lOMoARcPSD| 45734214
CÔNG PHÁP QUỐC TẾ Giáo trình Luật Quốc tế 2016 – Đại học luật Hà Nội Công
ước Montevideo 1933 về quyền và nghĩa vụ của các quốc gia
Hiến chương Liên hợp quốc
Công ước Viên 1961 về quan hệ ngoại giao
Công ước Viên 1963 về quan hệ lãnh sự
Công ước Viên 1969 về luật điều ước quốc tế
Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982 4 tội được coi là tội phạm quốc tế:
- Tội phạm xâm lược - Tội phạm chiến tranh - Tội diệt chủng - Tội phạm xâm
phạm loài người VẤN ĐỀ 1: KHÁI NIỆM, LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN I. Khái niệm 1. Phân biệt 1 số thuật ngữ
(Cùng chỉ 1 đối tượng nhưng do thời gian, địa điểm khác nhau nên tên gọi khác nhau)
- Luật giữa các quốc gia
- Luật đối ngoại
- Luật giữa các dân tộc
Luật Quốc tế (công pháp quốc tế): nói chung chung, khái quát một cách toàn diện
Công pháp: Muốn phân biệt nó với các ngành luật khác
- Hệ thống pháp luật quốc tế
- Điều chỉnh mqh giữa các quốc gia và các chủ thể khác của Luật quốc tế. pháp quốc
tế:
- Ngành luật của HTPL quốc gia
- Điều chỉnh mqh dân sự có yếu tố nước ngoài
2. Định nghĩa
CPQT hay LQT1 HTPL bao gồm tổng thể các nguyên tắc và QPPL do các quốc gia và chủ
thể khác của LQT thỏa thuận xây dựng nên trên sở tự nguyện, bình đẳng, nhằm điều chỉnh
những quan hệ phát sinh giữa quốc gia các chủ thể đó trong mọi lĩnh vực của đời sống quốc
tế. 3. Đặc trưng cơ bản của LQT
3.1. Về đối tượng điều chỉnh
LQT chỉ điều chỉnh MQH giữa các quốc gia các chính phủ, không điều chỉnh các MQH
giữa các cá nhân và pháp nhân có yếu tố nước ngoài.
VD: người VN kết hôn với người nước ngoài, doanh nghiệp VN ký kết hợp đồng với doanh
nghiệp nước ngoài đều không thuộc phạm vi điều chỉnh của LQT (mà thuộc đối tượng điều chỉnh
của luật hôn nhân gia đình, luật thương mại, ở mục có yếu tố nước ngoài)
Chú ý: trong một số trường hợp đặc biệt thì cá nhân hay pháp nhân có thể tham gia vào quan
hệ PL LQT.
VD: trong liên minh EU cho phép nhân quyền khởi kiện các quốc gia, chẳng hạn khi
quốc gia đó không đảm bảo quyền bản của con người. Tuy nhiên nhân hay pháp nhân đó
không được coi là chủ thể của LQT.
3.2. Chủ thể của LQT
a. Một thực thể được coi là chủ thể của luật Quốc tế nếu thỏa mãn các yếu tố:
- Phải là 1 thực thể độc lập
- Có khả năng tự mình thiết lập, tham gia vào các QHPL quốc tế
- Có đầy đủ quyền, nghĩa vụ cũng như khả năng gánh vác nghĩa vụ quốc tế một cách độc lập
- Có khả năng gánh vác các trách nhiệm pháp lý quốc tế phát sinh từ chính hành vi do chủ thể
đó thực hiện.
b. Chủ thể của luật Quốc tế bao gồm:
(1) Quốc gia:
- Là chủ thể cơ bản và chủ yếu của luật Quốc tế (chủ quyền quốc gia)
- Một thực thể được coi là 1 quốc gia khi có đủ 04 yếu tố (theo Điều 1 Công ước Montevideo
1993)
Có dân cư ổn định (thường xuyên, lâu dài)
lOMoARcPSD| 45734214
Dân cư của quốc gia tổng hợp những người trú, sinh sống trên phạm vi lãnh thổ quốc
gia, chịu sự điều chỉnh của pháp luật quốc gia đó.
Có lãnh thổ xác định (đã được xác định thông qua cột mốc biên giới)
Có Chính phủ (bộ máy quyền lực NN)
Có khả năng độc lập khi tham gia vào các QHPL quốc tế
- Chủ quyền quốc gia: là thuộc tính chính trị, pháp lý tự nhiên, vốn có của quốc gia, bao gồm
quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ và quyền độc lập trong quan hệ quốc tế.
Tức là khi đã là quốc gia thì sẽ có chủ quyền, được thể hiện qua 2 khía cạnh:
Đối nội: Quyền tối cao trong phạm vi lãnh thổ: quốc gia toàn quyền thiết lập thể chế
chính trị, chế độ hội, toàn quyền lập pháp, hành pháp, pháp trong phạm vi lãnh
thổ của mình mà không bị các quốc gia khác tác động
Đối ngoại : Quyền độc lập trong quan hệ quốc tế: toàn quyền trong việc quyết định sẽ
quan hệ với ai, ký kết các điều ước quốc tế nào, ở lĩnh vực nào, mức độ đến đâu, … hoàn
toàn chỉ phụ thuộc vào ý chí của quốc gia đó mà không bị tác động của bên ngoài
Chú ý: chủ quyền dân tộc là khái niệm hẹp hơn so với chủ quyền quốc gia, chủ quyền dân tộc là
việc dân tộc tự quyết định vận mệnh của mình.
(2)Tổ chức quốc tế liên chính phủ
Các tổ chức quốc tế liên chính phủ: do các quốc gia thỏa thuận thành lập: Có quyền năng chủ
thể của LHQ; Có cấu tchức bộ máy riêng hoạt động thường xuyên, liên tục cách độc
lập khi tham gia vào QHQT.
- Là chủ thể hạn chế và phái sinh.
Câu hỏi: Vì sao nói quyền năng của tổ chức quốc tế liên chính phủ là hạn chế và phái
sinh ?
Khác với chủ thể quốc gia loại chủ thể bản chủ yếu của luật Quốc tế, tất cả các
QHPL QT ban đầu đều do các quốc gia đặt ra, các quốc gia đóng vai trò trung tâm trong PL quốc
tế, quốc gia là thực thể có quyền năng cơ bản và đầy đủ nhất (xuất phát từ thuộc tính chủ quyền
quốc gia), cứ có đầy đủ 4 yếu tổ là trở thành quốc gia và có đầy đủ quyền năng tham gia vào các
quan hệ luật quốc tế mà chỉ phụ thuộc vào ý chí của chính quốc gia đó.
Tổ chức quốc tế liên chính phủ không quyền năng như quốc gia, quyền năng chủ thể
của tổ chức liên chính phủ do các quốc gia thành viên tự hạn chế 1 phần quyền năng chủ thể của
mình để trao cho tổ chức quốc tế liên chính phủ để đại diện cho các quốc gia thành viên để tham
gia các quan hệ PL quốc tế. Do đó quyền năng của tổ chức quốc tế không phải do tự thân mà
==> quyền năng phái sinh.
Khác với quốc gia có thể tham gia bất kỳ quan hệ quốc tế trên bất kỳ lĩnh vực nào (chính trị,
quân sự, kinh tế, tôn giáo, văn hóa, ), thì 1 tổ chức quốc tế chỉ tham gia vào 1 hoặc 1 số lĩnh
vực nhất định, ví dụ:
WTO chỉ tham gia trên lĩnh vực thương mại
NATO chỉ hoạt động trên lĩnh vực quân sự
Liên hợp quốc chỉ hoạt động trên lĩnh vực duy trì hòa bình an ninh trên thế giới
ASEAN chỉ hoạt động trên lĩnh vực kinh tế và chính trị.
Quyền năng của tổ chức quốc tế khi tham gia quan hệ quốc tế hoàn toàn phụ thuộc vào các
quốc gia thành viên ==> quyền năng hạn chế.
- Tổ chức quốc tế liên chính phủ là thực thể liên kết giữa các quốc gia và các tổ chức quốc tế
trên cơ sở 1 điều ước quốc tế nhằm hoạt động theo đúng mục đích và tôn chỉ của tổ chức
đó.
Chú ý: chỉ có tổ chức quốc tế liên chính phủ mới là chủ thể của luật Quốc tế, còn tổ chức
quốc tế phi chính phủ không phải là chủ thể của luật Quốc tế.
- Phân biệt tổ chức quốc tế liên chính phủ và tổ chức quốc tế phi chính phủ:
Tổ chức quốc tế liên chính phủ
Tổ chức quốc tế phi chính phủ
Ví dụ
Liên hợp quốc, Liên minh Châu Âu, Khối quân sự bắc
đại tây dương (NATO)
Liên đoàn bóng đá thế giới
(FIFA), Hội chữ thập đỏ quốc tế
lOMoARcPSD| 45734214
Mục đích
Hoạt động vì mục đích chính trị, kinh tế
Phi lợi nhuận, thường vì mục
đích nhân đạo
Thành viên
Là các quốc gia, trong 1 số trường hợp đặc biệt thì tổ
chức liên chính phủ này có thể là thành viên của tổ chức
liên chính phủ khác, VD liên minh châu Âu (EU) là
thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO)
Thường là cá nhân, pháp nhân
Bộ máy tổ
chức
Có bộ máy, cơ quan để duy trì hoạt động thường xuyên
của tổ chức, thường gồm cơ quan đoàn thể, cơ quan đại
diện, ủy ban thư ký, …
Không có bộ máy, cơ quan như
tổ chức liên chính phủ
(3)Chủ thể: Các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết
- Hiện tại (năm 2016) trên thế giới chỉ còn duy nhất 1 chủ thể loại này là Palestin (liên hợp
quốc đã trao cho Palesin quy chế Nhà nước quan sát viên)
- Với chủ thể này, do không phải là quốc gia nên không có chủ quyền quốc gia, mà chỉ có chủ
quyền dân tộc.
Chủ quyền dân tộc hạn chế so với chủ quyền quốc gia, các dân tộc đang đấu tranh giành
quyền tự quyết có các quyền năng:
Được PL quốc tế bảo vệ
Được nhận trợ giúp từ các quốc gia khác
quyền đưa ra các quan điểm chính trị tự quyết về vận mệnh dân tộc mình, trong đó
có cả quyền quyết định sử dụng sức mạnh vũ trang để đấu tranh giành độc lập tự do
Có quyền thiết lập quan hệ với các chủ thể của luật quốc tế khác
(4)Chủ thể đặc biệt: Hồng Kông, Macau, tòa thánh Vatican, …
- Chỉ có quyền chiếm hữu, không có quyền định đoạt lãnh thổ quả mình; không có dân cư
gốc; Chính phủ: theo tập quyền( 1 người nắm cả hành pháp, lập pháp và tư pháp).
Đôi khi vẫn gặp thông tin “Vatican quốc gia nhỏ nhất thế giới”, tuy nhiên thực chất Vatican
không phải 1 quốc gia, không lãnh thổ xác định (vẫn thuộc Italia). Mặt khác, dân
Vatican không ổn định, khi 1 người từ 1 quốc gia đến Vatican làm việc (VD mục đích tôn giáo)
thì ngay lập tức họ được cấp quốc tịch Vatican trong khi quốc tịch của họ vẫn còn, và khi kết thúc
công việc, họ rời khỏi Vatican thì ngay lập tức cũng không còn quốc tịch Vatican. Ngoài ra Vatican
cũng không có bộ máy quyền lực NN, mà chỉ có các thiết chế tôn giáo. Tuy nhiên Vatican vẫn có
tư cách độc lập khi tham gia vào các quan hệ PL quốc tế.
Chú ý: riêng với trường hợp Đài Loan thì trên thế giới chưa có quan điểm thống nhất, một
số quốc gia đã công nhận Đài Loan là 1 quốc gia (như các quốc gia châu Âu), một số quốc gia
khác không công nhận Đài Loan là 1 quốc gia. Thực tế trong nhiều tổ chức quốc tế thì cả Đài
Loan và
Trung Quốc đều là thành viên (như WTO)
Chú ý: Đài Loan không phải quốc gia Đài Loan không lãnh thổ xác định (về mặt
pháp lý thì đảo Đài Loan vẫn thuộc về Trung Quốc), mặc dù 3 yếu tố còn lại đều đáp ứng.
Chú ý: vấn đề công nhận quốc gia. Hiện vẫn còn tranh luận về việc 1 thực thể đáp ứng
đầy đủ 4 yếu tố trên thì có được coi quốc gia không, việc không được các quốc gia khác công
nhận sẽ ra sao (VD trường hợp VN năm 1945 chưa được quốc gia nào công nhận, đến tận năm
1979 mới được gia nhập Liên hợp quốc) ? Hiện có 2 học thuyết:
+ thuyết Cấu thành: 1 thực thể khi đã có đủ 4 yếu tố trên sẽ trở thành 1 quốc gia khi được hầu
hết các quốc gia khác công nhận
+ thuyết Tuyên bố: 1 thực thể đáp ứng đủ 4 yếu tố trên thì sẽ thành 1 quốc gia, không cần biết
các quốc gia khác có công nhận hay không (quan điểm của VN theo thuyết Tuyên bố)
– Công nhận: hành vi chính trị pháp lý của quốc gia nhằm công nhận chủ thể mới ra đời
của luật Quốc tế, thể hiện quan điểm muốn thiết lập quan hệ một cách toàn diện đầy đủ với
chủ thể / quốc gia đó.
lOMoARcPSD| 45734214
Tính chính trị và tính pháp lý của việc công nhận quốc gia thể hiện ở:
Việc công nhận hay không công nhận 1 quốc gia không ý nghĩa quyết định tới cách
chủ thể luật Quốc tế của quốc gia mới ra đời. (==> tính pháp lý)
Tuy nhiên việc không được công nhận sẽ ảnh hưởng đến việc quan hệ quốc tế của quốc gia
đó. VD trường hợp VN do không được công nhận nên không thể tham gia Liên hợp quốc (cho
đến năm 1979, trước đó VN được xếp vào nhóm “các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự
quyết”)
Việc 1 quốc gia mới ra đời cũng không đặt ra nghĩa vụ cho các quốc gia đã tồn tại phải tiến
hành công nhận quốc gia đó. (==> tính chính trị)
==> việc 1 quốc gia công nhận 1 quốc gia khác (mới thành lập) phụ thuộc vào lợi ích của việc
công nhận quốc gia đó (nếu tôi công nhận anh thì tôi sẽ được lợi gì và có thể có bất lợi gì)
VD với trường hợp Đài Loan hiện nay, rất nhiều quốc gia đã công nhận Đài Loan 1 quốc
gia (các quốc gia phương Tây), trong khi cũng nhiều quốc gia khác không coi Đài Loan 1
quốc gia (các quốc gia chịu ảnh hưởng của Trung Quốc như VN, Lào, Campuchia, …)
+ Các thể loại công nhận: 2 thể loại
Công nhận quốc gia: quốc gia được thành lập theo 2 con đường:
Cách cổ điển: 1 vùng lãnh thổ, con người đến ở, hội hình thành phát triển đến
mức thành lập quốc gia. (Hiện nay thì không còn quốc gia nào hình thành bằng con đường
này, lý do vì tất cả các vùng lãnh thổ trên thế giới đều thuộc về 1 quốc gia nào đó)
Thông qua cách mạng xã hội: ví dụ VN năm 1945 được hình thành sau CM tháng 8 (trước
đó được xếp vào nhóm Các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập) ==> đặt ra vấn đề công
nhận từ các quốc gia khác
Công nhận chính phủ: chính phủ là đại diện cho quốc gia, việc công nhận 1 chính phủ tức
thừa nhận sự hơp pháp của chính phủ đó. Vấn đề công nhận chính phủ thường được đặt
ra khi chính phủ được thành lập theo con đường không hợp hiến (de-facto), tức chính
phủ vi hiến (không được thành lập theo Hiến pháp của quốc gia đó, VD gần đây chính phủ
quân sự ở Thái Lan được thành lập sau cuộc đảo chính). Ngược lại là chính phủ hợp hiến
(được thành lập theo Hiến pháp) thì sẽ không đặt ra vấn đề phải công nhận.
Điều kiện để 1 chính phủ vi hiến được công nhận:
Chính phủ đó được đa số cư dân quốc gia đó thừa nhận, ủng hộ
Chính phủ đó phải đã đang thiết lập quyền kiểm soát một cách thực sự trên toàn bộ
phạm vi lãnh thổ quốc gia đó
Chính phủ đó phải có khả năng kiểm soát lãnh thổ quốc gia đó 1 cách lâu dài
Cách thức công nhận: thông thường nhất là gửi điện chúc mừng Chính phủ
+ Các hình thức công nhận: 03 hình thức
Công nhận de-jure: là hình thức công nhận đầy đủ, chính thức và toàn diện nhất, thể hiện
mong muốn thiết lập quan hệ toàn diện, chính thức và đầy đủ giữa 2 quốc gia
Công nhận de-facto: là hình thức công nhận chính thức nhưng chưa đầy đủ, thể hiện thái
độ thận trọng của quốc gia công nhận đối với các diễn biến tiếp theo của chủ thể mới (tức
là công nhận từng phần, có thể dẫn tới công nhận de-jure hoặc không công nhận nữa)
Công nhận ad-hoc: tức công nhận theo vụ việc. Chưa công nhận nhưng trong từng vụ
việc cụ thể thì sẽ công nhận. VD chỉ công nhận là quốc gia trong hợp tác thương mại
+ Các phương pháp công nhận: 2 phương pháp
Công nhận minh thị: hình thức công nhận công khai, minh bạch, như gửi điện chúc
mừng, tuyên bố, hoặc bằng các văn bản thể hiện rõ ràng việc công nhận quốc gia đó
Công nhận mặc thị: không công nhận một cách công khai, bằng những hành động cụ
thể để có thể duy diễn rằng đã công nhận
Kế thừa quốc gia: việc 1 quốc gia thay thế cho 1 quốc gia khác trong vấn đề thực hiện
quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế.
Kế thừa quốc gia được đặt ra khi sự thay đổi về chủ quyền quốc gia một cách tuyệt đối,
gồm:
lOMoARcPSD| 45734214
+ thành lập quốc gia sau cách mạng xã hội, VD Liên Xô
+ thành lập quốc gia sau cách mạng giải phóng dân tộc như VN, Lào, Campuchia
+ thành lập quốc gia sau khi chia tách, sáp
nhập Nội dung kế thừa:
+ kế thừa về lãnh thổ quốc gia: kể cả trường hợp lãnh thổ quốc gia bị chiếm đóng bất hợp
pháp thì quốc gia kế thừa vẫn chủ quyền với phần lãnh thổ đó + kế thừa về tài sản quốc
gia
+ kế thừa quyền nghĩa vụ trong các điều ước quốc tế: các quốc gia mới thành lập
quyền kế thừa hoặc không kế thừa các điều ước quốc tế quốc gia trước đây tham gia,
có thể kế thừa toàn bộ hoặc kế thừa có chọn lọc những điều ước quốc tế phù hợp với quốc
gia mới thành lập. Tuy nhiên theo Công ước Viên 1978 thì với điều ước quốc tế về Biên
giới lãnh thổ thì quốc gia mới thành lập bắt buộc phải kế thừa (điểm a khoản 2 điều 62).
Thực tế: năm 1945 Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, trong đó tuyên bố “bãi bỏ tất cả
các điều ước quốc tế Pháp đã liên quan đến VN”, nhưng đến năm 1999, khi đàm
phán với Trung Quốc về việc phân chia biên giới trên bộ thì VN lại đnghị 2 bên tuân thủ
theo Hiệp ước Pháp Thanh 1858 về phân định biên giới trên bộ Việt Nam – Trung Quốc
+ kế thừa về quy chế thành viên trong các điều ước quốc tế: chưa có quy định cụ thể, hiện
thay thông thường các tổ chức quốc tế skết nạp quốc gia mới thành lập như 1 thành viên
mới
3.3. Cơ chế xây dựng LQT
Đặc trưng về sự hình thành luật quốc tế
- Thỏa thuận con đường duy nhất để hình thành nên các QPPL quốc tế. Khác với luật
quốc gia do cơ quan quyền lực NN ban hành.
Luật quốc tế đa phần gồm các quy phạm tùy nghi, khác với luật quốc gia đa phần là quy phạm
mệnh lệnh. Vì luật quốc gia là ý chí của giai cấp thống trị, còn luật quốc tế được hình thành trên
con đường thỏa thuận, không có quốc gia nào đứng trên quốc gia nào.
Phương pháp xây dựng khác nhau:
Thỏa thuận rõ ràng, minh bạch (công khai) (VD: Ký kết điều ước quốc tế)
Thỏa thuận ngầm định (VD: Cùng thừa nhận quy tắc xử sự chung có tính chất bắt buộc)
3.4. Cơ chế thực thi luật Quốc tế: n
- Luật Quốc tế khác với luật quốc gia ở chỗ luật Quốc tế không có hệ thống các cơ quan để
cưỡng chế thi hành PL. Các quy phạm PL quốc tế được đảm bảo thi hành trên sở chế tự
cưỡng chế (Tự thực thi, tự thực hiện quyền nghĩa vụ). Tự cưỡng chế đây không phải “tự
tôi cưỡng chế tôi”, mà trong quan hệ giữa các chủ thể với nhau thì các chủ thể tự cưỡng chế nhau
để luật quốc tế được thi hành (vì nếu thực thi các quốc gia tham gia cũng có quyền lợi trong đó).
- Bản chất LQT sự tự thỏa thuận, khi tham gia vào tổ chức này họ lợi ích => sự tự
cưỡng chế của LQT là rất chặt chẽ. Sự không thực hiện của quốc gia này sẽ ảnh hưởng tới quốc
gia kia.
Do vậy sự tự cưỡng chế này không phải là mang tính hình thức.
Có 2 hình thức tự cưỡng chế:
+ Cưỡng chế riêng lẻ: trong quan hệ song phương giữa 2 quốc gia thì các quốc gia tự áp dụng
các phương pháp để buộc bên kia phải thi hành
+ Cưỡng chế tập thể: trong khuôn khổ các điều ước quốc tế đa phương, nếu 1 bên không tuân
thủ thì các bên còn lại sẽ áp dụng các biện pháp để buộc bên đó phải tuân thủ (VD Nga chiến
tranh với Ucraila=> các quốc gia khác không đồng ý => c đại xứ quán của nga các nước
thành viên không thực thi được quyền, chức năng của mình)
Khác với luật quốc gia có hệ thống các cơ quan cưỡng chế thi hành như tòa án, viện kiểm sát,
công án, cảnh sát, …
- Tòa án Công quốc tế chỉ thể xử khi cả 2 bên phải cùng trao quyền cho tòa. Tòa không
xử khi 1 bên không yêu cầu.
- Biện pháp cưỡng chế:
Tự
nguyệ
lOMoARcPSD| 45734214
+ biện pháp cưỡng chế quân sự
+ Biện pháp cưỡng chế mang tính chính trị, ngoại giao
+ Biện pháp mang tính chất kinh tế (trừng phạt, phong tọa kinh tế…).
Câu hỏi: với cơ chế tự cưỡng chế thì phải chăng luật quốc tế chỉ mang tính hình thức
?
Trả lời (tự trả lời): khi 1 quốc gia vi phạm luật quốc tế thì sẽ bị luận quốc tế lên án.
Mặc luận quốc tế không tính cưỡng chế nhưng gây ảnh hưởng lớn đối với quốc gia bị
lên án (tương tự như dư luận xã hội trong quốc gia tuy không tính cưỡng chế bắt buộc nhưng
tác động lên đối tượng còn hơn của sự trừng phạt của PL). Thực tế lịch sử cho thấy trong các tranh
chấp quốc tế, nhất là giữa quốc gia “nhỏ” với cường quốc, thì dù cường quốc có “thua” thì cường
quốc cũng không bao giờ thừa nhận “thua”, tuy nhiên cường quốc sẽ tìm cách cách khác để “bồi
thường, đắp” cho nước nhỏ. Ví dụ trường hợp Nicaragua kiện Mỹ năm 1986 ra Tòa án Công
lý quốc tế, Mỹ bị xử thua và phải bồi thường, Mỹ tuyên bố bác bỏ phán quyết của tòa, nhưng sau
đó Mỹ dùng biện pháp viện trợ như 1 cách khác để bồi thường cho Nicaragua. Hoặc với trường
hợp Hội bảo vệ nạn nhân chất độc da cam của Việt Nam kiện các công ty hóa chất, quân sự của
Mỹ, dù không được phía Mỹ thừa nhận, nhưng phía Mỹ thông qua nhiều tổ chức nhân đạo, giáo
dục, y tế đã hỗ trợ cho VN rất nhiều (như chương trình học bổng Fullbright).
II. Quy phạm pháp luật luật Quốc tế 1. Định nghĩa
Cũng giống như hệ thống PL quốc gia, quy phạm PL luật Quốc tế là thành tố nhỏ nhất tạo nên
hệ thống PL Quốc tế.
- QPPL LQT là những quy tắc xử sự, những chuẩn chung được xây dựng trên sở thỏa thuận
của các chủ thể của luật Quốc tế nhằm điều chỉnh mối quan hệ giữa c chủ thể đó (có giá trị
giằng buộc) với các quyền, nghĩa vụ hay trách nhiệm pháp lý quốc tế khi tham gia QH PLQT.
2. Phân loại
a. Căn cứ vào giá trị hiệu lực
Quy phạm mệnh lệnh (jus cogens): những quy phạm mang tính chất chủ đạo, bao trùm
giá trị tối cao bắt buộc (phát sinh quyền nghĩa vụ) chung đối với mọi chủ thể LQT trong
mọi lĩnh vực của QHQT. Quy phạm jus cogens được coi là thước đo tính hợp pháp của tất cả các
nguyên tắc quy phạm PL luật quốc tế (QPPL của Các quốc gia thành viên không được trái hoặc
cao hơn) Quy phạm thông thường (hay quy phạm tùy nghi): những quy phạm PLgiá
trị pháp bắt buộc đối với các chủ thể luật Quốc tế, nhưng trong giới hạn cho phép thì các chủ
thể thể thỏa thuận áp dụng khác. (khác với quy phạm mệnh lệnh các bên không được
phép thỏa thuận khác với quy định). Nghĩa khi bắt đầu xây dựng các quốc gia được tự thỏa
thuận. Khi đã thành quy phạm thì bắt buộc phải thực hiện)
Chú ý: quy phạm tùy nghi trong luật quốc tế khác với quy phạm tùy nghi trong luật
quốc gia. Ví dụ:
+ Các quốc gia quyền tuyên bố lãnh hải quốc gia nh không quá 12 hải tính từ đường
cơ sở ==> quy phạm tùy nghi
+ Cấm sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế ==> quy phạm mệnh
lệnh
+ Tại vùng trời quốc gia, mọi sự ra vào của tàu bay nước ngoài đều phải xin phép ==> quy
phạm tùy nghi (vì các quốc gia có thể thỏa thuận với nhau về việc xin phép như thế nào)
==> phân biệt quy phạm mệnh lệnh quy phạm tùy nghi bằng cách quy phạm mệnh lệnh
không cho phép các chủ thể bất kỳ sự thỏa thuận nào khác với quy phạm, còn quy phạm tùy
nghi thì các chủ thể thể thỏa thuận khác với quy phạm (nhưng phải trong giới hạn cho phép).
Quy phạm mệnh lệnh không phải thành viên tổ chức cũng phải tuân theo, QP tùy nghi thì
không phải thành viên không phải tuân theo.
Trong hệ thống luật Quốc tế, rất ít quy phạm mệnh lệnh mà chủ yếu quy phạm tùy nghi
(do tính chất thỏa thuận của luật quốc tế trên sở tự nguyện, bình đẳng giữa các quốc gia).
Ngược lại với luật quốc gia thì đa phần là quy phạm mệnh mệnh, rất ít quy phạm tùy nghi.
- Quy phạm mệnh lệnh trong hệ thống luật quốc tế chỉ bao gồm 2 nhóm:
lOMoARcPSD| 45734214
+ Nhóm 7 nguyên tắc cơ bản của luật Quốc tế,
+ Nhóm các quy phạm của luật Quốc tế trong vấn đề bảo đảm các quyền cơ bản của con người
b. Căn cứ vào hình thức tồn tại
- Quy phạm điều ước quốc tế: tồn tại ở dạng văn bản
- Quy phạm tập quán quốc tế: tồn tại ở dạng phi văn bản
- Quy phạm tồn tại dưới cả hình thức điều ước và tập quán
c. Phạm vi tác động
- Quy phạm song phương
- Quy phạm đa phương khu vực
- Quy phạm đa phương toàn cầu
3. Quy tắc quốc tế khác
- Quy phạm đạo đức: Giá trị pháp lý không rằng buộc
- Quy phạm chính trị: Tính định hướng mềm dẻo, không phát sinh trách nhiệm pháp lý quốc tế.
III. Mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia
Trong lịch sử tồn tại 2 học thuyết chính:
Thuyết nhất nguyên: coi PL là 1 hệ thống duy nhất, gồm 2 bộ phận là PL quốc gia và
PL quốc tế. Chia làm 2 phái: + ưu tiên PL quốc tế
+ ưu tiên PL quốc gia
Thuyết nhị nguyên: coi PL quốc gia và PL quốc tế là 2 hệ thống PL độc lập, trong đó PL
quốc gia chỉ điều chỉnh các mối quan hệ trong nội bộ quốc gia, còn PL quốc tế điều chỉnh các
mối quan hệ giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ với nhau Cả 2 học thuyết trên đều không tiến
bộ:
+ với thuyết nhất nguyên, thì nếu theo trường phái ưu tiên luật Quốc gia thì sẽ coi quyền lợi quốc
gia là tối cao, khi đó luật Quốc tế không còn có giá trị nếu mâu thuẫn với luật Quốc gia. Ở nhánh
còn lại, nếu coi luật Quốc tế là tối cao, thì cũng không hợp khi các quốc gia mạnh sẽ dễ dàng
lấn át các quốc gia yếu hơn (sẽ không còn tuân thủ nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng trong quan
hệ quốc tế)
+ với thuyết nhị nguyên: dễ thấy không hợp lý vì dù là luật quốc gia hay luật quốc tế thì cũng đều
do 1 chủ thể là quốc gia xây dựng nên để thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại của quốc gia,
mà 2 chức năng này không thể tách rời nhau
Hiện nay, mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia được quan niệm như sau:
Luật quốc tế và luật quốc gia là 2 hệ thống độc lập nhưng có mối quan hệ biện chứng
với nhau:+ luật quốc tế là cơ sở để hình thành và hoàn thiện hệ thống PL của các quốc gia. VD
khi 1 quốc gia trở thành thành viên của 1 tổ chức quốc tế, thì quốc gia đó phải rà soát và điều
chỉnh lại hệ thống
PL của nước mình để phù hợp với luật quốc tế
+ các quy phạm PL quốc gia cũng góp phần hoàn thiện và phát triển hệ thống PL quốc tế. VD
hầu hết các tiêu chuẩn về môi trường của PL quốc tế đều xuất phát từ các tiêu chuẩn về môi
trường của 1 quốc gia đi tiên phong trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, sau đó được các nước
ủng hộ và nâng lên thành luật Quốc tế
Câu hỏi: so sánh luật quốc tế và luật quốc gia
Luật quốc gia Luật quốc tế
Phạm vi điều Mối quan hệ giữa cá nhân và pháp nhân
Mối quan hệ giữa các quốc gia với nhau
chỉnh trong phạm vi lãnh thổ quốc gia
Hình thành bằng con đường thỏa thuận
Hình thành Là ý chí của giai cấp thống trị giữa các quốc gia dựa trên nguyên tắc bình đẳng, tự
nguyện của các quốc gia Cơ chế Có hệ thống cơ quan cưỡng chế thi hành Không có hệ
lOMoARcPSD| 45734214
thống cơ quan cưỡng chế thi cưỡng chế PL (tòa án, viện kiểm sát, công an, …) hành
PL (tự cưỡng chế)
Chủ yếu là quy phạm mệnh lệnh, rất ít quy Chủ yếu là quy phạm tùy nghi, rất ít quy
Quy phạm
phạm tùy nghi phạm mệnh lệnh
Câu hỏi: nếu có 1 vấn đề phát sinh mà luật quốc gia mâu thuẫn với luật quốc tế thì sẽ xử lý
thế nào ?
Trả lời: sẽ ưu tiên áp dụng PL quốc tế. trong mọi văn bản PL của VN đều quy định “trong
trường hợp các quy định của luật này trái với các điều ước quốc tế mà VN thành viên thì ưu
tiên áp dụng điều ước quốc tế”. Đây cũng là quy định chung đối với hầu hết các quốc gia trên thế
giới. điều này xuất phát từ 1 trong các nguyên tắc bản của luật Quốc tế: nguyên tắc
tận tâm, thiện chí thực hiện cam kết quốc tế, trong đó quy định “khi 1 quốc gia là thành viên của
1 tổ chức quốc tế, thì quốc gia đó phải nghĩa vụ tận tâm, thiện chí thực hiện trung thực, đầy
đủ, ngay lập tức tất cả các nghĩa vụ của mình; các quốc gia không được phép viện dẫn sự khác
biệt giữa luật trong nước và luật quốc tế để từ chối thực hiện cam kết quốc tế của mình
Chú ý: cần hiểu luật quốc tế giá trị ưu tiên thi hành, chứ không phải luật quốc tế giá trị
pháp lý cao hơn luật quốc gia.
Câu hỏi 1: giữa luật quốc tế và luật quốc gia thì luật nào có giá trị pháp lý cao hơn.
Trả lời: đây 2 hệ thống PL độc lập nên không thể so sánh hệ thống nào có giá trị pháp cao
hơn. Trong từng trường hợp cụ thể nếu luật quốc gia luật quốc tế cùng quy định 1 vấn đề thì
sẽ ưu tiên sử dụng luật quốc tế.
Câu hỏi 2: nếu luật Quốc tế mâu thuẫn với Hiến pháp thì xử lý thế nào ?
Trả lời: Về mối quan hệ giữa luật Quốc tế với Hiến pháp, hiện nay các quốc gia có quan điểm
khác nhau: một số quốc gia cho rằng xuất phát từ nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện cam
kết quốc tế thì luật Quốc tế sẽ được ưu tiên thi hành ngay cả so với Hiến pháp; một số quốc gia
khác lại coi luật Quốc tế có giá trị ưu tiên thi hành nhưng vẫn phải ở sau Hiến pháp.
Thực tế Hiến pháp của các quốc gia trên thế giới đều ghi nhận ràng vị tcủa luật Quốc tế
so với Hiến pháp ở ngay trong văn bản Hiến pháp, trừ Việt Nam.
Lý lẽ của VN khi không đưa quy định về vị trí của luật Quốc tế trong Hiến pháp: VN có các
văn bản PL quy định về việc ký kết các điều ước quốc tế (mới nhất là Luật điều ước quốc tế
2016) trong đó nêu rõ khi đàm phán để ký kết các điều ước quốc tế thì phải không được trái với
Hiến pháp, do đó ở VN sẽ không có chuyện ký kết điều ước quốc tế trái với Hiến pháp VN
VẤN ĐỀ 2: NGUỒN CỦA LUẬT QUỐC TẾ I. Khái niệm 1. Định nghĩa
- Nguồn của luật Quốc tế được hiểu những hình thức biểu hiện sự tồn hay chứa đựng các
nguyên tắc, QPPL quốc tế do các quốc gia và các chủ thể khác của LQT thỏa thuận xây dựng
nên.
Chú ý: nguồn của luật Quốc tế có nghĩa rộng hơn so với nguồn của PL quốc gia (trong môn
học luận NN PL): nguồn trong luật quốc gia chỉ những hình thức chứa đựng các quy
phạm PL, còn nguồn trong luật Quốc tế không chỉ những hình thức chứa đựng các quy phạm
PL luật Quốc tế còn gồm cả những biểu hiện sự tồn tại của các quy phạm PL luật Quốc tế (hay
còn gọi là những phương tiện bổ trợ nguồn).
Câu hỏi: Phương tiện bổ trợ nguồn phải là nguồn của PL không ? Trả
lời: nếu với luật quốc gia thì là KHÔNG; nếu với luật quốc tế thì là CÓ
2. Căn cứ để xác định nguồn
II. Cấu trúc nguồn của luật Quốc tế
Nguồn của luật Quốc tế:
lOMoARcPSD| 45734214
– Nguồn cơ bản:
+ Điều ước quốc tế (nguồn thành văn)
+ Tập quán quốc tế (nguồn bất thành văn)
– Nguồn bổ trợ / Phương tiện bổ trợ
nguồn: + Nguyên tắc PL chung
+ Phán quyết của Tòa án công lý quốc tế
+ Nghị quyết của tổ chức quốc tế liên chính phủ
+ Hành vi pháp lý đơn phương của quốc gia
+ Các học thuyết của các học giả nổi tiếng về luật quốc
tế 1. Điều ước quốc tế
a. Khái niệm
- ĐƯQT sự thỏa thuận giữa các chủ thể của luật quốc tế với nhau trên sở tự nguyện,
bình đẳng nhằm thiết lập những quy tắc pháp lý bắt buộc gọi là những quy phạm luật quốc tế đ
ấn định, thay đổi hoặc hủy bỏ những quyền và nghĩa vụ đối với nhau.
- Trong quan hệ quốc tế hiện nay, điều ước quốc tế chủ yếu được trình bày dưới dạng thành
văn, cũng có thể bằng miệng.
- Là loại nguồn cơ bản và chủ yếu của luật Quốc tế
b. Đặc điểm
- Về hình thức :
Về nguyên tắc, điều ước quốc tế phải tồn tại dưới dạng văn bản, nhưng 1 ngoại lệ duy
nhất, đó Điều ước quốc tế Quân tử thể tồn tại dưới dạng bất thành văn. (điều ước Quân tử
chỉ tồn tại sau chiến tranh thế giới, đến nay hầu như không còn, điều ước Quân tử thường các
cam kết của các quốc gia sau chiến tranh, các quốc gia đó cho rằng khi các quốc gia kết điều
ước quốc tế thì các quốc gia đó sẽ bằng danh dự và uy tín của quốc gia mình mà tôn trọng và thực
thi các điều ước quốc tế đó, và việc này không cần phải ký kết bằng văn bản)
Điều ước quốc tế 1 khái niệm chung (tương tự Văn bản luật trong hệ thống luật Quốc
gia), tùy vào từng trường hợp cụ thể mà điều ước quốc tế sẽ có tên gọi phù hợp: với điều ước để
thành lập các tổ chức quốc tế hay các cơ quan tài phán quốc tế thì sẽ có tên Hiến chương, Điều lệ,
Quy chế; với điều ước quốc tế vphân định biên giới, lãnh thổ thì sẽ tên Hiệp định, Công
ước; nghị định thư, … Tuy nhiên, khác với quy định về tên gọi văn bản luật trong hệ thống luật
quốc gia vốn được quy định rất (hiến pháp, luật, nghị định, thông tư, quyết định, chỉ thị …),
thì với luật quốc tế không bất kỳ quy định nào về việc đặt tên cho điều ước, việc đặt tên đó
hoàn toàn do các bên thỏa thuận.
tên gọi của điều ước quốc tế không có giá trị phân định giá trị pháp lý cao hay thấp của điều
ước quốc tế (điều này khác với tên văn bản luật trong luật quốc gia)
Một điều ước quốc tế thông thường được kết cấu 3 phần: mở đầu, nội dung, kết luận. Phần
nội dung của điều ước quốc tế gồm các điều khoản quy định quyền nghĩa vụ của các chủ thể.
Cũng có trường hợp nội dung của điều ước quốc tế không bao gồm bất cứ điều khoản nào, ví dụ
Tuyên bố thành lập tổ chức ASEAN - Về nội dung :
Nội dung của điều ước quốc tế thông thường bao gồm các điều, khoản ghi nhận quyền
nghĩa vụ của các chủ thể
Nội dung khác: thời điểm bắt đầu phát sinh hiệu lực, thời điểm chấm dứt hiệu lực, cho
bảo lưu không, có được mời các quốc gia khác gia nhập không, …
c. Điều kiện để điều ước quốc tế có thể phát sinh hiệu lực trở thành nguồn của
LQT - Điều ước quốc tế phải thỏa mãn đủ 3 điều kiện sau thì mới phát sinh hiệu
lực:
(1) Được ký kết trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng
(2) Nội dung của điều ước quốc tế phải phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật Quốc tế
(3) Phải được ký kết đúng trình tự, thủ tục và thẩm quyền
lOMoARcPSD| 45734214
- Điều ước quốc tế sẽ hiệu tuyệt đối nếu vi phạm điều kiện (2). Tức là nếu điều ước quốc
tế vi phạm các quy phạm jus cogens (quy phạm mệnh lệnh) thì sẽ bị vô hiệu ngay từ khi nó phát
sinh hiệu lực. Còn nếu điều ước quốc tế đã có rồi, sau đó mới quy phạm jus cogens và chúng
mâu thuẫn với nhau thì điều ước quốc tế sẽ vô hiệu kể từ thời điểm quy phạm jus cogens có hiệu
lực.
- Nếu vi phạm điều kiện (1) hoặc (3) thì điều ước quốc tế sẽ hiệu tương đối. Tức là vẫn
được coi là có hiệu lực nếu các bên vẫn đồng ý thực thi.
Chú ý: trình tự, thủ tục, và thẩm quyền ở đây là những quy định trong luật quốc gia khi quy định
về việc tham gia ký kết các điều ước quốc tế (mỗi quốc gia có thể có quy định khác nhau). d. Ý
nghĩa, vai trò của điều ước Quốc tế:
Xuất phát từ bản chất của điều ước là sự thỏa thuận của các chủ thể trong quan hệ pháp
Quốc tế, điều ước Quốc tế có ý nghĩa:
- Là hình thức pháp Luật cơ bản chứa đựng các quy phạm Luật Quốc tế để xây dựng và ổn
định các cơ sở pháp Luật cho các quan hệ pháp Luật Quốc tế hình thành và phát triển.
- Là công cụ, phương tiện quan trọng để duy trì và tăng cường các quan hệ hợp tác Quốc tế
giữa các chủ thể.
- Là đảm bảo pháp lý quan trọng cho quyền lợi và lợi ích hợp pháp của chủ thể Luật Quốc
tế.
- công cụ để xây dựng khung pháp Luật Quốc tế hiện đại, cũng như để tiến hành hiệu
quả việc pháp điển hóa Luật Quốc tế.
e. Trình tự ký kết điều ước quốc tế
Trải qua 2 giai đoạn:
- Giai đoạn hình thành văn bản điều ước, gồm các bước:
B1: đàm phán: các bên thỏa thuận, thương lượng về tất cả các nội dung về diều ước, bao
gồm quyền và nghĩa vụ của các bên, hiệu lực áp dụng, thời hạn, thời hiệu …
B2: soạn thảo: có 2 cách: các bên sau khi đàm phán sẽ nhờ bên thứ 3 chuyên soạn thảo điều
ước quốc tế; hoặc các bên sẽ cùng nhau lập ra 1 ban soạn thảo gồm đại diện của mỗi bên; hoặc 1
trong các bên soạn dự thảo sẵn điều ước và các bên còn lại sẽ đàm phán trên dự thảo đó
B3: thông qua: là thủ tục nhằm xác nhận văn bản điều ước đã phản ánh đúng nội dung mà
các bên đã đàm phán. Hành vi thông qua không thể hiện sự ràng buộc của điều ước quốc tế đối
với quốc gia mình, tuy nhiên không bên nào được tự ý sửa đổi bổ sung vào văn bản đó. Việc thông
qua theo tỷ lệ như thế nào (quá bán, quá 2/3, …) hoàn toàn do các bên thỏa thuận.
Các bên thể hiện sự thông qua bằng cách ký nháy vào từng tờ của văn bản.
- Giai đoạn xác nhận sự ràng buộc của văn bản điều ước đối với quốc gia mình: thông
qua các hành vi:
Ký, có 3 hình thức ký:
Ký tắt: là chữ ký của đại diện các bên khi tham gia đàm phán xây dựng văn bản điều
ước, nhằm xác nhận dự thảo văn bản điều ước quốc tế đã được thông qua. Ký tắt chưa
làm phát sinh hiệu lực của điều ước quốc tế.
Ký ad referendum: cũng là chữ ký của người đại diện các quốc gia, nhưng có thể làm
phát sinh hiệu lực của điều ước quốc tế nếu có sự đồng ý tiếp theo của cơ quan NN có
thẩm quyền của quốc gia đó (khi đó chữ ký ad referendum sẽ trở thành ký đầy đủ)
Ký đầy đủ (hay ký chính thức): là hình thức ký phổ biến nhất. Thông thường điều ước
quốc tế sẽ phát sinh hiệu lực ngay sau khi ký đầy đủ nếu các bên không có thỏa thuận
khác, hoặc nếu điều ước quốc tế không đòi hỏi phải thông qua thủ tục phê chuẩn hoặc
phê duyệt
Phê chuẩn, phê duyệt điều ước: là hành vi của quan NN có thẩm quyền nhằm xác nhận
sự ràng buộc của văn bản điều ước đối với quốc gia mình.
Chú ý: phê chuẩn = phê duyệt , khác nhau ở thẩm quyền thực hiện:
Phê chuẩn: do cơ quan quyền lực NN thực hiện (Nghị viện, Quốc hội)
Phê duyệt: do Chính phủ thực hiện
lOMoARcPSD| 45734214
==> tùy từng tính chất của điều ước quốc tế mà sẽ cần được phê chuẩn hoặc phê duyệt
Chú ý: không phải mọi điều ước quốc tế đều phải yêu cầu thủ tục phê chuẩn, phê duyệt, điều
này được quy định ngay trong nội dung điều ước. những điều ước quốc tế hiệu lực ngay
sau khi các bên ký đầy đủ. Nếu trong nội dung điều ước có yêu cầu các bên phải phê chuẩn, phê
duyệt thì thông thường điều ước quốc tế sẽ có hiệu lực sau khi các bên trao đổi với nhau Thư phê
chuẩn / Thư phê duyệt.
+ gia nhập điều ước quốc tế: là 1 hình thức đặc biệt của quá trình ký kết điều ước quốc tế,
mà theo hình thức này thì các quốc gia không tham gia vào quá trình hình thành văn bản điều
ước mà chỉ tham gia vào quá trình xác nhận sự ràng buộc của văn bản điều ước quốc tế đó đối
với mình.
Đó là các trường hợp điều ước quốc tế đã hết thời hạn ký mà quốc gia đó vẫn chưa
thành viên, hoặc điều ước quốc tế đã phát sinh hiệu lực mà quốc gia đó vẫn chưa là thành
viên Chú ý: ký >< ký kết
Ký: 1 hành vi trong giai đoạn xác nhận sự ràng buộc của văn bản điều ước quốc tế với quốc
gia mình, tức là chỉ là 1 giai đoạn của ký kết.
Ký kết: là toàn bộ quá trình trên
e. Thẩm quyền ký kết điều ước quốc tế
Gồm 2 nhóm:
- Đại diện đương nhiên:
Nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu Chính phủ, bộ trưởng ngoại giao quyền là đại diện
đương nhiên cho quốc gia, thực hiện bất kỳ hành vi nào trong toàn bộ quá trình kết điều ước
quốc tế
Người đứng đầu các cơ quan đại diện ngoại giao quyền đại diện cho quốc gia mình trong
việc thông qua văn bản điều ước quốc tế giữa nước sở tại với nước mình.
Người đại diện cho quốc gia tại các tổ chức quốc tế, hội nghị quốc tế có quyền đại diện cho
quốc gia mình trong việc thông qua văn bản của 1 điều ước quốc tế trong khuôn khổ của hội nghị
hoặc tổ chức đó
Ngoài ra, những người đứng đầu các bộ, cơ quan ngang bộ có quyền ký kết những điều ước
quốc tế thuộc lĩnh vực của bộ, ngành mà không cần thư ủy nhiệm.
- Đại diện theo ủy quyền: ngoài các đối tượng trên thì phải trình thư ủy nhiệm khi tham
gia vào quá trình ký kết điều ước quốc tế
f. Hiệu lực của điều ước quốc tế
- Về thời điểm điều ước quốc tế bắt đầu phát sinh hiệu lực: theo thỏa thuận của các
bên - Thời điểm chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế:
Với điều ước quốc tế có thời hạn: chấm dứt hiệu lực theo thời hạn đã thỏa thuận
Với điều ước quốc tế vô thời hạn: chấm dứt hiệu lực khi xảy ra 1 số yếu tố khách quan, chủ
quan ảnh hưởng đến hiệu lực của điều ước quốc tế
Các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến hiệu lực của điều ước quốc tế:
Khi đối tượng của điều ước quốc tế không còn. dụ điều ước về đối x
nhân đạo với binh trong chiến tranh sẽ kết thúc khi chiến tranh kết thúc; điều ước
giữa Hoa Kỳ với Việt Nam về tìm kiếm người Mỹ mất tích sẽ kết thúc sau khi tìm thấy
hết người Mỹ mất tích
Khi xuất hiện sự thay đổi bản về hoàn cảnh khách quan (rebussic
stantibus) (khoản 2 Điều 62 Công ước Viên 1969 về Luật Điều ước quốc tế): theo đó
khi sự thay đổi bản về hoàn cảnh khách quan tại thời điểm các bên thực hiện
nghĩa vụ điều ước so với thời điểm các bên tiến hành kết hoàn cảnh này lại
sở, điều kiện để các bên thể thực hiện nghĩa vụ của mình. Sự thay đổi đó hoàn
toàn do nguyên nhân khách quan, không do bên nào cố tình tạo ra các bên cũng
không thể dự liệu trước sự thay đổi đó tại thời điểm ký kết. Khi đó 1 trong các bên có
quyền viện dẫn sự thay đổi này để chấm dứt hoặc tạm đình chỉ hiệu lực của điều ước.
lOMoARcPSD| 45734214
Ví dụ: khi quốc gia thay đổi chế độ, VD khi chế độ Việt Nam Cộng hòa sụp đổ năm 1975,
hay VN tuyên bố độc lập năm 1945, Liên Xô sụp đổ 1991
Lưu ý: sự thay đổi bản về hoàn cảnh khách quan không được áp dụng
nếu: Sự thay đổi đó do 1 trong các bên cố tình tạo ra
Không được áp dụng đối với các điều ước quốc tế về biên giới lãnh thổ
Khi xuất hiện quy phạm jus cogens mới nội dung mâu thuẫn với điều
ước quốc tế.
Các yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến điều ước quốc tế:
Các bên thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế
Khi 1 trong các bên hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của điều
ước quốc tế thì bên còn lại có thể viện dẫn sự vi phạm đó để từ chối thực hiện cam kết
quốc tế của mình
Bảo lưu điều ước quốc tế: hành vi pháp đơn phương của 1 quốc gia
dưới bất kể cách thức hay tên gọi như thế nào nhằm thay đổi hiệu lực của 1 hoặc 1 số
điều khoản của điều ước quốc tế.
Mục đích của bảo lưu: thông thường với 1 điều ước quốc tế (đa phương) thì càng muốn
nhiều quốc gia tham gia càng tốt, tuy nhiên càng nhiều quốc gia tham gia thì việc dung hòa lợi
ích quốc gia càng khó khăn. Do đó vừa để đảm bảo giá trị của điều ước mà vẫn đảm bảo lợi ích
quốc gia, chế định bảo lưu xuất hiện, đảm bảo 1 quốc gia vì lợi ích riêng của mình có thể thay
đổi 1 hoặc 1 số điều khoản của điều ước.
Lưu ý:
Bảo lưu điều ước quốc tế chỉ áp dụng đối với điều ước quốc tế đa phương, không áp dụng
đối với điều ước quốc tế song phương
Hành vi bảo lưu của quốc gia chỉ được đưa ra vào giai đoạn xác nhận sự ràng buộc của
điều ước quốc tế mà không được đưa ra vào giai đoạn hình thành văn bản điều ước. (Vì ở
giai đoạn hình thành văn bản điều ước thì các bên vẫn thể đàm phán nội dung điều ước;
còn ở giai đoạn xác nhận sự ràng buộc của điều ước tức là đã thông qua văn bản điều ước
và các bên không có quyền thay đổi nội dung điều ước)
Bảo lưu là quyền của quốc gia khi tham gia các điều ước quốc tế, nhưng quyền này thể
bị hạn chế trong các trường hợp sau:
Đối với điều ước quốc tế có quy định cấm bảo lưu
Điều ước quốc tế cho phép bảo lưu 1 số điều khoản nhưng điều khoản bảo
lưu quốc gia đưa ra không nằm trong những điều khoản đó
Bảo lưu trái với đối tượng và mục đích của điều ước
Hệ quả pháp lý của bảo lưu điều ước quốc tế: quan hệ giữa các thành viên của 1 điều ước
sẽ thay đổi trong phạm vi có bảo lưu.
Ví dụ, trong 1 điều ước quốc tế đa phương về vấn đề an ninh, trong đó có điều khoản “trong
trường hợp trong lãnh thổ các quốc gia thành viên mà phát hiện 1 cá nhân phạm tội ác quốc tế
thì các quốc gia có nghĩa vụ dẫn độ quốc gia đó đến Tòa án hình sự quốc tế để xét xử”. Quốc gia
A đưa ra điều kiện bảo lưu điều ước “Tôi cam kết sẽ dẫn độ cá nhân phạm tội ác quốc tế ra a
án hình sự quốc tế để xét xử, trừ trường hợp cá nhân đó là công dân của nước tôi”, tức là chỉ
đồng ý dẫn độ công dân nước khác đến tòa án quốc tế, còn với công dân của mình thì sẽ xét xử
bằng hệ thống tòa án và luật pháp của quốc gia A. Khi đó các quốc gia khác có thể:
Quốc gia B: Đồng ý để quốc gia đó bảo lưu: quan hệ điều ước giữa AB vẫn tồn tại, khi
phát sinh vấn đề quan hệ giữa A và B về dẫn độ tội phạm thì sẽ áp dụng điều khoản do A
đưa ra thay cho điều khoản trong điều ước.
Quốc gia C: Phản đối bảo lưu, phản đối quan hệ điều ước: giữa C và A sẽ không tồn tại
quan hệ điều ước
Quốc gia D: Phản đối bảo lưu, nhưng không phản đối quan hệ điều ước: giữa D và A vẫn
tồn tại quan hệ điều ước, nhưng với điều khoản bảo lưu do A đưa ra sẽ không được áp
dụng, khi vấn đề phát sinh thì A và D sẽ cùng đàm phán để giải quyết.
lOMoARcPSD| 45734214
Quốc gia E: Im lặng: các quốc gia được phép im lặng trong 12 tháng kể từ ngày A đưa ra
tuyên bố bảo lưu, nếu không có ý kiến thì được coi là đồng ý
- Hiệu lực của điều ước quốc tế đối với bên thứ 3: về nguyên tắc, điều ước quốc tế chỉ
có giá trị pháp lý ràng buộc đối với các bên là thành viên của điều ước mà không có hiệu
lực đối với quốc gia thứ 3. Tuy nhiên trong 1 số trường hợp đặc biệt, điều ước quốc tế có
thể phát sinh hiệu lực đối với bên thứ 3, bao gồm:
Điều ước quốc tế tạo ra quyền và nghĩa vụ cho bên thứ 3 và được bên thứ 3 đồng ý
Điều ước quốc tế tạo ra hoàn cảnh khách quan: dụ trường hợp Công ước về luật biển
quốc tế 1982, không phải tất cả các quốc gia đều thành viên của Công ước, nhưng trong
Công ước đó đưa ra những quy định về vùng biển quốc tế, và các quốc gia không tham gia Công
ước thể áp dụng. Ví dụ 2 quốc gia cùng 1 eo biển kết với nhau về sử dụng eo biển đó,
khi đó tàu thuyền các quốc gia đó đi qua eo biển đó cũng phải tuân thủ quy định do 2 quốc gia đó
đưa ra. dụ các quốc gia kết với nhau về phân chia Nam cực (chỉ 1 số ít quốc gia được
chia Nam cực) và tất cả các quốc gia khác phải tôn trọng.
Điều ước quốc tế chứa đựng điều khoản tối huệ quốc: là về vấn đề quốc gia đãi ngộ người
nước ngoài, có 2 nhóm chế độ:
Đãi ngộ quốc gia: tạo sự bình đẳng giữa người ớc ngoài với công dân trong nước, người
nước ngoài trên lãnh thổ quốc gia được đối xử như với công dân của nước mình, trừ 1 số
quyền như ứng cử, bầu cử.
Đãi ngộ tối huệ quốc: quốc gia A dành cho quốc gia B khác quy chế tối huệ quốc tức là A
cam kết B sẽ được hưởng những quyền lợi ưu đãi không kém phần thuận lợi hơn bất
kỳ 1
quốc gia thứ 3 nào đã, đang, và sẽ được hưởng trong tương lai
g. Thực hiện điều ước quốc
tế Có 2 cách:
- Áp dụng trực tiếp: coi văn bản điều ước như PL quốc gia và được áp dụng luôn (cách này
ít khi được các quốc gia sử dụng). VD Nghị quyết 71 của Quốc hội năm 2006 về phê chuẩn Nghị
định thư gia nhập WTO, trong đó ghi (đây cũng trường hợp duy nhất đến nay VN áp dụng
trực tiếp PL quốc tế):
“Áp dụng trực tiếp các cam kết của Việt Nam được ghi tại Phụ lục đính kèm Nghị quyết này
và các cam kết khác của Việt Nam với Tổ chức thương mại thế giới được quy định đủ rõ, chi tiết
trong Nghị định thư, các Phụ lục đính kèm và Báo cáo của Ban công tác về việc Việt Nam gia
nhập Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới.
Trong trường hợp quy định của pháp luật Việt Nam không phù hợp với quy định của Hiệp
định thành lập Tổ chức thương mại thế giới, Nghị định thư và các tài liệu đính kèm thì áp dụng
quy định của Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới, Nghị định thư và các tài liệu
đính kèm.”
- Nội luật hóa: trên sở các nghĩa vụ đã cam kết trong điều ước quốc tế, quốc gia ban hành
văn bản quy phạm PL trong nước để thực hiện các nghĩa vụ của mình (hầu hết các quốc gia chọn
cách này).
2. Tập quán quốc tế
- những quy tắc xử sự hình thành trong thực tiễn đời sống PL quốc tế, được các quốc gia
và các chủ thể khác của luật Quốc tế áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần và được thừa nhận là luật.
- Để được coi là tập quán quốc tế, cần có 2 yếu tố:
Vật chất: phải quy tắc xử sự tồn tại trong thực tiễn đời sống PL quốc tế quy tắc đó
được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần
Tinh thần: được hầu hết các quốc gia và các chủ thể PL quốc tế thừa nhận đó là luật VD: +
sứ thần (đoàn ngoại giao) của nước này đến nước khác sẽ được đón tiếp trọng thị, không được
chém, đánh sứ giả; hành vi chém sứ thần được coi hành vi tuyên chiến. Cho đến nay quy tắc
lOMoARcPSD| 45734214
này vẫn được tiếp tục ghi nhận và được pháp điển hóa vào Công ước Viên 1961 về quan hệ ngoại
giao và Công ước Viên 1963 về quan hệ lãnh sự.
+ Tàu thuyền nước ngoài có thể đi lại không gây hại qua vùng lãnh hải của 1 quốc gia mà
không cần xin phép
Câu hỏi: điều kiện “được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần” là bao nhiêu lần ? và “được
hầu hết các quốc gia công nhận” là bao nhiêu quốc gia thì đủ ?
Trả lời: theo quan điểm trước kia thì để hình thành 1 tập quán quốc tế cần phải trải quan vài
chục đến hàng trăm năm. Còn theo quan điểm của PL quốc tế hiện đại thì con đường hình thành
tập quán quốc tế ngắn hơn rất nhiều, chỉ cần thấy 1 quy định trong 1 điều ước nào đó, hoặc phán
quyết của tòa án quốc tế, hoặc hành vi pháp lý đơn phương của quốc gia, … mà chủ thể thấy phù
hợp thì có thể viện dẫn như một tập quán.
– Mối quan hệ điều ước quốc tế và tập quán quốc tế: quan hệ biện chứng và tác động
qua lại với nhau
+ Điều ước quốc tế thsở cho sự hình thành tập quán quốc tế, ngược lại tập quán
quốc tế cũng có thể là cơ sở cho việc hình thành điều ước quốc tế
+ Điều ước quốc tế thể chấm dứt hiệu lực của tập quán quốc tế (VD các bên thể thỏa
thuận xác lập điều ước không áp dụng tập quán), và ngược lại tập quán có thể chấm dứt hiệu lực
của điều ước quốc tế (rất ít khi xảy ra, thường trường hợp tập quán hình thành nên quy phạm
jus cogens, ngay khi quy phạm jus cogens có hiệu lực thì tất cả các điều ước quốc tế có nội dung
trái với quy phạm jus cogens sẽ chấm dứt hiệu lực. VD quy phạm “Cấm sử dụng vũ lực hoặc đe
dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế” là quy phạm jus cogens mới hình thành từ năm 1945,
trước đó luật quốc tế cổ đại có quy phạm jus cogens về quyền được sử dụng chiến tranh “Bất kỳ
quốc gia nào cũng quyền sử dụng sức mạnh trang đgiải quyết mọi tranh chấp liên quan
đến mình”) – So sánh điều ước quốc tế và Tập quán quốc tế:
Điều ước quốc tế
Tập quán quốc tế
Cùng là nguồn cơ bản của luật quốc tế, có giá trị pháp lý ngang nhau
Thành văn
Bất thành văn
Rõ ràng, minh bạch (vì phải trải qua quá trình
đàm phán giữa các bên, thể hiện được ý chí của
các bên)
Không rõ ràng, ít minh bạch
Hình thành nhanh chóng
Rất lâu
Có thể dễ dàng sửa đổi, bổ sung
Rất khó để thay đổi
Đã được thực tiễn kiểm nghiệm, đã chứng tỏ sự
phù hợp với thực tiễn, khả năng ứng dụng rất
cao
Câu hỏi: Khi gặp 1 vấn đề mà cả điều ước và tập quán đều điều chỉnh, mà điều ước lại mâu
thuẫn với tập quán, thì sẽ áp dụng thế nào ?
Trả lời: sẽ theo thỏa thuận của các bên, nếu 2 bên không thỏa thuận được thì sẽ ưu tiên áp dụng
điều ước. Vì điều ước có tính rõ ràng, minh bạch thể hiện được ý chí của các bên.
Chú ý: đây hiểu điều ước quốc tế được “ưu tiên sử dụng” chứ không phải điều ước quốc tế
có giá trị pháp lý cao hơn.
3. Nguồn bổ trợ / Phương tiện bổ trợ nguồn của luật Quốc tế
a. Nguyên tắc PL chung
– là những nguyên tắc PL mà cả luật Quốc tế và luật quốc gia đều thừa nhận.
VD: gây thiệt hại thì phải bồi thường, luật không giá trị hồi tố, không ai phải thẩm phán
trong vụ việc của chính mình, …
b. Phán quyết của tòa án công lý quốc tế
lOMoARcPSD| 45734214
Tòa án công lý quốc tế (International Court of Justice – ICJ) có chức năng đưa ra các kết
luận tư vấn để các bên tham vấn, không mang tính chất cưỡng chế như đối với tòa án trong quốc
gia. Phán quyết của tòa án quốc tế là đưa các các giải thích pháp luật để từ đó các bên có thể căn
cứ để áp dụng trong các tranh chấp.
Các quốc gia và các chủ thể không có quyền yêu cầu Tòa án công lý đưa ra các kết luận
tư vấn, thẩm quyền yêu cầu thuộc về Đại hội đồng hay Hội đồng bảo an Liên hợp quốc
Ngoài Tòa án công lý thì phán quyết của các cơ quan tài phán quốc tế khác cũng được
coi là nguồn bổ trợ. VD Tòa án Trọng tài La Hague về tranh chấp giữa CHND Trung Hoa và
CH Philippines năm 2016 về tranh chấp tại biển Đông. (tòa án này được thành lập theo Phụ lục
7 của
Công ước Liên hợp quốc về luật Biển, không giải quyết tranh chấp Trung Quốc và Philipin, mà
Philipin yêu cầu Tòa trọng tài giải thích thế nào là đảo, thế nào là đá, việc bồi đắp có làm thay
đổi tính chất các thực thể đó không, giải thích về đường lãnh hải, về chủ quyền về lãnh hải,
quyền lịch sử, …)
c. Nghị quyết của tổ chức quốc tế liên chính phủ
Gồm 2 loại Nghị quyết:
Loại có tính bắt buộc: giá trị pháp lý ràng buộc với tất cả các quốc gia thành viên của
tổ chức đó
Loại mang tính khuyến nghị: VD nghị quyết về bảo vệ môi trườngd. Hành vi pháp lý đơn
phương của quốc gia
Ví dụ: tiêu chuẩn về môi trường quốc tế hầu hết xuất phát từ tiêu chuẩn về môi trường của
các quốc gia phát triển, được các quốc gia khác học theo được pháp điển hóa, được ghi nhận
trong các điều ước quốc tế
e. Các học thuyết của các học giả nổi tiếng về luật quốc tế
VD: học thuyết về Tự do biển cả
Các học thuyết được thừa nhận, được áp dụng trong thực tế, và được pháp điển hóa, được ghi
nhận trong các điều ước quốc tế.
3. Mối quan hệ giữa nguồn cơ bản và nguồn bổ trợ
Câu hỏi trắc nghiệm: các câu khẳng định sau là Đúng / Sai:
(1) Chủ quyền quốc gia là yếu tố cơ bản cấu thành nên quốc gia
Sai. Chủ quyền quốc gia là thuộc tính chính trị, pháp lý tự nhiên, vốn có của quốc gia, bao
gồm quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ và quyền độc lập trong quan hệ quốc
tế. Bốn yếu tố cấu thành nên quốc gia gồm:
+ có lãnh thổ xác định
+ có dân cư ổn định
+ có bộ máy quyền lực NN (chính phủ)
+ có khả năng độc lập khi tham gia vào các quan hệ PL quốc tế
==> Do đó chủ quyền quốc gia không phải yếu tố cơ bản cấu thành nên quốc gia (2)
Trong 1 số trường hợp đặc biệt, cá nhân, pháp nhân có thể trở thành chủ thể của luật Quốc tế
` Sai. Một thực thể được coi là chủ thể của luật Quốc tế nếu thỏa mãn các yếu tố:
+ có tham gia vào các quan hệ PL quốc tế
+ có quyền và khả năng gánh vác nghĩa vụ quốc tế một cách độc lập
+ có khả năng gánh vác các trách nhiệm pháp lý quốc tế phát sinh từ chính hành vi của chủ
thể đó
Mặc dù trong một số trường hợp đặc biệt, cá nhân, pháp nhân có thể tham gia vào quan hệ
PL quốc tế, VD trong liên minh châu Âu thì công dân có quyền kiện bất kỳ quốc gia nào bị coi
vi phạm nhân quyền, tuy nhiên nhân, pháp nhân này không được coi là chủ thể của PL quốc tế
vì không đảm bảo khả năng gánh vác nghĩa vụ quốc tế một cách độc lập.
Chủ thể của luật Quốc tế bao gồm:
+ các quốc gia
+ các tổ chức quốc tế liên chính phủ
lOMoARcPSD| 45734214
+ các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết
+ một số chủ thể đặc biệt: Hồng Kông, Macau, Đài Loan, tòa thánh Vatican, …
(3) Điều ước quốc tế chỉ thể phát sinh hiệu lực sau khi các quốc gia tiến hành thủ tục phê
chuẩn
Sai. Theo Công ước Viên 1969 về điều ước quốc tế thì hiệu lực của điều ước quốc tế do các
bên thỏa thuận, có thể ngay sau khi ký đầy đủ, hoặc phải yêu cầu được phê chuẩn / phê duyệt
(4) Điều ước quốc tế chỉ có giá trị pháp lý ràng buộc đối với các quốc gia thành viên mà không
cógiá trị pháp lý ràng buộc đối với quốc gia thứ 3
Sai. Về nguyên tắc, điều ước quốc tế chỉ giá trị pháp ràng buộc đối với các bên
thành viên của điều ướckhông hiệu lực đối với quốc gia thứ 3. Tuy nhiên trong 1 số trường
hợp đặc biệt, điều ước quốc tế có thể phát sinh hiệu lực đối với bên thứ 3, bao gồm:
+ điều ước quốc tế tạo ra quyền và nghĩa vụ cho bên thứ 3 và được bên thứ 3 đồng ý
+ điều ước quốc tế tạo ra hoàn cảnh khách quan
+ điều ước quốc tế chứa đựng điều khoản tối huệ quốc
(5) Quy phạm tùy nghi không có giá trị pháp lý bắt buộc đối với chủ thể của luật Quốc tế
Sai. Vì quy phạm tùy nghi trong luật quốc tế những quy phạm PL có giá trị pháp bắt
buộc đối với các chủ thể luật Quốc tế, nhưng trong giới hạn cho phép thì các chủ thể có thể thỏa
thuận và áp dụng khác.
(6) Trong LQT không tồn tại cơ chế cưỡng chế
Sai. Vì: Trong LQT các chủ thể
(7) Luật quốc tế có giá trị cao hơn luật quốc gia
(8) Chủ quyền quốc gia không thể bị hạn chế trong mọi trường hợp
(9) Chủ thể của Luật quốc tế có quyền năng như nhau khi tham gia vào quan hệ pháp luật
(10) Mọi hành vi sử sụng vũ lực trong quan hệ quốc tế đều vi phạm pháp luật quốc tế
(11) Công nhận 1 quốc gia mới trong quan hệ quốc tế là nghĩa vụ của quốc gia
Sai. Đấy không phải điều quan trọng. Để được trở thành 1Quốc giahay không là cho chính nó,
quốc gia cần đảm bảo 4 điều kiện: có dân số ổ định; Có lãnh thổ xác đinh; Có chính phủ; Có khả
năng tham gia vào các QHQT. Do vậy Công nhận 1 quốc gia mới trong quan hệ quốc tế không
phải là nghĩa vụ của quốc gia mà Quốc gia A công nhận quốc gia B là Quốc gia A chấp nhận tư
cách của QGB với tất cả các quyền và nghĩa vụ được xác định bởi LQt.
(12) mọi hành vi đơn phương chấm dứt các cam kết quốc tế đều vi phạm luật quốc tếSai vì:
Căn cứ theo khoản 2 Điều 65 Công ước Viên về Luật Điều ước quốc tế năm 1969 quy định như
sau Thủ tục cho việc tuyên vô hiệu, chấm dứt, rút khỏi hoặc tạm đình chỉ việc thi hành một
lOMoARcPSD| 45734214
điều ước 1. Trên cơ sở các quy định của Công ước này, bên nêu lên một khiếm khuyết của sự
đồng ý của mình chịu sự ràng buộc của một điều ước hoặc một lý do nhằm phủ nhận giá trị hiệu
lực của một điều ước, chấm dứt, rút khỏi hoặc tạm đình chỉ việc thi hành điều ước đó, sẽ phải
thông báo ý định của mình cho các bên khác. Trong thông báo phải ghi rõ các biện pháp dự
định thực hiện đối với điều ước và lý do áp dụng các biện pháp đó.
2. Trừ các trường hợp đặc biệt khẩn cấp, nếu sau một thời hạn không dưới ba tháng kể từ ngày
nhận được thông báo, mà không có bên nào phản đối, thì bên thông báo có thể thực hiện các
biện pháp mà mình dự kiến, theo các thể thức quy định ở Điều 67.
...
Như vậy, một quốc gia thông báo lý do nhằm chấm dứt điều ước quốc tế thì các bên khác có thể
phản đối không dưới ba tháng kể từ ngày nhận được thông báo.
(13) Mọi tổ chức quốc tế đều là chủ thể của LQT
Sai vì: Chủ thể quả LQT là: Quốc gia, các tổ chức quốc tế liên chính chính phủ; các dân tộc
đang dấu tranh giành quyền tự quyết; chủ thể đặt biệt. Trong đó chủ thể Quốc gia có quyền năng
cao nhất. Tổ chức quốc tế phi chính phủ không phải là chủ thể của LQT
(14) Các quy tắc xử sự lặp đi lặp lại trong quan hệ quốc tế là tập quán quốc tế.
Sai vì: TQQT là các quy tắc xử sự lặp đi lặp lại trong QHQT và được công nhận giá trị
pháp lý là Luật trong Luật QT do vậy những quy tắc xử sự lặp đi lặp lại trong quan hệ quốc tế
nhưng không được LQT công nhận là luật thì không phải là Tập quán quốc tế.
VẤN ĐỀ 3: CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA LUẬT QUỐC TẾ I. Khái niệm 1. Định
nghĩa
- Nguyên tắc cơ bản của luật Quốc tế được hiểu những tư tưởng chính trị, pháp lý mang
tính chủ đạo, bao trùm và có giá trị bắt buộc chung đối với mọi chủ thể trong mọi lĩnh vực của
đời sống PL quốc tế.
- Có 7 nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế:
(1) Nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia
(2) Nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế (pacta sunt servanda)
(3) Nguyên tắc cấm dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế
(4) Nguyên tắc hòa bình trong giải quyết tranh chấp quốc tế
(5) Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác
(6) Nguyên tắc tôn trọng quyền dân tộc tự quyết
(7) Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau
- Phân làm 2 nhóm. Trong đó 4 nguyên tắc có ngoại lệ, 3 nguyên tắc không có
Nguyên tắc truyền thống (hình thành từ khi LQT hình thành đến nay): (1), (2)
Nguyên tắc Hiện đại (hình thành sau này): (3), (4), (5), (6), (7).
2. Đặc điểm
- Có tính mệnh lệnh bắt buộc chung:
7 nguyên tắc cơ bản này mang tính bắt buộc đối với mọi chủ thể trong mọi lĩnh vực.
7 nguyên tắc bản này thước đo tính hợp pháp của tất cả các QPPL khác cũng như tất
cả các hành vi của các chủ thể PL LQT. Do đó trái với nguyên tắc cơ bản sẽ không có giá
trị pháp lý.
LQT đề cao sự thỏa thuận, nhưng nếu sự thỏa thuận đó vi phạm bất kỳ nguyên tắc nào trong
7 nguyên tắc cơ bản này thì đều bị coi là vi phạm nghiêm trong PL quốc tế.
Điều kiện để Điều ước quốc tế có hiệu lực:
Các quốc gia thỏa thuận trên tinh thần tự nguyên, bình
đẳng Không được trái với quy định của hiến pháp quốc
tế Tuân thủ đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền ký kết.
- Có tính bao trùm (phổ cập):
lOMoARcPSD| 45734214
nội dung của các nguyên tắc cơ bản này được ghi nhận trong hầu hết các điều ước quốc tế
(được thực hiện trong tất cả các lĩnh vực;
chuẩn mực xác định tính hợp pháp của toàn bộ hệ thống PLQT) . Văn bản pháp quốc
tế quan trọng nhất ghi nhận 7 nguyên tắc này chính là Hiến chương Liên hợp quốc.
- Có tính hệ thống:
7 nguyên tắc này có nội dung không độc lập với nhau, phải thực hiện được nguyên tắc này
thì mới thực hiện được nguyên tắc kia, và ngược lại.
Ví dụ nguyên tắc cấm dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế và nguyên tắc hòa bình trong giải
quyết tranh chấp quốc tế liên quan chặt chẽ với nhau: muốn dùng biện pháp hòa bình trong
giải quyết tranh chấp quốc tế thì phải đảm bảo không dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế, và ngược
lại.
II. Các nguyên tắc truyền thống 1. Nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia
- sở pháp lý: Liên Hợp Quốc ra đời năm 1945 đã lấy nguyên tắc bình đẳng chủ quyền
giữa các quốc gia làm sở cho hoạt động của mình (được ghi nhận trong Khoản 1 Điều 2 của
Hiến chương: Liên hợp quốc được xây dựng trên nguyên tắc bình đẳng chủ quyền của tất cả các
quốc gia thành viên”). Đến năm 1970, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc một lần nữa khẳng định
ghi nhận một cách đầy đủ nội dung pháp lý của nguyên tắc này trong Tuyên bố ngày 24/10/1970.
- Chủ quyền quốc gia là thuộc tính chính trị, pháp lý tự nhiên, vốn có không thể tách rời của
quốc gia (không phải dấu hiệu nhận biết của quốc gia). Bao gồm 2 nội dung bản quyền
tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình (vùng trời, đất, biển…) quyền độc lập
trong quan hệ quốc tế.
Quốc gia quyền tối cao trong phạm vi lãnh thổ của mình thể hiện chủ yếu thông qua việc
thực hiện thẩm quyền mang tính hoàn toàn, tuyệt đối riêng biệt. Tính hoàn toàn tuyệt đối
thể hiện qua hai phương diện quyền lực vật chất. Ở phương diện quyền lực: Quốc gia quyền
bất khả xâm phạm về lãnh thổ, quyền quyết định đường lối phát triển của đất nước, lựa chọn
các phương thức phù hợp để thực hiện trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa hội;
quyền thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, pháp thông qua hệ thống quan nhà nước từ
trung ương đến địa phương; thực hiện thẩm quyền với mọi cá nhân, tổ chức đang hoạt động trên
lãnh thổ quốc gia. phương diện vật chất: Quốc gia quyền khai thác bảo vệ nguồn tài
nguyên nằm phía trong biên giới quốc gia; quốc gia thực hiện quyền lực của mình một cách đầy
đủ, trọn vẹn trên sở tôn trọng lợi ích của cộng đồng dân sống trên vùng lãnh thổ đó đồng
thời phù hợp với các quyền dân tộc cơ bản. Tính riêng biệt thể hiện ở chỗ quốc gia là chủ thể duy
nhất quyền sử dụng lãnh thổ của mình thực hiện quyền lực trên lãnh thổ đó. Các quốc gia
khác nghĩa vụ tôn trọng không được áp đặt quyền lực của họ không can thiệp vào công việc
nội bộ của quốc gia này.
Quốc gia hoàn toàn độc lập, không lệ thuộc vào bất kỳ chủ thể nào trong việc tham gia vào
một quan hệ pháp luật quốc tế cụ thể. Việc kết các Điều ước quốc tế, thiết lập quan hệ ngoại
giao lãnh sự hay gia nhập các tổ chức quốc tế là những biểu hiện điển hình của việc thực hiện chủ
quyền đối ngoại của quốc gia.
- Ngay từ thời cổ đại, luật pháp quốc tế đã thừa nhận các quốc gia đều bình đẳng về chủ
quyền (nguyên tắc được hình thành trong giai đoạn loài người chuyển từ chế độ phong kiến sang
chế độ tư bản chủ nghĩa và trở thành nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế thời kỳ tư bản chủ nghĩa.
Tuy nhiên cũng giống như các nguyên tắc khác trong thời kỳ này nguyên tắc này chỉ được áp
dụng để điều chỉnh các mối quan hệ giữa các quốc gia nhất định: bình đẳng về chủ quyền giữa
các quốc gia văn minh). Đến pháp luật quốc tế hiện đại thì bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc
gia là nền tảng quan trọng nhất của quan hệ quốc tế hiện đại.
- Nội dung nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia:
Các quốc gia bình đẳng về mặt pháp lý
Mỗi quốc gia có chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ
Mỗi quốc gia có nghĩa vụ tôn trọng quyền năng chủ thể của các quốc gia khác
lOMoARcPSD| 45734214
Sự toàn vẹn về lãnh thổ và tính độc lập về chính trị là bất di bất dịch
Mỗi quốc gia có quyền tự do lựa chọn và phát triển chế độ chính trị, xã hội, kinh tế, và văn
hóa của mình
Mỗi quốc gia có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ và tận tâm các nghĩa vụ quốc tế của mình và tồn
tại hòa bình cùng các quốc gia khác
- Mỗi quốc gia có các quyền chủ quyền bình đẳng sau:
Được tôn trọng về quốc thể, sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ về chính trị, kinh tế, hội và
văn hóa
Được tham gia giải quyết các vấn đề có liên quan đến lợi ích của mình
Được tham gia tổ chức quốc tê, hội nghị quốc tế với các lá phiếu có giá trị ngang nhau
Được ký kết và gia nhập các điều ước quốc tế liên quan
Được tham gia xây dựng pháp luật quốc tế, hợp tác quốc tế bình đẳng với các quốc gia khác
Được hưởng đầy đủ các quyền ưu đãi, miễn trừ và gánh vác các nghĩa vụ như các quốc gia
khác
Chú ý: bình đẳng không phải là cào bằng, mà là bình đẳng tương ứng giữa quyền và nghĩa vụ.
Ví dụ 5 quốc gia (Trung quốc, Mỹ, anh, pháp, nga) trong Hội đồng bảo an LHQ có nhiều quyền
hơn hẳn các quốc gia khác, tuy nhiên họ cũng phải gánh vác những trách nhiệm cùng to lớn,
hơn rất nhiều so với các quốc gia khác, như nghĩa vụ tài chính, nghĩa vụ đóng góp lực lượng
trang để duy trì hòa bình an ninh trên toàn thế giới,… Hơn nữa khi tham gia các điều ước quốc
tế, các thành viên đều cam kết tự nguyện chấp hành điều ước ==> bình đẳng tự nguyện - Ngoại
lệ:
Trường hợp các quốc gia bị hạn chế chủ quyền: trường hợp các chủ thể họ bị áp dụng
các biện pháp chế tài hoặc sự trừng phạt quốc tế do có hành vi vi phạm nghiêm trọng PL quốc tế.
VD: Vào năm 1990, Irắc xâm chiếm Cô oét một nước láng giềng nhỏ nhưng giàu dầu mỏ và
hai ngày sau tuyên bố Cô oét một phần của Irắc. Trước hành vi phá hoại sự hòa bình quốc tế,
Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc đã sử dụng những biện pháp trừng phạt nặng nề nhất để hạn chế
chủ quyền của quốc gia này như cấm vận gần như hoàn toàn về buôn bán và tài chính; bị giám sát
các nguồn thu từ dầu mỏ các nguồn thu khác; bị áp đăt chương trình “Đổi dầu lấy lương
thực”,…;
Triền Tiên bị cấm vận do vi phạm điều ước không phổ biến vũ khí hạt nhân
Chú ý: việc hạn chế chủ quyền ở đây phải do LHQ thực hiện (thông qua Nghị quyết của
LHQ), không phải là trường hợp 1 hay một số quốc gia áp dụng lệnh trừng phạt với 1 quốc gia.
VD Nga bị các nước phương Tây trừng phạt do xâm lược Ucraina
Trường hợp quốc gia tự hạn chế chủ quyền: đây là trường hợp mà quốc gia tự lựa chọn vì
lợi ích của mình mà họ tự hạn chế chủ quyền của mình bằng cách trao quyền cho một chủ thể khác
để thay mặt họ trong các hoạt động liên quan đến lợi ích quốc gia.
Hoặc các quốc gia đó tự mình hạn chế quyền hạn tham gia vào các tổ chức quốc tế. Trong
những trường hợp đó quốc gia tự thu hẹp chủ quyền và không vi phạm nguyên tắc bình đẳng chủ
quyền giữa các quốc gia (Quốc gia tuyên bố trung lập).
Có 2 loại trung lập:
Trung lập tạm thời: tức là giữ thái độ trung lập trong 1 vụ việc cụ thể
Trung lập vĩnh viễn: không tham gia vào bất kỳ tổ chức chính trị nào, trong tất cả các
cuộc tranh chấp quốc tế thì không được bày tỏ chính kiến, không được tham gia vào bất
kỳ phe phái nào. dụ Thụy Sỹ quốc gia trung lập. (tuy nhiên hiện nay đang sự tranh
cãi về tính trung lập của Thụy Sỹ do Thụy Sỹ đã làm đơn xin gia nhập EU)
2. Nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế (pacta sunt servanda)
- Nguồn: Nguyên tắc pacta sunt servanda đã tồn tại lâu đời trong luật pháp quốc tế – có thể
xem là “nguyên tắc lâu đời nhất của luật pháp quốc tế.”[1] Nguyên tắc này là một nguyên tắc
bản của luật điều ước quốc tế,[2] được xem một quy định tính chất “hiến định” điều chỉnh
việc thực thi tất cả các điều ước quốc tế trong luật quốc tế. Điều 26 của Công ước Viên về Luật
điều ước quốc tế năm 1969 ghi nhận lại nguyên tắc này như sau: “Mỗi điều ước quốc tế đang
lOMoARcPSD| 45734214
hiệu lực đều ràng buộc các bên thành viên của điều ước đó và phải được các bên thực thi một các
thiện chí.”
- CSPL: Khoản 2 Điều 2 Hiến chương LHQ: Tất ccác quốc gia thành viên Liên hợp quốc
đều phải làm tròn những nghĩa vụ mà họ phải đảm nhận theo Hiến chương này để được đảm bảo
hưởng toàn bộ các quyền và ưu đãi do tư cách thành viên mà có” - Nội dung:
Theo nguyên tắc này, các quốc gia nghĩa vthực hiện 1 cách tận tâm, thiện chí, trung
thực, đầy đủ, đúng tất cả các cam kết quốc tế của mình, bao gồm:
các điều ước quốc tế, tập quán quốc tế có giá trị pháp lý ràng buộc đối với quốc gia đó
hành vi pháp lý đơn phương của quốc gia
các phán quyết của cơ quan tài phán quốc tế mà quốc gia đó là 1 trong các bên tranh chấp
Các quốc gia không được phép viện dẫn sự khác biệt giữa luật quốc tế và luật quốc gia để từ
chối thực hiện cam kết quốc tế của mình
Các quốc gia không được phép ký kết tham gia các điều ước quốc tế có nội dung mâu thuẫn
với các cam kết quốc tế mà quốc gia đã là thành viên - Ngoại lệ:
Khi 1 bên vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ điều ước thì bên còn lại quyền viện dẫn sự vi
phạm đó để từ chối thực hiện nghĩa vụ của mình (Đ 61 CƯ 1969)
VD: Điều ước quy định cho thuê 1 hòn đảo mà hòn đảo đó bị chìm xuống => Bên có nghĩa
vụ có quyền viện dẫn để từ chối thực hiện nghĩa vụ trả tiền thuê của mình. Khi xuất hiện sự
thay đổi cơ bản về hoàn cảnh khách quan (Đ62 CƯ 1969)
Khi xuất hiện quy phạm jus cogens (quy phạm mệnh lệnh) mới nội dung mâu thuẫn với
các cam kết quốc tế.
Nghĩa vụ thực thi Hiến chương LHQ khi có xung đột với các điều ước khác thì theo Điều 103
Hiến chương quy định: “ Trong trường hợp có xung đột giữa nghĩa vụ của thành viên LHQ theo
Hiến chương này nghĩa vụ theo bất kỳ thỏa thuận quốc tế khác, nghĩa vụ theo Hiến chương
này được ưu tiên áp dụng”. Điều đó nghĩa nguyên tắc mệnh lệnh skhông được xem bị
vi phạm nếu nột quốc gia từ chối thực thi 1 nghĩa vụ điều ước để thực thi nghĩa vụ theo Hiến
chương.
3. Nguyên tắc cấm dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế
- Đây nguyên tắc jus cogens mới được đưa vào luật quốc tế từ năm 1945. Trước đó 1
nguyên tắc jus cogens từ luật quốc tế cổ đại là quyền được sử dụng chiến tranh: “Bất kỳ quốc gia
nào cũng có quyền sử dụng sức mạnh vũ trang để giải quyết mọi tranh chấp liên quan đến mình”.
- Khoản 4 Điều 2 của Hiến chương LHQ 1970: Tất cả các quốc gia thành viên Liên hợp
quốc từ bỏ đe dọa bằng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế nhằm chống lại sự bất
khả xâm phạm về lãnh thổ hay nền độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào cũng như bằng cách
khác trái với những mục đích của Liên hợp quốc.
- Nguyên tắc còn được chi tiết hóa trong một số nghị quyết của đại hội đồng Liên hợp quốc,
như nghị quyết định nghĩa về chiến tranh xâm lược 1974, tuyên bố về nỗ lực tăng cường hiệu lực
của nguyên tắc khước từ đe dọa vũ lực và dùng vũ lực 1987.
- Nội dung của nguyên tắc này:
cấm xâm chiếm lãnh thổ quốc gia khác trái với các quy định của luật quốc tế
cấm các hành vi trấn áp bằng vũ lực
không được cho quốc gia khác sử dụng lãnh thổ nước mình để tiến hành xâm lược chống lại
quốc gia thứ ba
không tổ chức, xúi giục, giúp đỡ hay tham gia vào nội chiến hay các hành vi khủng bố tại
quốc gia khác
không tổ chức hoặc khuyến khích việc tổ chức các băng nhóm trang, lực lượng trang
phi chính quy, lính đánh thuê để đột nhập vào lãnh thổ quốc gia khác.
Điều 42 Hiến chương LHQ quy định nếu những biện pháp phi quân sự được khuyến nghị
không đủ để giải quyết tranh chấp thì Hội đồng Bảo an LHQ thể tiến hành các biện pháp cần

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45734214
CÔNG PHÁP QUỐC TẾ Giáo trình Luật Quốc tế 2016 – Đại học luật Hà Nội Công
ước Montevideo 1933 về quyền và nghĩa vụ của các quốc gia
Hiến chương Liên hợp quốc •
Công ước Viên 1961 về quan hệ ngoại giao •
Công ước Viên 1963 về quan hệ lãnh sự •
Công ước Viên 1969 về luật điều ước quốc tế •
Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982 4 tội được coi là tội phạm quốc tế:
- Tội phạm xâm lược - Tội phạm chiến tranh - Tội diệt chủng - Tội phạm xâm
phạm loài người VẤN ĐỀ 1: KHÁI NIỆM, LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN I. Khái niệm 1.

Phân biệt 1 số thuật ngữ
(Cùng chỉ 1 đối tượng nhưng do thời gian, địa điểm khác nhau nên tên gọi khác nhau)
- Luật giữa các quốc gia - Luật đối ngoại
- Luật giữa các dân tộc
Luật Quốc tế (công pháp quốc tế): nói chung chung, khái quát một cách toàn diện
Công pháp: Muốn phân biệt nó với các ngành luật khác
- Hệ thống pháp luật quốc tế
- Điều chỉnh mqh giữa các quốc gia và các chủ thể khác của Luật quốc tế. Tư pháp quốc tế:
- Ngành luật của HTPL quốc gia
- Điều chỉnh mqh dân sự có yếu tố nước ngoài 2. Định nghĩa
CPQT hay LQT là 1 HTPL bao gồm tổng thể các nguyên tắc và QPPL do các quốc gia và chủ
thể khác của LQT thỏa thuận xây dựng nên trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, nhằm điều chỉnh
những quan hệ phát sinh giữa quốc gia và các chủ thể đó trong mọi lĩnh vực của đời sống quốc
tế. 3. Đặc trưng cơ bản của LQT
3.1. Về đối tượng điều chỉnh
LQT chỉ điều chỉnh MQH giữa các quốc gia và các chính phủ, không điều chỉnh các MQH
giữa các cá nhân và pháp nhân có yếu tố nước ngoài.
VD: người VN kết hôn với người nước ngoài, doanh nghiệp VN ký kết hợp đồng với doanh
nghiệp nước ngoài đều không thuộc phạm vi điều chỉnh của LQT (mà thuộc đối tượng điều chỉnh
của luật hôn nhân gia đình, luật thương mại, ở mục có yếu tố nước ngoài)
Chú ý: trong một số trường hợp đặc biệt thì cá nhân hay pháp nhân có thể tham gia vào quan hệ PL LQT.
VD: trong liên minh EU cho phép cá nhân có quyền khởi kiện các quốc gia, chẳng hạn khi
quốc gia đó không đảm bảo quyền cơ bản của con người. Tuy nhiên cá nhân hay pháp nhân đó
không được coi là chủ thể của LQT.
3.2. Chủ thể của LQT
a. Một thực thể được coi là chủ thể của luật Quốc tế nếu thỏa mãn các yếu tố:
- Phải là 1 thực thể độc lập
- Có khả năng tự mình thiết lập, tham gia vào các QHPL quốc tế
- Có đầy đủ quyền, nghĩa vụ cũng như khả năng gánh vác nghĩa vụ quốc tế một cách độc lập
- Có khả năng gánh vác các trách nhiệm pháp lý quốc tế phát sinh từ chính hành vi do chủ thể đó thực hiện.
b. Chủ thể của luật Quốc tế bao gồm: (1) Quốc gia:
- Là chủ thể cơ bản và chủ yếu của luật Quốc tế (chủ quyền quốc gia)
- Một thực thể được coi là 1 quốc gia khi có đủ 04 yếu tố (theo Điều 1 Công ước Montevideo 1993)
Có dân cư ổn định (thường xuyên, lâu dài) lOMoAR cPSD| 45734214
Dân cư của quốc gia là tổng hợp những người cư trú, sinh sống trên phạm vi lãnh thổ quốc
gia, chịu sự điều chỉnh của pháp luật quốc gia đó.
Có lãnh thổ xác định (đã được xác định thông qua cột mốc biên giới)
Có Chính phủ (bộ máy quyền lực NN)
Có khả năng độc lập khi tham gia vào các QHPL quốc tế
- Chủ quyền quốc gia: là thuộc tính chính trị, pháp lý tự nhiên, vốn có của quốc gia, bao gồm
quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ và quyền độc lập trong quan hệ quốc tế.
Tức là khi đã là quốc gia thì sẽ có chủ quyền, được thể hiện qua 2 khía cạnh:
Đối nội: Quyền tối cao trong phạm vi lãnh thổ: quốc gia có toàn quyền thiết lập thể chế
chính trị, chế độ xã hội, có toàn quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trong phạm vi lãnh
thổ của mình mà không bị các quốc gia khác tác động
Đối ngoại : Quyền độc lập trong quan hệ quốc tế: có toàn quyền trong việc quyết định sẽ
quan hệ với ai, ký kết các điều ước quốc tế nào, ở lĩnh vực nào, mức độ đến đâu, … hoàn
toàn chỉ phụ thuộc vào ý chí của quốc gia đó mà không bị tác động của bên ngoài
Chú ý: chủ quyền dân tộc là khái niệm hẹp hơn so với chủ quyền quốc gia, chủ quyền dân tộc là
việc dân tộc tự quyết định vận mệnh của mình.
(2)Tổ chức quốc tế liên chính phủ
Các tổ chức quốc tế liên chính phủ: do các quốc gia thỏa thuận thành lập: Có quyền năng chủ
thể của LHQ; Có cơ cấu tổ chức bộ máy riêng hoạt động thường xuyên, liên tục và có tư cách độc lập khi tham gia vào QHQT. -
Là chủ thể hạn chế và phái sinh.
Câu hỏi: Vì sao nói quyền năng của tổ chức quốc tế liên chính phủ là hạn chế và phái sinh ?
Khác với chủ thể quốc gia là loại chủ thể cơ bản và chủ yếu của luật Quốc tế, vì tất cả các
QHPL QT ban đầu đều do các quốc gia đặt ra, các quốc gia đóng vai trò trung tâm trong PL quốc
tế, quốc gia là thực thể có quyền năng cơ bản và đầy đủ nhất (xuất phát từ thuộc tính chủ quyền
quốc gia), cứ có đầy đủ 4 yếu tổ là trở thành quốc gia và có đầy đủ quyền năng tham gia vào các
quan hệ luật quốc tế mà chỉ phụ thuộc vào ý chí của chính quốc gia đó.
Tổ chức quốc tế liên chính phủ không có quyền năng như quốc gia, mà quyền năng chủ thể
của tổ chức liên chính phủ do các quốc gia thành viên tự hạn chế 1 phần quyền năng chủ thể của
mình để trao cho tổ chức quốc tế liên chính phủ để đại diện cho các quốc gia thành viên để tham
gia các quan hệ PL quốc tế. Do đó quyền năng của tổ chức quốc tế không phải do tự thân mà có
==> quyền năng phái sinh.

Khác với quốc gia có thể tham gia bất kỳ quan hệ quốc tế trên bất kỳ lĩnh vực nào (chính trị,
quân sự, kinh tế, tôn giáo, văn hóa, …), thì 1 tổ chức quốc tế chỉ tham gia vào 1 hoặc 1 số lĩnh
vực nhất định, ví dụ:
WTO chỉ tham gia trên lĩnh vực thương mại
NATO chỉ hoạt động trên lĩnh vực quân sự
Liên hợp quốc chỉ hoạt động trên lĩnh vực duy trì hòa bình và an ninh trên thế giới
ASEAN chỉ hoạt động trên lĩnh vực kinh tế và chính trị.
Quyền năng của tổ chức quốc tế khi tham gia quan hệ quốc tế hoàn toàn phụ thuộc vào các
quốc gia thành viên ==> quyền năng hạn chế.
- Tổ chức quốc tế liên chính phủ là thực thể liên kết giữa các quốc gia và các tổ chức quốc tế
trên cơ sở 1 điều ước quốc tế nhằm hoạt động theo đúng mục đích và tôn chỉ của tổ chức đó.
Chú ý: chỉ có tổ chức quốc tế liên chính phủ mới là chủ thể của luật Quốc tế, còn tổ chức
quốc tế phi chính phủ không phải là chủ thể của luật Quốc tế.
- Phân biệt tổ chức quốc tế liên chính phủ và tổ chức quốc tế phi chính phủ:
Tổ chức quốc tế liên chính phủ
Tổ chức quốc tế phi chính phủ
Liên hợp quốc, Liên minh Châu Âu, Khối quân sự bắc Liên đoàn bóng đá thế giới Ví dụ đại tây dương (NATO)
(FIFA), Hội chữ thập đỏ quốc tế lOMoAR cPSD| 45734214
Mục đích Hoạt động vì mục đích chính trị, kinh tế
Phi lợi nhuận, thường vì mục đích nhân đạo
Là các quốc gia, trong 1 số trường hợp đặc biệt thì tổ
chức liên chính phủ này có thể là thành viên của tổ chức Thành viên
Thường là cá nhân, pháp nhân
liên chính phủ khác, VD liên minh châu Âu (EU) là
thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO)
Có bộ máy, cơ quan để duy trì hoạt động thường xuyên Bộ máy tổ
Không có bộ máy, cơ quan như
của tổ chức, thường gồm cơ quan đoàn thể, cơ quan đại chức
tổ chức liên chính phủ
diện, ủy ban thư ký, …
(3)Chủ thể: Các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết
- Hiện tại (năm 2016) trên thế giới chỉ còn duy nhất 1 chủ thể loại này là Palestin (liên hợp
quốc đã trao cho Palesin quy chế Nhà nước quan sát viên)
- Với chủ thể này, do không phải là quốc gia nên không có chủ quyền quốc gia, mà chỉ có chủ quyền dân tộc.
Chủ quyền dân tộc hạn chế so với chủ quyền quốc gia, các dân tộc đang đấu tranh giành
quyền tự quyết có các quyền năng:
Được PL quốc tế bảo vệ
Được nhận trợ giúp từ các quốc gia khác
Có quyền đưa ra các quan điểm chính trị và tự quyết về vận mệnh dân tộc mình, trong đó
có cả quyền quyết định sử dụng sức mạnh vũ trang để đấu tranh giành độc lập tự do
Có quyền thiết lập quan hệ với các chủ thể của luật quốc tế khác
(4)Chủ thể đặc biệt: Hồng Kông, Macau, tòa thánh Vatican, …
- Chỉ có quyền chiếm hữu, không có quyền định đoạt lãnh thổ quả mình; không có dân cư
gốc; Chính phủ: theo tập quyền( 1 người nắm cả hành pháp, lập pháp và tư pháp).
Đôi khi vẫn gặp thông tin “Vatican là quốc gia nhỏ nhất thế giới”, tuy nhiên thực chất Vatican
không phải là 1 quốc gia, vì không có lãnh thổ xác định (vẫn thuộc Italia). Mặt khác, dân cư
Vatican không ổn định, vì khi 1 người từ 1 quốc gia đến Vatican làm việc (VD mục đích tôn giáo)
thì ngay lập tức họ được cấp quốc tịch Vatican trong khi quốc tịch của họ vẫn còn, và khi kết thúc
công việc, họ rời khỏi Vatican thì ngay lập tức cũng không còn quốc tịch Vatican. Ngoài ra Vatican
cũng không có bộ máy quyền lực NN, mà chỉ có các thiết chế tôn giáo. Tuy nhiên Vatican vẫn có
tư cách độc lập khi tham gia vào các quan hệ PL quốc tế.
Chú ý: riêng với trường hợp Đài Loan thì trên thế giới chưa có quan điểm thống nhất, một
số quốc gia đã công nhận Đài Loan là 1 quốc gia (như các quốc gia châu Âu), một số quốc gia
khác không công nhận Đài Loan là 1 quốc gia. Thực tế trong nhiều tổ chức quốc tế thì cả Đài Loan và
Trung Quốc đều là thành viên (như WTO)
Chú ý: Đài Loan không phải là quốc gia vì Đài Loan không có lãnh thổ xác định (về mặt
pháp lý thì đảo Đài Loan vẫn thuộc về Trung Quốc), mặc dù 3 yếu tố còn lại đều đáp ứng.
Chú ý: vấn đề công nhận quốc gia. Hiện vẫn còn có tranh luận về việc 1 thực thể đáp ứng
đầy đủ 4 yếu tố trên thì có được coi là quốc gia không, việc không được các quốc gia khác công
nhận sẽ ra sao (VD trường hợp VN năm 1945 chưa được quốc gia nào công nhận, đến tận năm
1979 mới được gia nhập Liên hợp quốc) ? Hiện có 2 học thuyết:
+ thuyết Cấu thành: 1 thực thể khi đã có đủ 4 yếu tố trên sẽ trở thành 1 quốc gia khi được hầu
hết các quốc gia khác công nhận
+ thuyết Tuyên bố: 1 thực thể đáp ứng đủ 4 yếu tố trên thì sẽ thành 1 quốc gia, không cần biết
các quốc gia khác có công nhận hay không (quan điểm của VN theo thuyết Tuyên bố)
– Công nhận: là hành vi chính trị pháp lý của quốc gia nhằm công nhận chủ thể mới ra đời
của luật Quốc tế, thể hiện quan điểm muốn thiết lập quan hệ một cách toàn diện và đầy đủ với
chủ thể / quốc gia đó. lOMoAR cPSD| 45734214
Tính chính trị và tính pháp lý của việc công nhận quốc gia thể hiện ở:
Việc công nhận hay không công nhận 1 quốc gia không có ý nghĩa quyết định tới tư cách
chủ thể luật Quốc tế của quốc gia mới ra đời. (==> tính pháp lý)
Tuy nhiên việc không được công nhận sẽ có ảnh hưởng đến việc quan hệ quốc tế của quốc gia
đó. VD trường hợp VN do không được công nhận nên không thể tham gia Liên hợp quốc (cho
đến năm 1979, trước đó VN được xếp vào nhóm “các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết”)
Việc 1 quốc gia mới ra đời cũng không đặt ra nghĩa vụ cho các quốc gia đã tồn tại phải tiến
hành công nhận quốc gia đó. (==> tính chính trị)
==> việc 1 quốc gia công nhận 1 quốc gia khác (mới thành lập) phụ thuộc vào lợi ích của việc
công nhận quốc gia đó (nếu tôi công nhận anh thì tôi sẽ được lợi gì và có thể có bất lợi gì)
VD với trường hợp Đài Loan hiện nay, rất nhiều quốc gia đã công nhận Đài Loan là 1 quốc
gia (các quốc gia phương Tây), trong khi cũng có nhiều quốc gia khác không coi Đài Loan là 1
quốc gia (các quốc gia chịu ảnh hưởng của Trung Quốc như VN, Lào, Campuchia, …)
+ Các thể loại công nhận: 2 thể loại •
Công nhận quốc gia: quốc gia được thành lập theo 2 con đường: •
Cách cổ điển: có 1 vùng lãnh thổ, con người đến ở, xã hội hình thành và phát triển đến
mức thành lập quốc gia. (Hiện nay thì không còn quốc gia nào hình thành bằng con đường
này, lý do vì tất cả các vùng lãnh thổ trên thế giới đều thuộc về 1 quốc gia nào đó) •
Thông qua cách mạng xã hội: ví dụ VN năm 1945 được hình thành sau CM tháng 8 (trước
đó được xếp vào nhóm Các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập) ==> đặt ra vấn đề công
nhận từ các quốc gia khác •
Công nhận chính phủ: chính phủ là đại diện cho quốc gia, việc công nhận 1 chính phủ tức
là thừa nhận sự hơp pháp của chính phủ đó. Vấn đề công nhận chính phủ thường được đặt
ra khi chính phủ được thành lập theo con đường không hợp hiến (de-facto), tức là chính
phủ vi hiến (không được thành lập theo Hiến pháp của quốc gia đó, VD gần đây chính phủ
quân sự ở Thái Lan được thành lập sau cuộc đảo chính). Ngược lại là chính phủ hợp hiến
(được thành lập theo Hiến pháp) thì sẽ không đặt ra vấn đề phải công nhận.
Điều kiện để 1 chính phủ vi hiến được công nhận: •
Chính phủ đó được đa số cư dân quốc gia đó thừa nhận, ủng hộ •
Chính phủ đó phải đã và đang thiết lập quyền kiểm soát một cách thực sự trên toàn bộ
phạm vi lãnh thổ quốc gia đó •
Chính phủ đó phải có khả năng kiểm soát lãnh thổ quốc gia đó 1 cách lâu dài
Cách thức công nhận: thông thường nhất là gửi điện chúc mừng Chính phủ
+ Các hình thức công nhận: 03 hình thức •
Công nhận de-jure: là hình thức công nhận đầy đủ, chính thức và toàn diện nhất, thể hiện
mong muốn thiết lập quan hệ toàn diện, chính thức và đầy đủ giữa 2 quốc gia •
Công nhận de-facto: là hình thức công nhận chính thức nhưng chưa đầy đủ, thể hiện thái
độ thận trọng của quốc gia công nhận đối với các diễn biến tiếp theo của chủ thể mới (tức
là công nhận từng phần, có thể dẫn tới công nhận de-jure hoặc không công nhận nữa) •
Công nhận ad-hoc: tức là công nhận theo vụ việc. Chưa công nhận nhưng trong từng vụ
việc cụ thể thì sẽ công nhận. VD chỉ công nhận là quốc gia trong hợp tác thương mại
+ Các phương pháp công nhận: 2 phương pháp •
Công nhận minh thị: là hình thức công nhận công khai, minh bạch, như gửi điện chúc
mừng, tuyên bố, hoặc bằng các văn bản thể hiện rõ ràng việc công nhận quốc gia đó •
Công nhận mặc thị: không công nhận một cách công khai, mà bằng những hành động cụ
thể để có thể duy diễn rằng đã công nhận
Kế thừa quốc gia: là việc 1 quốc gia thay thế cho 1 quốc gia khác trong vấn đề thực hiện
quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế.
Kế thừa quốc gia được đặt ra khi có sự thay đổi về chủ quyền quốc gia một cách tuyệt đối, gồm: lOMoAR cPSD| 45734214
+ thành lập quốc gia sau cách mạng xã hội, VD Liên Xô
+ thành lập quốc gia sau cách mạng giải phóng dân tộc như VN, Lào, Campuchia
+ thành lập quốc gia sau khi chia tách, sáp nhập Nội dung kế thừa:
+ kế thừa về lãnh thổ quốc gia: kể cả trường hợp lãnh thổ quốc gia bị chiếm đóng bất hợp
pháp thì quốc gia kế thừa vẫn có chủ quyền với phần lãnh thổ đó + kế thừa về tài sản quốc gia
+ kế thừa quyền và nghĩa vụ trong các điều ước quốc tế: các quốc gia mới thành lập có
quyền kế thừa hoặc không kế thừa các điều ước quốc tế mà quốc gia trước đây tham gia,
có thể kế thừa toàn bộ hoặc kế thừa có chọn lọc những điều ước quốc tế phù hợp với quốc
gia mới thành lập. Tuy nhiên theo Công ước Viên 1978 thì với điều ước quốc tế về Biên
giới lãnh thổ thì quốc gia mới thành lập bắt buộc phải kế thừa (điểm a khoản 2 điều 62).
Thực tế: năm 1945 Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, trong đó tuyên bố “bãi bỏ tất cả
các điều ước quốc tế mà Pháp đã ký liên quan đến VN”, nhưng đến năm 1999, khi đàm
phán với Trung Quốc về việc phân chia biên giới trên bộ thì VN lại đề nghị 2 bên tuân thủ
theo Hiệp ước Pháp – Thanh 1858 về phân định biên giới trên bộ Việt Nam – Trung Quốc
+ kế thừa về quy chế thành viên trong các điều ước quốc tế: chưa có quy định cụ thể, hiện
thay thông thường các tổ chức quốc tế sẽ kết nạp quốc gia mới thành lập như 1 thành viên mới
3.3. Cơ chế xây dựng LQT
Đặc trưng về sự hình thành luật quốc tế
- Thỏa thuận là con đường duy nhất để hình thành nên các QPPL quốc tế. Khác với luật
quốc gia do cơ quan quyền lực NN ban hành.
Luật quốc tế đa phần gồm các quy phạm tùy nghi, khác với luật quốc gia đa phần là quy phạm
mệnh lệnh. Vì luật quốc gia là ý chí của giai cấp thống trị, còn luật quốc tế được hình thành trên
con đường thỏa thuận, không có quốc gia nào đứng trên quốc gia nào.
Phương pháp xây dựng khác nhau:
Thỏa thuận rõ ràng, minh bạch (công khai) (VD: Ký kết điều ước quốc tế) Tự
Thỏa thuận ngầm định (VD: Cùng thừa nhận quy tắc xử sự chung có tính chất bắt buộc) nguyệ
3.4. Cơ chế thực thi luật Quốc tế: n
- Luật Quốc tế khác với luật quốc gia ở chỗ luật Quốc tế không có hệ thống các cơ quan để
cưỡng chế thi hành PL. Các quy phạm PL quốc tế được đảm bảo thi hành trên cơ sở cơ chế tự
cưỡng chế (Tự thực thi, tự thực hiện quyền và nghĩa vụ). Tự cưỡng chế ở đây không phải là “tự
tôi cưỡng chế tôi”, mà trong quan hệ giữa các chủ thể với nhau thì các chủ thể tự cưỡng chế nhau
để luật quốc tế được thi hành (vì nếu thực thi các quốc gia tham gia cũng có quyền lợi trong đó).
- Bản chất LQT là sự tự thỏa thuận, khi tham gia vào tổ chức này họ có lợi ích => sự tự
cưỡng chế của LQT là rất chặt chẽ. Sự không thực hiện của quốc gia này sẽ ảnh hưởng tới quốc gia kia.
Do vậy sự tự cưỡng chế này không phải là mang tính hình thức.
Có 2 hình thức tự cưỡng chế:
+ Cưỡng chế riêng lẻ: trong quan hệ song phương giữa 2 quốc gia thì các quốc gia tự áp dụng
các phương pháp để buộc bên kia phải thi hành
+ Cưỡng chế tập thể: trong khuôn khổ các điều ước quốc tế đa phương, nếu 1 bên không tuân
thủ thì các bên còn lại sẽ áp dụng các biện pháp để buộc bên đó phải tuân thủ (VD Nga chiến
tranh với Ucraila=> các quốc gia khác không đồng ý => Các đại xứ quán của nga ở các nước
thành viên không thực thi được quyền, chức năng của mình)
Khác với luật quốc gia có hệ thống các cơ quan cưỡng chế thi hành như tòa án, viện kiểm sát, công án, cảnh sát, …
- Tòa án Công lý quốc tế chỉ có thể xử khi cả 2 bên phải cùng trao quyền cho tòa. Tòa không
xử khi 1 bên không yêu cầu.
- Biện pháp cưỡng chế: lOMoAR cPSD| 45734214
+ biện pháp cưỡng chế quân sự
+ Biện pháp cưỡng chế mang tính chính trị, ngoại giao
+ Biện pháp mang tính chất kinh tế (trừng phạt, phong tọa kinh tế…).
Câu hỏi: với cơ chế tự cưỡng chế thì phải chăng luật quốc tế chỉ mang tính hình thức ?
Trả lời (tự trả lời): khi 1 quốc gia vi phạm luật quốc tế thì sẽ bị dư luận quốc tế lên án.
Mặc dù dư luận quốc tế không có tính cưỡng chế nhưng gây ảnh hưởng lớn đối với quốc gia bị
lên án (tương tự như dư luận xã hội trong quốc gia tuy không có tính cưỡng chế bắt buộc nhưng
tác động lên đối tượng còn hơn của sự trừng phạt của PL). Thực tế lịch sử cho thấy trong các tranh
chấp quốc tế, nhất là giữa quốc gia “nhỏ” với cường quốc, thì dù cường quốc có “thua” thì cường
quốc cũng không bao giờ thừa nhận “thua”, tuy nhiên cường quốc sẽ tìm cách cách khác để “bồi
thường, bù đắp” cho nước nhỏ. Ví dụ trường hợp Nicaragua kiện Mỹ năm 1986 ra Tòa án Công
lý quốc tế, Mỹ bị xử thua và phải bồi thường, Mỹ tuyên bố bác bỏ phán quyết của tòa, nhưng sau
đó Mỹ dùng biện pháp viện trợ như 1 cách khác để bồi thường cho Nicaragua. Hoặc với trường
hợp Hội bảo vệ nạn nhân chất độc da cam của Việt Nam kiện các công ty hóa chất, quân sự của
Mỹ, dù không được phía Mỹ thừa nhận, nhưng phía Mỹ thông qua nhiều tổ chức nhân đạo, giáo
dục, y tế đã hỗ trợ cho VN rất nhiều (như chương trình học bổng Fullbright).
II. Quy phạm pháp luật luật Quốc tế 1. Định nghĩa
Cũng giống như hệ thống PL quốc gia, quy phạm PL luật Quốc tế là thành tố nhỏ nhất tạo nên hệ thống PL Quốc tế.
- QPPL LQT là những quy tắc xử sự, những chuẩn chung được xây dựng trên cơ sở thỏa thuận
của các chủ thể của luật Quốc tế nhằm điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể đó (có giá trị
giằng buộc) với các quyền, nghĩa vụ hay trách nhiệm pháp lý quốc tế khi tham gia QH PLQT. 2. Phân loại
a. Căn cứ vào giá trị hiệu lực

Quy phạm mệnh lệnh (jus cogens): là những quy phạm mang tính chất chủ đạo, bao trùm và
có giá trị tối cao bắt buộc (phát sinh quyền và nghĩa vụ) chung đối với mọi chủ thể LQT trong
mọi lĩnh vực của QHQT. Quy phạm jus cogens được coi là thước đo tính hợp pháp của tất cả các
nguyên tắc và quy phạm PL luật quốc tế (QPPL của Các quốc gia thành viên không được trái hoặc
cao hơn) – Quy phạm thông thường (hay quy phạm tùy nghi): là những quy phạm PL có giá
trị pháp lý bắt buộc đối với các chủ thể luật Quốc tế, nhưng trong giới hạn cho phép thì các chủ
thể có thể thỏa thuận và áp dụng khác. (khác với quy phạm mệnh lệnh là các bên không được
phép thỏa thuận khác với quy định). Nghĩa là khi bắt đầu xây dựng các quốc gia được tự thỏa
thuận. Khi đã thành quy phạm thì bắt buộc phải thực hiện)
Chú ý: quy phạm tùy nghi trong luật quốc tế khác với quy phạm tùy nghi trong luật quốc gia. Ví dụ:
+ Các quốc gia có quyền tuyên bố lãnh hải quốc gia mình không quá 12 hải lý tính từ đường
cơ sở ==> quy phạm tùy nghi
+ Cấm sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế ==> quy phạm mệnh lệnh
+ Tại vùng trời quốc gia, mọi sự ra vào của tàu bay nước ngoài đều phải xin phép ==> quy
phạm tùy nghi (vì các quốc gia có thể thỏa thuận với nhau về việc xin phép như thế nào)
==> phân biệt quy phạm mệnh lệnh và quy phạm tùy nghi bằng cách quy phạm mệnh lệnh
không cho phép các chủ thể có bất kỳ sự thỏa thuận nào khác với quy phạm, còn quy phạm tùy
nghi thì các chủ thể có thể thỏa thuận khác với quy phạm (nhưng phải trong giới hạn cho phép).
Quy phạm mệnh lệnh dù không phải là thành viên tổ chức cũng phải tuân theo, QP tùy nghi thì
không phải thành viên không phải tuân theo.

Trong hệ thống luật Quốc tế, có rất ít quy phạm mệnh lệnh mà chủ yếu là quy phạm tùy nghi
(do tính chất thỏa thuận của luật quốc tế trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng giữa các quốc gia).
Ngược lại với luật quốc gia thì đa phần là quy phạm mệnh mệnh, rất ít quy phạm tùy nghi. -
Quy phạm mệnh lệnh trong hệ thống luật quốc tế chỉ bao gồm 2 nhóm: lOMoAR cPSD| 45734214
+ Nhóm 7 nguyên tắc cơ bản của luật Quốc tế,
+ Nhóm các quy phạm của luật Quốc tế trong vấn đề bảo đảm các quyền cơ bản của con người
b. Căn cứ vào hình thức tồn tại -
Quy phạm điều ước quốc tế: tồn tại ở dạng văn bản -
Quy phạm tập quán quốc tế: tồn tại ở dạng phi văn bản -
Quy phạm tồn tại dưới cả hình thức điều ước và tập quán
c. Phạm vi tác động - Quy phạm song phương
- Quy phạm đa phương khu vực
- Quy phạm đa phương toàn cầu
3. Quy tắc quốc tế khác
- Quy phạm đạo đức: Giá trị pháp lý không rằng buộc
- Quy phạm chính trị: Tính định hướng mềm dẻo, không phát sinh trách nhiệm pháp lý quốc tế.
III. Mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia
Trong lịch sử tồn tại 2 học thuyết chính:
Thuyết nhất nguyên: coi PL là 1 hệ thống duy nhất, gồm 2 bộ phận là PL quốc gia và
PL quốc tế. Chia làm 2 phái: + ưu tiên PL quốc tế + ưu tiên PL quốc gia
Thuyết nhị nguyên: coi PL quốc gia và PL quốc tế là 2 hệ thống PL độc lập, trong đó PL
quốc gia chỉ điều chỉnh các mối quan hệ trong nội bộ quốc gia, còn PL quốc tế điều chỉnh các
mối quan hệ giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ với nhau Cả 2 học thuyết trên đều không tiến bộ:
+ với thuyết nhất nguyên, thì nếu theo trường phái ưu tiên luật Quốc gia thì sẽ coi quyền lợi quốc
gia là tối cao, khi đó luật Quốc tế không còn có giá trị nếu mâu thuẫn với luật Quốc gia. Ở nhánh
còn lại, nếu coi luật Quốc tế là tối cao, thì cũng không hợp lý khi các quốc gia mạnh sẽ dễ dàng
lấn át các quốc gia yếu hơn (sẽ không còn tuân thủ nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng trong quan hệ quốc tế)
+ với thuyết nhị nguyên: dễ thấy không hợp lý vì dù là luật quốc gia hay luật quốc tế thì cũng đều
do 1 chủ thể là quốc gia xây dựng nên để thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại của quốc gia,
mà 2 chức năng này không thể tách rời nhau
Hiện nay, mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia được quan niệm như sau:
– Luật quốc tế và luật quốc gia là 2 hệ thống độc lập nhưng có mối quan hệ biện chứng
với nhau:+ luật quốc tế là cơ sở để hình thành và hoàn thiện hệ thống PL của các quốc gia. VD
khi 1 quốc gia trở thành thành viên của 1 tổ chức quốc tế, thì quốc gia đó phải rà soát và điều chỉnh lại hệ thống
PL của nước mình để phù hợp với luật quốc tế
+ các quy phạm PL quốc gia cũng góp phần hoàn thiện và phát triển hệ thống PL quốc tế. VD
hầu hết các tiêu chuẩn về môi trường của PL quốc tế đều xuất phát từ các tiêu chuẩn về môi
trường của 1 quốc gia đi tiên phong trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, sau đó được các nước
ủng hộ và nâng lên thành luật Quốc tế
Câu hỏi: so sánh luật quốc tế và luật quốc gia Luật quốc gia Luật quốc tế
Phạm vi điều Mối quan hệ giữa cá nhân và pháp nhân
Mối quan hệ giữa các quốc gia với nhau
chỉnh trong phạm vi lãnh thổ quốc gia
Hình thành bằng con đường thỏa thuận Hình thành
Là ý chí của giai cấp thống trị giữa các quốc gia dựa trên nguyên tắc bình đẳng, tự
nguyện của các quốc gia Cơ chế
Có hệ thống cơ quan cưỡng chế thi hành Không có hệ lOMoAR cPSD| 45734214
thống cơ quan cưỡng chế thi cưỡng chế
PL (tòa án, viện kiểm sát, công an, …) hành PL (tự cưỡng chế)
Chủ yếu là quy phạm mệnh lệnh, rất ít quy Chủ yếu là quy phạm tùy nghi, rất ít quy Quy phạm phạm tùy nghi phạm mệnh lệnh
Câu hỏi: nếu có 1 vấn đề phát sinh mà luật quốc gia mâu thuẫn với luật quốc tế thì sẽ xử lý thế nào ?
Trả lời: sẽ ưu tiên áp dụng PL quốc tế. Vì trong mọi văn bản PL của VN đều quy định “trong
trường hợp các quy định của luật này trái với các điều ước quốc tế mà VN là thành viên thì ưu
tiên áp dụng điều ước quốc tế”. Đây cũng là quy định chung đối với hầu hết các quốc gia trên thế
giới. Có điều này là vì xuất phát từ 1 trong các nguyên tắc cơ bản của luật Quốc tế: nguyên tắc
tận tâm, thiện chí thực hiện cam kết quốc tế, trong đó quy định “khi 1 quốc gia là thành viên của
1 tổ chức quốc tế, thì quốc gia đó phải có nghĩa vụ tận tâm, thiện chí thực hiện trung thực, đầy
đủ, ngay lập tức tất cả các nghĩa vụ của mình; các quốc gia không được phép viện dẫn sự khác
biệt giữa luật trong nước và luật quốc tế để từ chối thực hiện cam kết quốc tế của mình

Chú ý: cần hiểu là luật quốc tế có giá trị ưu tiên thi hành, chứ không phải luật quốc tế có giá trị
pháp lý cao hơn luật quốc gia.
Câu hỏi 1: giữa luật quốc tế và luật quốc gia thì luật nào có giá trị pháp lý cao hơn.
Trả lời: đây là 2 hệ thống PL độc lập nên không thể so sánh hệ thống nào có giá trị pháp lý cao
hơn. Trong từng trường hợp cụ thể nếu luật quốc gia và luật quốc tế cùng quy định 1 vấn đề thì
sẽ ưu tiên sử dụng luật quốc tế.
Câu hỏi 2: nếu luật Quốc tế mâu thuẫn với Hiến pháp thì xử lý thế nào ?
Trả lời: Về mối quan hệ giữa luật Quốc tế với Hiến pháp, hiện nay các quốc gia có quan điểm
khác nhau: một số quốc gia cho rằng xuất phát từ nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện cam
kết quốc tế thì luật Quốc tế sẽ được ưu tiên thi hành ngay cả so với Hiến pháp; một số quốc gia
khác lại coi luật Quốc tế có giá trị ưu tiên thi hành nhưng vẫn phải ở sau Hiến pháp.
Thực tế Hiến pháp của các quốc gia trên thế giới đều ghi nhận rõ ràng vị trí của luật Quốc tế
so với Hiến pháp ở ngay trong văn bản Hiến pháp, trừ Việt Nam.
Lý lẽ của VN khi không đưa quy định về vị trí của luật Quốc tế trong Hiến pháp: VN có các
văn bản PL quy định về việc ký kết các điều ước quốc tế (mới nhất là Luật điều ước quốc tế
2016) trong đó nêu rõ khi đàm phán để ký kết các điều ước quốc tế thì phải không được trái với
Hiến pháp, do đó ở VN sẽ không có chuyện ký kết điều ước quốc tế trái với Hiến pháp VN
VẤN ĐỀ 2: NGUỒN CỦA LUẬT QUỐC TẾ I. Khái niệm 1. Định nghĩa
- Nguồn của luật Quốc tế được hiểu là những hình thức biểu hiện sự tồn hay chứa đựng các
nguyên tắc, QPPL quốc tế do các quốc gia và các chủ thể khác của LQT thỏa thuận xây dựng nên.
Chú ý: nguồn của luật Quốc tế có nghĩa rộng hơn so với nguồn của PL quốc gia (trong môn
học Lý luận NN và PL): nguồn trong luật quốc gia chỉ là những hình thức chứa đựng các quy
phạm PL, còn nguồn trong luật Quốc tế không chỉ là những hình thức chứa đựng các quy phạm
PL luật Quốc tế mà còn gồm cả những biểu hiện sự tồn tại của các quy phạm PL luật Quốc tế (hay
còn gọi là những phương tiện bổ trợ nguồn).
Câu hỏi: Phương tiện bổ trợ nguồn có phải là nguồn của PL không ? Trả
lời
: nếu với luật quốc gia thì là KHÔNG; nếu với luật quốc tế thì là CÓ
2. Căn cứ để xác định nguồn
II. Cấu trúc nguồn của luật Quốc tế
Nguồn của luật Quốc tế: lOMoAR cPSD| 45734214 – Nguồn cơ bản:
+ Điều ước quốc tế (nguồn thành văn)
+ Tập quán quốc tế (nguồn bất thành văn)
– Nguồn bổ trợ / Phương tiện bổ trợ
nguồn:
+ Nguyên tắc PL chung
+ Phán quyết của Tòa án công lý quốc tế
+ Nghị quyết của tổ chức quốc tế liên chính phủ
+ Hành vi pháp lý đơn phương của quốc gia
+ Các học thuyết của các học giả nổi tiếng về luật quốc
tế 1. Điều ước quốc tế a. Khái niệm
- ĐƯQT là sự thỏa thuận giữa các chủ thể của luật quốc tế với nhau trên cơ sở tự nguyện,
bình đẳng nhằm thiết lập những quy tắc pháp lý bắt buộc gọi là những quy phạm luật quốc tế để
ấn định, thay đổi hoặc hủy bỏ những quyền và nghĩa vụ đối với nhau.
- Trong quan hệ quốc tế hiện nay, điều ước quốc tế chủ yếu được trình bày dưới dạng thành
văn, cũng có thể bằng miệng.
- Là loại nguồn cơ bản và chủ yếu của luật Quốc tế
b. Đặc điểm - Về hình thức :
Về nguyên tắc, điều ước quốc tế phải tồn tại dưới dạng văn bản, nhưng có 1 ngoại lệ duy
nhất, đó là Điều ước quốc tế Quân tử có thể tồn tại dưới dạng bất thành văn. (điều ước Quân tử
chỉ tồn tại sau chiến tranh thế giới, đến nay hầu như không còn, điều ước Quân tử thường là các
cam kết của các quốc gia sau chiến tranh, các quốc gia đó cho rằng khi các quốc gia ký kết điều
ước quốc tế thì các quốc gia đó sẽ bằng danh dự và uy tín của quốc gia mình mà tôn trọng và thực
thi các điều ước quốc tế đó, và việc này không cần phải ký kết bằng văn bản)
Điều ước quốc tế là 1 khái niệm chung (tương tự Văn bản luật trong hệ thống luật Quốc
gia), tùy vào từng trường hợp cụ thể mà điều ước quốc tế sẽ có tên gọi phù hợp: với điều ước để
thành lập các tổ chức quốc tế hay các cơ quan tài phán quốc tế thì sẽ có tên Hiến chương, Điều lệ,
Quy chế; với điều ước quốc tế về phân định biên giới, lãnh thổ thì sẽ có tên là Hiệp định, Công
ước; nghị định thư, … Tuy nhiên, khác với quy định về tên gọi văn bản luật trong hệ thống luật
quốc gia vốn được quy định rất rõ (hiến pháp, luật, nghị định, thông tư, quyết định, chỉ thị …),
thì với luật quốc tế không có bất kỳ quy định nào về việc đặt tên cho điều ước, việc đặt tên đó
hoàn toàn do các bên thỏa thuận.
tên gọi của điều ước quốc tế không có giá trị phân định giá trị pháp lý cao hay thấp của điều
ước quốc tế (điều này khác với tên văn bản luật trong luật quốc gia)
Một điều ước quốc tế thông thường được kết cấu 3 phần: mở đầu, nội dung, kết luận. Phần
nội dung của điều ước quốc tế gồm các điều khoản quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể.
Cũng có trường hợp nội dung của điều ước quốc tế không bao gồm bất cứ điều khoản nào, ví dụ
Tuyên bố thành lập tổ chức ASEAN - Về nội dung :
Nội dung của điều ước quốc tế thông thường bao gồm các điều, khoản ghi nhận quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể
Nội dung khác: thời điểm bắt đầu phát sinh hiệu lực, thời điểm chấm dứt hiệu lực, có cho
bảo lưu không, có được mời các quốc gia khác gia nhập không, …
c. Điều kiện để điều ước quốc tế có thể phát sinh hiệu lực trở thành nguồn của
LQT - Điều ước quốc tế phải thỏa mãn đủ 3 điều kiện sau thì mới phát sinh hiệu lực:
(1) Được ký kết trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng
(2) Nội dung của điều ước quốc tế phải phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật Quốc tế
(3) Phải được ký kết đúng trình tự, thủ tục và thẩm quyền lOMoAR cPSD| 45734214 -
Điều ước quốc tế sẽ vô hiệu tuyệt đối nếu vi phạm điều kiện (2). Tức là nếu điều ước quốc
tế vi phạm các quy phạm jus cogens (quy phạm mệnh lệnh) thì sẽ bị vô hiệu ngay từ khi nó phát
sinh hiệu lực. Còn nếu điều ước quốc tế đã có rồi, sau đó mới có quy phạm jus cogens và chúng
mâu thuẫn với nhau thì điều ước quốc tế sẽ vô hiệu kể từ thời điểm quy phạm jus cogens có hiệu lực. -
Nếu vi phạm điều kiện (1) hoặc (3) thì điều ước quốc tế sẽ vô hiệu tương đối. Tức là vẫn
được coi là có hiệu lực nếu các bên vẫn đồng ý thực thi.
Chú ý: trình tự, thủ tục, và thẩm quyền ở đây là những quy định trong luật quốc gia khi quy định
về việc tham gia ký kết các điều ước quốc tế (mỗi quốc gia có thể có quy định khác nhau). d. Ý
nghĩa, vai trò của điều ước Quốc tế:

Xuất phát từ bản chất của điều ước là sự thỏa thuận của các chủ thể trong quan hệ pháp lý
Quốc tế, điều ước Quốc tế có ý nghĩa: -
Là hình thức pháp Luật cơ bản chứa đựng các quy phạm Luật Quốc tế để xây dựng và ổn
định các cơ sở pháp Luật cho các quan hệ pháp Luật Quốc tế hình thành và phát triển. -
Là công cụ, phương tiện quan trọng để duy trì và tăng cường các quan hệ hợp tác Quốc tế giữa các chủ thể. -
Là đảm bảo pháp lý quan trọng cho quyền lợi và lợi ích hợp pháp của chủ thể Luật Quốc tế. -
Là công cụ để xây dựng khung pháp Luật Quốc tế hiện đại, cũng như để tiến hành hiệu
quả việc pháp điển hóa Luật Quốc tế.
e. Trình tự ký kết điều ước quốc tế
Trải qua 2 giai đoạn: -
Giai đoạn hình thành văn bản điều ước, gồm các bước:
B1: đàm phán: các bên thỏa thuận, thương lượng về tất cả các nội dung về diều ước, bao
gồm quyền và nghĩa vụ của các bên, hiệu lực áp dụng, thời hạn, thời hiệu …
B2: soạn thảo: có 2 cách: các bên sau khi đàm phán sẽ nhờ bên thứ 3 chuyên soạn thảo điều
ước quốc tế; hoặc các bên sẽ cùng nhau lập ra 1 ban soạn thảo gồm đại diện của mỗi bên; hoặc 1
trong các bên soạn dự thảo sẵn điều ước và các bên còn lại sẽ đàm phán trên dự thảo đó
B3: thông qua: là thủ tục nhằm xác nhận văn bản điều ước đã phản ánh đúng nội dung mà
các bên đã đàm phán. Hành vi thông qua không thể hiện sự ràng buộc của điều ước quốc tế đối
với quốc gia mình, tuy nhiên không bên nào được tự ý sửa đổi bổ sung vào văn bản đó. Việc thông
qua theo tỷ lệ như thế nào (quá bán, quá 2/3, …) hoàn toàn do các bên thỏa thuận.
Các bên thể hiện sự thông qua bằng cách ký nháy vào từng tờ của văn bản. -
Giai đoạn xác nhận sự ràng buộc của văn bản điều ước đối với quốc gia mình: thông qua các hành vi: Ký, có 3 hình thức ký: •
Ký tắt: là chữ ký của đại diện các bên khi tham gia đàm phán xây dựng văn bản điều
ước, nhằm xác nhận dự thảo văn bản điều ước quốc tế đã được thông qua. Ký tắt chưa
làm phát sinh hiệu lực của điều ước quốc tế. •
Ký ad referendum: cũng là chữ ký của người đại diện các quốc gia, nhưng có thể làm
phát sinh hiệu lực của điều ước quốc tế nếu có sự đồng ý tiếp theo của cơ quan NN có
thẩm quyền của quốc gia đó (khi đó chữ ký ad referendum sẽ trở thành ký đầy đủ) •
Ký đầy đủ (hay ký chính thức): là hình thức ký phổ biến nhất. Thông thường điều ước
quốc tế sẽ phát sinh hiệu lực ngay sau khi ký đầy đủ nếu các bên không có thỏa thuận
khác, hoặc nếu điều ước quốc tế không đòi hỏi phải thông qua thủ tục phê chuẩn hoặc phê duyệt
Phê chuẩn, phê duyệt điều ước: là hành vi của cơ quan NN có thẩm quyền nhằm xác nhận
sự ràng buộc của văn bản điều ước đối với quốc gia mình.
Chú ý: phê chuẩn = phê duyệt , khác nhau ở thẩm quyền thực hiện:
Phê chuẩn: do cơ quan quyền lực NN thực hiện (Nghị viện, Quốc hội)
Phê duyệt: do Chính phủ thực hiện lOMoAR cPSD| 45734214
==> tùy từng tính chất của điều ước quốc tế mà sẽ cần được phê chuẩn hoặc phê duyệt
Chú ý: không phải mọi điều ước quốc tế đều phải yêu cầu thủ tục phê chuẩn, phê duyệt, điều
này được quy định ngay trong nội dung điều ước. Có những điều ước quốc tế có hiệu lực ngay
sau khi các bên ký đầy đủ. Nếu trong nội dung điều ước có yêu cầu các bên phải phê chuẩn, phê
duyệt thì thông thường điều ước quốc tế sẽ có hiệu lực sau khi các bên trao đổi với nhau Thư phê chuẩn / Thư phê duyệt.
+ gia nhập điều ước quốc tế: là 1 hình thức đặc biệt của quá trình ký kết điều ước quốc tế,
mà theo hình thức này thì các quốc gia không tham gia vào quá trình hình thành văn bản điều
ước mà chỉ tham gia vào quá trình xác nhận sự ràng buộc của văn bản điều ước quốc tế đó đối với mình.
Đó là các trường hợp điều ước quốc tế đã hết thời hạn ký mà quốc gia đó vẫn chưa là
thành viên, hoặc điều ước quốc tế đã phát sinh hiệu lực mà quốc gia đó vẫn chưa là thành
viên Chú ý: ký >< ký kết
Ký: là 1 hành vi trong giai đoạn xác nhận sự ràng buộc của văn bản điều ước quốc tế với quốc
gia mình, tức là chỉ là 1 giai đoạn của ký kết.
Ký kết: là toàn bộ quá trình trên
e. Thẩm quyền ký kết điều ước quốc tế Gồm 2 nhóm: -
Đại diện đương nhiên:
Nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu Chính phủ, bộ trưởng ngoại giao có quyền là đại diện
đương nhiên cho quốc gia, thực hiện bất kỳ hành vi nào trong toàn bộ quá trình ký kết điều ước quốc tế
Người đứng đầu các cơ quan đại diện ngoại giao có quyền đại diện cho quốc gia mình trong
việc thông qua văn bản điều ước quốc tế giữa nước sở tại với nước mình.
Người đại diện cho quốc gia tại các tổ chức quốc tế, hội nghị quốc tế có quyền đại diện cho
quốc gia mình trong việc thông qua văn bản của 1 điều ước quốc tế trong khuôn khổ của hội nghị hoặc tổ chức đó
Ngoài ra, những người đứng đầu các bộ, cơ quan ngang bộ có quyền ký kết những điều ước
quốc tế thuộc lĩnh vực của bộ, ngành mà không cần thư ủy nhiệm. -
Đại diện theo ủy quyền: ngoài các đối tượng trên thì phải trình thư ủy nhiệm khi tham
gia vào quá trình ký kết điều ước quốc tế
f. Hiệu lực của điều ước quốc tế -
Về thời điểm điều ước quốc tế bắt đầu phát sinh hiệu lực: theo thỏa thuận của các
bên - Thời điểm chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế:
Với điều ước quốc tế có thời hạn: chấm dứt hiệu lực theo thời hạn đã thỏa thuận
Với điều ước quốc tế vô thời hạn: chấm dứt hiệu lực khi xảy ra 1 số yếu tố khách quan, chủ
quan ảnh hưởng đến hiệu lực của điều ước quốc tế •
Các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến hiệu lực của điều ước quốc tế:
Khi đối tượng của điều ước quốc tế không còn. Ví dụ điều ước về đối xử
nhân đạo với tù binh trong chiến tranh sẽ kết thúc khi chiến tranh kết thúc; điều ước
giữa Hoa Kỳ với Việt Nam về tìm kiếm người Mỹ mất tích sẽ kết thúc sau khi tìm thấy
hết người Mỹ mất tích
Khi xuất hiện sự thay đổi cơ bản về hoàn cảnh khách quan (rebussic
stantibus) (khoản 2 Điều 62 Công ước Viên 1969 về Luật Điều ước quốc tế): theo đó
khi có sự thay đổi cơ bản về hoàn cảnh khách quan tại thời điểm các bên thực hiện
nghĩa vụ điều ước so với thời điểm các bên tiến hành ký kết mà hoàn cảnh này lại là
cơ sở, điều kiện để các bên có thể thực hiện nghĩa vụ của mình. Sự thay đổi đó hoàn
toàn do nguyên nhân khách quan, không do bên nào cố tình tạo ra và các bên cũng
không thể dự liệu trước sự thay đổi đó tại thời điểm ký kết. Khi đó 1 trong các bên có
quyền viện dẫn sự thay đổi này để chấm dứt hoặc tạm đình chỉ hiệu lực của điều ước. lOMoAR cPSD| 45734214
Ví dụ: khi quốc gia thay đổi chế độ, VD khi chế độ Việt Nam Cộng hòa sụp đổ năm 1975,
hay VN tuyên bố độc lập năm 1945, Liên Xô sụp đổ 1991
Lưu ý: sự thay đổi cơ bản về hoàn cảnh khách quan không được áp dụng nếu:
Sự thay đổi đó do 1 trong các bên cố tình tạo ra •
Không được áp dụng đối với các điều ước quốc tế về biên giới lãnh thổ
Khi xuất hiện quy phạm jus cogens mới có nội dung mâu thuẫn với điều ước quốc tế. •
Các yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến điều ước quốc tế:
Các bên thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế
Khi 1 trong các bên có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của điều
ước quốc tế thì bên còn lại có thể viện dẫn sự vi phạm đó để từ chối thực hiện cam kết quốc tế của mình
Bảo lưu điều ước quốc tế: là hành vi pháp lý đơn phương của 1 quốc gia
dưới bất kể cách thức hay tên gọi như thế nào nhằm thay đổi hiệu lực của 1 hoặc 1 số
điều khoản của điều ước quốc tế.
Mục đích của bảo lưu: thông thường với 1 điều ước quốc tế (đa phương) thì càng muốn
nhiều quốc gia tham gia càng tốt, tuy nhiên càng nhiều quốc gia tham gia thì việc dung hòa lợi
ích quốc gia càng khó khăn. Do đó vừa để đảm bảo giá trị của điều ước mà vẫn đảm bảo lợi ích
quốc gia, chế định bảo lưu xuất hiện, đảm bảo 1 quốc gia vì lợi ích riêng của mình có thể thay
đổi 1 hoặc 1 số điều khoản của điều ước. Lưu ý: •
Bảo lưu điều ước quốc tế chỉ áp dụng đối với điều ước quốc tế đa phương, không áp dụng
đối với điều ước quốc tế song phương •
Hành vi bảo lưu của quốc gia chỉ được đưa ra vào giai đoạn xác nhận sự ràng buộc của
điều ước quốc tế mà không được đưa ra vào giai đoạn hình thành văn bản điều ước. (Vì ở
giai đoạn hình thành văn bản điều ước thì các bên vẫn có thể đàm phán nội dung điều ước;
còn ở giai đoạn xác nhận sự ràng buộc của điều ước tức là đã thông qua văn bản điều ước
và các bên không có quyền thay đổi nội dung điều ước) •
Bảo lưu là quyền của quốc gia khi tham gia các điều ước quốc tế, nhưng quyền này có thể
bị hạn chế trong các trường hợp sau:
Đối với điều ước quốc tế có quy định cấm bảo lưu
Điều ước quốc tế cho phép bảo lưu 1 số điều khoản nhưng điều khoản bảo
lưu quốc gia đưa ra không nằm trong những điều khoản đó
Bảo lưu trái với đối tượng và mục đích của điều ước •
Hệ quả pháp lý của bảo lưu điều ước quốc tế: quan hệ giữa các thành viên của 1 điều ước
sẽ thay đổi trong phạm vi có bảo lưu.
Ví dụ, trong 1 điều ước quốc tế đa phương về vấn đề an ninh, trong đó có điều khoản “trong
trường hợp trong lãnh thổ các quốc gia thành viên mà phát hiện 1 cá nhân phạm tội ác quốc tế
thì các quốc gia có nghĩa vụ dẫn độ quốc gia đó đến Tòa án hình sự quốc tế để xét xử”. Quốc gia
A đưa ra điều kiện bảo lưu điều ước “Tôi cam kết sẽ dẫn độ cá nhân phạm tội ác quốc tế ra Tòa
án hình sự quốc tế để xét xử, trừ trường hợp cá nhân đó là công dân của nước tôi”, tức là chỉ
đồng ý dẫn độ công dân nước khác đến tòa án quốc tế, còn với công dân của mình thì sẽ xét xử
bằng hệ thống tòa án và luật pháp của quốc gia A. Khi đó các quốc gia khác có thể: •
Quốc gia B: Đồng ý để quốc gia đó bảo lưu: quan hệ điều ước giữa A và B vẫn tồn tại, khi
phát sinh vấn đề quan hệ giữa A và B về dẫn độ tội phạm thì sẽ áp dụng điều khoản do A
đưa ra thay cho điều khoản trong điều ước. •
Quốc gia C: Phản đối bảo lưu, phản đối quan hệ điều ước: giữa C và A sẽ không tồn tại quan hệ điều ước •
Quốc gia D: Phản đối bảo lưu, nhưng không phản đối quan hệ điều ước: giữa D và A vẫn
tồn tại quan hệ điều ước, nhưng với điều khoản bảo lưu do A đưa ra sẽ không được áp
dụng, khi vấn đề phát sinh thì A và D sẽ cùng đàm phán để giải quyết. lOMoAR cPSD| 45734214 •
Quốc gia E: Im lặng: các quốc gia được phép im lặng trong 12 tháng kể từ ngày A đưa ra
tuyên bố bảo lưu, nếu không có ý kiến thì được coi là đồng ý -
Hiệu lực của điều ước quốc tế đối với bên thứ 3: về nguyên tắc, điều ước quốc tế chỉ
có giá trị pháp lý ràng buộc đối với các bên là thành viên của điều ước mà không có hiệu
lực đối với quốc gia thứ 3. Tuy nhiên trong 1 số trường hợp đặc biệt, điều ước quốc tế có
thể phát sinh hiệu lực đối với bên thứ 3, bao gồm:
Điều ước quốc tế tạo ra quyền và nghĩa vụ cho bên thứ 3 và được bên thứ 3 đồng ý
Điều ước quốc tế tạo ra hoàn cảnh khách quan: ví dụ trường hợp Công ước về luật biển
quốc tế 1982, dù không phải tất cả các quốc gia đều là thành viên của Công ước, nhưng trong
Công ước đó đưa ra những quy định về vùng biển quốc tế, và các quốc gia không tham gia Công
ước có thể áp dụng. Ví dụ 2 quốc gia có cùng 1 eo biển ký kết với nhau về sử dụng eo biển đó,
khi đó tàu thuyền các quốc gia đó đi qua eo biển đó cũng phải tuân thủ quy định do 2 quốc gia đó
đưa ra. Ví dụ các quốc gia ký kết với nhau về phân chia Nam cực (chỉ có 1 số ít quốc gia được
chia Nam cực) và tất cả các quốc gia khác phải tôn trọng.
Điều ước quốc tế chứa đựng điều khoản tối huệ quốc: là về vấn đề quốc gia đãi ngộ người
nước ngoài, có 2 nhóm chế độ: •
Đãi ngộ quốc gia: tạo sự bình đẳng giữa người nước ngoài với công dân trong nước, người
nước ngoài trên lãnh thổ quốc gia được đối xử như với công dân của nước mình, trừ 1 số
quyền như ứng cử, bầu cử. •
Đãi ngộ tối huệ quốc: quốc gia A dành cho quốc gia B khác quy chế tối huệ quốc tức là A
cam kết B sẽ được hưởng những quyền lợi và ưu đãi không kém phần thuận lợi hơn bất kỳ 1
quốc gia thứ 3 nào đã, đang, và sẽ được hưởng trong tương lai
g. Thực hiện điều ước quốc
tế Có 2 cách: -
Áp dụng trực tiếp: coi văn bản điều ước như PL quốc gia và được áp dụng luôn (cách này
ít khi được các quốc gia sử dụng). VD Nghị quyết 71 của Quốc hội năm 2006 về phê chuẩn Nghị
định thư gia nhập WTO, trong đó ghi rõ (đây cũng là trường hợp duy nhất đến nay VN áp dụng
trực tiếp PL quốc tế):
“Áp dụng trực tiếp các cam kết của Việt Nam được ghi tại Phụ lục đính kèm Nghị quyết này
và các cam kết khác của Việt Nam với Tổ chức thương mại thế giới được quy định đủ rõ, chi tiết
trong Nghị định thư, các Phụ lục đính kèm và Báo cáo của Ban công tác về việc Việt Nam gia
nhập Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới.

Trong trường hợp quy định của pháp luật Việt Nam không phù hợp với quy định của Hiệp
định thành lập Tổ chức thương mại thế giới, Nghị định thư và các tài liệu đính kèm thì áp dụng
quy định của Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới, Nghị định thư và các tài liệu đính kèm.”
-
Nội luật hóa: trên cơ sở các nghĩa vụ đã cam kết trong điều ước quốc tế, quốc gia ban hành
văn bản quy phạm PL trong nước để thực hiện các nghĩa vụ của mình (hầu hết các quốc gia chọn cách này).
2. Tập quán quốc tế -
Là những quy tắc xử sự hình thành trong thực tiễn đời sống PL quốc tế, được các quốc gia
và các chủ thể khác của luật Quốc tế áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần và được thừa nhận là luật. -
Để được coi là tập quán quốc tế, cần có 2 yếu tố:
Vật chất: phải có quy tắc xử sự tồn tại trong thực tiễn đời sống PL quốc tế và quy tắc đó
được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần
Tinh thần: được hầu hết các quốc gia và các chủ thể PL quốc tế thừa nhận đó là luật VD: +
sứ thần (đoàn ngoại giao) của nước này đến nước khác sẽ được đón tiếp trọng thị, không được
chém, đánh sứ giả; hành vi chém sứ thần được coi là hành vi tuyên chiến. Cho đến nay quy tắc lOMoAR cPSD| 45734214
này vẫn được tiếp tục ghi nhận và được pháp điển hóa vào Công ước Viên 1961 về quan hệ ngoại
giao và Công ước Viên 1963 về quan hệ lãnh sự.
+ Tàu thuyền nước ngoài có thể đi lại không gây hại qua vùng lãnh hải của 1 quốc gia mà không cần xin phép
Câu hỏi: điều kiện “được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần” là bao nhiêu lần ? và “được
hầu hết các quốc gia công nhận” là bao nhiêu quốc gia thì đủ ?
Trả lời: theo quan điểm trước kia thì để hình thành 1 tập quán quốc tế cần phải trải quan vài
chục đến hàng trăm năm. Còn theo quan điểm của PL quốc tế hiện đại thì con đường hình thành
tập quán quốc tế ngắn hơn rất nhiều, chỉ cần thấy 1 quy định trong 1 điều ước nào đó, hoặc phán
quyết của tòa án quốc tế, hoặc hành vi pháp lý đơn phương của quốc gia, … mà chủ thể thấy phù
hợp thì có thể viện dẫn như một tập quán.
– Mối quan hệ điều ước quốc tế và tập quán quốc tế: quan hệ biện chứng và tác động
qua lại với nhau
+ Điều ước quốc tế có thể là cơ sở cho sự hình thành tập quán quốc tế, ngược lại tập quán
quốc tế cũng có thể là cơ sở cho việc hình thành điều ước quốc tế
+ Điều ước quốc tế có thể chấm dứt hiệu lực của tập quán quốc tế (VD các bên có thể thỏa
thuận xác lập điều ước không áp dụng tập quán), và ngược lại tập quán có thể chấm dứt hiệu lực
của điều ước quốc tế (rất ít khi xảy ra, thường là trường hợp tập quán hình thành nên quy phạm
jus cogens, ngay khi quy phạm jus cogens có hiệu lực thì tất cả các điều ước quốc tế có nội dung
trái với quy phạm jus cogens sẽ chấm dứt hiệu lực. VD quy phạm “Cấm sử dụng vũ lực hoặc đe
dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế” là quy phạm jus cogens mới hình thành từ năm 1945,
trước đó luật quốc tế cổ đại có quy phạm jus cogens về quyền được sử dụng chiến tranh “Bất kỳ
quốc gia nào cũng có quyền sử dụng sức mạnh vũ trang để giải quyết mọi tranh chấp liên quan
đến mình”) – So sánh điều ước quốc tế và Tập quán quốc tế:
Điều ước quốc tế
Tập quán quốc tế
Cùng là nguồn cơ bản của luật quốc tế, có giá trị pháp lý ngang nhau Thành văn Bất thành văn
Rõ ràng, minh bạch (vì phải trải qua quá trình
đàm phán giữa các bên, thể hiện được ý chí của Không rõ ràng, ít minh bạch các bên) Hình thành nhanh chóng Rất lâu
Có thể dễ dàng sửa đổi, bổ sung Rất khó để thay đổi
Đã được thực tiễn kiểm nghiệm, đã chứng tỏ sự
phù hợp với thực tiễn, khả năng ứng dụng rất cao
Câu hỏi: Khi gặp 1 vấn đề mà cả điều ước và tập quán đều điều chỉnh, mà điều ước lại mâu
thuẫn với tập quán, thì sẽ áp dụng thế nào ?
Trả lời: sẽ theo thỏa thuận của các bên, nếu 2 bên không thỏa thuận được thì sẽ ưu tiên áp dụng
điều ước. Vì điều ước có tính rõ ràng, minh bạch thể hiện được ý chí của các bên.
Chú ý: ở đây hiểu là điều ước quốc tế được “ưu tiên sử dụng” chứ không phải điều ước quốc tế
có giá trị pháp lý cao hơn.
3. Nguồn bổ trợ / Phương tiện bổ trợ nguồn của luật Quốc tế
a. Nguyên tắc PL chung

– là những nguyên tắc PL mà cả luật Quốc tế và luật quốc gia đều thừa nhận.
VD: gây thiệt hại thì phải bồi thường, luật không có giá trị hồi tố, không ai phải là thẩm phán
trong vụ việc của chính mình, …
b. Phán quyết của tòa án công lý quốc tế lOMoAR cPSD| 45734214 –
Tòa án công lý quốc tế (International Court of Justice – ICJ) có chức năng đưa ra các kết
luận tư vấn để các bên tham vấn, không mang tính chất cưỡng chế như đối với tòa án trong quốc
gia. Phán quyết của tòa án quốc tế là đưa các các giải thích pháp luật để từ đó các bên có thể căn
cứ để áp dụng trong các tranh chấp. –
Các quốc gia và các chủ thể không có quyền yêu cầu Tòa án công lý đưa ra các kết luận
tư vấn, thẩm quyền yêu cầu thuộc về Đại hội đồng hay Hội đồng bảo an Liên hợp quốc –
Ngoài Tòa án công lý thì phán quyết của các cơ quan tài phán quốc tế khác cũng được
coi là nguồn bổ trợ. VD Tòa án Trọng tài La Hague về tranh chấp giữa CHND Trung Hoa và
CH Philippines năm 2016 về tranh chấp tại biển Đông. (tòa án này được thành lập theo Phụ lục 7 của
Công ước Liên hợp quốc về luật Biển, không giải quyết tranh chấp Trung Quốc và Philipin, mà
Philipin yêu cầu Tòa trọng tài giải thích thế nào là đảo, thế nào là đá, việc bồi đắp có làm thay
đổi tính chất các thực thể đó không, giải thích về đường lãnh hải, về chủ quyền về lãnh hải, quyền lịch sử, …)
c. Nghị quyết của tổ chức quốc tế liên chính phủ
Gồm 2 loại Nghị quyết: –
Loại có tính bắt buộc: có giá trị pháp lý ràng buộc với tất cả các quốc gia thành viên của tổ chức đó –
Loại mang tính khuyến nghị: VD nghị quyết về bảo vệ môi trườngd. Hành vi pháp lý đơn
phương của quốc gia
Ví dụ: tiêu chuẩn về môi trường quốc tế hầu hết xuất phát từ tiêu chuẩn về môi trường của
các quốc gia phát triển, được các quốc gia khác học theo và được pháp điển hóa, được ghi nhận
trong các điều ước quốc tế
e. Các học thuyết của các học giả nổi tiếng về luật quốc tế
– VD: học thuyết về Tự do biển cả
– Các học thuyết được thừa nhận, được áp dụng trong thực tế, và được pháp điển hóa, được ghi
nhận trong các điều ước quốc tế.
3. Mối quan hệ giữa nguồn cơ bản và nguồn bổ trợ
Câu hỏi trắc nghiệm: các câu khẳng định sau là Đúng / Sai:
(1) Chủ quyền quốc gia là yếu tố cơ bản cấu thành nên quốc gia
Sai. Chủ quyền quốc gia là thuộc tính chính trị, pháp lý tự nhiên, vốn có của quốc gia, bao
gồm quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ và quyền độc lập trong quan hệ quốc
tế. Bốn yếu tố cấu thành nên quốc gia gồm:
+ có lãnh thổ xác định + có dân cư ổn định
+ có bộ máy quyền lực NN (chính phủ)
+ có khả năng độc lập khi tham gia vào các quan hệ PL quốc tế
==> Do đó chủ quyền quốc gia không phải yếu tố cơ bản cấu thành nên quốc gia (2)
Trong 1 số trường hợp đặc biệt, cá nhân, pháp nhân có thể trở thành chủ thể của luật Quốc tế `
Sai. Một thực thể được coi là chủ thể của luật Quốc tế nếu thỏa mãn các yếu tố:
+ có tham gia vào các quan hệ PL quốc tế
+ có quyền và khả năng gánh vác nghĩa vụ quốc tế một cách độc lập
+ có khả năng gánh vác các trách nhiệm pháp lý quốc tế phát sinh từ chính hành vi của chủ thể đó
Mặc dù trong một số trường hợp đặc biệt, cá nhân, pháp nhân có thể tham gia vào quan hệ
PL quốc tế, VD trong liên minh châu Âu thì công dân có quyền kiện bất kỳ quốc gia nào bị coi là
vi phạm nhân quyền, tuy nhiên cá nhân, pháp nhân này không được coi là chủ thể của PL quốc tế
vì không đảm bảo khả năng gánh vác nghĩa vụ quốc tế một cách độc lập.
Chủ thể của luật Quốc tế bao gồm: + các quốc gia
+ các tổ chức quốc tế liên chính phủ lOMoAR cPSD| 45734214
+ các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết
+ một số chủ thể đặc biệt: Hồng Kông, Macau, Đài Loan, tòa thánh Vatican, …
(3) Điều ước quốc tế chỉ có thể phát sinh hiệu lực sau khi các quốc gia tiến hành thủ tục phê chuẩn
Sai. Theo Công ước Viên 1969 về điều ước quốc tế thì hiệu lực của điều ước quốc tế do các
bên thỏa thuận, có thể ngay sau khi ký đầy đủ, hoặc phải yêu cầu được phê chuẩn / phê duyệt
(4) Điều ước quốc tế chỉ có giá trị pháp lý ràng buộc đối với các quốc gia thành viên mà không
cógiá trị pháp lý ràng buộc đối với quốc gia thứ 3
Sai. Về nguyên tắc, điều ước quốc tế chỉ có giá trị pháp lý ràng buộc đối với các bên là
thành viên của điều ước mà không có hiệu lực đối với quốc gia thứ 3. Tuy nhiên trong 1 số trường
hợp đặc biệt, điều ước quốc tế có thể phát sinh hiệu lực đối với bên thứ 3, bao gồm:
+ điều ước quốc tế tạo ra quyền và nghĩa vụ cho bên thứ 3 và được bên thứ 3 đồng ý
+ điều ước quốc tế tạo ra hoàn cảnh khách quan
+ điều ước quốc tế chứa đựng điều khoản tối huệ quốc
(5) Quy phạm tùy nghi không có giá trị pháp lý bắt buộc đối với chủ thể của luật Quốc tế
Sai. Vì quy phạm tùy nghi trong luật quốc tế là những quy phạm PL có giá trị pháp lý bắt
buộc đối với các chủ thể luật Quốc tế, nhưng trong giới hạn cho phép thì các chủ thể có thể thỏa thuận và áp dụng khác.
(6) Trong LQT không tồn tại cơ chế cưỡng chế
Sai. Vì: Trong LQT các chủ thể
(7) Luật quốc tế có giá trị cao hơn luật quốc gia
(8) Chủ quyền quốc gia không thể bị hạn chế trong mọi trường hợp
(9) Chủ thể của Luật quốc tế có quyền năng như nhau khi tham gia vào quan hệ pháp luật
(10) Mọi hành vi sử sụng vũ lực trong quan hệ quốc tế đều vi phạm pháp luật quốc tế
(11) Công nhận 1 quốc gia mới trong quan hệ quốc tế là nghĩa vụ của quốc gia
Sai. Đấy không phải điều quan trọng. Để được trở thành 1Quốc giahay không là cho chính nó,
quốc gia cần đảm bảo 4 điều kiện: có dân số ổ định; Có lãnh thổ xác đinh; Có chính phủ; Có khả
năng tham gia vào các QHQT. Do vậy Công nhận 1 quốc gia mới trong quan hệ quốc tế không
phải là nghĩa vụ của quốc gia mà Quốc gia A công nhận quốc gia B là Quốc gia A chấp nhận tư
cách của QGB với tất cả các quyền và nghĩa vụ được xác định bởi LQt.
(12) mọi hành vi đơn phương chấm dứt các cam kết quốc tế đều vi phạm luật quốc tếSai vì:
Căn cứ theo khoản 2 Điều 65 Công ước Viên về Luật Điều ước quốc tế năm 1969 quy định như
sau Thủ tục cho việc tuyên vô hiệu, chấm dứt, rút khỏi hoặc tạm đình chỉ việc thi hành một lOMoAR cPSD| 45734214
điều ước 1. Trên cơ sở các quy định của Công ước này, bên nêu lên một khiếm khuyết của sự
đồng ý của mình chịu sự ràng buộc của một điều ước hoặc một lý do nhằm phủ nhận giá trị hiệu
lực của một điều ước, chấm dứt, rút khỏi hoặc tạm đình chỉ việc thi hành điều ước đó, sẽ phải
thông báo ý định của mình cho các bên khác. Trong thông báo phải ghi rõ các biện pháp dự
định thực hiện đối với điều ước và lý do áp dụng các biện pháp đó.

2. Trừ các trường hợp đặc biệt khẩn cấp, nếu sau một thời hạn không dưới ba tháng kể từ ngày
nhận được thông báo, mà không có bên nào phản đối, thì bên thông báo có thể thực hiện các
biện pháp mà mình dự kiến, theo các thể thức quy định ở Điều 67.
...
Như vậy, một quốc gia thông báo lý do nhằm chấm dứt điều ước quốc tế thì các bên khác có thể
phản đối không dưới ba tháng kể từ ngày nhận được thông báo.
(13) Mọi tổ chức quốc tế đều là chủ thể của LQT
Sai vì: Chủ thể quả LQT là: Quốc gia, các tổ chức quốc tế liên chính chính phủ; các dân tộc
đang dấu tranh giành quyền tự quyết; chủ thể đặt biệt. Trong đó chủ thể Quốc gia có quyền năng
cao nhất. Tổ chức quốc tế phi chính phủ không phải là chủ thể của LQT
(14) Các quy tắc xử sự lặp đi lặp lại trong quan hệ quốc tế là tập quán quốc tế.
Sai vì: TQQT là các quy tắc xử sự lặp đi lặp lại trong QHQT và được công nhận giá trị
pháp lý là Luật trong Luật QT do vậy những quy tắc xử sự lặp đi lặp lại trong quan hệ quốc tế
nhưng không được LQT công nhận là luật thì không phải là Tập quán quốc tế.
VẤN ĐỀ 3: CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA LUẬT QUỐC TẾ I. Khái niệm 1. Định nghĩa
- Nguyên tắc cơ bản của luật Quốc tế được hiểu là những tư tưởng chính trị, pháp lý mang
tính chủ đạo, bao trùm và có giá trị bắt buộc chung đối với mọi chủ thể trong mọi lĩnh vực của đời sống PL quốc tế.
- Có 7 nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế:
(1) Nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia
(2) Nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế (pacta sunt servanda)
(3) Nguyên tắc cấm dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế
(4) Nguyên tắc hòa bình trong giải quyết tranh chấp quốc tế
(5) Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác
(6) Nguyên tắc tôn trọng quyền dân tộc tự quyết
(7) Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau -
Phân làm 2 nhóm. Trong đó 4 nguyên tắc có ngoại lệ, 3 nguyên tắc không có
Nguyên tắc truyền thống (hình thành từ khi LQT hình thành đến nay): (1), (2)
Nguyên tắc Hiện đại (hình thành sau này): (3), (4), (5), (6), (7). 2. Đặc điểm
- Có tính mệnh lệnh bắt buộc chung:
7 nguyên tắc cơ bản này mang tính bắt buộc đối với mọi chủ thể trong mọi lĩnh vực.
7 nguyên tắc cơ bản này là thước đo tính hợp pháp của tất cả các QPPL khác cũng như tất
cả các hành vi của các chủ thể PL LQT. Do đó trái với nguyên tắc cơ bản sẽ không có giá trị pháp lý.
LQT đề cao sự thỏa thuận, nhưng nếu sự thỏa thuận đó vi phạm bất kỳ nguyên tắc nào trong
7 nguyên tắc cơ bản này thì đều bị coi là vi phạm nghiêm trong PL quốc tế.
Điều kiện để Điều ước quốc tế có hiệu lực:
Các quốc gia thỏa thuận trên tinh thần tự nguyên, bình
đẳng Không được trái với quy định của hiến pháp quốc
tế Tuân thủ đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền ký kết.

- Có tính bao trùm (phổ cập): lOMoAR cPSD| 45734214
nội dung của các nguyên tắc cơ bản này được ghi nhận trong hầu hết các điều ước quốc tế
(được thực hiện trong tất cả các lĩnh vực;
là chuẩn mực xác định tính hợp pháp của toàn bộ hệ thống PLQT) . Văn bản pháp lý quốc
tế quan trọng nhất ghi nhận 7 nguyên tắc này chính là Hiến chương Liên hợp quốc.
- Có tính hệ thống:
7 nguyên tắc này có nội dung không độc lập với nhau, phải thực hiện được nguyên tắc này
thì mới thực hiện được nguyên tắc kia, và ngược lại.
Ví dụ nguyên tắc cấm dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế và nguyên tắc hòa bình trong giải
quyết tranh chấp quốc tế có liên quan chặt chẽ với nhau: muốn dùng biện pháp hòa bình trong
giải quyết tranh chấp quốc tế thì phải đảm bảo không dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế, và ngược lại.
II. Các nguyên tắc truyền thống 1. Nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia -
Cơ sở pháp lý: Liên Hợp Quốc ra đời năm 1945 đã lấy nguyên tắc bình đẳng chủ quyền
giữa các quốc gia làm cơ sở cho hoạt động của mình (được ghi nhận trong Khoản 1 Điều 2 của
Hiến chương: “Liên hợp quốc được xây dựng trên nguyên tắc bình đẳng chủ quyền của tất cả các
quốc gia thành viên
”). Đến năm 1970, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc một lần nữa khẳng định và
ghi nhận một cách đầy đủ nội dung pháp lý của nguyên tắc này trong Tuyên bố ngày 24/10/1970. -
Chủ quyền quốc gia là thuộc tính chính trị, pháp lý tự nhiên, vốn có không thể tách rời của
quốc gia (không phải là dấu hiệu nhận biết của quốc gia). Bao gồm 2 nội dung cơ bản là quyền
tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình (vùng trời, đất, biển…) và quyền độc lập trong quan hệ quốc tế.
Quốc gia có quyền tối cao trong phạm vi lãnh thổ của mình thể hiện chủ yếu thông qua việc
thực hiện thẩm quyền mang tính hoàn toàn, tuyệt đối và riêng biệt. Tính hoàn toàn và tuyệt đối
thể hiện qua hai phương diện quyền lực và vật chất. Ở phương diện quyền lực: Quốc gia có quyền
bất khả xâm phạm về lãnh thổ, có quyền quyết định đường lối phát triển của đất nước, lựa chọn
các phương thức phù hợp để thực hiện trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội; có
quyền thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp thông qua hệ thống cơ quan nhà nước từ
trung ương đến địa phương; thực hiện thẩm quyền với mọi cá nhân, tổ chức đang hoạt động trên
lãnh thổ quốc gia. Ở phương diện vật chất: Quốc gia có quyền khai thác và bảo vệ nguồn tài
nguyên nằm phía trong biên giới quốc gia; quốc gia thực hiện quyền lực của mình một cách đầy
đủ, trọn vẹn trên cơ sở tôn trọng lợi ích của cộng đồng dân cư sống trên vùng lãnh thổ đó đồng
thời phù hợp với các quyền dân tộc cơ bản. Tính riêng biệt thể hiện ở chỗ quốc gia là chủ thể duy
nhất có quyền sử dụng lãnh thổ của mình và thực hiện quyền lực trên lãnh thổ đó. Các quốc gia
khác có nghĩa vụ tôn trọng không được áp đặt quyền lực của họ và không can thiệp vào công việc
nội bộ của quốc gia này.
Quốc gia hoàn toàn độc lập, không lệ thuộc vào bất kỳ chủ thể nào trong việc tham gia vào
một quan hệ pháp luật quốc tế cụ thể. Việc ký kết các Điều ước quốc tế, thiết lập quan hệ ngoại
giao lãnh sự hay gia nhập các tổ chức quốc tế là những biểu hiện điển hình của việc thực hiện chủ
quyền đối ngoại của quốc gia. -
Ngay từ thời cổ đại, luật pháp quốc tế đã thừa nhận các quốc gia đều bình đẳng về chủ
quyền (nguyên tắc được hình thành trong giai đoạn loài người chuyển từ chế độ phong kiến sang
chế độ tư bản chủ nghĩa và trở thành nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế thời kỳ tư bản chủ nghĩa.
Tuy nhiên cũng giống như các nguyên tắc khác trong thời kỳ này nguyên tắc này chỉ được áp
dụng để điều chỉnh các mối quan hệ giữa các quốc gia nhất định: bình đẳng về chủ quyền giữa
các quốc gia văn minh). Đến pháp luật quốc tế hiện đại thì bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc
gia là nền tảng quan trọng nhất của quan hệ quốc tế hiện đại. -
Nội dung nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia:
Các quốc gia bình đẳng về mặt pháp lý
Mỗi quốc gia có chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ
Mỗi quốc gia có nghĩa vụ tôn trọng quyền năng chủ thể của các quốc gia khác lOMoAR cPSD| 45734214
Sự toàn vẹn về lãnh thổ và tính độc lập về chính trị là bất di bất dịch
Mỗi quốc gia có quyền tự do lựa chọn và phát triển chế độ chính trị, xã hội, kinh tế, và văn hóa của mình
Mỗi quốc gia có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ và tận tâm các nghĩa vụ quốc tế của mình và tồn
tại hòa bình cùng các quốc gia khác -
Mỗi quốc gia có các quyền chủ quyền bình đẳng sau:
Được tôn trọng về quốc thể, sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ về chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa
Được tham gia giải quyết các vấn đề có liên quan đến lợi ích của mình
Được tham gia tổ chức quốc tê, hội nghị quốc tế với các lá phiếu có giá trị ngang nhau
Được ký kết và gia nhập các điều ước quốc tế liên quan
Được tham gia xây dựng pháp luật quốc tế, hợp tác quốc tế bình đẳng với các quốc gia khác
Được hưởng đầy đủ các quyền ưu đãi, miễn trừ và gánh vác các nghĩa vụ như các quốc gia khác
Chú ý: bình đẳng không phải là cào bằng, mà là bình đẳng tương ứng giữa quyền và nghĩa vụ.
Ví dụ 5 quốc gia (Trung quốc, Mỹ, anh, pháp, nga) trong Hội đồng bảo an LHQ có nhiều quyền
hơn hẳn các quốc gia khác, tuy nhiên họ cũng phải gánh vác những trách nhiệm vô cùng to lớn,
hơn rất nhiều so với các quốc gia khác, như nghĩa vụ tài chính, nghĩa vụ đóng góp lực lượng vũ
trang để duy trì hòa bình và an ninh trên toàn thế giới,… Hơn nữa khi tham gia các điều ước quốc
tế, các thành viên đều cam kết tự nguyện chấp hành điều ước ==> bình đẳng tự nguyện - Ngoại lệ:
Trường hợp các quốc gia bị hạn chế chủ quyền: là trường hợp mà các chủ thể họ bị áp dụng
các biện pháp chế tài hoặc sự trừng phạt quốc tế do có hành vi vi phạm nghiêm trọng PL quốc tế.
VD: Vào năm 1990, Irắc xâm chiếm Cô oét – một nước láng giềng nhỏ nhưng giàu dầu mỏ và
hai ngày sau tuyên bố Cô oét là một phần của Irắc. Trước hành vi phá hoại sự hòa bình quốc tế,
Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc đã sử dụng những biện pháp trừng phạt nặng nề nhất để hạn chế
chủ quyền của quốc gia này như cấm vận gần như hoàn toàn về buôn bán và tài chính; bị giám sát
các nguồn thu từ dầu mỏ và các nguồn thu khác; bị áp đăt chương trình “Đổi dầu lấy lương thực”,…;
Triền Tiên bị cấm vận do vi phạm điều ước không phổ biến vũ khí hạt nhân
Chú ý: việc hạn chế chủ quyền ở đây phải do LHQ thực hiện (thông qua Nghị quyết của
LHQ), không phải là trường hợp 1 hay một số quốc gia áp dụng lệnh trừng phạt với 1 quốc gia.
VD Nga bị các nước phương Tây trừng phạt do xâm lược Ucraina
Trường hợp quốc gia tự hạn chế chủ quyền: đây là trường hợp mà quốc gia tự lựa chọn vì
lợi ích của mình mà họ tự hạn chế chủ quyền của mình bằng cách trao quyền cho một chủ thể khác
để thay mặt họ trong các hoạt động liên quan đến lợi ích quốc gia.
Hoặc các quốc gia đó tự mình hạn chế quyền hạn tham gia vào các tổ chức quốc tế. Trong
những trường hợp đó quốc gia tự thu hẹp chủ quyền và không vi phạm nguyên tắc bình đẳng chủ
quyền giữa các quốc gia (Quốc gia tuyên bố trung lập). Có 2 loại trung lập: •
Trung lập tạm thời: tức là giữ thái độ trung lập trong 1 vụ việc cụ thể •
Trung lập vĩnh viễn: không tham gia vào bất kỳ tổ chức chính trị nào, và trong tất cả các
cuộc tranh chấp quốc tế thì không được bày tỏ chính kiến, không được tham gia vào bất
kỳ phe phái nào. Ví dụ Thụy Sỹ là quốc gia trung lập. (tuy nhiên hiện nay đang có sự tranh
cãi về tính trung lập của Thụy Sỹ do Thụy Sỹ đã làm đơn xin gia nhập EU)
2. Nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế (pacta sunt servanda) -
Nguồn: Nguyên tắc pacta sunt servanda đã tồn tại lâu đời trong luật pháp quốc tế – có thể
xem là “nguyên tắc lâu đời nhất của luật pháp quốc tế.”[1] Nguyên tắc này là một nguyên tắc cơ
bản của luật điều ước quốc tế,[2] được xem là một quy định có tính chất “hiến định” điều chỉnh
việc thực thi tất cả các điều ước quốc tế trong luật quốc tế. Điều 26 của Công ước Viên về Luật
điều ước quốc tế năm 1969 ghi nhận lại nguyên tắc này như sau: “Mỗi điều ước quốc tế đang có lOMoAR cPSD| 45734214
hiệu lực đều ràng buộc các bên thành viên của điều ước đó và phải được các bên thực thi một các thiện chí.” -
CSPL: Khoản 2 Điều 2 Hiến chương LHQ: “Tất cả các quốc gia thành viên Liên hợp quốc
đều phải làm tròn những nghĩa vụ mà họ phải đảm nhận theo Hiến chương này để được đảm bảo
hưởng toàn bộ các quyền và ưu đãi do tư cách thành viên mà có”
- Nội dung:
Theo nguyên tắc này, các quốc gia có nghĩa vụ thực hiện 1 cách tận tâm, thiện chí, trung
thực, đầy đủ, đúng tất cả các cam kết quốc tế của mình, bao gồm: •
các điều ước quốc tế, tập quán quốc tế có giá trị pháp lý ràng buộc đối với quốc gia đó •
hành vi pháp lý đơn phương của quốc gia •
các phán quyết của cơ quan tài phán quốc tế mà quốc gia đó là 1 trong các bên tranh chấp
Các quốc gia không được phép viện dẫn sự khác biệt giữa luật quốc tế và luật quốc gia để từ
chối thực hiện cam kết quốc tế của mình
Các quốc gia không được phép ký kết tham gia các điều ước quốc tế có nội dung mâu thuẫn
với các cam kết quốc tế mà quốc gia đã là thành viên - Ngoại lệ:
Khi 1 bên vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ điều ước thì bên còn lại có quyền viện dẫn sự vi
phạm đó để từ chối thực hiện nghĩa vụ của mình (Đ 61 CƯ 1969)
VD: Điều ước quy định cho thuê 1 hòn đảo mà hòn đảo đó bị chìm xuống => Bên có nghĩa
vụ có quyền viện dẫn để từ chối thực hiện nghĩa vụ trả tiền thuê của mình. Khi xuất hiện sự
thay đổi cơ bản về hoàn cảnh khách quan (Đ62 CƯ 1969)
Khi xuất hiện quy phạm jus cogens (quy phạm mệnh lệnh) mới có nội dung mâu thuẫn với các cam kết quốc tế.
Nghĩa vụ thực thi Hiến chương LHQ khi có xung đột với các điều ước khác thì theo Điều 103
Hiến chương quy định: “ Trong trường hợp có xung đột giữa nghĩa vụ của thành viên LHQ theo
Hiến chương này và nghĩa vụ theo bất kỳ thỏa thuận quốc tế khác, nghĩa vụ theo Hiến chương
này được ưu tiên áp dụng”. Điều đó có nghĩa là nguyên tắc mệnh lệnh sẽ không được xem là bị
vi phạm nếu nột quốc gia từ chối thực thi 1 nghĩa vụ điều ước để thực thi nghĩa vụ theo Hiến chương.

3. Nguyên tắc cấm dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế -
Đây là nguyên tắc jus cogens mới được đưa vào luật quốc tế từ năm 1945. Trước đó 1
nguyên tắc jus cogens từ luật quốc tế cổ đại là quyền được sử dụng chiến tranh: “Bất kỳ quốc gia
nào cũng có quyền sử dụng sức mạnh vũ trang để giải quyết mọi tranh chấp liên quan đến mình”. -
Khoản 4 Điều 2 của Hiến chương LHQ 1970: Tất cả các quốc gia thành viên Liên hợp
quốc từ bỏ đe dọa bằng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế nhằm chống lại sự bất
khả xâm phạm về lãnh thổ hay nền độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào cũng như bằng cách
khác trái với những mục đích của Liên hợp quốc.
-
Nguyên tắc còn được chi tiết hóa trong một số nghị quyết của đại hội đồng Liên hợp quốc,
như nghị quyết định nghĩa về chiến tranh xâm lược 1974, tuyên bố về nỗ lực tăng cường hiệu lực
của nguyên tắc khước từ đe dọa vũ lực và dùng vũ lực 1987. -
Nội dung của nguyên tắc này:
cấm xâm chiếm lãnh thổ quốc gia khác trái với các quy định của luật quốc tế
cấm các hành vi trấn áp bằng vũ lực
không được cho quốc gia khác sử dụng lãnh thổ nước mình để tiến hành xâm lược chống lại quốc gia thứ ba
không tổ chức, xúi giục, giúp đỡ hay tham gia vào nội chiến hay các hành vi khủng bố tại quốc gia khác
không tổ chức hoặc khuyến khích việc tổ chức các băng nhóm vũ trang, lực lượng vũ trang
phi chính quy, lính đánh thuê để đột nhập vào lãnh thổ quốc gia khác.
Điều 42 Hiến chương LHQ quy định nếu những biện pháp phi quân sự được khuyến nghị
không đủ để giải quyết tranh chấp thì Hội đồng Bảo an LHQ có thể tiến hành các biện pháp cần