặt ra cho một số lớn đối
tượng nghiên cứu nhằm thu thập ý kiến chủ quan về một vấn đề nào đó. Có thể trả lời viết hoặc trả lời miệng và
người ghi lại.
thể dùng điều tra để thăm chung hoặc điều tra chuyên đề đi sâu vào một số khía cạnh. Câu hỏi
thể dùng điều tra dưới dạng câu hỏi đóng hoặc mở.
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi có ưu điểm nó cho phép tiến hành nghiên cứu trên một địa bàn rộng,
nhiều người tham gia như vậy có thể thu thập được ý kiến của một số lượng lớn nghiệm viên. Bằng phương pháp
này cũng cho phép thu được thông tin về nhiều sự kiện khác nhau. Điều tra bằng bảng hỏi thể dùng để làm chính
xác thêm, mở rộng thêm và kiểm tra những số liệu thu được bằng phương pháp khác cũng như bằng các hình thức
điều tra ý kiến khác.
3.6. Phương pháp trắc nghiệm (Test)
Trắc nghiệm là một hệ thống biện pháp được chuẩn hoá về mặt kỹ thuật, được quy định nội dung và cách
làm nhằm chẩn đoán tâm lý.
Trắc nghiệm tâm lý được sử dụng chủ yếu trong chẩn đoán tâm lý con người. Trắc nghiệm trọn bộ gồm 4
phần: văn bản Test; hướng dẫn qui trình tiến hành; hướng dẫn đánh giá; bản chuẩn hóa.
Trắc nghiệm khả năng làm cho hiện tượng tâm lý cần đo được trực tiếp bộc lộ qua hành động giải bài
tập test. Có khả năng tiến hành nhanh, tương đối đơn giản bằng giấy, bút, tranh vẽ. Có khả năng lượng hóa, chuẩn
hóa hiện tượng tâm lý cần đo. Tuy nhiên, khó soạn thảo một bộ test chuẩn hóa; Test chủ yếu cho ta kết quả, ít bộc
lộ quá trình suy nghĩ của nghiệm thể đi đến kết quả.
3.7. Phương pháp nghiên cứu trường hợp (Case study)
Nghiên cứu trường hợp là tìm hiểu sâu về một một nhân hoặc một nhóm ít người. Phương pháp này cho
phép tsâu chân dung những khách thể nghiên cứu để làm hơn vấn đề dưới nhiều góc độ khác nhau, phát
hiện ra những khía cạnh đặc biệt trong tâm lý người hoặc minh họa cho những kết quả thu được từ những phương
pháp nghiên cứu khác.
lOMoARcPSD| 58412604
TÀI LIỆU THAM KHẢO VẤN ĐỀ 1
1. Trường Đại học Luật Nội, Giáo trình Tâm lý học đại cương, NXB Công an nhân dân, Nội, 2019,
Chương I, tr.5-32.
2. Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên). Tâm học đại cương. NXB Đại học phạm Nội, 2014, Chương I,
tr.7-27.
VẤN ĐỀ 2. Ý THỨC THỨC
1. Ý THỨC
1.1. Khái niệm ý thức
Theo nghĩa rộng: ý thức là tinh thần, tưởng thức kỷ luật, ý thức tổ chức, ý thức trách nhiệm...) theo nghĩa
hẹp ý thức là một cấp độ đặc biệt trong tâm lý con người.
Ý thức năng lực hiểu được các tri thức về thế giới khách quan con người tiếp thu được và năng lực hiểu
được thế giới chủ quan trong chính bản thân mình nhờ đó con người có thể cải tạo được thế giới khách quan và
hoàn thiện bản thân mình.
Nếu cảm giác, tri giác, tư duy đem lại cho ta hình ảnh tâm (tri thức, hiểu biết về sự vật hiện tượng tồn tại
trong hiện thực khách quan) thì ý thức là năng lực hiểu biết, đánh giá các hình ảnh ấy, các tri thức ấy, hiểu biết ấy.
+ Ý thức là sự phản ánh của phản ánh, hiểu biết của hiểu biết; tri thức về tri thức;
+ Ý thức là sự nhận thức về thế giới chủ quan: phân tích, hiểu rõ mình là người như thế nào? Hành động đúng sai
của bản thân, cần làm gì?... đó là tự ý thức.
1.2. Đặc điểm của ý thức
+ Là khả năng nhận thức cao nhất của con người về thế giới khách quan;
+ Thể hiện thái độ của con người đối với hiện thực;
+ Thể hiện chức năng điều khiển, điều chỉnh hành vi của con người;
+ Có khả năng tự nhận thức, tự xác định thái độ và tự điều chỉnh hành vi, tự hoàn thiện mình.
1.3. Cấu trúc của ý thức
- Mặt nhận thức: Các quá trình nhận thức cảm tính là tầng bậc thấp nhưng nó là cơ sở, nền tảng của ý thức,
nómang lại tài liệu đầu tiên cho ý thức. Nhận thức cảm nh giúp con người phản ánh những thuộc tính bề ngoài
của sự vật hiện tượng. Các quá trình nhận thức lý tính là hạt nhân của ý thức, đem lại cho con người những hiểu
biết bản chất, khái quát về thực tại khách quan. Nhận thức tính giúp cho con người hình dung ra trước kết quả
của hoạt động và hoạch định kế hoạch hành vi cá nhân.
Ví dụ: Khi tham gia giao thông đường bộ, bằng nhận thức cảm tính (bằng giác quan nhìn) quan sát tín hiệu đèn
hoặc hướng dẫn của cảnh sát giao thông để định hướng hành vi di chuyển hay dừng lại theo đúng quy định. Mặt
khác, bằng khả năng nhận thức của duy về vấn đề an toàn khi tham gia giao thông, dự báo những tình huống xấu
có thể xảy ra giúp cá nhân điều khiển hành vi của mình một cách an toàn, hiệu quả.
- Mặt thái độ: Nói lên thái độ lựa chọn, thái độ cảm xúc, thái độ đánh giá của chủ thể đối với thế giới. Thái
độđược thể hiện chân thực, đúng lúc, đúng chỗ là động lực, điều kiện thuận lợi cho tiến hành công việc đạt kết quả
cao hơn.
Ví dụ: Sinh viên thái độ nghiêm túc khi thực hiện thời gian biểu đã lập để đạt được mục tiêu học tập của
học kỳ hay của năm học, không thờ ơ, dễ dãi với bản thân làm cản trở mục tiêu đã định. Kiềm chế những ham
muốn, nhu cầu nhất thời để vượt mọi khó khăn trong học tập để lập nghiệp sau này.
- Mặt năng động của ý thức: khả năng điều khiển, điều chỉnh hoạt động của con người làm cho hoạt
độngđạt kết quả cao. Đó là quá trình con người vận dụng những hiểu biết của mình tỏ thái độ của mình nhằm
thích nghi, cải tạo thế giới, cải tạo chính bản thân.
lOMoARcPSD| 58412604
Ví dụ: Sinh viên xác định nguyên nhân chính dẫn đến kết quả học tập của họ kém như lười học, phương pháp
học tập chưa phù hợp,... từ đó giúp họ định hướng các biện pháp khắc phục như cần chuyên tâm học tập, thay đổi
phương pháp học,...
Ngoài ba mặt cơ bản trên cấu thành nên cấu trúc ý thức, nhu cầu, động cơ, hứng thú... đều có vị trí nhất định
trong cấu trúc của ý thức.
Nhờ có ý thức mà đã mang lại cho con người một thế giới tâm hồn phong phú, làm cho cuộc sống của mỗi cá
nhân có ý nghĩa cho chính bản thân mình và cho mọi người, cho xã hội.
2. VÔ THỨC
2.1. Định nghĩa vô thức
Trong cuộc sống ta thường gặp những hiện tượng tâm diễn ra mà cá nhân chưa nhận thức được. Hiện tượng
tâm lý không ý thức được, chưa nhận thức được trong tâm lý học gọi là vô thức.
Vô thức là tập hợp những hiện tượng, những hành vi mà chủ thể không có nhận thức, không tỏ được thái độ và
không thể thực hiện được sự kiểm tra có chú ý đối với chúng.
dụ: Người mộng du vừa đi vừa ngủ trên mái nhà, dây điện; người bị bệnh tâm thần; người say rượu, người bị
thôi miên,... họ không nhận thức được mình đang làm gì tức là họ đang rơi vào trạng thái vô thức.
Vô thức có đặc điểm sau:
nhân không nhận thức được hiện tượng tâm lý, các hành vi, cảm nghĩ của mình, không diễn đạt được
bằng ngôn ngữ cho mình và cho người khác hiểu. Vì vậy vô thức không kèm theo sự dự kiến trước, không có chủ
đích. Sự xuất hiện hành vi vô thức thường đột ngột, bất ngờ nảy sinh trong thời gian ngắn.
2.2. Các hiện tượng vô thức
+ Vô thức ở tầng bản năng: bản năng dinh dưỡng, tự vệ,...
+ Hiện tượng lóe sáng: hiện tượng bất chợt con người nhận ra nó;
+ Hiện tượng linh cảm;
+ Tiềm thức: ban đầu có ý thức, do lặp đi lặp lại, không cần sự xuất hiện của ý thức: Kỹ năng, kỹ xảo, thói quen,...
Tiềm thức chỉ đạo tư duy, hành động tới mức không cần ý thức tham gia.
+ Tiền ý thức: trước khi ý thức xuất hiện;
+ Ức chế thần kinh: mộng du, mơ, bị thôi miên,...
2.3. Mối quan hệ giữa ý thức và vô thức
Giữa ý thức và vô thức có mối quan hệ chặt chẽ và phức tạp vừa xung đột, kiềm chế, vừa bổ sung hỗ trợ,
chuyển hóa cho nhau.
+ Ý thức kiểm duyệt, kiềm chế hành vi được thúc đẩy bởi các động cơ vô thức
+ Ý thức có thể biểu hiện thông qua vô thức
+ Chúng có thể chuyển hóa cho nhau
+ Tương quan giữa ý thức và vô thức biến đổi trong cuộc đời của của con người
+ Chúng không tồn tại một ranh giới rõ ràng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO VẤN ĐỀ 2
1. Giáo trình tâm lý học đại cương, Trường Đại học Luâtà Nôi, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2019, Chương
II (tr.33-54).
2. Giáo trình tâm lý học đại cương, Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên), Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội 2014, Chương
III (tr. 56-65).
lOMoARcPSD| 58412604
VẤN ĐỀ 3. CHÚ Ý
1. KHÁI NIỆM CHÚ Ý
Trong môi trường xung quanh luôn có vô vàn sự vật tác động vào nhưng chúng ta không thể quan tâm hết tất cả sự
vật trong cùng một lúc. Con người phải chọn lựa, biết tập trung quan tâm vào các đối tượng liên quan đến
những nhiệm vụ, những hoạt động cần phải tiến hành. Hiện tượng này được gọi là chú ý.
Chú ý là sự tập trung của hoạt động tâm vào một hoặc một số đối tượng nào đó, nhằm phản ánh chúng một cách
đầy đủ, rõ ràng nhất.
Chú ý là sự tập trung của ý thức vào một hay một nhóm sự vật, hiện tượng, để định hướng hoạt động, đảm bảo điều
kiện thần kinh - tâm lý cần thiết cho hoạt động tiến hành có hiệu quả.
2. CÁC THUỘC TÍNH CỦA CHÚ Ý
2.1. Tính khối lượng của chú ý
Khối lượng của chú ý được đo bằng số lượng đối tượng mà chú ý hướng tới trong thời gian ngắn
Khối lượng của chú ý khối lượng của đối tượng thể được tri giác cùng một lúc với mức độ ràng và rành
mạch như nhau tại một thời điểm nhất định.
2.2. Sự phân phối chú ý
Sự phân phối chú ý là khả năng có thể chú ý đồng thời tới một số đối tượng.
Sự phân phối chú ý bộc lộ khả năng trong cùng một lúc chú ý đầy đủ đến nhiều đối tượng hay nhiều hoạt động khác
nhau một cách chủ định. Các đối tượng chính được chú ý nhiều hơn những đối tượng khác chứ không phải
phân chia chú ý một cách đồng đều cho mọi đối tượng hoạt động. Sự phân phối chú ý không có mâu thuẫn với sức
tập trung chú ý vì trong phân phối chú ý cũng có sự tập trung chú ý vào hoạt động mới. dụ : Sinh viên vừa nghe
nhạc vừa làm bài tập.
2.3. Sức tập trung của chú ý
Ở một thời điểm, con người có khả năng tách một số đối tượng cần thiết ra khỏi vô vàn các đối tượng khác để chú
ý sâu vào đối tượng đã chọn. Chẳng hạn như học sinh có thể tập trung vào việc viết bài mà không nhận ra tiếng
chuyển động của đồng hồ quả lắc vẫn vang đều.
Tập trung chú ý là khả năng hướng và tập trung cao độ hoạt động tâm lý vào một số đối tượng cần thiết của hành
động.
Sức tập trung của chú ý là khả năng chú ý đến một phạm vi đối tượng hẹp cần thiết cho hoạt động ở thời điểm đó
nhằm phản ánh đối tượng tốt nhất. Sức tập trung của chú ý khiến con người bị “hút” vào đối tượng, nhờ đó tập
trung cao độ dẫn đến hiệu quả trong công việc tốt hơn.
Ví dụ : Sinh viên tập trung nghe giảng không bị ảnh hưởng bởi điện thoại, hay các vấn đề xung quanh.
2.4. Tính bền vững của chú ý
Tính bền vững của chú ý được thể hiện khả năng duy trì lâu dài chú ý tới một hoặc một số đối tượng.
Ngược với sự bền vững chú ý là sự phân tán chú ý, sự phân tán chú ý diễn ra theo chu kỳ, xen kẽ giữa sự bền vững
và phân tán chú ý gọi là sự dao động chú ý. Tính bền vững của chú ý không mâu thuẫn với sức tập trung chú ý
sự di chuyển của chú ý. Đặc điểm cá nhân, điều kiện khách quan của hoạt động chi phối đến sự bền vững của chú
ý.
2.5. Sự di chuyển chú ý
Sự di chuyển chú ý khả năng dịch chuyển từ đối tượng này sang đối tượng khác một cách có chủ định.
Sự di chuyển chú ý không mâu thuẫn với độ bền vững của chú ý và cũng không phải là phân tán chú ý. Nó
được di chuyển từ đối tượng này sang đối tượng khác một cách có ý thức và khi chuyển sang đối tượng chú ý mới
thì chú ý được tập trung với cường độ cao. Ví dụ; Sinh viên tranh thủ trao đổi về công việc của lớp trong giờ ra
chơi nhưng vào ca học mới họ phải chuyển sang chú ý bài học.
lOMoARcPSD| 58412604
Những thuộc tính bản trên của chú ý đều có vai trò nhất định đối với hoạt động của con người. Mỗi thuộc
tính đều thể giữ vai trò tích cực hoặc không tích cực. Tuy nhiên, giữa chúng lại quan hệ bổ sung cho nhau,
khắc phục cho nhau nếu biết sử dụng, phối hợp c đặc điểm ấy thì hoạt động sẽ được tiến hành một cách hiệu quả.
3. PHÂN LOẠI CHÚ Ý
3.1. Căn cứ vào tính tích cực của con người trong việc tổ chức chú ý
3.1.1. Chú ý không chủ định
Là sự tập trung hoạt động tâm lý lên một đối tượng nhất định khi có sự tác động kích thích của đối tượng đó.
Chú ý không chủ định có thể xuất hiện tùy thuộc vào một số đặc điểm của kích thích:
- Độ mới lạ của kích thích: Vật ch thích càng mới, càng dễ ra chú ý không chủ định; ngược lại, vật kích
thíchcàng rập khuôn bao nhiêu thì càng mau mất chú ý không chủ định bấy nhiêu.
- Cường độ kích thích: Kích thích càng mạnh thì dễ tạo ra chú ý không chủ định, nhưng kích thích quá mạnh
sẽ tạora phản ứng ngược, chú ý sẽ bị ức chế. Tuy nhiên, chú ý phụ thuộc vào cường độ kích thích chỉ mang tính
chất tương đối. Bởi vì chú ý còn chịu ảnh hưởng của các hiện tượng tâm sinh khác, như hứng thú, nhu cầu,
xúc cảm.
- Độ hấp dẫn của vật kích thích: Đặc điểm này tổng hợp của hai đặc điểm trên thể hiện mức độ phù hợpvới
người bị tác động, gây ra sự mò, thích thú, thu hút sự chú ý của người đó. - Sự bắt đầu hoặc kết thúc một kích
thích.
3.1.2. Chú ý có chủ định
Chú ý có chủ định là sự điều chỉnh một cách có ý thức sự tập trung hoạt động tâm lý lên một đối tượng nào
đó nhằm đáp ứng yêu cầu của hoạt động.
Chú ý có chủ định là loại chú ý mục đích tự giác, biện pháp để hướng chú ý vào đối tượng, đòi hỏi một
sự nỗ lực nhất định. Chú ý chủ định không tùy thuộc vào đối tượng mới lạ hay quen thuộc, cường độ kích
thích mạnh hay yếu, hấp dẫn hay không hấp dẫn, ta tập trung vào đối tượng hay sự vật để tiến hành một hoạt động
tương ứng theo một động cơ nhất định, bao gồm các hành động nhằm vào một mục đích nhất định.
Chú ý có chủ định có những đặc điểm cơ bản sau:
- Có mục đích tự giác, có kế hoạch biện pháp để chú ý.
- Có liên quan chặt chẽ với hệ thống tín hiệu thứ hai, tình cảm, hứng thú của cá nhân.
- Tính bền vững cao.
- Đòi hỏi sự nỗ lực ý chí nhất định của chủ thể để khắc phục những trở ngại bên ngoài hoặc bên
trong củachủ thể.
Chú ý có chủ định đóng vai trò rất quan trọng trong các quá trình nhận thức, nó là nền tảng đề quá trình
nhận thức, nó giúp cung cấp các dữ kiện một cách hợp lý và chính xác để nhận thức có thể đạt được hiệu quả tối
ưu. Mặt hạn chế của chú ý có chủ định là nếu chú ý lâu sẽ tính ra mệt mỏi, căng thẳng thần kinh, giảm hứng thú
hoạt động.
3.1.3 Chú ý sau chủ định
Là sự tập trung hoạt động tâm lý đến một đối tượng mà đối tượng đó có ý nghĩa nhất định đối với cá nhân.
Chú ý sau chủ định thật chất là chú ý có chủ định nhưng không đòi hỏi sự căng thẳng về ý chí, con người bị
cuốn hút vào nội dung và phương thức hoạt động bởi sự hấp dẫn của đối tượng tới mức không cần sự cố gắng, sự
căng thẳng thần kinh và sự nỗ lực của ý chí.
Ba loại chú ý trên có liên quan với nhau, có thể mở đầu bằng chú ý không chủ định, rồi tiếp theo là chú ý
chủ định và có thể kết thúc là chú ý sau chủ định. Mỗi loại đều giữ một vai trò nhất định trong hoạt động của con
người, trong đó chú ý sau chủ định là loại chú ý cần hình thành trong hoạt động nhận thức của con người. 3.2. Căn
cứ vào đối tượng mà chú ý hướng tới
lOMoARcPSD| 58412604
3.2.1. Chú ý bên ngoài
Là loại chú ý hướng vào các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan. Là loại chú ý đòi hỏi phải sử dụng
các giác quan (thị giác, thính giác,...)
Ví dụ người tham gia giao thông chú ý tín hiệu đèn giao thông để điều khiển phương tiện đúng quy định.
Đối tượng gây ra chú ý bên ngoài:
+ Các kích thích có cường độ mạnh như âm thanh mạnh, ánh sáng chói, mùi khó chịu...
+ Các kích thíc có sự mới lạ
+ Đặc biệt trật tự sắp xếp, cấu tạo của kích thích.
3.2.2. Chú ý bên trong
Chú ý bên trong: loại chú ý đó hoạt động tâm lý nhân hướng vào hành động, suy nghĩ, thế giới
nội tâm và ý thức bản ngã của cá nhân đó.
+ Đối tượng của chú ý bên trong: cảm xúc, hồi tưởng, suy nghĩ, tư duy, ... của cá nhân.
+ Chú ý bên trong chỉ có ở con người.
Ví dụ: Anh A suy nghĩ về cách cư xử của mình với hàng xóm trong giải quyết mâu thuẫn ngày hôm qua.
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
1. Trường Đại học Luật Nội, Giáo trình Tâm lý học đại cương, NXB Công an nhân dân, Nội, 2019,
Chương III, tr.55-70.
2. Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên). m lý học đại cương. NXB ĐH SP Hà Nội, 2014, Chương III, tr.61-63.
lOMoARcPSD| 58412604
VẤN ĐỀ 4. HOẠT ĐỘNG
1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1.1. Khái niệm hoạt động
Hoạt động sự tác động qua lại định hướng giữa con người thế giới xung quanh, hướng tới biến
đổi nó nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình.
Hoạt động diễn ra 2 quá trình:
* Quá trình thứ nhất quá trình đối tượng hoá, trong đó chủ thể chuyển những cái của mình thành sản phẩm
của hoạt động. Nói một cách khác, tâm (tri thức, hiểu biết, kỹ năng, kỹ xảo,...) của nhân được bộc lộ, được
khách quan hóa trong quá trình làm ra sản phẩm. Quá trình đối tượng hoá còn có thể gọi là quá trình xuất tâm.
* Quá trình thứ hai quá trình chủ thể hoá, nghĩa khi hoạt động con người biến những cái từ n
ngoàiHTKQ thành những cái của chủ thể. Trong hoạt động, nhân khám phá ra bản chất, quy luật của đối tượng,
tìm ra được các kỹ năng, kỹ xảo cần thiết để tác động đến đối tượng. Tất cả những cái đó cá nhân lĩnh hội, tái tạo
và biến chúng thành cái của chủ thể. Quá trình chủ thể hoá còn có thể gọi là quá trình nhập tâm.
Như vậy, tâm lý, ý thức, nhân cách con người được bộc lộ, thể hiện hình thành cũng như phát triển, biến
đổi thông qua hoạt động. 1.2. Khái niệm hành động
2.1. Định nghĩa hành động
Hành động là một bộ phận cấu thành hoàn chỉnh của hoạt động, hướng tới đạt được mục đích cụ thể.
+ Là đơn vị của Hoạt động
+ Một hành động có cấu tạo đầy đủ: động cơ, mục đích, thao tác và sản phẩm
+ Hành động nhằm thực hiện một nhiệm vụ, mục đích nhất định
+ Hành động thể hiện tính tích cực bên ngoài (tích cực vận động) và bên trong (tích cực tâm lý) và giữa chúng có
mối quan hệ mật thiết.
2.2. Cấu trúc của hành động
3. Hành vi
Theo thuyết hành vi (Wattson, 1913): Hành vi tổng hợp các phản ứng của thể trước các kích thích của môi
trường bên ngoài, theo công thức S – R (có kích thích thì phản ứng không liên quan gì đến ý thức và chuẩn mực
xã hội ).
Theo TLH hiện đại, Rubinstein, Leonchiev,... Hành vi được hiểu là hành động, hoạt động được chuyển thành hành
vi khi động lực của hoạt động từ bình diện đối tượng chuyển sang quan hệ cá nhân- xã hội.
lOMoARcPSD| 58412604
Hành vi là xử sự của con người trong một hoàn cảnh cụ thể, biểu hiện ra bên ngoài bằng lời nói, cử chỉ, việc làm
nhất định.
+ Hành vi gắn với kỹ thuật – xử sự của cá nhân
+ Hành vi gắn với nội dung xã hội nhất định - cách xử sự (cách cư xử).
Cách xử sự là hành vi thể hiện quan điểm, thái độ của chủ thể đối với người khác, với xã hội, với các chuẩn
mực đạo đức của xã hội.
2. CẤU TRÚC CỦA HOẠT ĐỘNG
Khi bàn đến cấu trúc của hoạt động lại có nhiều quan niệm khác nhau, ở đây ta xem xét cấu trúc khá toàn
diện của nhà tâm lý học Liên Xô - A.N.Leonchiev đưa ra. Ông đã nêu lên cấu trúc vĩ mô của hoạt động bao gồm 6
thành tố và mối quan hệ giữa 6 thành tố này.
Theo quan niệm của ông, khi tiến hành hoạt động 3 thành tố về phía chủ thmối quan hệ giữa 3 thành
tố này là: hoạt động, hành động thao tác. Ba thành tnày trực thuộc mặt thao tác kỹ thuật của hoạt động. Còn
về phía khách thể gồm 3 thành tố và mối quan hệ giữa chúng đó là: động cơ, mục đích và phương tiện, 3 thành tố
này tạo nên nội dung đối tượng của hoạt động. Nói cụ thể hơn là hoạt động hợp bởi các hành động, các hành động
diễn ra bằng một chuỗi các thao tác. Hoạt động luôn luôn hướng vào động cơ, đó là mục đích chung, mục đích cuối
cùng của hoạt động. Mục đích chung của hoạt động được cụ thể hoá bằng những mục đích cụ thể (bộ phận)
hành động hướng vào. Để đạt được mục đích con người phải sử dụng các phương tiện. Tuỳ theo các phương tiện,
điều kiện mà con người tiến hành hành động đạt mục đích, hay hành động thực hiện được nhờ các thao tác. Sự tác
động qua lại giữa chủ thể và khách thể, giữa đơn vị thao tác kỹ thuật với nội dung đối tượng của hoạt động tạo ra
sản phẩm của hoạt động cả về phái chủ thể và phía khách thể.
Chủ thể Khách thể
Sơ đồ cấu trúc tâm lý của hoạt động
Các thành tố trong cấu trúc của hoạt động có mối quan hệ mật thiết với nhau tạo thành cấu trúc chung, thống nhất,
tạo điều kiện cho hoạt động có kết quả, là cơ sở nảy sinh và phát triển tâm lý - ý thức con người.
3. QUÁ TRÌNH ĐỘNG CƠ HÓA
3.1. Định nghĩa
Quá trình biến động lực thành động cơ gọi là quá trình động cơ hóa
3.2. Các yếu tố trong quá trình động cơ hóa
3.2.1. Các yếu tố bên trong
Nhu cầu:
+ Là yếu tố quan trọng nhất;
+ Là nguyên nhân bên trong của mọi hành vi cá nhân;
Hoạt
động
Động cơ
Hành
động
Mục đích
Thao
Phương tiện
Sản phẩm
lOMoARcPSD| 58412604
Ví đụ: Sinh viên có nhu cầu tài chính để giảm bớt khó khăn cho gia đình, mua thêm tài liệu nên vừa đi học vừa đi
làm thêm.
+ Nhu cầu bao gồm nhu cầu bản năng và nhu cầu xã hội;
+ Nhu cầu được tổ chức theo một hệ thống cấu trúc, tạo thành xu hướng cá nhân;
+ Nhu cầu được củng cố trong quá trình thỏa mãn.
Cảm xúc
+ Cảm xúc gắn với sự thỏa mãn, hay không thỏa mãn nhu cầu cá nhân trong HĐ;
+ Cảm xúc có tác dụng củng cố, thúc đẩy hoặc kìm hãm động cơ;
+ Cảm xúc tiêu cực làm tăng sự căng thẳng của động dẫn tới tìm kiếm hoạt động mới thay thế; Cảm xúc tích
cực làm giảm sự căng thẳng của động cơ, có tác dụng kích thích, thúc đẩy hoạt động của cá nhân.
dụ: Sinh viên có cảm hứng trong nghiên cứu khoa học sẽ tích cực nghiên cứu, tìm tòi cái mới trong đề tài của
nhóm.
3.2.2. Các yếu tố bên ngoài
- Kích thích tính tích cực trong tâm lý cá nhân
- Tạo nên xu hướng của hoạt động
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
1. Trường Đại học Luật Nội, Giáo trình Tâm học đại cương, NXB Công an nhân dân, Nội, 2019,
ChươngIV, tr.71-98.
2. Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên). m lý học đại cương. NXB ĐH SP Hà Nội, 2014, Chương III, tr.42-49.
lOMoARcPSD| 58412604
VẤN ĐỀ 5. HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC
I. HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC CẢM TÍNH
1. CẢM GIÁC
1.1. Khái niệm về cảm giác
Trong cuốn sách tâm lý học của Mỹ, cảm giác là quá trình tiếp nhận thông tin của các cơ quan nhận cảm.
Theo các tài liệu tâm lý học đại cương do các tác giả Việt Nam biên soạn đã đưa ra định nghĩa cảm giác :
Cảm giác một quá trình tâm lí phản ánh một cách riêng lẻ từng thuộc tính bề ngoài của sự vật hiện
tượng khi chúng đang trực tiếp tác động vào giác quan của chúng ta.
Trong cuốn giáo trình do giảng viên trường Đại học Luật biên soạn, cảm giác được định nghĩa như sau :
Cảm giác quá trình nhận thức phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ, bề ngoài của sự vật hiện tượng trạng thái
bên trong của cơ thể khi chúng đang trực tiếp tác động vào giác quan của chúng ta.
1.2. Đặc điểm của cảm giác
Cảm giác có những đặc điểm cơ bản sau:
- Cảm giác là một quá trình tâm lý, nghĩa là nó có mở đầu, diễn biến kết thúc một cách cụ thể,
ràng.Cảm giác nảy sinh, diễn biến khimột kích thích trực tiếp tác động đến các giác quan (mắt, tai,...) và kích
thích ngừng tác động thì giác quan cũng ngừng hoạt động.
- Cảm giác chỉ phản ánh từng thuộc tính cụ thể của sự vật hiện tượng thông qua hoạt động của từng
giácquan riêng lẻ. Do vậy, cảm giác chưa phản ánh trọn vẹn, đầy đủ các thuộc tính của sự vật hiện tượng. Nghĩa là,
cảm giác mới chỉ cho ta từng cảm giác cụ thể, riêng lẻ về từng thuộc tính của vật kích thích. Mỗi kích thích tác
động vào cơ thể cho ta một cảm giác tương ứng.
- Cảm giác không chỉ phản ánh từng thuộc tính riêng lcủa sự vật hiện tượng còn phản ánh trạng
tháibên trong cơ thể.
- Cảm giác phản ánh sự vật hiện tượng một cách trực tiếp.
- Cảm giác của con người khác xa về chất so với cảm giác của con vật, điểm khác nhau bản
cảm giáccon người mang bản chất xã hội - lịch sử. Bản chất xã hội trong cảm giác của con người được thể hiện ở
chỗ:
+ Đối tượng phản ánh trong cảm giác của con người không chỉ là những thuộc tính của sự vật hiện tượng vốn
có sẵn trong tự nhiên mà còn phản ánh những thuộc tính của sự vật hiện tượng do con người sáng tạo ra thông qua
hoạt động và giao tiếp.
+ Cơ sở sinh lý của cảm giác của con người không chỉ phụ thuộc vào hệ thống tín hiệu thứ nhất mà còn chịu
sự chi phối của hệ thống tín hiệu thứ hai – hệ thống tín hiệu của ngôn ngữ.
+ Cảm giác của con người chỉ là mức độ định hướng đầu tiên đẳng nhất chứ không phải là cao nhất, duy
nhất như ở một số động vật. Cảm giác của con người chịu sự chi phối của nhiều hiện tượng tâm lý khác nhau của
con người như tư duy, tình cảm, hứng thú, nhu cầu,...
+ Cảm giác của con người được phát triển mạnh mẽ phong phú dưới ảnh hưởng của hoạt động giáo dục,
tức là cảm giác của con người được tạo ra theo phương thức đặc thù của xã hội, do đó mang đặc tính xã hội.
1.3. Các quy luật cơ bản của cảm giác
1.3.1. Quy luật về tính nhạy cảm và ngưỡng cảm giác
Tính nhạy cảm của cảm giác khả năng của các giác quan đảm nhận kích thích trực tiếp tác động đến
các giác quan đó.
Không phải mọi kích thích đều gây ra cảm giác, muốn gây ra cảm giác kích thích phải đạt tới một giới hạn
nhất định gọi là ngưỡng cảm giác.
lOMoARcPSD| 58412604
Ngưỡng cảm giác là giới hạn mà ở đó kích thích gây ra được cảm
giác. Ngưỡng cảm giác có 2 loại: Ngưỡng tuyệt đối và ngưỡng sai
biệt Trong ngưỡng tuyệt đối bao gồm:
- Ngưỡng tuyệt đối phía trên là cường độ kích thích tối đa vẫn gây cho ta cảm giác.
- Ngưỡng tuyệt đối phía dưới cường độ kích thích tối thiểu đủ gây cho ta cảm giác, tỷ lệ nghịch với
độnhạy cảm của cảm giác.
Giới hạn giữa ngưỡng phía dưới ngưỡng phía trên gọi vùng cảm giác (vùng phản ánh). Trong vùng cảm
giác có một vùng phản ánh tốt nhất.
Chẳng hạn: đối với cảm giác nhìn, ngưỡng tuyệt đối phía dưới của mắt bước sóng ánh sáng đạt 390
milimicron ngưỡng tuyệt đối phía trên 780 milimicron, vùng ánh sáng giúp mắt phản ánh tốt nhất 565
milimicoron. Đối với cảm giác nghe, bước sóng âm ở ngưỡng tuyệt đối phía dưới là 16 héc, ngưỡng tuyệt đối phía
trên là 20.000 héc, vùng tối ưu là 1000 héc.
Tính nhạy cảm của cảm giác có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với ngưỡng tuyệt đối phía dưới, tức ngưỡng cảm giác
phía dưới càng nhỏ thì tính nhạy cảm càng cao và ngược lại.
- Ngưỡng sai biệt: Đó là mức độ chênh lệch tối thiểu về cường đhoặc tính chất của hai kích thích cùng loại
đủđể cho ta phân biệt hai kích thích đó. Ngưỡng sai biệt là một hằng số. Cảm giác thị giác 1/100, thính giác là
1/10, cảm giác mạc giác là 1/30,...
dụ: Một vật nặng 1kg, phải thêm vào ít nhất là 33,3g nữa thì mới gây cảm giác về sự biến đổi trọng lượng
của nó.
Tính nhạy cảm sai biệt năng lực của giác quan thể nhận ra được ngưỡng sai biệt, khả năng phân biệt
được sự khác biệt tối thiểu giữa hai cường độ kích thích thuộc cùng một loại để tạo ra một loại cảm giác mới khác
với cảm giác ban đầu.
Ngưỡng sai biệt và tính sai biệt của cảm giác có mối quan hệ tỷ lệ nghịch. Ngưỡng sai biệt càng nhỏ thì tính sai
biệt càng lớn và ngược lại.
1.3.2. Quy luật về tính thích ứng của cảm giác
Để đảm bảo cho sự phản ánh được tốt nhất và đảm bảo cho hệ thần kinh khỏi bị huỷ hoại, cảm giác của con
người có khả năng thích ứng với kích thích. Đó là khả năng thay đổi độ nhạy cảm cho phù hợp với sự thay đổi của
cường độ kích thích.
Có nhiều kiểu thích ứng của cảm giác:
+ Cảm giác hoàn toàn mất đi khi quá trình kích thích kéo dài.
Ví dụ: Ít ai có cảm giác về sức nặng của đồng hồ đeo tay, kính đeo ở mắt, quần áo mặc trên người.
+ Khi cường độ kích thích tăng thì giảm độ nhạy cảm.
dụ: Từ chỗ tối bước qua chỗ sáng, phải qua một thời gian đợi cho tính nhạy cảm của khí quan phân tích giảm
xuống ta mới phân biệt được các vật chung quanh. Người lái máy bay bị đèn chiếu dọi vào mắt ít nhất cũng qua từ
3 đến 6 giây mới giảm được sự nhạy cảm để nhìn rõ con số trên đồng hồ.
+ Khi cường độ kích thích giảm thì độ nhạy cảm tăng.
Ví dụ: Từ nơi sáng bước vào bóng tối
Hai bàn tay, một ngâm vào nước nóng, một ngâm vào nước lạnh sau đó nhúng cả hai vào chậu nước bình
thường thì bàn tay ngâm ở châu nước cảm thấy nước ở chậu lạnh hơn so với bàn tay kia.
Mức độ thích ứng của các loại cảm giác khác nhau là không giống nhau. Khả năng thích ứng của các cảm
giác là do rèn luyện.
1.3.3. Quy luật về sự tác động lẫn nhau giữa các cảm giác
Sự tác động qua lại giữa c cảm giác sự thay đổi tính nhạy cảm của 1 cảm giác này dưới ảnh hưởng của
cảm giác kia. Sự tác động qua lại đó diễn ra theo một quy luật chung như sau: Kích thích yếu lên một quan phân
lOMoARcPSD| 58412604
tích này này sẽ làm tăng độ nhạy cảm của cơ quan phân tích kia. Kích thích mạnh lên một cơ quan phân tích này
sẽ làm giảm độ nhạy cảm của cơ quan phân tích kia.
Ví dụ: Những âm thanh nhẹ làm tăng thêm tính nhạy cảm nhìn
Một mùi thơm dễ chịu làm cho mắt ta nhìn tinh hơn
Lúc bệnh ăn gì cũng không cảm thấy ngon
Sự tác động qua lại giữa các cảm giác thể diễn ra đồng thời hay nối tiếp giữa các cảm giác cùng loại hay khác
loại.
Ví dụ: Sau một kích thích lạnh thì một kích thích ấm sẽ có vẻ nóng hơn- Đó là tương phản nối tiếp. Hoặc
tờ giấy xám trông nổi hơn khi đặt trên nền trắng so với nền màu đen, điều này ý nghĩa lớn trong hội họa, kiến
trúc khi phối các màu sắc với nhau.
2. TRI GIÁC
2.1. Khái niệm về tri giác
Ở quá trình cảm giác chỉ có thể phản ánh một cách riêng lẻ những thuộc tính bề ngoài của sự vật hiện tượng
những ở quá trình tri giác có thể phản ánh một cách trọn vẹn toàn bộ các thuộc tính bề ngoài của sự vật hiện tượng
(với quả quýt: hình dáng, độ lớn, độ trơn nhẵn, mùi, vị, màu sắc...).
Tri giác quá trình tâm phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính bề ngoài của sự vật hiện tượng khi
chúng trực tiếp tác động vào các giác quan của ta.
Phản ánh trọn vẹn trong quá trình tri giác phản ánh một số thuộc tính bề ngoài đủ để tạo nên một thể
thống nhất, một quan hệ nhất định, đủ để phân biệt sự vật hiện tượng này với sự vật hiện tượng khác.
2.2. Đặc điểm của tri giác
- Tri giác là một quá trình tâm lý phản ánh hiện thực khách quan một cách trực tiếp.
- Tri giác phản ánh hiện thực khách quan một cách trọn vẹn, cho ta hình ảnh hoàn chỉnh về sự vật
hiệntượng. Tính trọn vẹn của tri giác tính trọn vẹn khách quan của bản thân sự vật hiện tượng sự tác động
đồng bộ của các thuộc tính của sự vật hiện tượng tới các giác quan nhất định.
Sự vật hiện tượng tồn tại 1 cách khách quan với đầy đủ các thuộc tính, chúng cùng tác động lên các giác
quan của con người nên ở mức độ tri giác cho phép con người p/á 1 cách đầy đủ, trọn vẹn những thuộc tính đó.
dụ: Quả quýt: tồn tại các thuộc tính màu xanh pha vàng, vỏ nhẵn, hình tròn, vị chua ngọt, mùi thơm...
Nó được các giác quan tương ứng của con người cảm nhận là thị giác, xúc giác, vị giác, khứu giác... cho một hình
ảnh trọn vẹn về quả quýt.
- Tri giác phản ánh hiện thực khách quan một cách trực tiếp, nghĩa sự vật hiện tượng phải trực
tiếp tácđộng vào các giác quan của ta.
- Tri giác là thành phần chính của nhận thức cảm tính, tồn tại độc lập ở người trưởng thành.
Ở người trưởng thành quá trình tri giác còn chịu sự đan xen của nhiều yếu tố khác, như kinh nghiệm, xúc
cảm, tình cảm, hứng thú. Ví dụ:
Nhìn tập hợp các nét gạch đứt trên, con người vẫn thể
phản ánh đó là hình tam giác và hình tròn do đã có kinh nghiệm về các hình này. Sự trọn vẹn, đầy đủ về các thuộc
tính do tri giác mang lại không phải là sự cộng gộp đơn giản những cảm giác thành phần mà là kết quả do tri giác
phản ánh sự vật hiện tượng theo những cấu trúc nhất định.
Trong công tác điều tra, trinh sát cần thiết phải tri giác trọn vẹn sự vật hiện tượng trong một chỉnh thể thống
nhất đúng với hiện thực từ đó mới những sở kết luận đúng đắn cho công tác nghiệp vụ, tránh tình trạng
"thầy bói xem voi".
lOMoARcPSD| 58412604
2.3. Các quy luật cơ bản của tri giác
2.3.1. Quy luật về tính đối tượng của tri giác
+ Tính đối tượng của tri giác là gì?
Tính đối tượng của tri giác thể hiện tri giác được coi là một hoạt động và bao giờ cũng có một đối tượng nhất
định. Đối tượng đó nằm trong hiện thực khách quan.
Ví dụ: So sánh giữa việc chụp ảnh của máy ảnh và phán ánh sự vật hiện tượng của tri giác.
+ Để máy ảnh có thể chụp được một bức ảnh, cần phải có đối tượng chụp, đối tượng là cô gái, nhà cao tầng,
phong cảnh,... thì ảnh chụp cũng phản ánh đúng sự vật hiện tượng đã chụp.
+ Tri giác của con người cũng tương tự như vậy: Đã tri giác là phải tri giác một đối tượng nhất định. Chẳng
hạn: khi sinh viên tri giác bài giảng, họ nhìn và phản ánh những dòng chữ, nghe và phản ánh những âm thanh mà
giáo viên giảng... Giáo viên viết nói từ "Tri giác", sinh viên sẽ phản ánh từ "Tri giác" tiếng tri giác mà giáo
viên viết và nói.
+ Đặc điểm của tính có đối tượng
- Hình ảnh của tri giác vừa phải ánh những đặc điểm của đối tượng đồng thời vừa là hình ảnh chủ quan về
thếgiới khách quan. Thể hiện: Khi tri giác một sự vật hiện tượng nào đó, con người đưa vốn tri thức, vốn kinh
nghiệm riêng của mình vào hình ảnh tri giác.
- Đối tượng của tri giác được dần dần xuất hiện trong hoạt động, gắn với nhiệm vụ của cá nhân.
Ví dụ: Trong hoạt động trinh sát, trinh sát phải theo dõi đối tượng A xem anh ta gặp gỡ và quan hệ với những
ai, không phải tất cả những người mà đối tượng A sẽ gặp gỡ đều xuất hiện trong cùng một thời điểm mà hôm nay
anh A gặp một người, ngày mai anh mới gặp một người khác, và có thể đến một tuần sau đó mới tiếp tục gặp một
số người khác nữa, như vậy các đối tượng cần theo dõi cùng với anh A xuất hiện dần dần trong hoạt động. 2.3.2.
Quy luật về tính lựa chọn + Tính lựa chọn là gì?
Mỗi sự vật hiện tượng trong hiện thực khách quan thường xuất hiện đồng thời cùng với nhiều sự vật hiện
tượng khác, để tri giác được đầy đủ, trọn vẹn đối tượng, cần phải tách sự vật hiện tượng cần tri giác ra khỏi bối
cảnh xung quanh.
- Tính lựa chọn của tri giác thể hiện tính tích cực trong tri giác của con người nhằm tách đối tượng cần tri
giácra khỏi bối cảnh xung quanh để phản ánh.
Ví dụ: Bức tranh đa nghĩa
+ Đặc điểm của tính lựa chọn
- Tính lựa chọn của tri giác phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan (của vật kích thích) chủ quan (chủ
thể).
+ Nhóm các yếu tố khách quan bao gồm: đặc điểm của vật kích thích (cường độ, nhịp điệu hoạt động, độ chiếu
sáng, sự tương phản..), đặc điểm của các yếu tố bến ngoài (khoảng cách giữa đối tượng với người tri giác).
Ví dụ: Khi xem kịch, có lúc đèn trên sân khấu tắt hết chỉ để lại một đèn chiếu vào một nhân vật, do độ chiếu
sáng tập trung vào một nhân vật nên tất cả mọi người đều tri giác nhân vật đó.
+ Nhóm các yếu tố chủ quan bao gồm: Nhu cầu, hứng thú, tình cảm của con người...
Ví dụ 1: Xem vô tuyến, cùng một thời điểm, có hai thông tin: một về thời trang, hai là về bóng đá - đa số các
bạn nam đều tri giác tin về bóng đá, đa số các bạn nữ đều tri giác tin về thời trang... Do hứng thú chi phối.
lOMoARcPSD| 58412604
dụ 2: Trong hoạt động trinh sát, do nhiệm vụ của người trinh sát phải theo dõi tên A, mặc giữa phố
đông người rất nhiều điều chi phối nhưng những trinh sát vẫn chỉ tập trung
tri giác tên A.
- Sự lựa chọn tri giác không tính cố định, vai trò của đối tượng bốicảnh
có thể thay đổi cho nhau
Ví dụ : Bức tranh Lọ hoa - mặt người: Khi chọn lọ hoa (màu trắng) làm nền,
hai mặt người trở thành đối tượng tri giác; ngược lại, khi lựa chọn hai mặt người
(màu đen) làm nền thì lọ hoa lại trở thành đối tượng tri giác.
- Đối tượng tri giác càng nổi trong bối cảnh thì sự lựa chọn sẽ diễn ranhanh
hơn và ngược lại.
- Kinh nghiệm của chủ thể về loại đối tượng nào càng phong phú thì chủ
thểdễ chọn đối tượng đó làm đối tượng tri giác.
2.3.3. Quy luật về tính ý nghĩa
+ Tính có ý nghĩa của tri giác là gì?
Khi phản ánh trọn vẹn một sự vật hiện tượng, để phân biệt sự vật hiện tượng này với sự vật hiện tượng khác,
con người thường gọi tên sự vật hiện tượng theo đúng nghĩa của hoặc sắp sếp chúng vào mọt nhóm đối tượng
cùng loại để chỉ ra được công dụng, ý nghĩa của sự vật hiện tượng đó, đây là biểu hiện của tính có ý nghĩa của quá
trình tri giác.
- Tri giác của con người gắn với tư duy, với sự hiểu biết của bản chất của sự vật. Tri giác sự vật một cách có
ýnghĩa, nghĩa gọi tên, xếp loại sự vật hiện tượng theo nhóm, thấy được công dụng, chức năng, tính chất của
chúng.
+ Đặc điểm của tính có ý nghĩa của tri giác
- Tính có ý nghĩa của tri giác phụ thuộc vào khả năng tri giác trọn vẹn đối tượng. Thể hiện: càng phản ánh
đầyđủ các thuộc tính của đối tượng thì càng rõ ý nghĩa của đối tượng.
- Tính ý nghĩa của tri giác phụ thuộc vào vốn kinh nghiệm của chủ thể. Thể hiện: khi tri giác sự vật
hiệntượng, nhân thường hiểu ý nghĩa thông dụng của chúng, xếp loại, đặt tên của sự vật hiện tượng theo nhận
thức của cá nhân, cá nhân càng có vốn kinh nghiệm phong phú bao nhiêu thì việc hiểu ý nghĩa, xếp loại sự vật hiện
tượng càng nhanh bấy nhiêu. Ví dụ: Một số người dân tộc do không biết tên gọi của máy bay là gì nên thường gọi
máy bay là con chim sắt.
2.3.4. Quy luật về tính ổn định của tri giác
+ Tính ổn định của tri giác là gì?
Là khả năng phản ánh sự vật một cách không thay đổi khi điều kiện tri giác thay đổi.
dụ: Trên con đường dài, chiếc Taxi xuất hiện ngay trước mắt người đi đường h/ả của trên võng mạc
của mắt rất to, 1 chiếc ôtô vận tải xuất hiện phía xa, h/ả của nó trên võng mạc rất nhỏ, những nhờ tính ổn định của
tri giác, người đó vẫn phản ánh đúng hình dáng, kích thước của hai chiếc xe đó: xe ôtô vận tải to hơn chiếc xe Taxi.
+ Đặc điểm của tính ổn định của tri giác
- Tính ổn định của tri giác phụ thuộc vào cấu trúc của sự vật hiện tượng (bản thân sự vật hiện tượng).
Ví dụ 1: ở ví dụ nêu trên, tri giác vẫn phản ánh đúng kích thước của xe Taxi và xe Tải do trên thực tế xe Tải
có kích thước lớn hơn xe Taxi. Ví dụ 2: Do màu sắc của lá cây là màu xanh, dù ban ngày hay ban đêm, tri giác lá
cây, con người vẫn phản ánh lá cây màu xanh.
- Tính ổn định của tri giác phụ thuộc vào vốn tri thức, kinh nghiệm của nhân. (thể hiện: do nhân đã
cóhiểu biết về sự vật hiện tượng nên khi điều kiện tri giác có sự thay đổi, cá nhân vẫn phản ánh sự vật hiện tượng
theo hiểu biết của cá nhân)
Ví dụ 1: Do đã biết lá cây màu xanh nên tri giác trong điều kiện trời tối, hình ảnh được phản ánh trên não
nhân vẫn là lá cây màu xanh.
lOMoARcPSD| 58412604
- Tính ổn định của tri giác phụ thuộc vào cơ chế tự điều khiển của hệ thần kinh.
2.3.5. Quy luật về tính tổng giác của tri giác
Quy luật tổng giác của tri giác thể hiện, tri giác của con người không chỉ phụ thuộc vào đối tượng tri giác
còn phụ thuộc vào đs tâm lý và đặc điểm nhân cách của chủ thể tri giác: nhận thức, tình cảm, động cơ, nhu cầu...
Ví dụ: "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Hay “Cùng trong một tiếng tơ đồng
Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm"
Hoạn Thư Thúy Kiều không chỉ nghe tiếng đàn, hiểu nội dung của tiếng đàn theo nhận thức của mỗi người
mà còn tri giác nó dưới góc độ tình cảm của mỗi người.
TÀI LIỆU THAM KHẢO VẤN ĐỀ 5 (lý thuyết buổi 1)
1. Giáo trình tâm lý học đại cương, Trường ĐH Luât HN, Nxb. CAND, Hà Nội, 2019, Chương V (tr.99-112). 
2. Giáo trình tâm lý học đại cương, Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên), Nxb. ĐHSP, HN 2014, Chương IV (tr. 67-77).
lOMoARcPSD| 58412604
II. HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC LÝ TÍNH
1. TƯ DUY
1.1. Khái niệm về tư duy
Quan niệm của các nước phương tây: Tư duy là quá trình con người sử dụng bộ o một cách có ý thức để
hiểu về thế giới xung quanh và quyết định cách phản ứng cũng như nhằm cải tạo chúng.
Cách tiếp cận khái niệm duy phổ biến trong các giáo trình Tâm học đại cương: duy một quá
trình nhận thức phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ và quan hệ bên trong có tính quy luật của
các sự vật hiện tượng trong hiện thực khách quan mà trước đó cá nhân chưa biết.
- Phân tích định nghĩa:
+ Tư duy là một quá trình nhận thức - giống như các quá trình tâm lý khác: có mở đầu, diễn biến, kết thúc, có
các giai đoạn tương đối rõ ràng.
+ Tư duy một quá trình mới về chất so với cảm giác và tri giác. Tư duy phản ánh những thuộc tính bản chất,
những mối liên hệ và quan hệ bên trong, mang tính quy luật giữa các sự vật hiện tượng, phản ánh những cái mới.
- Thuộc tính bản chất những thuộc tính tương đối ổn định, tính chất quyết định sự tồn tại của sự vật
hiệntượng.
- Mối liên hệ bên trong tính quy luật... những mối liên hệ phổ biến bên trong và tất yếu, quy định sự
tồn tại của sự vật hiện tượng.
- duy phản ánh những cái mới - đó những cái trước đây nhân chưa biết, nhân muốn biết
nhữngbằng vốn tri thực kinh nghiệm cũ không thể tìm hiểu được, do đó tư duy là một hoạt động sáng tạo.
duy một quá trình nhận thức phức tạp, diễn ra qua các giai đoạn: Nhận
thức hoàn cảnh có vấn đề
Xuất hiện các liên tưởng
Sàng lọc các liên tưởng và hình thành giả thuyết
Kiểm tra giả thuyết
Chính xác hóa Khẳng định gỉa thuyết Phủ định giả thuyết
Giải quyết nhiệm vụ Hành động tư duy mới
- Xác định vấn đề và biểu đạt vấn đề: là giai đoạn cá nhân nhận thức hoàn cảnh có vấn đề xác định
những cái mới, những mâu thuẫn chứa đựng trong hoàn cảnh vấn đề đó, đồng thời biểu đạt chúng dưới dạng
những nhiệm vụ của quá trình tư duy.
- Xuất hiện liên tưởng: Là giai đoạn chủ thể huy động những kiến thức kinh nghiệm trên não, thiết
lập mối liên tưởng giữa vấn đề cần giải quyết với những kiến thức có liên quan.
- Sàng lọc liên tưởng và hình thành giả thuyết: Là giai đoạn chủ thể lựa chọn những tri thức những
liên tưởng phù hợp nhất với nhiệm vụ của duy từ đó hình thành những giả thuyết về cách giải quyết thể
đối với nhiệm vụ tư duy.
- Kiểm tra giả thuyết: giai đoạn chủ thể đối chiếu những giải thuyết đã đặt ra với các điều kiện
trong vấn đề. Kết quả kiểm tra sẽ dẫn đến sự khẳng định, phủ định hay chính xác hoá giả thuyết đã nêu. Nếu giả
thuyết bị phủ định lại diễn ra hành động tư duy mới.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58412604
VẤN ĐỀ 1. TÂM LÝ HỌC LÀ MỘT NGÀNH KHOA HỌC
1. BẢN CHẤT CỦA HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ
1.1. Định nghĩa hiện tượng tâm lý
Tâm lý học nghiên cứu các hiện tượng tâm lý người, vậy thực chất hiện tượng tâm lý người là gì?
Tâm lý bao gồm tất cả các hiện tượng tinh thần nảy ra trong đầu óc con người, chúng gắn liền với quá trình
điều hành, điểu khiển mọi hoạt động của con người.
Hiện tượng tâm lý là hiện tượng có cơ sở tự nhiên, là hoạt động thần kinh và hoạt động nội tiết, được nảy
sinh bằng hoạt động sống của từng người và gắn bó mật thiết với các quan hệ xã hội.
1.2. Tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan của não mang tính chủ thể và có bản chất xã hội lịch sử.
1.2.1. Tâm lý người là sự phản ảnh hiện thực khách quan của não
Tâm lý không có sẵn hay nói cách khác con người vừa mới sinh ra chưa có tâm lý, tâm lý không phải do
thượng đế sinh ra, cũng không phải do não tiết ra giống như gan tiết ra mật, khi hiện thực khách quan tác động vào
bộ não người, não tiếp nhận sự tác động đó và đưa ra phản ứng hay hiện thực khách quan tác động tới các giác
quan, tác động vào não để lại dấu vết trên vỏ não, những dấu vết đó là hình ảnh về hiện thực khách quan đó với các
mức độ phức tạp khác nhau, hay còn gọi là các hiện tượng tinh thần hay các hiện tượng tâm lý. Các hiện tượng tâm
lý từ đơn giản đến phức tạp đó chính là sản phẩm sau khi hiện thực khách quan tác động vào bộ não con người.
Một âm thanh, một bản nhạc, một con người, một màu sắc... tác động vào tai, vào mắt ta, có khi chỉ một
lần cũng để lại trong đầu những hình ảnh tương ứng. Hơn nữa những hình ảnh ấy không phải đơn giản, không phải
là một vật chất chết cứng như hình ảnh ở trong gương được tạo bởi quy luật quang học. Chúng ta có thể gợi lại, tạo
dựng lại, cải biên một loạt ấn tượng, suy tư, cảm nghĩ, thái độ.
Bất kỳ một sự vật hiện tượng nào tồn tại trong hiện thực khách quan cũng luôn tồn tại bằng các thuộc tính
không gian, thời gian và trong sự vận động, biến đổi của chúng. Phản ánh là thuộc tính chung của mọi sự vật hiện
tượng đang vận động. Nói một cách tổng quát: Phản ánh là quá trình tác động qua lại giữa hệ thống này và hệ thống
khác, kết quả là để lại dấu vết tác động ở cả hai hệ thống tác động và bị tác động. Chẳng hạn phản ánh cơ học, viên
phấn được dùng để viết lên bảng đen để lại dấu vết trên bảng, ngược lại bảng làm mòn viên phấn. Hay phản ánh
hoá học là: 2H2 + O2 = 2H2O
Phản ánh diễn ra từ đơn giản đến phức tạp và có sự chuyển hoá lẫn nhau: Từ phản ánh cơ, vật lý, hoá học,
sinh vật đến phản ánh xã hội, trong đó có phản ánh tâm lý.
* Phản ánh tâm lý là một phản ánh đặc biệt
Tâm lý người là sự phản ánh đặc biệt căn cứ vào những cơ sở sau:
+ Sự phản ánh tâm lý là sự tác động của hiện thực khách quan vào con người, vào hệ thần kinh, vào bộ não người
– cơ sở vật chất có tổ chức cao nhất. Chỉ có hệ thần kinh và bộ não con người mới có khả năng nhận tác động từ
hiện thực khách quan, tạo ra trên não hình ảnh tinh thần chứa đựng trong vết vật chất, đó là các quá trình sin lý,
sinh hoá ở trong hệ thần kinh và não bộ.
+ Phản ánh tâm lý chính là bản sao chép, sao chụp về thế giới hay đó chính là kết quả quá trình phản ánh thế giới
khách quan vào não. Hình ảnh tâm lý khác xa so với hình ảnh cơ, vật lý hay sinh vật ở chỗ:
* Thứ nhất: Hình ảnh tâm lý mang tính sinh động, sáng tạo.
Chẳng hạn: hình ảnh tâm lý về 1 con người trong đầu của một người biết nhận thức khác xa về chất với hình ảnh
vật lý có tính chất chết cứng của con người đó ở trong gương, hay tấm ảnh được chụp qua phương tiện là chiếc máy ảnh.
* Thứ hai: Hình ảnh tâm lý mang tính chủ thể, mang đậm màu sắc cá nhân, hay nói cách khác tâm lý là hình ảnhchủ
quan về thế giới khách quan. 2.2.2. Tâm lý người mang tính chủ thể lOMoAR cPSD| 58412604
Tính chủ thể thể hiện ở chỗ: mỗi chủ thể trong khi tạo ra hình ảnh tâm lý về thế giới đã đưa vốn hiểu biết, vốn kinh
nghiệm, khả năng, khí chất... của mình vào trong hình ảnh đó làm cho nó mang đậm những nét riêng của cá nhân
đó hay mang đậm màu sắc chủ quan. Hay nói khác đi, tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan thông qua “Lăng kính chủ quan”.
* Biểu hiện của tính chủ thể là:
+ Cùng xuất phát từ một hiện thực khách quan tác động vào não của mỗi chủ thể khác nhau sẽ tạo ra những hình
ảnh tâm lý với những mức độ, sắc thái khác nhau.
Chẳng hạn: một bài toán đưa ra cho một nhóm học sinh, học sinh này cho là khó, học sinh khác thì cho là
dễ hay ở mức độ trung bình. Điều này phụ thuộc vào vốn kiến thức toán học của các em, khả năng nhận thức của
các em hay năng khiếu, sở thích...
+ Xuất phát từ một hiện thực khách quan tác động vào một chủ thể nhưng lại ở nhiều thời điểm khác nhau,
ở những điều kiện hoàn cảnh khác nhau, với trạng thái cơ thể, tinh thần không giống nhau sẽ tạo ra mức độ biểu
hiện và các sắc thái tâm lý khác nhau ở bản thân chủ thể ấy.
Chẳng hạn: Ở lứa tuổi thanh niên, khi xem một bộ phim, ta sẽ đưa ra một nhận xét khác với bộ phim ấy
được phát lại sau 10 năm, lúc đó ta đang ở lứa tuổi người trung niên với bao thay đổi của thời cuộc. Hay khi ăn một
bát phở ta sẽ cảm thấy ngon miệng và sảng khoái hơn khi ta có sở thích về nó và lúc sức khoẻ tốt, vẫn là bát phở
do một người nấu nhưng lúc ta mệt mỏi hay gặp một sự trắc trở, vướng mắc nào đó trong cuộc sống ta sẽ cảm thấy
bát phở kém đi phần ngon nguyên vẹn của nó.
+ Chủ thể mang hình ảnh tâm lý là người cảm nhận và trải nghiệm nó rõ nhất. Chính xuất phát từ mức độ
hay sắc thái tâm lý khác nhau mà mỗi chủ thể có những cách phản ứng, hành vi ứng xử, hành động khác nhau trong
cuộc sống, trong các mối quan hệ xã hội hay với người khác.
+ Thông qua các mức độ và sắc thái tâm lý khác nhau mà mỗi chủ thể tỏ thái độ và hành vi khác nhau đối với hiện thực.
Ví dụ: Thực hiện chiến dịch bảo vệ môi trường hiện nay có nhiều ứng xử khác nhau ở các thế hệ, các lứa
tuổi, các cá nhân. Người trồng cây xanh, người vệ sinh nhà cửa, khu phố sạch sẽ, người tham gia cuộc hành trình
đi xe đạp,… Tuy nhiên, vẫn có có ít người vẫn vứt rác bừa bãi, chặt phá cây xanh,…
* Nguyên nhân tạo ra tính chủ thể trong tâm lý con người
Mỗi cá nhân sinh ra có những đặc điểm riêng về cơ thể hay khác nhau về cơ cấu di truyền, cấu tạo của hệ thần
kinh, bộ não. Hơn nữa, “mỗi cây mỗi hoa” - sống trong hoàn cảnh, điều kiện khác nhau, môi trường giáo dục khác
nhau và cơ bản là mỗi cá nhân thể hiện mức độ tích cực trong tính chủ thể thông qua hoạt động, giao lưu khác nhau.
Vì thế, tâm lý mỗi người không hoàn toàn giống người khác mà có những sắc thái rất riêng, điển hình cho cá nhân đó.
Tóm lại: Tâm lý người là hiện tượng tinh thần có nguồn gốc vật chất từ bên ngoài đó chính là hiện thực
khách quan. Hiện thực khách quan là yếu tố quy định nội dung tâm lý, còn bộ não là bộ máy phản ánh tạo nên tâm
lý con người. Hay hiện thực khách quan là điều kiện cần và não là điều kiện đủ làm nảy sinh tâm lý con người. Tâm
lý người là hình ảnh chủ quan về thể giới khách quan khi tác động vào não con người.
2.2.3. Tâm lý người mang bản chất xã hội lịch sử
Tâm lý người khác xa về chất so với tâm lý động vật. Bởi tâm lý con người được nảy sinh, hình thành và
biến đổi trong các mối quan hệ xã hội và chịu sự chi phối của các mối quan hệ xã hội đó. Thực chất tâm lý người
đó chính là quá trình biến những kinh nghiệm của lịch sử xã hội thành cái riêng, điển hình cho mỗi cá nhân.
Bản chất xã hội tính lịch sử của tâm lý người thể hiện như sau:
+ Tâm lý người có nguồn gốc là hiện thực khách quan, mà hiện thực khách quan bao gồm thế giới tự nhiên,
xã hội trong đó nguồn gốc xã hội là cái quyết định. lOMoAR cPSD| 58412604
Tâm lý người được hình thành từ các mối quan hệ xã hội từ mối quan hệ kinh tế, đạo đức, pháp quyền, các mối
quan hệ người - người từ quan hệ gia đình, bạn bè, làng xóm, nhóm, tập thể hay cộng đồng... các quan hệ trên quyết
định bản chất tâm lý người. Thực tế cho thấy con người thoát ly khỏi các mối quan hệ xã hội, quan hệ người - người
đều làm cho tâm lý người mất bản tính người.
+ Tâm lý người là sản phẩm của hoạt động và giao lưu của con người trong các mối QHXH.
Khi mỗi cá nhân tham gia vào bất kỳ một hoạt động nào đều phải là chủ thể biết nhận thức, chủ thể tích cực, chủ
động, sáng tạo trong hoạt động, giao lưu đó thì tâm lý sẽ nảy sinh và hình thành cũng như ngày một hoàn thiện ở
mức độ cao làm cho hoạt động mang lại hiệu quả tối ưu, cá nhân đó sẽ có một đời sống tâm lý phong phú và đa
dạng. Hay tâm lý con người được nảy sinh và phát triển là sản phẩm của cá nhân khi tham gia vào hoạt động với
tư cách là một chủ thể xã hội.
+ Tâm lý của mỗi cá nhân là kết quả của quá trình lĩnh hội, tiếp thu vốn kinh nghiệm xã hội, nền văn hoá
xã hội thông qua hoạt động, giao lưu.
+ Tâm lý của mỗi cá nhân hình thành, phát triển và biến đổi cùng với sự biến đổi của lịch sử cá nhân, lịch
sử dân tộc, cộng đồng, xã hội. Tâm lý người chịu sự chế ước bởi lịch sử cá nhân, cộng đồng và của xã hội.
Mối quan hệ xã hội của con người không tĩnh tại, không bất biến mà nó luôn vận động, biến đổi cùng quá trình lịch
sử cá nhân, cộng đồng và xã hội. Do đó, tâm lý người phải biến đổi theo sao cho phù hợp với điều kiện đang sống.
2. PHÂN LOẠI HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ
2.1. Căn cứ vào diễn biến của các hiện tượng tâm lý
Theo căn cứ này thì tâm lý người bao gồm ba loại sau: các quá trình tâm lý, các trạng thái tâm lý và các thuộc tính tâm lý.
Các quá trình tâm lý là các hiện tượng tâm lý diễn ra có mở đầu, diễn biến và kết thúc 1 cách rõ ràng, diễn
ra trong tgian ngắn. Các quá trình tâm lý bao gồm các quá trình nhận thức (cảm giác, tri giác, tư duy...), các quá
trình cảm xúc (biểu thị sự vui mừng hay tức giận, dễ chịu, khó chịu, nhiệt tình, thờ ơ...) và quá trình hành động ý chí.
Các trạng thái tâm lý là những hiện tượng tâm lý diễn ra với mở đầu, diễn biến và kết thúc một cách không
rõ ràng, không cụ thể và diễn ra trong thời gian tương đối dài (chú ý, tâm trạng...)
Các thuộc tính tâm lý là những hiện tượng tâm lý khó hình thành, khó mất đi và nó đc hình thành trong
thời gian lâu dài và phức tạp, chúng tạo thành những nét riêng của nhân cách (xu hướng, tính cách, khí chất, năng lực).
Các hiện tượng tâm lý thuộc cùng một thể loại hay ở một thể loại khác đều có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, chúng không tồn tại một cách biệt lập và tách rời nhau mà hiện tượng tâm lý này là cơ sở để nảy sinh hiện
tượng tâm lý khác và ngược lại.
2.2. Căn cứ vào sự tham gia của ý thức
Tâm lý cá được nảy sinh trong hoạt động, trong giao lưu và trong hoạt động, giao lưu muốn đạt hiệu quả
phải có sự tham gia của ý thức con người. Do đó, ý thức tham gia vào việc nảy sinh các hiện tượng tâm lý, nhưng
đôi khi có những hiện tượng tâm lý nảy sinh mà không có sự tham gia của ý thức. Theo căn cứ này thì tâm lý bao
gồm các loại sau: Hiện tượng tâm lý có ý thức (tình cảm, nhận thức, ý chí, thế giới quan, nhu cầu...) là các hiện
tượng tâm lý chủ đạo, các hiện tượng tâm lý vô thức mang tính chất bệnh lý (ảo giác, hoang tưởng, những hiện
tượng tâm lý xảy ra trong trạng thái ức chế, thôi miên, ngủ mê, hiện tượng trực giác - “vụt sáng”.
Như vậy, thế giới nội tâm hay đời sống tâm lý của con người vô cùng phong phú, phức tạp và đa dạng.
Tâm lý người có nhiều cấp độ, mức độ khác nhau, có quan hệ đan xen vào nhau và chuyển hoá cho nhau.
3. NHỮNG PHƯƠNG PHÁP CƠ BẢN CỦA TÂM LÝ HỌC lOMoAR cPSD| 58412604
3.1. Phương pháp quan sát
Một trong những phương pháp sử dụng phổ biến trong nghiên cứu tâm lý người là phương pháp quan sát. Phương
pháp quan sát là quá trình tri giác các hiện tượng tâm lý có tổ chức, có chủ định và có mục đích rõ rệt.
Đối tượng quan sát: Quan sát biểu hiện bên ngoài, thông qua đó để đoán biết những đặc điểm tâm lý bên trong. Có
thể quan sát nét mặt, cử động tay, chân, di chuyển cơ bản, tốc độ, phương hướng, chuyển động, sự va chạm của cá
nhân với các vật thể và người khác, nội dung của lời nói, thể hiện ở nguôn từ, ngữ điệu, âm điệu, cường độ của lời
nói, sử dụng định hướng, tần số của cử chỉ... kết hợp lại để xác định hành vi chung của con người.
Quan sát trong tâm lý học cũng tuân thủ những nguyên tắc chung cho bất kỳ quan sát khoa học nào. Đó là, phù hợp
với mục đích nghiên cứu, kế hoạch hóa và tiến hành quan sát tương tác giữa các cá nhân theo một sơ đồ nhất định,
diễn tả các hiện tượng và sự kiện mà chúng ta tri giác được bằng ngôn ngữ thích hợp sao cho người quan sát khác
hiểu được, lựa chọn các phương pháp quan sát và ghi lại tùy theo tính chất hoạt động của con người và khả năng
quan sát, kiểm tra tính khách quan và độ tin cậy của việc quan sát bằng những nhà nghiên cứu khác và những cách
nghiên cứu khác, cần phân biệt được ý nghĩa chủ quan của người quan sát và ý nghĩa chủ quan của hành động được quan sát.
E.C. Kuzơmin chỉ ra 3 yêu cầu có tính nguyên tắc để đảm bảo sử dụng thành công của phương pháp quan sát là:
- Xác định rõ ràng mục đích
- Xây dựng sơ đồ quan sát phù hợp: thiết kế bối cảnh sao cho nhận diện dễ dàng các phần tử được quan sát (mẫu,thời gian, không gian quan sát).
- Xây dựng phương pháp ghi lại thích hợp.
Việc xây dựng sơ đồ quan sát được tiến hành theo nguyên tắc sau:
- Trước hết, người ta quan sát bối cảnh ghi lại tất cả những điều xảy ra và sắp xếp theo các phạm trù nhánh. - Dựa
vào các giả thuyết hoặc từ một lý thuyết xác định các khía cạnh quan sát quan trọng và để xây dựng sơ đồ quan sát.
Quan sát có nhiều hình thức: trực tiếp, gián tiếp; quan sát bộ phận hay toàn diện; quan sát trọng điểm, quan
sát khách quan hay tự quan sát (theo yêu cầu khách quan),...
Phương pháp quan sát cho phép nhà nghiên cứu thu thập được các tài liệu cụ thể, khách quan trong các
điều kiện tự nhiên của con người. Tuy nhiên, phương pháp này tốn nhiều thời gian, công sức của nhà nghiên cứu.
3.2. Phương pháp đàm thoại
Phương pháp đàm thoại là cách đặt ra câu hỏi cho đối tượng và dựa vào trả lời của họ để trao đổi, hỏi thêm
nhằm thu thập những thông tin về vấn đề cần nghiên cứu.
Mục đích của đàm thoại: Hiểu được tâm trạng, cảm xúc, tính cách, khí chất, hứng thú, năng lực,... của con người.
Có thể đàm thoại trực tiếp hoặc gián tiếp tuỳ sự liên quan của đối tượng với điều cần biết, cần nghiên cứu.
Điều kiện để đàm thoại có kết quả:
+ Xác định rõ mục đích đàm thoại;
+ Tìm hiểu đặc điểm tâm lý của đối tượng trước khi đàm thoại;
+ Chủ động trong đàm thoại;
+ Tránh lối đặt câu hỏi kiểu vấn đáp, kiểu câu hỏi có thể dẫn đối tượng đến chỗ trả lời máy móc, có hoặc
không? Ví dụ: Bạn có thích môn tâm lý học không?
+ Có thể biến cuộc đàm thoại thành cuộc tranh luận khi cần thiết.
3.3. Phương pháp thực nghiệm
Phương pháp thực nghiệm là phương pháp mà trong đó nhà nghiên cứu chủ động tạo ra các hiện tượng mà
mình nghiên cứu sau khi đã tạo ra điều kiện cần thiết loại trừ yếu tố ngẫu nhiên. lOMoAR cPSD| 58412604
Có hai loại thực nghiệm cơ bản đó là: thực nghiệm tự nhiên và thực nghiệm trong phòng thí nghiệm. Thực
nghiệm tự nhiên là loại thực nghiệm dựa vào điều kiện hoạt động bình thường của đối tượng nghiên cứu, lợi dụng
hoàn cảnh sinh hoạt, học tập, công tác để thực hiện chương trình đã xác định.
Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm là loại thực nghiệm nhà nghiên cứu tạo ra những điều kiện để làm nảy sinh
hay phát triển một hiện tượng tâm lý nào đó để nghiên cứu. Chủ yếu là dựa vào dụng cụ thí nghiệm, máy móc đặc biệt.
Ví dụ dùng máy phát hiện nói dối qua chỉ số huyết áp, độ giãn đồng tử của mắt, nhịp tim.
Tuy nhiên dù là thực nghiệm tự nhiên hay thực nghiệm trong phòng thí nghiệm đều khó có thể khống chế hoàn toàn
ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan của người bị thực nghiệm vì thế phải tiến hành thực nghiệm qua một số lần và
kết hợp sử dụng các phương pháp khác.
3.4. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động của con người
Qua sản phẩm hoạt động, nhà nghiên cứu có thể biết được mức độ hiểu một vấn đề, cách suy nghĩ, xúc
cảm, kỹ năng, kỹ xảo, tài nghệ, sở thích, thậm chí cả tính nết, quan điểm của người đó.
Đây là phương pháp dựa vào kết quả, sản phẩm vật chất hoặc tinh thần của hoạt động do con người làm ra
để nghiên cứu các chức năng tâm lý của con người đó. Trong sản phẩm chứa đựng “dấu vết” tâm lý, ý thức, nhân
cách của con người. Cần chú ý rằng sản phẩm của hoạt động cần phải được xem xét trong điều kiện tiến hành hoạt
động mới đảm bảo độ khách quan trong nghiên cứu.
3.5. Phương pháp điều tra
Phương pháp điều tra bảng hỏi là phương pháp dùng một số câu hỏi nhất loạt đặt ra cho một số lớn đối
tượng nghiên cứu nhằm thu thập ý kiến chủ quan về một vấn đề nào đó. Có thể trả lời viết hoặc trả lời miệng và có người ghi lại.
Có thể dùng điều tra để thăm dò chung hoặc điều tra chuyên đề đi sâu vào một số khía cạnh. Câu hỏi có
thể dùng điều tra dưới dạng câu hỏi đóng hoặc mở.
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi có ưu điểm là nó cho phép tiến hành nghiên cứu trên một địa bàn rộng,
nhiều người tham gia như vậy có thể thu thập được ý kiến của một số lượng lớn nghiệm viên. Bằng phương pháp
này cũng cho phép thu được thông tin về nhiều sự kiện khác nhau. Điều tra bằng bảng hỏi có thể dùng để làm chính
xác thêm, mở rộng thêm và kiểm tra những số liệu thu được bằng phương pháp khác cũng như bằng các hình thức điều tra ý kiến khác.
3.6. Phương pháp trắc nghiệm (Test)
Trắc nghiệm là một hệ thống biện pháp được chuẩn hoá về mặt kỹ thuật, được quy định nội dung và cách
làm nhằm chẩn đoán tâm lý.
Trắc nghiệm tâm lý được sử dụng chủ yếu trong chẩn đoán tâm lý con người. Trắc nghiệm trọn bộ gồm 4
phần: văn bản Test; hướng dẫn qui trình tiến hành; hướng dẫn đánh giá; bản chuẩn hóa.
Trắc nghiệm có khả năng làm cho hiện tượng tâm lý cần đo được trực tiếp bộc lộ qua hành động giải bài
tập test. Có khả năng tiến hành nhanh, tương đối đơn giản bằng giấy, bút, tranh vẽ. Có khả năng lượng hóa, chuẩn
hóa hiện tượng tâm lý cần đo. Tuy nhiên, khó soạn thảo một bộ test chuẩn hóa; Test chủ yếu cho ta kết quả, ít bộc
lộ quá trình suy nghĩ của nghiệm thể đi đến kết quả.
3.7. Phương pháp nghiên cứu trường hợp (Case study)
Nghiên cứu trường hợp là tìm hiểu sâu về một một cá nhân hoặc một nhóm ít người. Phương pháp này cho
phép mô tả sâu chân dung những khách thể nghiên cứu để làm rõ hơn vấn đề dưới nhiều góc độ khác nhau, phát
hiện ra những khía cạnh đặc biệt trong tâm lý người hoặc minh họa cho những kết quả thu được từ những phương pháp nghiên cứu khác. lOMoAR cPSD| 58412604
TÀI LIỆU THAM KHẢO VẤN ĐỀ 1
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tâm lý học đại cương, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2019, Chương I, tr.5-32.
2. Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên). Tâm lý học đại cương. NXB Đại học Sư phạm Hà Nội, 2014, Chương I, tr.7-27.
VẤN ĐỀ 2. Ý THỨC VÀ VÔ THỨC 1. Ý THỨC
1.1. Khái niệm ý thức
Theo nghĩa rộng: ý thức là tinh thần, tư tưởng (ý thức kỷ luật, ý thức tổ chức, ý thức trách nhiệm...) theo nghĩa
hẹp ý thức là một cấp độ đặc biệt trong tâm lý con người.
Ý thức là năng lực hiểu được các tri thức về thế giới khách quan mà con người tiếp thu được và năng lực hiểu
được thế giới chủ quan trong chính bản thân mình nhờ đó con người có thể cải tạo được thế giới khách quan và
hoàn thiện bản thân mình.

Nếu cảm giác, tri giác, tư duy đem lại cho ta hình ảnh tâm lý (tri thức, hiểu biết về sự vật hiện tượng tồn tại
trong hiện thực khách quan) thì ý thức là năng lực hiểu biết, đánh giá các hình ảnh ấy, các tri thức ấy, hiểu biết ấy.
+ Ý thức là sự phản ánh của phản ánh, hiểu biết của hiểu biết; tri thức về tri thức;
+ Ý thức là sự nhận thức về thế giới chủ quan: phân tích, hiểu rõ mình là người như thế nào? Hành động đúng sai
của bản thân, cần làm gì?... đó là tự ý thức.
1.2. Đặc điểm của ý thức
+ Là khả năng nhận thức cao nhất của con người về thế giới khách quan;
+ Thể hiện thái độ của con người đối với hiện thực;
+ Thể hiện chức năng điều khiển, điều chỉnh hành vi của con người;
+ Có khả năng tự nhận thức, tự xác định thái độ và tự điều chỉnh hành vi, tự hoàn thiện mình.
1.3. Cấu trúc của ý thức -
Mặt nhận thức: Các quá trình nhận thức cảm tính là tầng bậc thấp nhưng nó là cơ sở, nền tảng của ý thức,
nómang lại tài liệu đầu tiên cho ý thức. Nhận thức cảm tính giúp con người phản ánh những thuộc tính bề ngoài
của sự vật hiện tượng. Các quá trình nhận thức lý tính là hạt nhân của ý thức, nó đem lại cho con người những hiểu
biết bản chất, khái quát về thực tại khách quan. Nhận thức lý tính giúp cho con người hình dung ra trước kết quả
của hoạt động và hoạch định kế hoạch hành vi cá nhân.
Ví dụ: Khi tham gia giao thông đường bộ, bằng nhận thức cảm tính (bằng giác quan nhìn) quan sát tín hiệu đèn
hoặc hướng dẫn của cảnh sát giao thông để định hướng hành vi di chuyển hay dừng lại theo đúng quy định. Mặt
khác, bằng khả năng nhận thức của tư duy về vấn đề an toàn khi tham gia giao thông, dự báo những tình huống xấu
có thể xảy ra giúp cá nhân điều khiển hành vi của mình một cách an toàn, hiệu quả. -
Mặt thái độ: Nói lên thái độ lựa chọn, thái độ cảm xúc, thái độ đánh giá của chủ thể đối với thế giới. Thái
độđược thể hiện chân thực, đúng lúc, đúng chỗ là động lực, điều kiện thuận lợi cho tiến hành công việc đạt kết quả cao hơn.
Ví dụ: Sinh viên có thái độ nghiêm túc khi thực hiện thời gian biểu đã lập để đạt được mục tiêu học tập của
học kỳ hay của năm học, không thờ ơ, dễ dãi với bản thân làm cản trở mục tiêu đã định. Kiềm chế những ham
muốn, nhu cầu nhất thời để vượt mọi khó khăn trong học tập để lập nghiệp sau này. -
Mặt năng động của ý thức: Là khả năng điều khiển, điều chỉnh hoạt động của con người làm cho hoạt
độngđạt kết quả cao. Đó là quá trình con người vận dụng những hiểu biết của mình và tỏ thái độ của mình nhằm
thích nghi, cải tạo thế giới, cải tạo chính bản thân. lOMoAR cPSD| 58412604
Ví dụ: Sinh viên xác định nguyên nhân chính dẫn đến kết quả học tập của họ kém như lười học, phương pháp
học tập chưa phù hợp,... từ đó giúp họ định hướng các biện pháp khắc phục như cần chuyên tâm học tập, thay đổi phương pháp học,...
Ngoài ba mặt cơ bản trên cấu thành nên cấu trúc ý thức, nhu cầu, động cơ, hứng thú... đều có vị trí nhất định
trong cấu trúc của ý thức.
Nhờ có ý thức mà đã mang lại cho con người một thế giới tâm hồn phong phú, làm cho cuộc sống của mỗi cá
nhân có ý nghĩa cho chính bản thân mình và cho mọi người, cho xã hội. 2. VÔ THỨC
2.1. Định nghĩa vô thức
Trong cuộc sống ta thường gặp những hiện tượng tâm lý diễn ra mà cá nhân chưa nhận thức được. Hiện tượng
tâm lý không ý thức được, chưa nhận thức được trong tâm lý học gọi là vô thức.
Vô thức là tập hợp những hiện tượng, những hành vi mà chủ thể không có nhận thức, không tỏ được thái độ và
không thể thực hiện được sự kiểm tra có chú ý đối với chúng.
Ví dụ: Người mộng du vừa đi vừa ngủ trên mái nhà, dây điện; người bị bệnh tâm thần; người say rượu, người bị
thôi miên,... họ không nhận thức được mình đang làm gì tức là họ đang rơi vào trạng thái vô thức.
Vô thức có đặc điểm sau:
Cá nhân không nhận thức được hiện tượng tâm lý, các hành vi, cảm nghĩ của mình, không diễn đạt được
bằng ngôn ngữ cho mình và cho người khác hiểu. Vì vậy vô thức không kèm theo sự dự kiến trước, không có chủ
đích. Sự xuất hiện hành vi vô thức thường đột ngột, bất ngờ nảy sinh trong thời gian ngắn.
2.2. Các hiện tượng vô thức
+ Vô thức ở tầng bản năng: bản năng dinh dưỡng, tự vệ,...
+ Hiện tượng lóe sáng: hiện tượng bất chợt con người nhận ra nó; + Hiện tượng linh cảm;
+ Tiềm thức: ban đầu có ý thức, do lặp đi lặp lại, không cần sự xuất hiện của ý thức: Kỹ năng, kỹ xảo, thói quen,...
Tiềm thức chỉ đạo tư duy, hành động tới mức không cần ý thức tham gia.
+ Tiền ý thức: trước khi ý thức xuất hiện;
+ Ức chế thần kinh: mộng du, mơ, bị thôi miên,...
2.3. Mối quan hệ giữa ý thức và vô thức
Giữa ý thức và vô thức có mối quan hệ chặt chẽ và phức tạp vừa xung đột, kiềm chế, vừa bổ sung hỗ trợ, chuyển hóa cho nhau.
+ Ý thức kiểm duyệt, kiềm chế hành vi được thúc đẩy bởi các động cơ vô thức
+ Ý thức có thể biểu hiện thông qua vô thức
+ Chúng có thể chuyển hóa cho nhau
+ Tương quan giữa ý thức và vô thức biến đổi trong cuộc đời của của con người
+ Chúng không tồn tại một ranh giới rõ ràng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO VẤN ĐỀ 2
1. Giáo trình tâm lý học đại cương, Trường Đại học Luât Ḥ à Nôi, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2019, Chương ̣ II (tr.33-54).
2. Giáo trình tâm lý học đại cương, Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên), Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội 2014, Chương III (tr. 56-65). lOMoAR cPSD| 58412604 VẤN ĐỀ 3. CHÚ Ý 1. KHÁI NIỆM CHÚ Ý
Trong môi trường xung quanh luôn có vô vàn sự vật tác động vào nhưng chúng ta không thể quan tâm hết tất cả sự
vật trong cùng một lúc. Con người phải chọn lựa, biết tập trung và quan tâm vào các đối tượng có liên quan đến
những nhiệm vụ, những hoạt động cần phải tiến hành. Hiện tượng này được gọi là chú ý.
Chú ý là sự tập trung của hoạt động tâm lý vào một hoặc một số đối tượng nào đó, nhằm phản ánh chúng một cách
đầy đủ, rõ ràng nhất.
Chú ý là sự tập trung của ý thức vào một hay một nhóm sự vật, hiện tượng, để định hướng hoạt động, đảm bảo điều
kiện thần kinh - tâm lý cần thiết cho hoạt động tiến hành có hiệu quả.
2. CÁC THUỘC TÍNH CỦA CHÚ Ý
2.1. Tính khối lượng của chú ý
Khối lượng của chú ý được đo bằng số lượng đối tượng mà chú ý hướng tới trong thời gian ngắn
Khối lượng của chú ý là khối lượng của đối tượng có thể được tri giác cùng một lúc với mức độ rõ ràng và rành
mạch như nhau tại một thời điểm nhất định.
2.2. Sự phân phối chú ý
Sự phân phối chú ý là khả năng có thể chú ý đồng thời tới một số đối tượng.
Sự phân phối chú ý bộc lộ khả năng trong cùng một lúc chú ý đầy đủ đến nhiều đối tượng hay nhiều hoạt động khác
nhau một cách có chủ định. Các đối tượng chính được chú ý nhiều hơn những đối tượng khác chứ không phải là
phân chia chú ý một cách đồng đều cho mọi đối tượng hoạt động. Sự phân phối chú ý không có mâu thuẫn với sức
tập trung chú ý vì trong phân phối chú ý cũng có sự tập trung chú ý vào hoạt động mới. Ví dụ : Sinh viên vừa nghe nhạc vừa làm bài tập.
2.3. Sức tập trung của chú ý
Ở một thời điểm, con người có khả năng tách một số đối tượng cần thiết ra khỏi vô vàn các đối tượng khác để chú
ý sâu vào đối tượng đã chọn. Chẳng hạn như học sinh có thể tập trung vào việc viết bài mà không nhận ra tiếng
chuyển động của đồng hồ quả lắc vẫn vang đều.
Tập trung chú ý là khả năng hướng và tập trung cao độ hoạt động tâm lý vào một số đối tượng cần thiết của hành động.
Sức tập trung của chú ý là khả năng chú ý đến một phạm vi đối tượng hẹp cần thiết cho hoạt động ở thời điểm đó
nhằm phản ánh đối tượng tốt nhất. Sức tập trung của chú ý khiến con người bị “hút” vào đối tượng, nhờ đó tập
trung cao độ dẫn đến hiệu quả trong công việc tốt hơn.
Ví dụ : Sinh viên tập trung nghe giảng không bị ảnh hưởng bởi điện thoại, hay các vấn đề xung quanh.
2.4. Tính bền vững của chú ý
Tính bền vững của chú ý được thể hiện ở khả năng duy trì lâu dài chú ý tới một hoặc một số đối tượng.
Ngược với sự bền vững chú ý là sự phân tán chú ý, sự phân tán chú ý diễn ra theo chu kỳ, xen kẽ giữa sự bền vững
và phân tán chú ý gọi là sự dao động chú ý. Tính bền vững của chú ý không mâu thuẫn với sức tập trung chú ý và
sự di chuyển của chú ý. Đặc điểm cá nhân, điều kiện khách quan của hoạt động chi phối đến sự bền vững của chú ý.
2.5. Sự di chuyển chú ý
Sự di chuyển chú ý khả năng dịch chuyển từ đối tượng này sang đối tượng khác một cách có chủ định.
Sự di chuyển chú ý không mâu thuẫn với độ bền vững của chú ý và cũng không phải là phân tán chú ý. Nó
được di chuyển từ đối tượng này sang đối tượng khác một cách có ý thức và khi chuyển sang đối tượng chú ý mới
thì chú ý được tập trung với cường độ cao. Ví dụ; Sinh viên tranh thủ trao đổi về công việc của lớp trong giờ ra
chơi nhưng vào ca học mới họ phải chuyển sang chú ý bài học. lOMoAR cPSD| 58412604
Những thuộc tính cơ bản trên của chú ý đều có vai trò nhất định đối với hoạt động của con người. Mỗi thuộc
tính đều có thể giữ vai trò tích cực hoặc không tích cực. Tuy nhiên, giữa chúng lại có quan hệ bổ sung cho nhau,
khắc phục cho nhau nếu biết sử dụng, phối hợp các đặc điểm ấy thì hoạt động sẽ được tiến hành một cách hiệu quả. 3. PHÂN LOẠI CHÚ Ý
3.1. Căn cứ vào tính tích cực của con người trong việc tổ chức chú ý
3.1.1. Chú ý không chủ định

Là sự tập trung hoạt động tâm lý lên một đối tượng nhất định khi có sự tác động kích thích của đối tượng đó.
Chú ý không chủ định có thể xuất hiện tùy thuộc vào một số đặc điểm của kích thích: -
Độ mới lạ của kích thích: Vật kích thích càng mới, càng dễ ra chú ý không chủ định; ngược lại, vật kích
thíchcàng rập khuôn bao nhiêu thì càng mau mất chú ý không chủ định bấy nhiêu. -
Cường độ kích thích: Kích thích càng mạnh thì dễ tạo ra chú ý không chủ định, nhưng kích thích quá mạnh
sẽ tạora phản ứng ngược, chú ý sẽ bị ức chế. Tuy nhiên, chú ý phụ thuộc vào cường độ kích thích chỉ mang tính
chất tương đối. Bởi vì chú ý còn chịu ảnh hưởng của các hiện tượng tâm lý và sinh lý khác, như hứng thú, nhu cầu, xúc cảm. -
Độ hấp dẫn của vật kích thích: Đặc điểm này tổng hợp của hai đặc điểm trên thể hiện ở mức độ phù hợpvới
người bị tác động, gây ra sự tò mò, thích thú, thu hút sự chú ý của người đó. - Sự bắt đầu hoặc kết thúc một kích thích.
3.1.2. Chú ý có chủ định
Chú ý có chủ định là sự điều chỉnh một cách có ý thức sự tập trung hoạt động tâm lý lên một đối tượng nào
đó nhằm đáp ứng yêu cầu của hoạt động.
Chú ý có chủ định là loại chú ý có mục đích tự giác, có biện pháp để hướng chú ý vào đối tượng, đòi hỏi một
sự nỗ lực nhất định. Chú ý có chủ định không tùy thuộc vào đối tượng mới lạ hay quen thuộc, có cường độ kích
thích mạnh hay yếu, hấp dẫn hay không hấp dẫn, ta tập trung vào đối tượng hay sự vật để tiến hành một hoạt động
tương ứng theo một động cơ nhất định, bao gồm các hành động nhằm vào một mục đích nhất định.
Chú ý có chủ định có những đặc điểm cơ bản sau:
- Có mục đích tự giác, có kế hoạch biện pháp để chú ý.
- Có liên quan chặt chẽ với hệ thống tín hiệu thứ hai, tình cảm, hứng thú của cá nhân. - Tính bền vững cao.
- Đòi hỏi sự nỗ lực ý chí nhất định của chủ thể để khắc phục những trở ngại bên ngoài hoặc bên trong củachủ thể.
Chú ý có chủ định đóng vai trò rất quan trọng trong các quá trình nhận thức, nó là nền tảng đề quá trình
nhận thức, nó giúp cung cấp các dữ kiện một cách hợp lý và chính xác để nhận thức có thể đạt được hiệu quả tối
ưu. Mặt hạn chế của chú ý có chủ định là nếu chú ý lâu sẽ tính ra mệt mỏi, căng thẳng thần kinh, giảm hứng thú hoạt động.
3.1.3 Chú ý sau chủ định
Là sự tập trung hoạt động tâm lý đến một đối tượng mà đối tượng đó có ý nghĩa nhất định đối với cá nhân.
Chú ý sau chủ định thật chất là chú ý có chủ định nhưng không đòi hỏi sự căng thẳng về ý chí, con người bị
cuốn hút vào nội dung và phương thức hoạt động bởi sự hấp dẫn của đối tượng tới mức không cần sự cố gắng, sự
căng thẳng thần kinh và sự nỗ lực của ý chí.
Ba loại chú ý trên có liên quan với nhau, có thể mở đầu bằng chú ý không chủ định, rồi tiếp theo là chú ý có
chủ định và có thể kết thúc là chú ý sau chủ định. Mỗi loại đều giữ một vai trò nhất định trong hoạt động của con
người, trong đó chú ý sau chủ định là loại chú ý cần hình thành trong hoạt động nhận thức của con người. 3.2. Căn
cứ vào đối tượng mà chú ý hướng tới
lOMoAR cPSD| 58412604
3.2.1. Chú ý bên ngoài
Là loại chú ý hướng vào các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan. Là loại chú ý đòi hỏi phải sử dụng
các giác quan (thị giác, thính giác,...)
Ví dụ người tham gia giao thông chú ý tín hiệu đèn giao thông để điều khiển phương tiện đúng quy định.
Đối tượng gây ra chú ý bên ngoài:
+ Các kích thích có cường độ mạnh như âm thanh mạnh, ánh sáng chói, mùi khó chịu...
+ Các kích thíc có sự mới lạ
+ Đặc biệt trật tự sắp xếp, cấu tạo của kích thích.
3.2.2. Chú ý bên trong
Chú ý bên trong: Là loại chú ý mà ở đó hoạt động tâm lý cá nhân hướng vào hành động, suy nghĩ, thế giới
nội tâm và ý thức bản ngã của cá nhân đó.
+ Đối tượng của chú ý bên trong: cảm xúc, hồi tưởng, suy nghĩ, tư duy, ... của cá nhân.
+ Chú ý bên trong chỉ có ở con người.
Ví dụ: Anh A suy nghĩ về cách cư xử của mình với hàng xóm trong giải quyết mâu thuẫn ngày hôm qua.
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tâm lý học đại cương, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2019, Chương III, tr.55-70.
2. Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên). Tâm lý học đại cương. NXB ĐH SP Hà Nội, 2014, Chương III, tr.61-63. lOMoAR cPSD| 58412604
VẤN ĐỀ 4. HOẠT ĐỘNG 1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1.1. Khái niệm hoạt động
Hoạt động là sự tác động qua lại có định hướng giữa con người và thế giới xung quanh, hướng tới biến
đổi nó nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình.
Hoạt động diễn ra 2 quá trình: *
Quá trình thứ nhất là quá trình đối tượng hoá, trong đó chủ thể chuyển những cái của mình thành sản phẩm
của hoạt động. Nói một cách khác, tâm lý (tri thức, hiểu biết, kỹ năng, kỹ xảo,...) của cá nhân được bộc lộ, được
khách quan hóa trong quá trình làm ra sản phẩm. Quá trình đối tượng hoá còn có thể gọi là quá trình xuất tâm. *
Quá trình thứ hai là quá trình chủ thể hoá, có nghĩa là khi hoạt động con người biến những cái từ bên
ngoàiHTKQ thành những cái của chủ thể. Trong hoạt động, cá nhân khám phá ra bản chất, quy luật của đối tượng,
tìm ra được các kỹ năng, kỹ xảo cần thiết để tác động đến đối tượng. Tất cả những cái đó cá nhân lĩnh hội, tái tạo
và biến chúng thành cái của chủ thể. Quá trình chủ thể hoá còn có thể gọi là quá trình nhập tâm.
Như vậy, tâm lý, ý thức, nhân cách con người được bộc lộ, thể hiện và hình thành cũng như phát triển, biến
đổi thông qua hoạt động. 1.2. Khái niệm hành động
2.1. Định nghĩa hành động
Hành động là một bộ phận cấu thành hoàn chỉnh của hoạt động, hướng tới đạt được mục đích cụ thể.
+ Là đơn vị của Hoạt động
+ Một hành động có cấu tạo đầy đủ: động cơ, mục đích, thao tác và sản phẩm
+ Hành động nhằm thực hiện một nhiệm vụ, mục đích nhất định
+ Hành động thể hiện tính tích cực bên ngoài (tích cực vận động) và bên trong (tích cực tâm lý) và giữa chúng có
mối quan hệ mật thiết.
2.2. Cấu trúc của hành động 3. Hành vi
Theo thuyết hành vi (Wattson, 1913): Hành vi là tổng hợp các phản ứng của cơ thể trước các kích thích của môi
trường bên ngoài, theo công thức S – R (có kích thích thì có phản ứng không liên quan gì đến ý thức và chuẩn mực xã hội ).
Theo TLH hiện đại, Rubinstein, Leonchiev,... Hành vi được hiểu là hành động, hoạt động được chuyển thành hành
vi khi động lực của hoạt động từ bình diện đối tượng chuyển sang quan hệ cá nhân- xã hội. lOMoAR cPSD| 58412604
Hành vi là xử sự của con người trong một hoàn cảnh cụ thể, biểu hiện ra bên ngoài bằng lời nói, cử chỉ, việc làm nhất định.
+ Hành vi gắn với kỹ thuật – xử sự của cá nhân
+ Hành vi gắn với nội dung xã hội nhất định - cách xử sự (cách cư xử).
Cách xử sự là hành vi thể hiện quan điểm, thái độ của chủ thể đối với người khác, với xã hội, với các chuẩn
mực đạo đức của xã hội.
2. CẤU TRÚC CỦA HOẠT ĐỘNG
Khi bàn đến cấu trúc của hoạt động lại có nhiều quan niệm khác nhau, ở đây ta xem xét cấu trúc khá toàn
diện của nhà tâm lý học Liên Xô - A.N.Leonchiev đưa ra. Ông đã nêu lên cấu trúc vĩ mô của hoạt động bao gồm 6
thành tố và mối quan hệ giữa 6 thành tố này.
Theo quan niệm của ông, khi tiến hành hoạt động có 3 thành tố về phía chủ thể và mối quan hệ giữa 3 thành
tố này là: hoạt động, hành động và thao tác. Ba thành tố này trực thuộc mặt thao tác kỹ thuật của hoạt động. Còn
về phía khách thể gồm 3 thành tố và mối quan hệ giữa chúng đó là: động cơ, mục đích và phương tiện, 3 thành tố
này tạo nên nội dung đối tượng của hoạt động. Nói cụ thể hơn là hoạt động hợp bởi các hành động, các hành động
diễn ra bằng một chuỗi các thao tác. Hoạt động luôn luôn hướng vào động cơ, đó là mục đích chung, mục đích cuối
cùng của hoạt động. Mục đích chung của hoạt động được cụ thể hoá bằng những mục đích cụ thể (bộ phận) mà
hành động hướng vào. Để đạt được mục đích con người phải sử dụng các phương tiện. Tuỳ theo các phương tiện,
điều kiện mà con người tiến hành hành động đạt mục đích, hay hành động thực hiện được nhờ các thao tác. Sự tác
động qua lại giữa chủ thể và khách thể, giữa đơn vị thao tác kỹ thuật với nội dung đối tượng của hoạt động tạo ra
sản phẩm của hoạt động cả về phái chủ thể và phía khách thể. Chủ thể Khách thể Hoạt động Động cơ Hành động Mục đích Thao tác Phương tiện Sản phẩm
Sơ đồ cấu trúc tâm lý của hoạt động
Các thành tố trong cấu trúc của hoạt động có mối quan hệ mật thiết với nhau tạo thành cấu trúc chung, thống nhất,
tạo điều kiện cho hoạt động có kết quả, là cơ sở nảy sinh và phát triển tâm lý - ý thức con người.
3. QUÁ TRÌNH ĐỘNG CƠ HÓA 3.1. Định nghĩa
Quá trình biến động lực thành động cơ gọi là quá trình động cơ hóa
3.2. Các yếu tố trong quá trình động cơ hóa
3.2.1. Các yếu tố bên trong • Nhu cầu:
+ Là yếu tố quan trọng nhất;
+ Là nguyên nhân bên trong của mọi hành vi cá nhân; lOMoAR cPSD| 58412604
Ví đụ: Sinh viên có nhu cầu tài chính để giảm bớt khó khăn cho gia đình, mua thêm tài liệu nên vừa đi học vừa đi làm thêm.
+ Nhu cầu bao gồm nhu cầu bản năng và nhu cầu xã hội;
+ Nhu cầu được tổ chức theo một hệ thống cấu trúc, tạo thành xu hướng cá nhân;
+ Nhu cầu được củng cố trong quá trình thỏa mãn. • Cảm xúc
+ Cảm xúc gắn với sự thỏa mãn, hay không thỏa mãn nhu cầu cá nhân trong HĐ;
+ Cảm xúc có tác dụng củng cố, thúc đẩy hoặc kìm hãm động cơ;
+ Cảm xúc tiêu cực làm tăng sự căng thẳng của động cơ dẫn tới tìm kiếm hoạt động mới thay thế; Cảm xúc tích
cực làm giảm sự căng thẳng của động cơ, có tác dụng kích thích, thúc đẩy hoạt động của cá nhân.
Ví dụ: Sinh viên có cảm hứng trong nghiên cứu khoa học sẽ tích cực nghiên cứu, tìm tòi cái mới trong đề tài của nhóm.
3.2.2. Các yếu tố bên ngoài
- Kích thích tính tích cực trong tâm lý cá nhân
- Tạo nên xu hướng của hoạt động
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tâm lý học đại cương, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2019, ChươngIV, tr.71-98.
2. Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên). Tâm lý học đại cương. NXB ĐH SP Hà Nội, 2014, Chương III, tr.42-49. lOMoAR cPSD| 58412604
VẤN ĐỀ 5. HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC
I. HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC CẢM TÍNH 1. CẢM GIÁC
1.1. Khái niệm về cảm giác
Trong cuốn sách tâm lý học của Mỹ, cảm giác là quá trình tiếp nhận thông tin của các cơ quan nhận cảm.
Theo các tài liệu tâm lý học đại cương do các tác giả Việt Nam biên soạn đã đưa ra định nghĩa cảm giác :
Cảm giác là một quá trình tâm lí phản ánh một cách riêng lẻ từng thuộc tính bề ngoài của sự vật hiện
tượng khi chúng đang trực tiếp tác động vào giác quan của chúng ta.
Trong cuốn giáo trình do giảng viên trường Đại học Luật biên soạn, cảm giác được định nghĩa như sau :
Cảm giác là quá trình nhận thức phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ, bề ngoài của sự vật hiện tượng và trạng thái
bên trong của cơ thể khi chúng đang trực tiếp tác động vào giác quan của chúng ta.

1.2. Đặc điểm của cảm giác
Cảm giác có những đặc điểm cơ bản sau: -
Cảm giác là một quá trình tâm lý, nghĩa là nó có mở đầu, diễn biến và kết thúc một cách cụ thể, rõ
ràng.Cảm giác nảy sinh, diễn biến khi có một kích thích trực tiếp tác động đến các giác quan (mắt, tai,...) và kích
thích ngừng tác động thì giác quan cũng ngừng hoạt động. -
Cảm giác chỉ phản ánh từng thuộc tính cụ thể của sự vật hiện tượng thông qua hoạt động của từng
giácquan riêng lẻ. Do vậy, cảm giác chưa phản ánh trọn vẹn, đầy đủ các thuộc tính của sự vật hiện tượng. Nghĩa là,
cảm giác mới chỉ cho ta từng cảm giác cụ thể, riêng lẻ về từng thuộc tính của vật kích thích. Mỗi kích thích tác
động vào cơ thể cho ta một cảm giác tương ứng. -
Cảm giác không chỉ phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật hiện tượng mà còn phản ánh trạng tháibên trong cơ thể. -
Cảm giác phản ánh sự vật hiện tượng một cách trực tiếp. -
Cảm giác của con người khác xa về chất so với cảm giác của con vật, điểm khác nhau cơ bản là
cảm giáccon người mang bản chất xã hội - lịch sử. Bản chất xã hội trong cảm giác của con người được thể hiện ở chỗ:
+ Đối tượng phản ánh trong cảm giác của con người không chỉ là những thuộc tính của sự vật hiện tượng vốn
có sẵn trong tự nhiên mà còn phản ánh những thuộc tính của sự vật hiện tượng do con người sáng tạo ra thông qua
hoạt động và giao tiếp.
+ Cơ sở sinh lý của cảm giác của con người không chỉ phụ thuộc vào hệ thống tín hiệu thứ nhất mà còn chịu
sự chi phối của hệ thống tín hiệu thứ hai – hệ thống tín hiệu của ngôn ngữ.
+ Cảm giác của con người chỉ là mức độ định hướng đầu tiên sơ đẳng nhất chứ không phải là cao nhất, duy
nhất như ở một số động vật. Cảm giác của con người chịu sự chi phối của nhiều hiện tượng tâm lý khác nhau của
con người như tư duy, tình cảm, hứng thú, nhu cầu,...
+ Cảm giác của con người được phát triển mạnh mẽ và phong phú dưới ảnh hưởng của hoạt động và giáo dục,
tức là cảm giác của con người được tạo ra theo phương thức đặc thù của xã hội, do đó mang đặc tính xã hội.
1.3. Các quy luật cơ bản của cảm giác
1.3.1. Quy luật về tính nhạy cảm và ngưỡng cảm giác

Tính nhạy cảm của cảm giác là khả năng của các giác quan đảm nhận kích thích trực tiếp tác động đến các giác quan đó.
Không phải mọi kích thích đều gây ra cảm giác, muốn gây ra cảm giác kích thích phải đạt tới một giới hạn
nhất định gọi là ngưỡng cảm giác. lOMoAR cPSD| 58412604
Ngưỡng cảm giác là giới hạn mà ở đó kích thích gây ra được cảm
giác. Ngưỡng cảm giác có 2 loại: Ngưỡng tuyệt đối và ngưỡng sai
biệt Trong ngưỡng tuyệt đối bao gồm: -
Ngưỡng tuyệt đối phía trên là cường độ kích thích tối đa vẫn gây cho ta cảm giác. -
Ngưỡng tuyệt đối phía dưới là cường độ kích thích tối thiểu đủ gây cho ta cảm giác, nó tỷ lệ nghịch với
độnhạy cảm của cảm giác.
Giới hạn giữa ngưỡng phía dưới và ngưỡng phía trên gọi là vùng cảm giác (vùng phản ánh). Trong vùng cảm
giác có một vùng phản ánh tốt nhất.
Chẳng hạn: đối với cảm giác nhìn, ngưỡng tuyệt đối phía dưới của mắt là bước sóng ánh sáng đạt 390
milimicron và ngưỡng tuyệt đối phía trên là 780 milimicron, vùng ánh sáng giúp mắt phản ánh tốt nhất là 565
milimicoron. Đối với cảm giác nghe, bước sóng âm ở ngưỡng tuyệt đối phía dưới là 16 héc, ngưỡng tuyệt đối phía
trên là 20.000 héc, vùng tối ưu là 1000 héc.
Tính nhạy cảm của cảm giác có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với ngưỡng tuyệt đối phía dưới, tức ngưỡng cảm giác
phía dưới càng nhỏ thì tính nhạy cảm càng cao và ngược lại. -
Ngưỡng sai biệt: Đó là mức độ chênh lệch tối thiểu về cường độ hoặc tính chất của hai kích thích cùng loại
đủđể cho ta phân biệt hai kích thích đó. Ngưỡng sai biệt là một hằng số. Cảm giác thị giác là 1/100, thính giác là
1/10, cảm giác mạc giác là 1/30,...
Ví dụ: Một vật nặng 1kg, phải thêm vào ít nhất là 33,3g nữa thì mới gây cảm giác về sự biến đổi trọng lượng của nó.
Tính nhạy cảm sai biệt là năng lực của giác quan có thể nhận ra được ngưỡng sai biệt, là khả năng phân biệt
được sự khác biệt tối thiểu giữa hai cường độ kích thích thuộc cùng một loại để tạo ra một loại cảm giác mới khác với cảm giác ban đầu.
Ngưỡng sai biệt và tính sai biệt của cảm giác có mối quan hệ tỷ lệ nghịch. Ngưỡng sai biệt càng nhỏ thì tính sai
biệt càng lớn và ngược lại.
1.3.2. Quy luật về tính thích ứng của cảm giác
Để đảm bảo cho sự phản ánh được tốt nhất và đảm bảo cho hệ thần kinh khỏi bị huỷ hoại, cảm giác của con
người có khả năng thích ứng với kích thích. Đó là khả năng thay đổi độ nhạy cảm cho phù hợp với sự thay đổi của
cường độ kích thích
.
Có nhiều kiểu thích ứng của cảm giác:
+ Cảm giác hoàn toàn mất đi khi quá trình kích thích kéo dài.
Ví dụ: Ít ai có cảm giác về sức nặng của đồng hồ đeo tay, kính đeo ở mắt, quần áo mặc trên người.
+ Khi cường độ kích thích tăng thì giảm độ nhạy cảm.
Ví dụ: Từ chỗ tối bước qua chỗ sáng, phải qua một thời gian đợi cho tính nhạy cảm của khí quan phân tích giảm
xuống ta mới phân biệt được các vật chung quanh. Người lái máy bay bị đèn chiếu dọi vào mắt ít nhất cũng qua từ
3 đến 6 giây mới giảm được sự nhạy cảm để nhìn rõ con số trên đồng hồ.
+ Khi cường độ kích thích giảm thì độ nhạy cảm tăng.
Ví dụ: Từ nơi sáng bước vào bóng tối
Hai bàn tay, một ngâm vào nước nóng, một ngâm vào nước lạnh sau đó nhúng cả hai vào chậu nước bình
thường thì bàn tay ngâm ở châu nước cảm thấy nước ở chậu lạnh hơn so với bàn tay kia.
Mức độ thích ứng của các loại cảm giác khác nhau là không giống nhau. Khả năng thích ứng của các cảm giác là do rèn luyện.
1.3.3. Quy luật về sự tác động lẫn nhau giữa các cảm giác
Sự tác động qua lại giữa các cảm giác là sự thay đổi tính nhạy cảm của 1 cảm giác này dưới ảnh hưởng của
cảm giác kia. Sự tác động qua lại đó diễn ra theo một quy luật chung như sau: Kích thích yếu lên một cơ quan phân lOMoAR cPSD| 58412604
tích này này sẽ làm tăng độ nhạy cảm của cơ quan phân tích kia. Kích thích mạnh lên một cơ quan phân tích này
sẽ làm giảm độ nhạy cảm của cơ quan phân tích kia.

Ví dụ: Những âm thanh nhẹ làm tăng thêm tính nhạy cảm nhìn
Một mùi thơm dễ chịu làm cho mắt ta nhìn tinh hơn
Lúc bệnh ăn gì cũng không cảm thấy ngon
Sự tác động qua lại giữa các cảm giác có thể diễn ra đồng thời hay nối tiếp giữa các cảm giác cùng loại hay khác loại.
Ví dụ: Sau một kích thích lạnh thì một kích thích ấm sẽ có vẻ nóng hơn- Đó là tương phản nối tiếp. Hoặc
tờ giấy xám trông nổi hơn khi đặt trên nền trắng so với nền màu đen, điều này có ý nghĩa lớn trong hội họa, kiến
trúc khi phối các màu sắc với nhau. 2. TRI GIÁC
2.1. Khái niệm về tri giác
Ở quá trình cảm giác chỉ có thể phản ánh một cách riêng lẻ những thuộc tính bề ngoài của sự vật hiện tượng
những ở quá trình tri giác có thể phản ánh một cách trọn vẹn toàn bộ các thuộc tính bề ngoài của sự vật hiện tượng
(với quả quýt: hình dáng, độ lớn, độ trơn nhẵn, mùi, vị, màu sắc...).
Tri giác là quá trình tâm lý phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính bề ngoài của sự vật hiện tượng khi
chúng trực tiếp tác động vào các giác quan của ta.
Phản ánh trọn vẹn trong quá trình tri giác là phản ánh một số thuộc tính bề ngoài đủ để tạo nên một thể
thống nhất, một quan hệ nhất định, đủ để phân biệt sự vật hiện tượng này với sự vật hiện tượng khác.
2.2. Đặc điểm của tri giác -
Tri giác là một quá trình tâm lý phản ánh hiện thực khách quan một cách trực tiếp. -
Tri giác phản ánh hiện thực khách quan một cách trọn vẹn, cho ta hình ảnh hoàn chỉnh về sự vật
hiệntượng. Tính trọn vẹn của tri giác là tính trọn vẹn khách quan của bản thân sự vật hiện tượng và sự tác động
đồng bộ của các thuộc tính của sự vật hiện tượng tới các giác quan nhất định.
Sự vật hiện tượng tồn tại 1 cách khách quan với đầy đủ các thuộc tính, chúng cùng tác động lên các giác
quan của con người nên ở mức độ tri giác cho phép con người p/á 1 cách đầy đủ, trọn vẹn những thuộc tính đó.
Ví dụ: Quả quýt: tồn tại các thuộc tính là màu xanh pha vàng, vỏ nhẵn, hình tròn, vị chua ngọt, mùi thơm...
Nó được các giác quan tương ứng của con người cảm nhận là thị giác, xúc giác, vị giác, khứu giác... cho một hình
ảnh trọn vẹn về quả quýt. -
Tri giác phản ánh hiện thực khách quan một cách trực tiếp, nghĩa là sự vật hiện tượng phải trực
tiếp tácđộng vào các giác quan của ta. -
Tri giác là thành phần chính của nhận thức cảm tính, tồn tại độc lập ở người trưởng thành.
Ở người trưởng thành quá trình tri giác còn chịu sự đan xen của nhiều yếu tố khác, như kinh nghiệm, xúc
cảm, tình cảm, hứng thú. Ví dụ: Nhìn tập hợp các
nét gạch đứt trên, con người vẫn có thể
phản ánh đó là hình tam giác và hình tròn do đã có kinh nghiệm về các hình này. Sự trọn vẹn, đầy đủ về các thuộc
tính do tri giác mang lại không phải là sự cộng gộp đơn giản những cảm giác thành phần mà là kết quả do tri giác
phản ánh sự vật hiện tượng theo những cấu trúc nhất định.
Trong công tác điều tra, trinh sát cần thiết phải tri giác trọn vẹn sự vật hiện tượng trong một chỉnh thể thống
nhất đúng với hiện thực từ đó mới có những cơ sở và kết luận đúng đắn cho công tác nghiệp vụ, tránh tình trạng "thầy bói xem voi". lOMoAR cPSD| 58412604
2.3. Các quy luật cơ bản của tri giác
2.3.1. Quy luật về tính đối tượng của tri giác

+ Tính đối tượng của tri giác là gì?
Tính đối tượng của tri giác thể hiện tri giác được coi là một hoạt động và bao giờ cũng có một đối tượng nhất
định. Đối tượng đó nằm trong hiện thực khách quan.
Ví dụ: So sánh giữa việc chụp ảnh của máy ảnh và phán ánh sự vật hiện tượng của tri giác.
+ Để máy ảnh có thể chụp được một bức ảnh, cần phải có đối tượng chụp, đối tượng là cô gái, nhà cao tầng,
phong cảnh,... thì ảnh chụp cũng phản ánh đúng sự vật hiện tượng đã chụp.
+ Tri giác của con người cũng tương tự như vậy: Đã tri giác là phải tri giác một đối tượng nhất định. Chẳng
hạn: khi sinh viên tri giác bài giảng, họ nhìn và phản ánh những dòng chữ, nghe và phản ánh những âm thanh mà
giáo viên giảng... Giáo viên viết và nói từ "Tri giác", sinh viên sẽ phản ánh từ "Tri giác" và tiếng tri giác mà giáo viên viết và nói.
+ Đặc điểm của tính có đối tượng
- Hình ảnh của tri giác vừa phải ánh những đặc điểm của đối tượng đồng thời vừa là hình ảnh chủ quan về
thếgiới khách quan. Thể hiện: Khi tri giác một sự vật hiện tượng nào đó, con người đưa vốn tri thức, vốn kinh
nghiệm riêng của mình vào hình ảnh tri giác.
- Đối tượng của tri giác được dần dần xuất hiện trong hoạt động, gắn với nhiệm vụ của cá nhân.
Ví dụ: Trong hoạt động trinh sát, trinh sát phải theo dõi đối tượng A xem anh ta gặp gỡ và quan hệ với những
ai, không phải tất cả những người mà đối tượng A sẽ gặp gỡ đều xuất hiện trong cùng một thời điểm mà hôm nay
anh A gặp một người, ngày mai anh mới gặp một người khác, và có thể đến một tuần sau đó mới tiếp tục gặp một
số người khác nữa, như vậy các đối tượng cần theo dõi cùng với anh A xuất hiện dần dần trong hoạt động. 2.3.2.
Quy luật về tính lựa chọn
+ Tính lựa chọn là gì?
Mỗi sự vật hiện tượng trong hiện thực khách quan thường xuất hiện đồng thời cùng với nhiều sự vật hiện
tượng khác, để tri giác được đầy đủ, trọn vẹn đối tượng, cần phải tách sự vật hiện tượng cần tri giác ra khỏi bối cảnh xung quanh.
- Tính lựa chọn của tri giác thể hiện tính tích cực trong tri giác của con người nhằm tách đối tượng cần tri
giácra khỏi bối cảnh xung quanh để phản ánh.
Ví dụ: Bức tranh đa nghĩa
+ Đặc điểm của tính lựa chọn
- Tính lựa chọn của tri giác phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan (của vật kích thích) và chủ quan (chủ thể).
+ Nhóm các yếu tố khách quan bao gồm: đặc điểm của vật kích thích (cường độ, nhịp điệu hoạt động, độ chiếu
sáng, sự tương phản..), đặc điểm của các yếu tố bến ngoài (khoảng cách giữa đối tượng với người tri giác).
Ví dụ: Khi xem kịch, có lúc đèn trên sân khấu tắt hết chỉ để lại một đèn chiếu vào một nhân vật, do độ chiếu
sáng tập trung vào một nhân vật nên tất cả mọi người đều tri giác nhân vật đó.
+ Nhóm các yếu tố chủ quan bao gồm: Nhu cầu, hứng thú, tình cảm của con người...
Ví dụ 1: Xem vô tuyến, cùng một thời điểm, có hai thông tin: một về thời trang, hai là về bóng đá - đa số các
bạn nam đều tri giác tin về bóng đá, đa số các bạn nữ đều tri giác tin về thời trang... Do hứng thú chi phối. lOMoAR cPSD| 58412604
Ví dụ 2: Trong hoạt động trinh sát, do nhiệm vụ của người trinh sát là phải theo dõi tên A, mặc dù giữa phố
xá đông người và rất nhiều điều chi phối nhưng những trinh sát vẫn chỉ tập trung tri giác tên A.
- Sự lựa chọn tri giác không có tính cố định, vai trò của đối tượng và bốicảnh
có thể thay đổi cho nhau
Ví dụ : Bức tranh Lọ hoa - mặt người: Khi chọn lọ hoa (màu trắng) làm nền,
hai mặt người trở thành đối tượng tri giác; ngược lại, khi lựa chọn hai mặt người
(màu đen) làm nền thì lọ hoa lại trở thành đối tượng tri giác.
- Đối tượng tri giác càng nổi rõ trong bối cảnh thì sự lựa chọn sẽ diễn ranhanh hơn và ngược lại.
- Kinh nghiệm của chủ thể về loại đối tượng nào càng phong phú thì chủ
thểdễ chọn đối tượng đó làm đối tượng tri giác.
2.3.3. Quy luật về tính ý nghĩa
+ Tính có ý nghĩa của tri giác là gì?
Khi phản ánh trọn vẹn một sự vật hiện tượng, để phân biệt sự vật hiện tượng này với sự vật hiện tượng khác,
con người thường gọi tên sự vật hiện tượng theo đúng nghĩa của nó hoặc sắp sếp chúng vào mọt nhóm đối tượng
cùng loại để chỉ ra được công dụng, ý nghĩa của sự vật hiện tượng đó, đây là biểu hiện của tính có ý nghĩa của quá trình tri giác.
- Tri giác của con người gắn với tư duy, với sự hiểu biết của bản chất của sự vật. Tri giác sự vật một cách có
ýnghĩa, có nghĩa gọi tên, xếp loại sự vật hiện tượng theo nhóm, thấy được công dụng, chức năng, tính chất của chúng.
+ Đặc điểm của tính có ý nghĩa của tri giác
- Tính có ý nghĩa của tri giác phụ thuộc vào khả năng tri giác trọn vẹn đối tượng. Thể hiện: càng phản ánh
đầyđủ các thuộc tính của đối tượng thì càng rõ ý nghĩa của đối tượng.
- Tính có ý nghĩa của tri giác phụ thuộc vào vốn kinh nghiệm của chủ thể. Thể hiện: khi tri giác sự vật
hiệntượng, cá nhân thường hiểu ý nghĩa thông dụng của chúng, xếp loại, đặt tên của sự vật hiện tượng theo nhận
thức của cá nhân, cá nhân càng có vốn kinh nghiệm phong phú bao nhiêu thì việc hiểu ý nghĩa, xếp loại sự vật hiện
tượng càng nhanh bấy nhiêu. Ví dụ: Một số người dân tộc do không biết tên gọi của máy bay là gì nên thường gọi máy bay là con chim sắt.
2.3.4. Quy luật về tính ổn định của tri giác
+ Tính ổn định của tri giác là gì?
Là khả năng phản ánh sự vật một cách không thay đổi khi điều kiện tri giác thay đổi.
Ví dụ: Trên con đường dài, chiếc Taxi xuất hiện ngay trước mắt người đi đường – h/ả của nó trên võng mạc
của mắt rất to, 1 chiếc ôtô vận tải xuất hiện phía xa, h/ả của nó trên võng mạc rất nhỏ, những nhờ tính ổn định của
tri giác, người đó vẫn phản ánh đúng hình dáng, kích thước của hai chiếc xe đó: xe ôtô vận tải to hơn chiếc xe Taxi.
+ Đặc điểm của tính ổn định của tri giác
- Tính ổn định của tri giác phụ thuộc vào cấu trúc của sự vật hiện tượng (bản thân sự vật hiện tượng).
Ví dụ 1: ở ví dụ nêu trên, tri giác vẫn phản ánh đúng kích thước của xe Taxi và xe Tải do trên thực tế xe Tải
có kích thước lớn hơn xe Taxi. Ví dụ 2: Do màu sắc của lá cây là màu xanh, dù ban ngày hay ban đêm, tri giác lá
cây, con người vẫn phản ánh lá cây màu xanh.
- Tính ổn định của tri giác phụ thuộc vào vốn tri thức, kinh nghiệm của cá nhân. (thể hiện: do cá nhân đã
cóhiểu biết về sự vật hiện tượng nên khi điều kiện tri giác có sự thay đổi, cá nhân vẫn phản ánh sự vật hiện tượng
theo hiểu biết của cá nhân)
Ví dụ 1: Do đã biết lá cây màu xanh nên tri giác trong điều kiện trời tối, hình ảnh được phản ánh trên não cá
nhân vẫn là lá cây màu xanh. lOMoAR cPSD| 58412604
- Tính ổn định của tri giác phụ thuộc vào cơ chế tự điều khiển của hệ thần kinh.
2.3.5. Quy luật về tính tổng giác của tri giác
Quy luật tổng giác của tri giác thể hiện, tri giác của con người không chỉ phụ thuộc vào đối tượng tri giác mà
còn phụ thuộc vào đs tâm lý và đặc điểm nhân cách của chủ thể tri giác: nhận thức, tình cảm, động cơ, nhu cầu... Ví dụ:
"Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” Hay
“Cùng trong một tiếng tơ đồng
Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm"
Hoạn Thư và Thúy Kiều không chỉ nghe tiếng đàn, hiểu nội dung của tiếng đàn theo nhận thức của mỗi người
mà còn tri giác nó dưới góc độ tình cảm của mỗi người.
TÀI LIỆU THAM KHẢO VẤN ĐỀ 5 (lý thuyết buổi 1)
1. Giáo trình tâm lý học đại cương, Trường ĐH Luât HN, Nxb. CAND, Hà Nội, 2019, Chương V (tr.99-112). ̣
2. Giáo trình tâm lý học đại cương, Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên), Nxb. ĐHSP, HN 2014, Chương IV (tr. 67-77). lOMoAR cPSD| 58412604
II. HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC LÝ TÍNH 1. TƯ DUY
1.1. Khái niệm về tư duy
Quan niệm của các nước phương tây: Tư duy là quá trình con người sử dụng bộ não một cách có ý thức để
hiểu về thế giới xung quanh và quyết định cách phản ứng cũng như nhằm cải tạo chúng.
Cách tiếp cận khái niệm tư duy phổ biến trong các giáo trình Tâm lý học đại cương: Tư duy là một quá
trình nhận thức phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ và quan hệ bên trong có tính quy luật của
các sự vật hiện tượng trong hiện thực khách quan mà trước đó cá nhân chưa biết
. - Phân tích định nghĩa:
+ Tư duy là một quá trình nhận thức - giống như các quá trình tâm lý khác: có mở đầu, diễn biến, kết thúc, có
các giai đoạn tương đối rõ ràng.
+ Tư duy là một quá trình mới về chất so với cảm giác và tri giác. Tư duy phản ánh những thuộc tính bản chất,
những mối liên hệ và quan hệ bên trong, mang tính quy luật giữa các sự vật hiện tượng, phản ánh những cái mới.
- Thuộc tính bản chất là những thuộc tính tương đối ổn định, có tính chất quyết định sự tồn tại của sự vật hiệntượng.
- Mối liên hệ bên trong có tính quy luật... là những mối liên hệ phổ biến bên trong và tất yếu, quy định sự
tồn tại của sự vật hiện tượng.
- Tư duy phản ánh những cái mới - đó là những cái mà trước đây cá nhân chưa biết, cá nhân muốn biết
nhữngbằng vốn tri thực kinh nghiệm cũ không thể tìm hiểu được, do đó tư duy là một hoạt động sáng tạo.
Tư duy là một quá trình nhận thức phức tạp, diễn ra qua các giai đoạn: Nhận
thức hoàn cảnh có vấn đề
Xuất hiện các liên tưởng
Sàng lọc các liên tưởng và hình thành giả thuyết Kiểm tra giả thuyết
Chính xác hóa Khẳng định gỉa thuyết Phủ định giả thuyết
Giải quyết nhiệm vụ Hành động tư duy mới -
Xác định vấn đề và biểu đạt vấn đề: là giai đoạn cá nhân nhận thức hoàn cảnh có vấn đề xác định
những cái mới, những mâu thuẫn chứa đựng trong hoàn cảnh có vấn đề đó, đồng thời biểu đạt chúng dưới dạng
những nhiệm vụ của quá trình tư duy. -
Xuất hiện liên tưởng: Là giai đoạn chủ thể huy động những kiến thức kinh nghiệm trên não, thiết
lập mối liên tưởng giữa vấn đề cần giải quyết với những kiến thức có liên quan. -
Sàng lọc liên tưởng và hình thành giả thuyết: Là giai đoạn chủ thể lựa chọn những tri thức những
liên tưởng phù hợp nhất với nhiệm vụ của tư duy từ đó hình thành những giả thuyết về cách giải quyết có thể có
đối với nhiệm vụ tư duy. -
Kiểm tra giả thuyết: Là giai đoạn chủ thể đối chiếu những giải thuyết đã đặt ra với các điều kiện
trong vấn đề. Kết quả kiểm tra sẽ dẫn đến sự khẳng định, phủ định hay chính xác hoá giả thuyết đã nêu. Nếu giả
thuyết bị phủ định lại diễn ra hành động tư duy mới.