CAU 1 Phân tích nguyên tắc đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí
Minh
Tư tưng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là hệ thống những luận điểm,
nguyên tắc, phương pháp giáo dục, xây dựng và tổ chức tập hợp lực lượng cách
mạng và tiến bộ nhằm phát huy cao nhất sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại
trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Thứ
nhất, đại đoàn kết dân tộc là vấn đề mang tính chiến lược sống còn, bảo đảm
thành công của cách mạng.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và
của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn
kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Lịch sử dựng nước và
giữ nước của dân tộc ta cho thấy: thời kỳ nào mà nhân dân ta đoàn kết "trên dưới
một lòng" thì hưng thịnh, còn  thời kỳ nào mà lòng dân ly tán, chia rẽ và loạn ly
thì cũng là lúc thù trong, giặc ngoài xâm lấn, dân tộc có nguy cơ mất nước. Hồ Chí
Minh thấy rằng, cuộc đấu tranh cứu nước của dân tộc ta cuối thế kỷ XIX và đầu
thế kỷ XX bị thất bại có một nguyên nhân cội nguồn là cả nước đã không đoàn kết
được thành một khối thống nhất.
Theo Người, muốn đưa cách mạng đến thành công phải có lực lượng cách mạng đủ
mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành công xã hội mới; muốn có lực
lượng cách mạng mạnh phải thực hiện đại đoàn kết, quy tụ mọi lực lượng cách
mạng thành một khối vững chắc. Người nói: “Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc
nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại, lúc
nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn. Vậy nay ta phải biết đoàn
kết, đoàn kết mau, đoàn kết chắc chắn thêm lên mãi dưới ngọn cờ Việt Minh để
đánh đuổi Tây - Nhật, khôi phục lại độc lập, tự do”. Bác Hồ nói: “Trong bầu trời
không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn
kết của nhân dân”[3].
“Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì
cũng không làm nên”; “nước lấy dân làm gốc”; “Gốc có vững, cây mới bền. Xây
lầu thắng lợi trên nền Nhân dân”[4].
“Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong”[5] Ở mỗi
thời kỳ cách mạng, chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng cần phải điều
chỉnh để phù hợp với các nhóm đối tượng cho phù hợp, song đoàn kết và đại
đoàn kết dân tộc luôn được Người xác định là chiến lược sống còn, là yêu cầu
khách quan của cách mạng, là chân lý của thời đại. Người dạy rằng, “Dân ta xin
nhớ chữ đồng: Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”[6]. Đó chính là con
đường đưa dân ta tới độc lập, tự do. Mt dân tộc dù nhỏ, đất không rộng người
không đông, nhưng nếu biết đoàn kết chặt chẽ dưới sự lãnh đạo của một Đảng
cách mạng chân chính thì nhất định sẽ đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược. Vì sao
Đế quốc Pháp có ưu thế về vật chất và phương tiện chiến tranh hiện đại lại phải
thua một
Việt Nam nghèo nàn, lạc hậu trong cuộc chiến xâm lược? Đó là vì đồng bào Việt
Nam đã đoàn kết như Hồ Chí Minh khng định: “Toàn dân Việt Nam chỉ có một
lòng: Quyết không làm nô lệ. Chỉ có mt chí: Quyết không chịu mất nước. Chỉ có
một mục đích: Quyết kháng chiến để tranh thủ thống nhất và độc lập cho Tổ quốc.
Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng vững chắc xung
quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức
tường đó, chúng cũng phải thất bại”. Nhờ sức mạnh của lực lượng toàn dân đoàn
kết làm nên thắng lợi của Cách Mạng Tháng Tám như Người đã phân tích: “Vì sao
có cuộc thắng lợi đó? Một phần là vì tình hình quốc tế thuận lợi cho ta. Nhất là vì
lực lượng của toàn dân đoàn kết. Tất cả các dân tộc, các giai cấp, các địa phương,
các tôn giáo đều nổi dậy theo là cờ Việt Nam để tranh lại quyền độc lập cho Tổ
quốc. Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai thắng được lực
lượng đó”. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II Mặt trận tổ quốc Việt Nam
(51983), Thủ tướng Phạm Văn Đồng thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam phát biểu: "Hồ Chủ tịch và Đảng ta luôn luôn thấy  mỗi người
Việt Nam một người yêu nước và Mặt trận là sự tập hợp và nhân lên gấp bội tinh
thần yêu nước đó”. Đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã làm cách
mạng tháng Tám thành công, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đoàn
kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã làm nên Điện Biên Phủ vang dội năm
châu, chấn động địa cầu. Đoàn kết trong Mặt trận tổ quốc Việt Nam, trong Mặt trận
Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các lực lượng dân tộc, dân
chủ và hòa bình Việt Nam, nhân dân ta đã làm tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang là giải
phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Nhờ đoàn kết tạo nên sức mạnh, là nhân tố then chốt bảo đảm cho thắng lợi của
cách mạng. Hồ Chí Minh nói "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết -Thành công, thành
công, đại thành công" Đoàn kết đầu tiên là đoàn kết trong Đảng, vế đoàn kết thứ
hai là đoàn kết toàn dân tộc và vế đoàn kết thứ ba là đoàn kết Quốc tế. Có như vậy
mới có sức mạnh để thành công, thành công, đại thành công. Người khng định đại
đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề sống còn quyết định sự thành công của cách mạng,
là sợi chỉ đỏ xuyên suốt và nhất quán trong đường lối cách mạng của Đảng ta 
mọi thời kỳ cách mạng.
Thứ hai, đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
Trong Lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam ngày 3-3-1951, Hồ
Chí Minh đã thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc: “Mục đích của Đảng
Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là: Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ
quốc”[7]. Đại đoàn kết dân tộc chính là đòi hỏi khách quan của bản thân quần
chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng mình, cũng như khng định
dân là gốc, nên Hồ Chí Minh xác định vấn đề đại đoàn kết dân tộc để tạo ra sức
mạnh là vấn đề cơ bản của cách mạng. Đại đoàn kết dân tộc chính là nhiệm vụ của
quần chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp,
hướng dẫn, biến những đòi hỏi khách quan, tự phát của nhân dân thành sức mạnh
vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Do
vậy theo Người: “Đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu
của đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc”.
Thứ ba, đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
Trong lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến 19/12/1946 Người kêu gọi:
“Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân
nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng muốn cướp nước ta lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào, chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già,
người trẻ, không phân biệt đảng phái, tôn giáo, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì
phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu tổ quốc…”.
“Dân” theo tư tưng Hồ Chí Minh, là chỉ mọi con dân đất Việt, con rồng cháu tiên,
không phân biệt dân tộc đa số, người tín ngưỡng với người không tín ngưỡng,
không phân biệt già trẻ, gái, trai, giàu, nghèo. Trong khi vấn đề đại đoàn kết dân
tộc lại là phải tập hợp mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung. Hồ
Chí Minh căn dặn chúng ta: Muốn thực hiện được đại đoàn kết toàn dân phải kế
thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa của tổ tiên, phải có lòng khoan dung, đại
độ với con người. Người nói: "Tôi khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi.
Năm ngón tay cũng có ngón ngắn, ngón dài. Nhưng ngắn, dài đều hợp nhau lại 
nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này, người thế khác, nhưng
thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại
độ, ta phải nhận rằng đã là con Lạc, cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái
quốc. Đối với những đồng bào lạc lối, lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm
hóa họ. Có như thế mới thành đoàn kết, có đoàn kết thì tương lai chắc chắn sẽ vẻ
vang”. Nhiều lần Người đã nói rõ: “Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không
phải là một thủ đoạn chính trị. Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập
tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có
lòng phụng sự tổ quốc và phụng sự nhân dân thì ta đoàn kết với họ
Người còn nhấn mạnh: Đoàn kết rộng rãi, chặt chẽ, đồng thời phải củng cố. Nền
vững, nhà mới chắc chắn, gốc có tốt thì cây mới tốt tươi. Trong chính sách đoàn
kết phải chống hai khuynh hướng sai lầm: cô độc, hẹp hòi và đoàn kết vô nguyên
tắc.
Thứ tư, đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất có tổ chức là Mặt
trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng
Theo Người, đại đoàn kết dân tộc không chỉ dừng lại  quan niệm,  tư tưng, 
những lời kêu gọi chung chung, mà phải tr thành đường lối chiến lược cách
mạng, thành khẩu hiệu hành động của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Nó
phải tr thành sức mạnh vật chất, một lực lượng mạnh có tổ chức. Tổ chức đó
chính là Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng theo những nguyên tắc: Trên nền
tảng liên minh công, nông và trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Người cho rằng:
liên minh công nông- lao động trí óc làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân,
nền tảng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc càng được m rộng,
không e ngại bất cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc; Mặt
trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương, dân chủ lấy việc thống nhất lợi ích của
tầng lớp nhân dân làm cơ s để củng cố và không ngừng m rộng; Đoàn kết lâu
dài, chặt chẽ, đoàn kết thực sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Phương châm đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp khác nhau của Hồ Chí Minh là:
“Cầu đồng tồn dị” (lấy cái chung, đề cao cái chung, để hạn chế cái riêng, cái khác
biệt).
Trong quá trình cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nội dung và hình thức tổ
chức của Mặt trận có sự thay đổi phù hợp với nhiệm vụ cách mạng tùy từng lúc,
từng nơi. Đó là Mặt trận dân chủ Đông Dương trong những năm đấu tranh hợp
pháp 1936 - 1939, Mặt trận Việt Minh trong cao trào đánh Pháp, đuổi Nhật đưa tới
thành công của Cách mạng Tháng Tám và việc thành lập nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà, Mặt trận Liên Việt trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam ( miền Bắc) và Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt m
cùng Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình  miền Nam Việt Nam
trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã làm nên chiến thắng Điện Biên
Phủ, chấn động địa cầu, đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi,
giải phóng được một nửa đất nước, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, làm
hậu phương vững chắc cho tiền tuyến lớn  miền Nam ruột thịt.
Đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trong Mặt trận dân tộc giải phóng
miền Nam Việt Nam và Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình Việt
Nam, nhân dân ta đã làm tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang là giải phóng hoàn toàn
miền Nam, thống nhất đất nước; đưa đất nước ta cùng đi lên chủ nghĩa hội, bước
vào thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Một số bài học kinh nghiệm được rút ra từ tư tưng của Hồ Chí Minh về đại đoàn
kết toàn dân tộc để phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Một là, phải quán triệt sâu sắc tư tưng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn
dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng xem đây là vấn đề chiến lược sống còn, là nhân
tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng trong thời kỳ quá độ đi lên
CNXH. Từ nhận thức đến hành động phải theo nguyên tắc: “Đại đoàn kết phải
được xây dựng trên cơ s bảo đảm những lợi ích tối cao của dân tộc, lợi ích của
nhân dân lao động và quyền thiêng liêng của con người ”; “Tin vào dân, dựa vào
dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân”. Điều này lại càng có ý nghĩa rất lớn đối với
việc xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay. Có như vậy, tạo nên cơ s
thực hiện đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, thành phần kinh tế,
mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, người trong Đảng và người ngoài
Đảng, người đang công tác và người đã nghỉ hưu, mọi thành viên trong đại gia
đình Việt Nam dù sống trong nước hay  nước ngoài.
- Hai là, để phát huy cao độ sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, thì trước hết
phải đoàn kết thống nhất trong Đảng, vì đây là hạt nhân đoàn kết toàn dân; đồng
thời phải m rộng dân chủ từ Trung ương đến cơ s, tạo sự đồng thuận cao trong
xã hội, tạo không khí ci m, tin tưng, cùng nhau hướng tới tương lai, lấy lợi ích
chung, lợi ích quốc gia dân tộc làm điểm tương đồng. Phải xóa bỏ mặc cảm, định
kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp và chống âm mưu chia rẽ
lương - giáo, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Phải tôn trọng những ý kiến
khác nhau; xây dựng thái độ khoan dung đối với những người lầm lỗi với tinh thần
ci m, tin cậy lẫn nhau, đề cao truyền thống nhân nghĩa, tạo sự đồng thuận xã hội,
như Bác Hồ đã từng dạy: "Mỗi con người đều có cái thiện, cái ác trong lòng. Ta
phải biết làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy n như mùa xuân, phần xấu bị
giảm dần". Đảng phải xây dựng một đường lối chiến lược khoa học, phù hợp với
nguyện vọng, quyền lợi của đại đa số dân chúng để thu hút và phát huy triệt để sức
mạnh của quần chúng vào sự nghiệp cách mạng.
- Ba là, phải xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thật sự của
dân, do dân, vì dân; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên phải gắn bó mật thiết với
nhân dân, thường xuyên tự phê bình và lắng nghe ý kiến phê bình, góp ý xây dựng
của nhân dân. Đó là điều kiện hệ trọng quan trọng để củng cố m rộng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn hiện nay, vì mục tiêu giữ vững độc lập, thống
nhất, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”, góp phần tích cực vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới
vận dụng các nguyên tắc đó vào trong xây dựng khối đại đoàn kết
dân tộc trong giai đoạn hiện nay .
Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, đại đoàn kết toàn dân tộc
đã tr thành di sản vô giá, truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta. Tiếp tục
phát huy truyền thống quý báu đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh khng định: “Không
đoàn kết thì suy và mất. Có đoàn kết thì thịnh và còn. Chúng ta phải lấy đoàn kết
mà xoay vần vận mệnh, giữ gìn dân tộc và bảo vệ nước nhà”[1]. Vì thế, 8 chữ
“Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”[2] là mục đích của Đảng và Đảng thực
hiện “đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc” và “ai có tài,
có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với
họ”[3].
Khát vọng dân tộc được độc lập, tự do và thống nhất, nhân dân được sống ấm no,
hạnh phúc là mẫu số chung, là điểm gốc để quy tụ tất cả mọi người dân Việt Nam
vào khối đại đoàn kết dân tộc. Vì thế, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong
một mặt trận thống nhất chính là để tập hợp và lãnh đạo quần chúng nhân dân
thành một khối thống nhất về ý chí và hành động, tạo nên sức mạnh trong cuộc đấu
tranh vì độc lập dân tộc, vì tự do và hạnh phúc của nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Trong khối đại đoàn kết đó, Đảng là một thành viên của Mặt trận, đồng thời
là lực lượng lãnh đạo, cho nên “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền
lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất
và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng
rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới
giành được địa vị lãnh đạo”[4]. Theo Hồ Chí Minh, “trước hết phải đoàn kết đại đa
số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân
dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà,
gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết với các tầng lớp
nhân dân lao động khác”[5].
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc giác ngộ, tập hợp trí thức Việt
Nam vào hàng ngũ cách mạng, bổ sung và phát huy vai trò của họ, làm cho họ tr
thành một động lực cách mạng quan trọng; đồng thời khng định liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là nền tảng của khối
Câu 2: Phân tích vai trò của đại đoàn kết dân tc?
dại đoàn kết toàn dân. Thực tế cho thấy, liên minh công - nông - trí (trí thức) không
những là yêu cầu khách quan về chính trị, làm nền tảng vững chắc cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ đất nước mà còn là yêu cầu khách quan để phát triển bền vững
kinh tế, vǎn hoá, xã hội của đất nước. Tuỳ theo yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể của
từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, Mặt trận có cương lĩnh, điều lệ phù hợp,
được tổ chức chặt chẽ, xây dựng trên nền tảng khối liên minh công - nông - trí đã
luôn lấy việc thống nhất lợi ích tối cao của dân tộc với lợi ích của các tầng lớp
nhân dân làm cơ s để củng cố và không ngừng m rộng khối đại đoàn kết toàn
dân. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó chính đoàn kết thực sự, lâu dài, chặt chẽ,
chân thành, thân ái giúp đỡ nhau, “là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng
phải nhất trí. Đoàn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học những cái
tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái,
vì nước, vì dân. Tóm lại, muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì toàn dân cần đoàn kết
lâu dài, đoàn kết thực sự và cùng nhau tiến bộ[6].
Khối đại đoàn kết dân tộc chỉ thực sự phát huy được sức mạnh nội sinh khi gắn
liền với đoàn kết quốc tế, nghĩa là chủ nghĩa yêu nước chân chính phải gắn liền với
chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, sức mạnh dân tộc phải gắn
với sức mạnh thời đại. Thực tiễn cách mạng cho thấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, khối liên minh đoàn kết 3 nước Đông
Dương (Việt Nam - Lào - Campuchia), của các nước xã hội chủ nghĩa và phong
trào nhân dân thế giới ủng hộ, đoàn kết với nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu
tranh vì hòa bình, độc lập, tự do, dân chủ và tiến bộ xã hội hơn 90 năm qua dưới sự
lãnh đạo của Đảng là những minh chứng sống động cho việc xây dựng và thực
hiện tư tưng đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
2. Hơn 90 năm thực hiện xuyên suốt và nhất quán chiến lược đại đoàn kết dân tộc,
nhất là trong hơn 35 năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn vận dụng một
cách sáng tạo tư tưng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc phù hợp với tình hình,
yêu cầu và nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng, kiên định độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”.
Trong tiến trình ấy, trên tinh thần “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân lao động, nguyên tắc hiệp thương dân chủ được coi là “chìa
khóa vạn năng” để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tập hợp, đoàn kết và phát huy sức
mạnh toàn dân tộc làm nên những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc, tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cả
nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng “đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp
hơn” như mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thực tế, các cuộc vận động xã hội, các phong trào thi đua yêu nước sâu rộng do
Mặt trận và các tổ chức thành viên phát động và triển khai thực hiện ngày càng đi
vào cuộc sống, được các tầng lớp nhân dân tích cực hưng ứng. Trong đó, đoàn kết
giúp nhau phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, lá lành đùm lá rách, bảo hiểm y
tế, bảo hiểm xã hội, thực hiện vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ chăm sóc sức
khỏe của nhân dân, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng,
chống tội phạm, ma túy, mại dâm, HIV/AIDS và các tệ nạn xã hội khác cùng với
cuộc vận động xã hội, các phong trào “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp
nghĩa”, “Ngày vì người nghèo”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”,
“Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, “Toàn dân bảo vệ
an ninh Tổ quốc”… không chỉ có tác dụng thiết thực, tạo nên sự gắn kết cộng đồng
mà còn góp phần làm cho tư tưng đại đoàn kết toàn dân tộc thấm sâu vào các tầng
lớp nhân dân, tạo động lực thúc đẩy phát triển đất nước nhanh và bền vững, phục
vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đại đoàn kết là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị, gồm Đảng, chính quyền, Mặt
trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; trong đó, động lực chủ yếu để xây dựng,
bảo vệ và phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ s liên minh giữa
công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích
cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành
phần kinh tế, của toàn xã hội.
Vì thế, để “phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân
dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam
hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt
không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền
thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam
 trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, N
nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”, cần tập trung thực hiện
một số giải pháp căn cốt sau:
Một là, các cấp ủy cần tiếp tục nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò và tầm quan
trọng tư tưng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc gắn với thực hiện Chỉ thị
số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh” và chuyên đề năm 2020 về “Tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh
theo tư tưng, đạo đức, phong cách H Chí Minh”. Đại đoàn kết là sự nghiệp của
cả dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là Đảng Cộng sản, được
thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức; trong đó, chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Đó là
nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu, là nhân tố bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, nâng cao hiệu quả tuyên truyền, vận động, tập hợp các tầng lớp nhân dân
thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm phát
huy vai trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân
gắn với thực hiện tốt trách nhiệm của công dân, phát huy dân chủ, giữ gìn kỷ
cương, chống quan liêu, tham ô, tham nhũng, lãng phí. Tiếp tục thực hiện Quy định
số 124-QĐ/TW ngày 2-2-2018 của Ban Bí thư về “Giám sát của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn
luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng
viên”, góp phần xây dựng Đảng và chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh. Ba
là, nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân trong
tham gia xây dựng và hoàn thiện một số chính sách để củng c và phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần bảo đảm thắng lợi bền vững của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bốn là, đẩy mạnh thực hiện các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước, t
chức động viên nhân dân tham gia các phong trào thi đua làm kinh tế giỏi, phát
triển kinh tế gắn liền với phát triển văn hoá - xã hội; trong đó, mỗi người, mi gia
đình cố gắng phấn đấu làm giàu cho mình, cho cộng đồng. Bên cạnh đó, tăng
cường công tác đối ngoại nhân dân, tích cực vận động, thu hút kiều bào hướng về
Tổ quốc, góp sức xây dựng quê hương, đất nước; chủ động phối hợp với các cơ
quan chức năng nước s tại để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của kiều bào, đồng
thời, khen thưng, động viên kịp thời những cá nhân có thành tích tiêu biểu. Năm
là, nắm bắt kịp thời để phản ánh tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân và
nỗ lực chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp pháp của các giai cấp, các tầng
lớp nhân dân. Tôn trọng và phát huy vai trò gương mẫu, dẫn dắt của những người
tiêu biểu, có uy tín trong cộng đồng dân cư, các dân tộc, tôn giáo; bảo đảm công
bằng và bình đng xã hội; kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân với lợi ích của tập thể và
toàn xã hội. Cùng với việc giải quyết đúng đắn và hợp lý các quan hệ lợi ích, cần
đẩy mạnh và không ngừng bồi dưỡng, nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức độc lập
dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tinh thần tự lực tự cường trong xây dựng bảo vệ
Tổ quốc, củng cố và phát triển khối đại đoàn kết dân tộc, coi đó là những yếu tố
quan trọng để không chỉ phòng và chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”
của các thế lực thù địch mà còn góp phần ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Đại đoàn kết toàn dân tộc di sản giá, truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc
Việt Nam được hun đúc qua hàng ngàn năm dựng nước ginước. Đại đoàn kết
đã tr thành một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Tinh thần yêu nước,
trọng nhân nghĩa, khoan dung, sự cố kết, đùm bọc yêu thương nhau đã thấm sâu vào
tưng, tình cảm, tâm hồn mỗi người dân, tr thành lẽ sống, chất kết dính gắn bó
các thành viên trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Lịch sử mấy ngàn năm tồn tại phát triển của dân tộc ta đã chứng minh truyền
thống đại đoàn kết toàn dân tộc trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng đều kết thành
sức mạnh địch, đưa Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thách thức, giành hết thắng
lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những ktích vẻ vang. Nhờ tinh thần đoàn kết,
nhân dân ta đã vượt qua mọi gian lao, thử thách, đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược,
giữ vững non sông bờ cõi, viết nên những trang sử vàng hào hùng của dân tộc.
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, với tinh thần nhân văn cao cả
nhãn quan chính trị sắc bén, Chủ tịch Hồ Chí Minh không ngừng xây dựng và hoàn
thiện tưng đại đoàn kết toàn dân tộc, truyền giáo dục tưng đó trong
toàn Đảng, toàn quân toàn dân. Người nhận thức sâu sắc đoàn kết để tạo nên
sức mạnh thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù. Thực tế lịch sử đã chứng
minh: Nhờ sức mạnh của đại đoàn kết cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Đoàn kết cần trên s hiệp thương dân chủ, chân thành, thng thắn, nhân ái, gắn
với đấu tranh, tự phê bình phê bình, sự nhất trí về mục đích và lập trường rõ
ràng. Đoàn kết phải trên cơ s kế thừa truyền thống yêu nước – nhân nghĩa của dân
tộc. Muốn đoàn kết phải lòng khoan dung, độ lượng với con người, quy tmọi
lực lượng. Bác Hồ cũng nhiều lần khng định trong mấy triệu người cũng có người
thế này thế khác, nhưng đều đồng bào ta, ít nhiều họ đều có lòng yêu nước. Vì thế
nên quy tụ mọi người bằng lòng chân thành, thương dân. Ngay cả “với những đồng
bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành
đại đoàn kết…”
Cơ sở hình thành tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc:
1-Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của dân tộc Việt Nam.
Đề cập đến chủ nghĩa yêu nước của dân tộc, chủ tịch Hồ Chí Minh viết: ” Dân ta có
một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta từ xưa đến nay,
mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng
cùng mạnh mẽ, to lớn, lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm
tất cả lũ bán nước và cướp nước”.
Trải qua hàng ngàn năm dựng nước giữ nước, tinh thần yêu nước gắn liền với ý
thức cộng đồng, ý thức cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc Việt Nam đã hình thành và
củng cố, tạo thành một truyền thống bền vững. Tinh thần ấy, tình cảm ấy theo thời
gian đã tr thành lsống của mỗi con người Việt Nam, làm cho vận mệnh mỗi
nhân gắn chặt vào vận mệnh của cộng đồng, vào sự sống còn và phát triển của dân
tộc. Nó là cơ s của ý chí kiên cường, bất khuất, tinh thần dũng cảm hy sinh vì dân,
vì nước của mỗi con người Việt Nam, đồng thời là giá trị tinh thần thúc đẩy sự phát
triển của cộng đồng của mỗi cá nhân trong quá trình dựng nước và giữ nước, làm
nên truyền thống yêu nước, đoàn kết của dân tộc. Dù lúc thăng, lúc trầm nhưng chủ
nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam bao giờ cũng là tinh
hoa đã được hun đúc thử nghiệm qua hàng nghìn năm lịch sử chinh phục thiên
nhiên chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc của ông cha ta. Chủ nghĩa yêu nước,
truyền thống đoàn kết, cộng đồng của dân tộc Việt Nam s đầu tiên, sâu xa cho
sự hình thành tư tưng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
2- Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin
Chủ nghĩa Mác- Lênin cho rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân
người sáng tạo lịch sử; giai cấp sản muốn thực hiện vai trò lãnh đạo cách
mạng phải tr thành dân tộc, liên minh công nông là cơ s để xây dựng lực lượng to
lớn của cách mạng. Chủ nghĩa Mác- Lênin đã ch ra cho các dân tộc bị áp bức con
đường tự giải phóng. -nin cho rằng, sự liên kết giai cấp, trước hết liên minh giai
cấp công nhân với nông dân hết sức cần thiết, bảo đảm cho thắng lợi của cách
mạng sản. Rằng nếu không sự đồng tình ủng hộ của đa số nhân dân lao
động với đội ngũ tiên phong của nó, tức giai cấp vô sản, thì cách mạng sản không
thể thực hiện được.
3- Tổng kết những kinh nghiệm thành công thất bại của các phong trào cáchmạng
Việt Nam và thế giới.
Không chỉ được hình thành từ những s luận suông, tưng này còn xuất phát
từ thực tiễn lịch sử của dân tộc và nhiều năm bôn ba khảo nghiệm  nước ngoài của
Hồ Chí Minh.
a-Thực tiễn cách mạng Việt Nam
Là một người am hiểu sâu sắc lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc
mình, Hồ Chí Minh nhận thức được trong thời phong kiến ch những cuộc đấu
tranh thay đổi triều đại nhưng chúng đã ghi lại những tấm gương tâm huyết của ông
cha ta với tưng “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức”
“Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc là thượng sách giữ nước”. Chính chủ
nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết của dân tộc trong chiều sâu bề dày của
lịch sử này đã tác động mạnh mẽ đến Hồ Chí Minh được người ghi nhận như
những bài học lớn cho sự hình thành tư tưng của mình.
vận dụng tư tưởng HCM về đại đoàn kết dân tộc trong bối cảnh hiện nay.
Một là, thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục cho mọi người dân
về tinh thần đoàn kết của dân tộc
Đây là nhiệm vụ mang tính thường xuyên, liên tục được tiến hành trọng
tâm, trọng điểm, nhất vào những thời điểm quyết định đến tương lai, vận mệnh
của đất nước. Tuyên truyền, giáo dục để cho mỗi người dân thấy được tinh thần đoàn
kết là vốn quý của dân tộc cần phải được bảo tồn lan toả rộng khắp. Theo đó, cần
đa dạng hoá nội dung, hình thức tổ chức các phong trào thi đua yêu nước để mọi
người được tham gia, phát huy năng lực, s trường, thế mạnh của mình; xây dựng
đội ngũ cán bộ các cấp năng lực, phẩm chất uy tín vđạo đức, lối sống được nhân
dân kính trọng, nể phục; nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên
trong tập hợp, vận động các tầng lớp nhân dân tham gia hưng ứng vào các phong
trào thi đua do Đảng, Nhà nước, Chính phủ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động.
Hai là, đa dạng hoá các nội dung, hình thức, phương pháp khơi dậy tinh thần đoàn
kết của con người Việt Nam
Về nội dung, cần hướng vào những vấn đthiết thực gắn với cuộc sống đời thường
của người dân, như gia đình khá giả, có điều kiện giúp đỡ gia đình nghèo, không có
điều kiện; huy động các doanh nghiệp, doanh nhân thành đạt ủng hộ cho người
nghèo, không công ăn, việc làm, ốm đau, bệnh tật không khả năng lao động,
thông qua hoạt động tthiện, ủng hộ; tổ chức phát động chương trình chung tay
quyên góp cho nhân dân bị ảnh hưng bi thiên tai, hạn hán, dịch bệnh; xây dựng
đức tính nhân ái, bao dung, độ lượng giữa con người với con người trong hoạn nạn,
khó khăn; theo từng địa phương, vùng, miền tổ chức phát động phong trào thi đua
yêu nước để gắn kết con người; xây dựng môi trường thi đua trong sáng, lành mạnh,
phong phú, không có sự ganh đua, cạnh tranh, đố kỵ, ganh ghét giữa con người với
con người...
Về hình thức, phương pháp khơi dậy tinh thần đoàn kết được thực hiện thông qua
công tác tuyên truyền, giáo dục, tổ chức; các hội nghị để kêu gọi mọi người nêu cao
tinh thần đoàn kết, khí phách ngàn đời của dân tộc; thông qua xây dựng những gương
điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt; thông qua hthống thông tin truyền
thông các địa phương, nhất đội ngũ cán bcấp s trong việc thực hành, nêu
gương trước quần chúng nhân dân.
Ba là, phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ncán bộ s trong hướng dẫn,
đồng hành cùng với nhân dân tham gia vào các hoạt động chung của xã hội
Cán bộ là “cái gốc” của mi công việc, muôn việc thành công hay thất bại đều do
cán bộ tốt hay xấu. Theo đó, đội ngũ cán bộ các cấp đặc biệt là người đứng đầu 
quan, đơn vị, địa phương phải phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của mình là hạt nhân
đoàn kết, bám sát mọi hoạt động của quần chúng nhân dân, biết lắng nghe, chia sẻ
với khó khăn, vất vcủa người dân, tuyệt nhiên không được khinh thường nhân dân,
người lao động chân tay; gắn việc học tập làm theo tưng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh với xây dựng, chỉnh đốn Đảng; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát
của Đảng đối với qtrình công tác của đội ngũ cán bộ các cấp để phát hiện, xử lý
kịp thời theo đúng quy định của pháp luật đối với cán bộ vi phạm nguyên tắc, Điều
lệ, Cương lĩnh của Đảng. Trong mọi hoạt động của mình, đội ngũ cán bộ các cấp,
nhất là người đứng đầu phải luôn đặt chữ “Tâm” để giải quyết các mối quan hệ, ứng
xử, xây dựng tác phong gần gũi, chân thành giữa cán bộ với cán bgiữa cán bộ
với nhân dân. Đó không chỉ góp phần đưa nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước đi vào thực tiễn cuộc sống, mà còn tạo tinh thần, khí thế thi
đua sôi nổi trong toàn xã hội.

Preview text:

CAU 1 Phân tích nguyên tắc đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là hệ thống những luận điểm,
nguyên tắc, phương pháp giáo dục, xây dựng và tổ chức tập hợp lực lượng cách
mạng và tiến bộ nhằm phát huy cao nhất sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại
trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Thứ
nhất, đại đoàn kết dân tộc là vấn đề mang tính chiến lược sống còn, bảo đảm
thành công của cách mạng.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và
của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn
kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Lịch sử dựng nước và
giữ nước của dân tộc ta cho thấy: thời kỳ nào mà nhân dân ta đoàn kết "trên dưới
một lòng" thì hưng thịnh, còn ở thời kỳ nào mà lòng dân ly tán, chia rẽ và loạn ly
thì cũng là lúc thù trong, giặc ngoài xâm lấn, dân tộc có nguy cơ mất nước. Hồ Chí
Minh thấy rằng, cuộc đấu tranh cứu nước của dân tộc ta cuối thế kỷ XIX và đầu
thế kỷ XX bị thất bại có một nguyên nhân cội nguồn là cả nước đã không đoàn kết
được thành một khối thống nhất.
Theo Người, muốn đưa cách mạng đến thành công phải có lực lượng cách mạng đủ
mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành công xã hội mới; muốn có lực
lượng cách mạng mạnh phải thực hiện đại đoàn kết, quy tụ mọi lực lượng cách
mạng thành một khối vững chắc. Người nói: “Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc
nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại, lúc
nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn. Vậy nay ta phải biết đoàn
kết, đoàn kết mau, đoàn kết chắc chắn thêm lên mãi dưới ngọn cờ Việt Minh để
đánh đuổi Tây - Nhật, khôi phục lại độc lập, tự do”. Bác Hồ nói: “Trong bầu trời
không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”[3].
“Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì
cũng không làm nên”; “nước lấy dân làm gốc”; “Gốc có vững, cây mới bền. Xây
lầu thắng lợi trên nền Nhân dân”[4].
“Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong”[5] Ở mỗi
thời kỳ cách mạng, chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng cần phải điều
chỉnh để phù hợp với các nhóm đối tượng cho phù hợp, song đoàn kết và đại
đoàn kết dân tộc luôn được Người xác định là chiến lược sống còn, là yêu cầu
khách quan của cách mạng, là chân lý của thời đại. Người dạy rằng, “Dân ta xin
nhớ chữ đồng: Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”[6]. Đó chính là con
đường đưa dân ta tới độc lập, tự do. Một dân tộc dù nhỏ, đất không rộng người
không đông, nhưng nếu biết đoàn kết chặt chẽ dưới sự lãnh đạo của một Đảng
cách mạng chân chính thì nhất định sẽ đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược. Vì sao
Đế quốc Pháp có ưu thế về vật chất và phương tiện chiến tranh hiện đại lại phải thua một
Việt Nam nghèo nàn, lạc hậu trong cuộc chiến xâm lược? Đó là vì đồng bào Việt
Nam đã đoàn kết như Hồ Chí Minh khẳng định: “Toàn dân Việt Nam chỉ có một
lòng: Quyết không làm nô lệ. Chỉ có một chí: Quyết không chịu mất nước. Chỉ có
một mục đích: Quyết kháng chiến để tranh thủ thống nhất và độc lập cho Tổ quốc.
Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng vững chắc xung
quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức
tường đó, chúng cũng phải thất bại”. Nhờ sức mạnh của lực lượng toàn dân đoàn
kết làm nên thắng lợi của Cách Mạng Tháng Tám như Người đã phân tích: “Vì sao
có cuộc thắng lợi đó? Một phần là vì tình hình quốc tế thuận lợi cho ta. Nhất là vì
lực lượng của toàn dân đoàn kết. Tất cả các dân tộc, các giai cấp, các địa phương,
các tôn giáo đều nổi dậy theo là cờ Việt Nam để tranh lại quyền độc lập cho Tổ
quốc. Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai thắng được lực
lượng đó”. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II Mặt trận tổ quốc Việt Nam
(51983), Thủ tướng Phạm Văn Đồng thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam phát biểu: "Hồ Chủ tịch và Đảng ta luôn luôn thấy ở mỗi người
Việt Nam một người yêu nước và Mặt trận là sự tập hợp và nhân lên gấp bội tinh
thần yêu nước đó”. Đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã làm cách
mạng tháng Tám thành công, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đoàn
kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã làm nên Điện Biên Phủ vang dội năm
châu, chấn động địa cầu. Đoàn kết trong Mặt trận tổ quốc Việt Nam, trong Mặt trận
Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các lực lượng dân tộc, dân
chủ và hòa bình Việt Nam, nhân dân ta đã làm tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang là giải
phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Nhờ đoàn kết tạo nên sức mạnh, là nhân tố then chốt bảo đảm cho thắng lợi của
cách mạng. Hồ Chí Minh nói "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết -Thành công, thành
công, đại thành công" Đoàn kết đầu tiên là đoàn kết trong Đảng, vế đoàn kết thứ
hai là đoàn kết toàn dân tộc và vế đoàn kết thứ ba là đoàn kết Quốc tế. Có như vậy
mới có sức mạnh để thành công, thành công, đại thành công. Người khẳng định đại
đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề sống còn quyết định sự thành công của cách mạng,
là sợi chỉ đỏ xuyên suốt và nhất quán trong đường lối cách mạng của Đảng ta ở
mọi thời kỳ cách mạng.
Thứ hai, đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
Trong Lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam ngày 3-3-1951, Hồ
Chí Minh đã thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc: “Mục đích của Đảng
Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là: Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ
quốc”[7]. Đại đoàn kết dân tộc chính là đòi hỏi khách quan của bản thân quần
chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng mình, cũng như khẳng định
dân là gốc, nên Hồ Chí Minh xác định vấn đề đại đoàn kết dân tộc để tạo ra sức
mạnh là vấn đề cơ bản của cách mạng. Đại đoàn kết dân tộc chính là nhiệm vụ của
quần chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp,
hướng dẫn, biến những đòi hỏi khách quan, tự phát của nhân dân thành sức mạnh
vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Do
vậy theo Người: “Đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu
của đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc”.
Thứ ba, đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
Trong lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến 19/12/1946 Người kêu gọi:
“Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân
nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng muốn cướp nước ta lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào, chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già,
người trẻ, không phân biệt đảng phái, tôn giáo, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì
phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu tổ quốc…”.
“Dân” theo tư tưởng Hồ Chí Minh, là chỉ mọi con dân đất Việt, con rồng cháu tiên,
không phân biệt dân tộc đa số, người tín ngưỡng với người không tín ngưỡng,
không phân biệt già trẻ, gái, trai, giàu, nghèo. Trong khi vấn đề đại đoàn kết dân
tộc lại là phải tập hợp mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung. Hồ
Chí Minh căn dặn chúng ta: Muốn thực hiện được đại đoàn kết toàn dân phải kế
thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa của tổ tiên, phải có lòng khoan dung, đại
độ với con người. Người nói: "Tôi khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi.
Năm ngón tay cũng có ngón ngắn, ngón dài. Nhưng ngắn, dài đều hợp nhau lại ở
nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này, người thế khác, nhưng
thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại
độ, ta phải nhận rằng đã là con Lạc, cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái
quốc. Đối với những đồng bào lạc lối, lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm
hóa họ. Có như thế mới thành đoàn kết, có đoàn kết thì tương lai chắc chắn sẽ vẻ
vang”. Nhiều lần Người đã nói rõ: “Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không
phải là một thủ đoạn chính trị. Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập
tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có
lòng phụng sự tổ quốc và phụng sự nhân dân thì ta đoàn kết với họ
Người còn nhấn mạnh: Đoàn kết rộng rãi, chặt chẽ, đồng thời phải củng cố. Nền có
vững, nhà mới chắc chắn, gốc có tốt thì cây mới tốt tươi. Trong chính sách đoàn
kết phải chống hai khuynh hướng sai lầm: cô độc, hẹp hòi và đoàn kết vô nguyên tắc.
Thứ tư, đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất có tổ chức là Mặt
trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng
Theo Người, đại đoàn kết dân tộc không chỉ dừng lại ở quan niệm, ở tư tưởng, ở
những lời kêu gọi chung chung, mà phải trở thành đường lối chiến lược cách
mạng, thành khẩu hiệu hành động của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Nó
phải trở thành sức mạnh vật chất, một lực lượng mạnh có tổ chức. Tổ chức đó
chính là Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng theo những nguyên tắc: Trên nền
tảng liên minh công, nông và trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Người cho rằng:
liên minh công nông- lao động trí óc làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân,
nền tảng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc càng được mở rộng,
không e ngại bất cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc; Mặt
trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương, dân chủ lấy việc thống nhất lợi ích của
tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và không ngừng mở rộng; Đoàn kết lâu
dài, chặt chẽ, đoàn kết thực sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Phương châm đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp khác nhau của Hồ Chí Minh là:
“Cầu đồng tồn dị” (lấy cái chung, đề cao cái chung, để hạn chế cái riêng, cái khác biệt).
Trong quá trình cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nội dung và hình thức tổ
chức của Mặt trận có sự thay đổi phù hợp với nhiệm vụ cách mạng tùy từng lúc,
từng nơi. Đó là Mặt trận dân chủ Đông Dương trong những năm đấu tranh hợp
pháp 1936 - 1939, Mặt trận Việt Minh trong cao trào đánh Pháp, đuổi Nhật đưa tới
thành công của Cách mạng Tháng Tám và việc thành lập nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà, Mặt trận Liên Việt trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam (ở miền Bắc) và Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt m
cùng Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình ở miền Nam Việt Nam
trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã làm nên chiến thắng Điện Biên
Phủ, chấn động địa cầu, đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi,
giải phóng được một nửa đất nước, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, làm
hậu phương vững chắc cho tiền tuyến lớn ở miền Nam ruột thịt.
Đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trong Mặt trận dân tộc giải phóng
miền Nam Việt Nam và Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình Việt
Nam, nhân dân ta đã làm tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang là giải phóng hoàn toàn
miền Nam, thống nhất đất nước; đưa đất nước ta cùng đi lên chủ nghĩa hội, bước
vào thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Một số bài học kinh nghiệm được rút ra từ tư tưởng của Hồ Chí Minh về đại đoàn
kết toàn dân tộc để phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc -
Một là, phải quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn
dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng xem đây là vấn đề chiến lược sống còn, là nhân
tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng trong thời kỳ quá độ đi lên
CNXH. Từ nhận thức đến hành động phải theo nguyên tắc: “Đại đoàn kết phải
được xây dựng trên cơ sở bảo đảm những lợi ích tối cao của dân tộc, lợi ích của
nhân dân lao động và quyền thiêng liêng của con người ”; “Tin vào dân, dựa vào
dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân”. Điều này lại càng có ý nghĩa rất lớn đối với
việc xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay. Có như vậy, tạo nên cơ sở
thực hiện đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, thành phần kinh tế,
mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, người trong Đảng và người ngoài
Đảng, người đang công tác và người đã nghỉ hưu, mọi thành viên trong đại gia
đình Việt Nam dù sống trong nước hay ở nước ngoài. -
Hai là, để phát huy cao độ sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, thì trước hết
phải đoàn kết thống nhất trong Đảng, vì đây là hạt nhân đoàn kết toàn dân; đồng
thời phải mở rộng dân chủ từ Trung ương đến cơ sở, tạo sự đồng thuận cao trong
xã hội, tạo không khí cởi mở, tin tưởng, cùng nhau hướng tới tương lai, lấy lợi ích
chung, lợi ích quốc gia dân tộc làm điểm tương đồng. Phải xóa bỏ mặc cảm, định
kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp và chống âm mưu chia rẽ
lương - giáo, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Phải tôn trọng những ý kiến
khác nhau; xây dựng thái độ khoan dung đối với những người lầm lỗi với tinh thần
cởi mở, tin cậy lẫn nhau, đề cao truyền thống nhân nghĩa, tạo sự đồng thuận xã hội,
như Bác Hồ đã từng dạy: "Mỗi con người đều có cái thiện, cái ác trong lòng. Ta
phải biết làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như mùa xuân, phần xấu bị
giảm dần". Đảng phải xây dựng một đường lối chiến lược khoa học, phù hợp với
nguyện vọng, quyền lợi của đại đa số dân chúng để thu hút và phát huy triệt để sức
mạnh của quần chúng vào sự nghiệp cách mạng. -
Ba là, phải xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thật sự của
dân, do dân, vì dân; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên phải gắn bó mật thiết với
nhân dân, thường xuyên tự phê bình và lắng nghe ý kiến phê bình, góp ý xây dựng
của nhân dân. Đó là điều kiện hệ trọng quan trọng để củng cố mở rộng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn hiện nay, vì mục tiêu giữ vững độc lập, thống
nhất, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”, góp phần tích cực vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới
vận dụng các nguyên tắc đó vào trong xây dựng khối đại đoàn kết
dân tộc trong giai đoạn hiện nay .
Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, đại đoàn kết toàn dân tộc
đã trở thành di sản vô giá, truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta. Tiếp tục
phát huy truyền thống quý báu đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Không
đoàn kết thì suy và mất. Có đoàn kết thì thịnh và còn. Chúng ta phải lấy đoàn kết
mà xoay vần vận mệnh, giữ gìn dân tộc và bảo vệ nước nhà”[1]. Vì thế, 8 chữ
“Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”[2] là mục đích của Đảng và Đảng thực
hiện “đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc” và “ai có tài,
có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”[3].
Khát vọng dân tộc được độc lập, tự do và thống nhất, nhân dân được sống ấm no,
hạnh phúc là mẫu số chung, là điểm gốc để quy tụ tất cả mọi người dân Việt Nam
vào khối đại đoàn kết dân tộc. Vì thế, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong
một mặt trận thống nhất chính là để tập hợp và lãnh đạo quần chúng nhân dân
thành một khối thống nhất về ý chí và hành động, tạo nên sức mạnh trong cuộc đấu
tranh vì độc lập dân tộc, vì tự do và hạnh phúc của nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Trong khối đại đoàn kết đó, Đảng là một thành viên của Mặt trận, đồng thời
là lực lượng lãnh đạo, cho nên “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền
lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất
và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng
rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới
giành được địa vị lãnh đạo”[4]. Theo Hồ Chí Minh, “trước hết phải đoàn kết đại đa
số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân
dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà,
gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết với các tầng lớp
nhân dân lao động khác”[5].
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc giác ngộ, tập hợp trí thức Việt
Nam vào hàng ngũ cách mạng, bổ sung và phát huy vai trò của họ, làm cho họ trở
thành một động lực cách mạng quan trọng; đồng thời khẳng định liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là nền tảng của khối
Câu 2: Phân tích vai trò của đại đoàn kết dân tộc?

dại đoàn kết toàn dân. Thực tế cho thấy, liên minh công - nông - trí (trí thức) không
những là yêu cầu khách quan về chính trị, làm nền tảng vững chắc cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ đất nước mà còn là yêu cầu khách quan để phát triển bền vững
kinh tế, vǎn hoá, xã hội của đất nước. Tuỳ theo yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể của
từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, Mặt trận có cương lĩnh, điều lệ phù hợp,
được tổ chức chặt chẽ, xây dựng trên nền tảng khối liên minh công - nông - trí đã
luôn lấy việc thống nhất lợi ích tối cao của dân tộc với lợi ích của các tầng lớp
nhân dân làm cơ sở để củng cố và không ngừng mở rộng khối đại đoàn kết toàn
dân. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó chính đoàn kết thực sự, lâu dài, chặt chẽ,
chân thành, thân ái giúp đỡ nhau, “là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng
phải nhất trí. Đoàn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học những cái
tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái,
vì nước, vì dân. Tóm lại, muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì toàn dân cần đoàn kết
lâu dài, đoàn kết thực sự và cùng nhau tiến bộ”[6].
Khối đại đoàn kết dân tộc chỉ thực sự phát huy được sức mạnh nội sinh khi gắn
liền với đoàn kết quốc tế, nghĩa là chủ nghĩa yêu nước chân chính phải gắn liền với
chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, sức mạnh dân tộc phải gắn
với sức mạnh thời đại. Thực tiễn cách mạng cho thấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, khối liên minh đoàn kết 3 nước Đông
Dương (Việt Nam - Lào - Campuchia), của các nước xã hội chủ nghĩa và phong
trào nhân dân thế giới ủng hộ, đoàn kết với nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu
tranh vì hòa bình, độc lập, tự do, dân chủ và tiến bộ xã hội hơn 90 năm qua dưới sự
lãnh đạo của Đảng là những minh chứng sống động cho việc xây dựng và thực
hiện tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
2. Hơn 90 năm thực hiện xuyên suốt và nhất quán chiến lược đại đoàn kết dân tộc,
nhất là trong hơn 35 năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn vận dụng một
cách sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc phù hợp với tình hình,
yêu cầu và nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng, kiên định độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Trong tiến trình ấy, trên tinh thần “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân lao động, nguyên tắc hiệp thương dân chủ được coi là “chìa
khóa vạn năng” để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tập hợp, đoàn kết và phát huy sức
mạnh toàn dân tộc làm nên những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc, tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cả
nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng “đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp
hơn” như mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thực tế, các cuộc vận động xã hội, các phong trào thi đua yêu nước sâu rộng do
Mặt trận và các tổ chức thành viên phát động và triển khai thực hiện ngày càng đi
vào cuộc sống, được các tầng lớp nhân dân tích cực hưởng ứng. Trong đó, đoàn kết
giúp nhau phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, lá lành đùm lá rách, bảo hiểm y
tế, bảo hiểm xã hội, thực hiện vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ chăm sóc sức
khỏe của nhân dân, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng,
chống tội phạm, ma túy, mại dâm, HIV/AIDS và các tệ nạn xã hội khác cùng với
cuộc vận động xã hội, các phong trào “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp
nghĩa”, “Ngày vì người nghèo”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”,
“Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, “Toàn dân bảo vệ
an ninh Tổ quốc”… không chỉ có tác dụng thiết thực, tạo nên sự gắn kết cộng đồng
mà còn góp phần làm cho tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc thấm sâu vào các tầng
lớp nhân dân, tạo động lực thúc đẩy phát triển đất nước nhanh và bền vững, phục
vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đại đoàn kết là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị, gồm Đảng, chính quyền, Mặt
trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; trong đó, động lực chủ yếu để xây dựng,
bảo vệ và phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa
công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích
cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành
phần kinh tế, của toàn xã hội.
Vì thế, để “phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân
dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam
hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt
không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền
thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam
ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà
nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”, cần tập trung thực hiện
một số giải pháp căn cốt sau:
Một là, các cấp ủy cần tiếp tục nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò và tầm quan
trọng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc gắn với thực hiện Chỉ thị
số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh” và chuyên đề năm 2020 về “Tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Đại đoàn kết là sự nghiệp của
cả dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là Đảng Cộng sản, được
thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức; trong đó, chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Đó là
nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu, là nhân tố bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, nâng cao hiệu quả tuyên truyền, vận động, tập hợp các tầng lớp nhân dân
thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm phát
huy vai trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân
gắn với thực hiện tốt trách nhiệm của công dân, phát huy dân chủ, giữ gìn kỷ
cương, chống quan liêu, tham ô, tham nhũng, lãng phí. Tiếp tục thực hiện Quy định
số 124-QĐ/TW ngày 2-2-2018 của Ban Bí thư về “Giám sát của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn
luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng
viên”, góp phần xây dựng Đảng và chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh. Ba
là, nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân trong
tham gia xây dựng và hoàn thiện một số chính sách để củng cố và phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần bảo đảm thắng lợi bền vững của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bốn là, đẩy mạnh thực hiện các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước, tổ
chức động viên nhân dân tham gia các phong trào thi đua làm kinh tế giỏi, phát
triển kinh tế gắn liền với phát triển văn hoá - xã hội; trong đó, mỗi người, mỗi gia
đình cố gắng phấn đấu làm giàu cho mình, cho cộng đồng. Bên cạnh đó, tăng
cường công tác đối ngoại nhân dân, tích cực vận động, thu hút kiều bào hướng về
Tổ quốc, góp sức xây dựng quê hương, đất nước; chủ động phối hợp với các cơ
quan chức năng nước sở tại để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của kiều bào, đồng
thời, khen thưởng, động viên kịp thời những cá nhân có thành tích tiêu biểu. Năm
là, nắm bắt kịp thời để phản ánh tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân và
nỗ lực chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp pháp của các giai cấp, các tầng
lớp nhân dân. Tôn trọng và phát huy vai trò gương mẫu, dẫn dắt của những người
tiêu biểu, có uy tín trong cộng đồng dân cư, các dân tộc, tôn giáo; bảo đảm công
bằng và bình đẳng xã hội; kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân với lợi ích của tập thể và
toàn xã hội. Cùng với việc giải quyết đúng đắn và hợp lý các quan hệ lợi ích, cần
đẩy mạnh và không ngừng bồi dưỡng, nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức độc lập
dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tinh thần tự lực tự cường trong xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, củng cố và phát triển khối đại đoàn kết dân tộc, coi đó là những yếu tố
quan trọng để không chỉ phòng và chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”
của các thế lực thù địch mà còn góp phần ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Đại đoàn kết toàn dân tộc – di sản vô giá, truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc
Việt Nam được hun đúc qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Đại đoàn kết
đã trở thành một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Tinh thần yêu nước,
trọng nhân nghĩa, khoan dung, sự cố kết, đùm bọc yêu thương nhau đã thấm sâu vào
tư tưởng, tình cảm, tâm hồn mỗi người dân, trở thành lẽ sống, chất kết dính gắn bó
các thành viên trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Lịch sử mấy ngàn năm tồn tại và phát triển của dân tộc ta đã chứng minh truyền
thống đại đoàn kết toàn dân tộc dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng đều kết thành
sức mạnh vô địch, đưa Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thách thức, giành hết thắng
lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích vẻ vang. Nhờ tinh thần đoàn kết,
nhân dân ta đã vượt qua mọi gian lao, thử thách, đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược,
giữ vững non sông bờ cõi, viết nên những trang sử vàng hào hùng của dân tộc.
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, với tinh thần nhân văn cao cả và
nhãn quan chính trị sắc bén, Chủ tịch Hồ Chí Minh không ngừng xây dựng và hoàn
thiện tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc, truyền bá và giáo dục tư tưởng đó trong
toàn Đảng, toàn quân và toàn dân. Người nhận thức sâu sắc đoàn kết là để tạo nên
sức mạnh thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù. Thực tế lịch sử đã chứng
minh: Nhờ sức mạnh của đại đoàn kết mà cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Đoàn kết cần trên cơ sở hiệp thương dân chủ, chân thành, thẳng thắn, nhân ái, gắn
với đấu tranh, tự phê bình và phê bình, có sự nhất trí về mục đích và lập trường rõ
ràng. Đoàn kết phải trên cơ sở kế thừa truyền thống yêu nước – nhân nghĩa của dân
tộc. Muốn đoàn kết phải có lòng khoan dung, độ lượng với con người, quy tụ mọi
lực lượng. Bác Hồ cũng nhiều lần khẳng định trong mấy triệu người cũng có người
thế này thế khác, nhưng đều là đồng bào ta, ít nhiều họ đều có lòng yêu nước. Vì thế
nên quy tụ mọi người bằng lòng chân thành, thương dân. Ngay cả “với những đồng
bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đại đoàn kết…”
Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc:
1-Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của dân tộc Việt Nam.
Đề cập đến chủ nghĩa yêu nước của dân tộc, chủ tịch Hồ Chí Minh viết: ” Dân ta có
một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta từ xưa đến nay,
mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng
vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm
tất cả lũ bán nước và cướp nước”.
Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, tinh thần yêu nước gắn liền với ý
thức cộng đồng, ý thức cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc Việt Nam đã hình thành và
củng cố, tạo thành một truyền thống bền vững. Tinh thần ấy, tình cảm ấy theo thời
gian đã trở thành lẽ sống của mỗi con người Việt Nam, làm cho vận mệnh mỗi cá
nhân gắn chặt vào vận mệnh của cộng đồng, vào sự sống còn và phát triển của dân
tộc. Nó là cơ sở của ý chí kiên cường, bất khuất, tinh thần dũng cảm hy sinh vì dân,
vì nước của mỗi con người Việt Nam, đồng thời là giá trị tinh thần thúc đẩy sự phát
triển của cộng đồng và của mỗi cá nhân trong quá trình dựng nước và giữ nước, làm
nên truyền thống yêu nước, đoàn kết của dân tộc. Dù lúc thăng, lúc trầm nhưng chủ
nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam bao giờ cũng là tinh
hoa đã được hun đúc và thử nghiệm qua hàng nghìn năm lịch sử chinh phục thiên
nhiên và chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc của ông cha ta. Chủ nghĩa yêu nước,
truyền thống đoàn kết, cộng đồng của dân tộc Việt Nam là cơ sở đầu tiên, sâu xa cho
sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
2- Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin
Chủ nghĩa Mác- Lênin cho rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân
là người sáng tạo lịch sử; giai cấp vô sản muốn thực hiện vai trò là lãnh đạo cách
mạng phải trở thành dân tộc, liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to
lớn của cách mạng. Chủ nghĩa Mác- Lênin đã ch ra cho các dân tộc bị áp bức con
đường tự giải phóng. Lê-nin cho rằng, sự liên kết giai cấp, trước hết là liên minh giai
cấp công nhân với nông dân là hết sức cần thiết, bảo đảm cho thắng lợi của cách
mạng vô sản. Rằng nếu không có sự đồng tình và ủng hộ của đa số nhân dân lao
động với đội ngũ tiên phong của nó, tức giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thực hiện được.
3- Tổng kết những kinh nghiệm thành công và thất bại của các phong trào cáchmạng Việt Nam và thế giới.
Không chỉ được hình thành từ những cơ sở lý luận suông, tư tưởng này còn xuất phát
từ thực tiễn lịch sử của dân tộc và nhiều năm bôn ba khảo nghiệm ở nước ngoài của Hồ Chí Minh.
a-Thực tiễn cách mạng Việt Nam
Là một người am hiểu sâu sắc lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc
mình, Hồ Chí Minh nhận thức được trong thời phong kiến ch có những cuộc đấu
tranh thay đổi triều đại nhưng chúng đã ghi lại những tấm gương tâm huyết của ông
cha ta với tư tưởng “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức” và
“Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc là thượng sách giữ nước”. Chính chủ
nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết của dân tộc trong chiều sâu và bề dày của
lịch sử này đã tác động mạnh mẽ đến Hồ Chí Minh và được người ghi nhận như
những bài học lớn cho sự hình thành tư tưởng của mình.
vận dụng tư tưởng HCM về đại đoàn kết dân tộc trong bối cảnh hiện nay.
Một là, thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục cho mọi người dân
về tinh thần đoàn kết của dân tộc
Đây là nhiệm vụ mang tính thường xuyên, liên tục và được tiến hành có trọng
tâm, trọng điểm, nhất là vào những thời điểm quyết định đến tương lai, vận mệnh
của đất nước. Tuyên truyền, giáo dục để cho mỗi người dân thấy được tinh thần đoàn
kết là vốn quý của dân tộc cần phải được bảo tồn và lan toả rộng khắp. Theo đó, cần
đa dạng hoá nội dung, hình thức tổ chức các phong trào thi đua yêu nước để mọi
người được tham gia, phát huy năng lực, sở trường, thế mạnh của mình; xây dựng
đội ngũ cán bộ các cấp có năng lực, phẩm chất uy tín về đạo đức, lối sống được nhân
dân kính trọng, nể phục; nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên
trong tập hợp, vận động các tầng lớp nhân dân tham gia hưởng ứng vào các phong
trào thi đua do Đảng, Nhà nước, Chính phủ và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động.
Hai là, đa dạng hoá các nội dung, hình thức, phương pháp khơi dậy tinh thần đoàn
kết của con người Việt Nam
Về nội dung, cần hướng vào những vấn đề thiết thực gắn với cuộc sống đời thường
của người dân, như gia đình khá giả, có điều kiện giúp đỡ gia đình nghèo, không có
điều kiện; huy động các doanh nghiệp, doanh nhân thành đạt ủng hộ cho người
nghèo, không có công ăn, việc làm, ốm đau, bệnh tật không có khả năng lao động,
thông qua hoạt động từ thiện, ủng hộ; tổ chức phát động chương trình chung tay
quyên góp cho nhân dân bị ảnh hưởng bởi thiên tai, hạn hán, dịch bệnh; xây dựng
đức tính nhân ái, bao dung, độ lượng giữa con người với con người trong hoạn nạn,
khó khăn; theo từng địa phương, vùng, miền tổ chức phát động phong trào thi đua
yêu nước để gắn kết con người; xây dựng môi trường thi đua trong sáng, lành mạnh,
phong phú, không có sự ganh đua, cạnh tranh, đố kỵ, ganh ghét giữa con người với con người...
Về hình thức, phương pháp khơi dậy tinh thần đoàn kết được thực hiện thông qua
công tác tuyên truyền, giáo dục, tổ chức; các hội nghị để kêu gọi mọi người nêu cao
tinh thần đoàn kết, khí phách ngàn đời của dân tộc; thông qua xây dựng những gương
điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt; thông qua hệ thống thông tin truyền
thông ở các địa phương, nhất là đội ngũ cán bộ ở cấp cơ sở trong việc thực hành, nêu
gương trước quần chúng nhân dân.
Ba là, phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ cơ sở trong hướng dẫn,
đồng hành cùng với nhân dân tham gia vào các hoạt động chung của xã hội
Cán bộ là “cái gốc” của mọi công việc, muôn việc thành công hay thất bại đều do
cán bộ tốt hay xấu. Theo đó, đội ngũ cán bộ các cấp đặc biệt là người đứng đầu ở cơ
quan, đơn vị, địa phương phải phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của mình là hạt nhân
đoàn kết, bám sát mọi hoạt động của quần chúng nhân dân, biết lắng nghe, chia sẻ
với khó khăn, vất vả của người dân, tuyệt nhiên không được khinh thường nhân dân,
người lao động chân tay; gắn việc học tập làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh với xây dựng, chỉnh đốn Đảng; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát
của Đảng đối với quá trình công tác của đội ngũ cán bộ các cấp để phát hiện, xử lý
kịp thời theo đúng quy định của pháp luật đối với cán bộ vi phạm nguyên tắc, Điều
lệ, Cương lĩnh của Đảng. Trong mọi hoạt động của mình, đội ngũ cán bộ các cấp,
nhất là người đứng đầu phải luôn đặt chữ “Tâm” để giải quyết các mối quan hệ, ứng
xử, xây dựng tác phong gần gũi, chân thành giữa cán bộ với cán bộ và giữa cán bộ
với nhân dân. Đó không chỉ góp phần đưa nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước đi vào thực tiễn cuộc sống, mà còn tạo tinh thần, khí thế thi
đua sôi nổi trong toàn xã hội.