-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Bài luận cuối kỳ kinh tế chính trị | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế. Tầm quan trọng của hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam. Thời cơ của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về hội nhập kinh tế quốc tế. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Kinh tế chính trị Mác Lênin (vshsvhs) 51 tài liệu
Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.3 K tài liệu
Bài luận cuối kỳ kinh tế chính trị | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế. Tầm quan trọng của hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam. Thời cơ của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về hội nhập kinh tế quốc tế. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Kinh tế chính trị Mác Lênin (vshsvhs) 51 tài liệu
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.3 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Preview text:
MỞ ĐẦU
Hội nhập kinh tế thế giới là xu thế tất yếu bởi sự tác động mạnh mẽ và sâu sắc
đến nền kinh tế chính trị của các nước nói riêng và của thế giới nói chung.
Theo xu thế chung của thế giới, Việt Nam đã và đang từng bước cố gắng chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế. Đây không phải là một mục tiêu nhiệm vụ nhất
thời mà là vấn đề mang tính chất sống còn đối với nền kinh tế Việt Nam hiện
nay cũng như sau này. Bởi một nước mà đi ngược với xu hướng chung của thời
đại sẽ trở nên lạc hậu và bị cô lập, sớm hay muộn nước ấy sẽ bị loại bỏ trên đấu
trường quốc tế. Với phương châm "đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ" và
"sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới,
phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. Việt Nam đã thiết lập các quan hệ
thương mại, đầu tư, dịch vụ và khoa học kỹ thuật với tất cả các nước, tích cực
tham gia vào các tổ chức, diễn đàn kinh tế thế giới và khu vực.
Tuy nhiên, một vấn đề bao giờ cũng có hai mặt đối lập. Hội nhập kinh tế quốc tế
mang đến cho Việt Nam rất nhiều thời cơ thuận lợi nhưng cũng đem lại không ít
khó khăn thử thách. Nhưng theo chủ trương của Đảng, chúng ta sẽ khắc phục
những khó khăn để hoàn thành sứ mệnh. Vì vậy, vấn đề nâng cao khả năng hội
nhập của nền kinh tế nước ta hiện nay đang là vấn đề lý luận và thực tiễn nóng
bỏng. Em xin chọn đề tài: “Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam:
thực trạng và giải pháp nâng cao kinh tế quốc tế". NỘI DUNG
PHẦN I:NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
I.Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gắn bó nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế
thế giới nhằm khai thác các nguồn lực bên trong một cách có hiệu quả.
Đây là một quá trình tất yếu, một xu thế bao trùm mà trọng tâm là mở cửa kinh
tế, tạo điều kiện kết hợp tốt nhất nguồn lực trong nước và quốc tế, mở rộng
không gian để phát triển và chiếm lĩnh vị trí phù hợp nhất có thể trong quan hệ
kinh tế quốc tế. Hội nhập vừa là đòi hỏi khách quan vừa là nhu cầu nội tại của
sự phát triển kinh tế mỗi nước.
II.Tầm quan trọng của hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam
Nghị quyết số 22/NQ-TW về hội nhập quốc tế khẳng định: “Hội nhập kinh tế là
trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh
tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, bảo đảm an
ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, thúc đẩy phát triển
văn hóa, xã hội; hội nhập trong các lĩnh vực phải được thực hiện đồng bộ trong
một chiến lược hội nhập quốc tế tổng thể với lộ trình, bước đi phù hợp với điều
kiện thực tế và năng lực của đất nước”.
Quan điểm này khẳng định vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế trong tiến trình
hội nhập chung của đất nước, như trong kết luận của Thủ Tướng Chính phủ tại
Hội nghị tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết 08 của Ban Chấp hành Trung
ương đã nêu rõ: “Hội nhập kinh tế quốc tế cần được đặt trong mối quan hệ hài
hòa với hội nhập trong các lĩnh vực khác nhưng hội nhập kinh tế quốc tế phải là
trọng tâm, là nội dung chính, quan trọng nhất của tiến trình hội nhập. Hội nhập
kinh tế quốc tế cần đi trước một bước để tạo cơ sở, thúc đẩy hội nhập và hợp tác
trong các lĩnh vực khác”.
III.Thời cơ của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Tham gia vào các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực sẽ tạo điều kiện cho Việt
Nam phát triển một cách nhanh chóng. Những cơ hội của hội nhập đem lại mà
Việt Nam tận dụng được một cách triệt để sẽ làm bàn đạp để nền kinh tế sớm
sánh vai với các cường quốc năm châu.
(1)Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần mở rộng thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam.
Khi Việt Nam gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế sẽ mở rộng quan hệ bán
hàng. Cùng với việc được hưởng ưu đãi về thuế quan, xóa bỏ hàng rào phi thuế
quan và các chế độ đãi ngộ khác đã tạo điều kiện cho hàng hoá của Việt Nam
thâm nhập thị trường thế giới.
(2)Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần tăng thu hút đầu tư nước ngoài, viện
trợ phát triển chính thức và giải quyết vấn đề nợ quốc tế.
Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để thị trường nước ta được mở
rộng, điều này sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư. Họ sẽ mang vốn và công nghệ vào
nước ta sử dụng lao động và tài nguyên sẵn có của nước ta làm ra sản phẩm tiêu
thụ trên thị trường khu vực và thế giới với các ưu đãi mà nước ta có cơ hội mở
rộng thị trường, kéo theo cơ hội thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đây cũng là cơ
hội để doanh nghiệp trong nước huy động và sử dụng vốn có hiệu quả hơn.
(3)Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo điều kiện cho ta tiếp thu khoa
học công nghệ tiên tiến, đào tạo cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh.
Việt Nam gia nhập kinh tế quốc tế sẽ tranh thủ được kỹ thuật, công nghệ tiên
tiến của các nước đi trước để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại
hoá, tạo cơ sở vật chất kĩ thuật cho công cuộc xây dựng CNXH.
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần không nhỏ vào công tác đào tạo và bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ trong nhiều lĩnh vực. Phần lớn cán bộ khoa học kỹ thuật,
cán bộ quản lý, các nhà kinh doanh đã được đào tạo ở trong và ngoài nước.
(4)Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần duy trì hòa bình ổn định, tạo dựng môi
trường thuận lợi để phát triển kinh tế, nâng cao vị trí Việt Nam trên trường quốc tế.
Trước đây, Việt Nam chỉ có quan hệ chủ yếu với Liên Xô và các nước Đông Âu,
nay đã thiết lập được quan hệ ngoại giao với 189 quốc gia trên thế giới.
(5)Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội mở rộng giao lưu các nguồn lực nước ta với các nước.
Với dân số khoảng 95 triệu người, nguồn nhân lực nước ta khá dồi dào. Nhưng
nếu chúng ta không hội nhập quốc tế thì việc sử dụng nhân lực trong nước sẽ bị
lãng phí và kém hiệu quả. Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo cơ hội để nguồn nhân
lực của nước ta khai thông, giao lưu với các nước.
IV.Quan điểm của Đảng, Nhà nước về hội nhập kinh tế quốc tế
Từ các văn kiện qua các kỳ Đại hội, đặc biệt là trong 30 năm thực hiện Cương
lĩnh 1991 và gần 10 năm thực hiện Cương lĩnh 2011, có thể khái quát sự tiến
triển quan điểm của Đảng ta về hội nhập kinh tế quốc tế như sau:
Một là, quan điểm chủ đạo, xuyên suốt, bất biến là hội nhập kinh tế quốc tế luôn
luôn dựa trên tiền đề, điều kiện: giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, xây
dựng và giữ vững nền kinh tế độc lập, tự chủ;hội nhập vì lợi ích đất nước, giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh. (Nghị quyết 06 HN TW4, khóa XII)
Hai là, sự tiến triển nhận thức từ chú trọng hội nhập kinh tế, đến hội nhập toàn
diện trên tất cả các lĩnh vực, nhưng hội nhập kinh tế vẫn là trọng tâm, hội nhập
trên các lĩnh vực khác là điều kiện và hỗ trợ cho hội nhập kinh tế quốc tế.
Ba là, sự tiến triển quan điểm từ hội nhập đơn tuyến sang đa tuyến, trên tất cả
các cấp độ:song phương, khu vực và đa phương. Kết luận số 58-KL/TW ngày
2/4/2013 của Bộ Chính trị sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4
(khóa X) đã khẳng định quan điểm: “chủ động xây dựng các quan hệ đối tác
mới, tham gia vào các vòng đàm phán mới, thúc đẩy các quan hệ hợp tác kinh tế
song phương, khu vực và đa phương”.
Bốn là, tiến triển từ mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại thông qua mở cửa thị
trường và thu hút đầu tư nước ngoài sang hội nhập kinh tế toàn diện dựa trên ký
kết các hiệp định quốc tế.
Năm là, từ chỗ xem mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là chính sách của Đảng
và Nhà nước đến coi Hội nhập kinh tế quốc tế là công việc của toàn dân. Nghị
quyết 06 HN TW4, khóa XII tiếp tục khẳng định: “Hội nhập kinh tế quốc tế là
sự nghiệp của toàn dân; doanh nhân, doanh nghiệp, đội ngũ trí thức là lực lượng đi đầu”.
PHẦN II: THỰC TRẠNG CỦA VIỆC HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM
I.Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam
Dưới sự chỉ đạo của Đảng, Việt Nam tiến hành hội nhập từng bước, dần dần mở
cửa thị trường với lộ trình hợp lý. Xác định lộ trình hội nhập là rất quan trọng.
Đây không chỉ là xác định thời gian mở cửa thị trường trong nước mà còn là xác
định mục tiêu nền kinh tế nước ta: phát huy lợi thế so sánh, chiếm lĩnh thị phần
ngày càng lớn trên thương trường quốc tế, thâm nhập ngày càng nhiều vào thị
trường các nước cả về hàng hoá và đầu tư dịch vụ.
Dưới đây là một số kết quả cụ thể của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam:
1.Hội nhập trong khuôn khổ ASEAN
Nhờ hội nhập kinh tế ASEAN, Việt Nam ta mở rộng thị trường xuất khẩu, bước
đầu tham gia vào chuỗi giá trị khu vực, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
cải cách chính sách trong nước, xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao phù
hợp với yêu cầu hội nhập. Về công tác nội khối có thể kể đến một số thành tựu
quan trọng mà Việt Nam cùng các nước ASEAN đã đạt được như sau:
Về thương mại hàng hóa, theo cam kết của Hiệp định Thương mại Hàng hóa
ASEAN (ATIGA), Việt Nam và các nước ASEAN đã tiến rất gần đến mục tiêu
xóa bỏ hoàn toàn hàng rào thuế quan (đến năm 2018, các nước ASEAN-6 đã
xóa bỏ khoảng 99,2% số dòng thuế và các nước gia nhập sau là Cam-pu-chia,
Lào, My-an-ma và Viê •t Nam đã xóa bỏ khoảng 90,9% số dòng thuế; tỷ lệ tự do
hóa thuế quan của Việt Nam trong nội khối ASEAN đạt 98% vào năm 2018).
Ngoài ra, các nước ASEAN cũng đang triển khai các biện pháp tạo thuận lợi
cho hoạt động thương mại của các doanh nghiệp như: cơ chế tự chứng nhận
xuất xứ, cơ chế hải quan một cửa v.v…, các thỏa thuận công nhận lẫn nhau
(MRA) về tiêu chuẩn trong các lĩnh vực điện - điện tử, cao su, thực phẩm chế
biến sẵn, dược phẩm và thiết bị y tế,...
Về thương mại dịch vụ, tự do hóa thương mại dịch vụ là một trong những ưu
tiên quan trọng trong Cộng đồng kinh tế ASEAN. Đến nay, các nước ASEAN đã
ký kết xong Nghị định thư thực hiện Gói cam kết dịch vụ thứ 10 thuộc Hiệp
định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS-10) và kết thúc đàm phán Hiệp định
Thương mại dịch vụ ASEAN (ATISA).
Về đầu tư, sau nhiều nỗ lực thực thi Khu vực đầu tư ASEAN và Hiệp định Đầu
tư toàn diện ASEAN (ACIA), trong năm 2017, các nước ASEAN đã hoàn tất
việc ký kết Nghị định thư thứ hai và thứ ba sửa đổi ACIA và tiến tới sớm hoàn
thành ký kết Nghị định thư thứ tư sửa đổi Hiệp định này vào năm 2019 để tăng
cường luồng đầu tư trong khu vực Đông Nam Á.
Về các lĩnh vực khác, Việt Nam và các nước ASEAN đã đạt được những tiến bộ
cụ thể hơn trong việc thực thi các lĩnh vực mới, như các hoạt động chuẩn bị cho
cách mạng công nghiệp 4.0, thương mại điện tử và phát huy vai trò của Cộng
đồng kinh tế ASEAN vào việc đạt được mục tiêu phát triển bền vững. Không
chỉ tham gia sâu rộng và toàn diện vào hợp tác nội khối, Việt Nam cùng
ASEAN thúc đẩy quan hê • hợp tác kinh tế với các đối tác quan trọng khác như
Ấn Độ, Hàn Quốc, Nhâ •t Bản, Australia, Trung Quốc,...thông qua ký kết một
loạt hiệp định FTA giữa ASEAN với các đối tác này. Quan hệ hợp tác kinh tế
với các các đối tác quan trọng khác như Hoa Kỳ, EU, Ca-na-đa, Liên bang Nga
cũng được Việt Nam phối hợp với các nước thành viên ASEAN khác triển khai
tích cực thông qua các sáng kiến, các chương trình hành động cụ thể, tập trung
vào các nội dung các bên cùng quan tâm như kinh tế thương mại, đầu tư quốc
tế, phát triển năng lực.
2.Hội nhập trong khuôn khổ WTO
Chỉ trong vòng 5 năm sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã xây dựng mới và
hoàn thiện trên 30 bộ luật; có tới hơn 400 văn bản pháp luật liên quan đến 300
loại giấy phép kinh doanh dưới nhiều hình thức khác nhau đã được rà soát, đánh
giá và loại bỏ. Đồng thời, Việt Nam đã thực hiện nghiêm túc lộ trình mở cửa thị
trường hàng hoá, dịch vụ theo cam kết của WTO. Cho đến nay, về cơ bản, các
luật, pháp lệnh có liên quan tới việc thực thi các cam kết WTO về cơ bản đều đã
được ban hành đầy đủ. Năm 2013, Việt Nam đã hoàn thành Phiên rà soát chính
sách thương mại lần đầu tiên trong WTO. Cộng đồng quốc tế đã hoan nghênh
và đánh giá cao nỗ lực của Việt Nam trong quá trình cải cách, hoàn thiện chính
sách và thực thi các cam kết để phù hợp với quy định của WTO.
Với tư cách thành viên WTO, Việt Nam đã tham gia tích cực vào các cuộc đàm
phán trong khuôn khổ WTO ở các nội dung có liên quan đến Việt Nam như
nông nghiệp, công nghiệp, sở hữu trí tuệ...và đóng góp tiếng nói bảo vệ quyền
và lợi ích của các nước đang phát triển.
3.Hội nhập trong khuôn khổ APEC
Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế
Châu Á – Thái Bình Dương (APEC) vào năm 1998. Thành tựu phát triển kinh tế
và hội nhập quốc tế của nước ta trong hơn 20 năm qua đã khẳng định chủ
trương tham gia APEC là hoàn toàn đúng đắn và đúng thời điểm.
Thứ nhất, là cơ chế hợp tác kinh tế hàng đầu tại Châu Á – Thái Bình Dương,
nơi hội tụ các nền kinh tế, thương mại và công nghệ lớn toàn cầu, APEC đã
mang lại nhiều lợi ích về chiến lược, kinh tế, thương mại và đầu tư, góp phần
thúc đẩy cải cách trong nước, nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam. APEC là
diễn đàn quy tụ 14 trên 28 đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và là các đối tác
kinh tế, thương mại quan trọng hàng đầu của nước ta, chiếm 75% kim ngạch
xuất nhập khẩu, 78% tổng vốn đầu tư trực tiếp và 79% lượng khách du lịch quốc tế của Việt Nam.
Thứ hai, tham gia APEC góp phần quan trọng nâng cao vị thế quốc tế của Việt
Nam. Là thành viên APEC, Việt Nam có vai trò, tiếng nói bình đẳng trước nền
kinh tế hàng đầu thế giới trong tham gia định hình liên kết kinh tế khu vực.
Thứ ba, nổi bật nhất trong 20 năm tham gia APEC phải kể đến việc Việt Nam là
một trong số không nhiều thành viên đã hai lần đảm nhiệm thành công vai trò
chủ nhà APEC, vào các năm 2006 và 2017.
Thứ tư, tham gia APEC và thực hiện các sáng kiến về mở cửa thương mại, đầu
tư, tạo điều kiện kinh doanh góp phần tạo động lực thúc đẩy cải cách trong
nước, từng bước hoàn thiện thể chế chính sách, quy định phù hợp với các cam kết quốc tế.
Thứ năm, là thành viên đang phát triển trong APEC, Việt Nam đã đề xuất thực
hiện cũng như hưởng lợi từ các chương trình xây dựng năng lực và hỗ trợ kỹ thuật. .
Cuối cùng, diễn đàn APEC mang đến những tiềm năng và cơ hội to lớn cho các
doanh nghiệp Việt Nam. Đối thoại giữa các nhà Lãnh đạo APEC với Hội đồng
tư vấn doanh nghiệp APEC (ABAC) và Hội nghị thượng đỉnh doanh nghiệp
APEC hàng năm là dịp quan trọng để cộng đồng doanh nghiệp đề xuất khuyến
nghị lên các nhà Lãnh đạo, chủ động tham gia đóng góp xây dựng chính sách
liên kết kinh tế khu vực, đồng thời tạo khuôn khổ để doanh nghiệp Việt Nam kết
nối với các tập đoàn hàng đầu thế giới.
4.Hội nhập trong khuôn khổ ASEM
Được thành lập từ năm 1996, ASEM đã phát triển vượt lên kỳ vọng ban đầu,
khẳng định là cơ chế đối thoại và hợp tác quan trọng, có quy mô lớn nhất giữa
hai châu lục, thúc đẩy xu thế hợp tác, liên kết đa tầng nấc vì hòa bình và phát
triển. Là một trong những thành viên sáng lập ASEM, Việt Nam luôn phát huy
vai trò chủ động tham gia hợp tác Á-Âu, tạo thêm điều kiện để Việt Nam tiếp
tục triển khai các chính sách có lợi:
Thứ nhất, ASEM là nơi hội tụ 19/26 đối tác chiến lược và đối tác toàn diện của
Việt Nam, chiếm khoảng 70% đầu tư trực tiếp nước ngoài, 70% tổng giá trị
thương mại quốc tế và 80% lượng khách du lịch quốc tế. 14 trong 16 hiệp định
thương mại tự do mà Việt Nam đã ký hoặc đang đàm phán là với các đối tác
ASEM (47/60 đối tác là thành viên ASEM). Những con số này phản ánh phần
nào ý nghĩa và vai trò của các thành viên ASEM đối với bức tranh tổng thể kinh
tế Việt Nam, nhất là trong việc duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, tiếp thu
công nghệ tiên tiến và kỹ năng quản lý cao, từng bước nâng cao đời sống nhân dân.
Thứ hai, trong bối cảnh môi trường hòa bình, an ninh trên thế giới và khu vực
đứng trước nhiều thách thức, cạnh tranh giữa các nước lớn phức tạp, chúng ta
đã phối hợp chặt chẽ với các thành viên ASEM để ngày càng có nhiều thành
viên đề cao lợi ích chung trong duy trì hòa bình, an ninh và ổn định để phát
triển, lên tiếng ủng hộ lập trường chính nghĩa của ta trong bảo vệ chủ quyền lãnh thổ…
Thứ ba, chiếm 24 trong số 25 đối tác chiến lược và đối tác toàn diện của Việt
Nam, ASEM là diễn đàn quan trọng để Việt Nam đa phương hóa.
Thứ tư, thông qua các cơ chế hợp tác về quản lý và giảm thiểu rủi ro thiên tai,
Đối thoại ASEM về phát triển bền vững với trọng tâm là hợp tác Mekong -
Danube, các Bộ, ngành, địa phương đã tranh thủ kinh nghiệm và hỗ trợ thiết
thực của các thành viên ASEM trong ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý
nguồn nước gắn với phát triển bền vững và bảo vệ môi trường.
5.Việt Nam và các Hiệp định thương mại tự do (FTA)
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã tích cực tham gia đàm phán, ký kết các
Hiệp định thương mại tự do (FTA). Việc hình thành các FTA với mức độ tự do
hoá sâu rộng đã và đang đem lại những cơ hội và cả thách thức không nhỏ đối
với những nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam. Chính vì vậy, Việt Nam
không thể đứng ngoài cuộc mà cần phải chủ động nắm bắt xu thế FTA, tham gia
có lựa chọn để nắm bắt cơ hội tiếp cận thị trường, mở rộng quan hệ kinh tế
thương mại với các đối tác quan trọng.
Cho tới thời điểm hiện nay (T2/2020), Việt Nam đã tham gia ký kết 12 FTA (có
hiệu lực) gồm: 7 FTA ký kết với tư cách là thành viên ASEAN (AFTA; ACFTA
với Trung Quốc; AKFTA với Hàn Quốc; AIFTA với Ấn Độ; AANZFTA với
Australia và New Zealand; AHKFTA với HongKong ); 5 FTA ký kết với tư cách
là một bên độc lập (với các đối tác: VCFTA với Chile, VJEPA với Nhật Bản,
VKFTA với Hàn Quốc, VN - EAEUFTA với Liên minh Kinh tế Á-Âu, và Hiệp
định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương CPTPP); 1 FTA đã
ký EVFTA (giữa Việt Nam và EU) sẽ có hiệu lực vào 1/8/2020. Hiện chúng ta
đang đàm phán 3 FTA, gồm: Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực
(RCEP), FTA với Khối thương mại tự do Châu Âu (EFTA), FTA Việt Nam - Israel.
Việc Việt Nam ký kết các FTA song phương và đa phương đã tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp của Việt Nam mở rộng thị trường, tiếp cận được thị trường
khu vực và thị trường toàn cầu, cũng như được tiếp cận thị trường dịch vụ của
các nước đối tác thuận lợi hơn. Bởi phần lớn các rào cản và điều kiện trong
buôn bán đã được cam kết dỡ bỏ, chủ yếu là các hàng rào thuế đã mang lại một
lợi thế cạnh tranh vô cùng lớn và một triển vọng sáng lạn cho nhiều ngành sản
xuất hàng hóa của chúng ta, kéo theo đó là lợi ích cho một bộ phận lớn người
lao động trong các Công ty có hoạt động xuất nhập khẩu.
Việt Nam được hưởng ưu đãi theo các FTA, lượng vốn đầu tư vào Việt Nam sẽ
gia tăng, thu hút được các lao động trí thức, có tay nghề cao từ nước ngoài tới
Việt Nam làm việc, các doanh nghiệp cũng có cơ hội tiếp thu với khoa học công
nghệ – kỹ thuật tiên tiến từ các nước phát triển.
II.Đánh giá chung về quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam 1.Ưu điểm
(1) Từ một nước bị bao vây, cấm vận, chúng ta đã bình thường hóa quan hệ với
tất cả các nước và các tổ chức quốc tế, tiến đến thiết lập quan hệ và ký kết các
hiệp định, thỏa thuận hợp tác và hội nhập kinh tế ở tất cả các cấp độ song
phương, khu vực và đa phương.
Sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã tham gia tất cả các tổ chức kinh tế thế
giới và khu vực chủ chốt như WTO, ASEM, APEC, ASEAN, thiết lập quan hệ
ngoại giao với 189 quốc gia, mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hoá
tới trên 230 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ, ký kết trên 90 Hiệp định
thương mại song phương, gần 60 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54
Hiệp định chống đánh thuế hai lần và nhiều Hiệp định hợp tác về văn hóa song
phương với các nước và các tổ chức quốc tế. Tiếng nói và vị thế của ta được coi
trọng, ghi nhận ở không ít tổ chức, diễn đàn quốc tế như Liên hợp quốc, UN ESCO, APEC,...
(2) Trên cơ sở các cam kết hội nhập, hệ thống pháp luật từng bước được hoàn
thiện, hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo động lực thúc đẩy đổi mới thể chế kinh tế
theo hướng ngày gần với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế.
Cùng với quá trình thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã
có bước tiến lớn trong việc ban hành và sửa đổi hệ thống pháp luật cho phù hợp
với thông lệ quốc tế nhằm làm cho môi trường kinh doanh thông thoáng minh
bạch, bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, giữa các doanh nghiệp,
thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, đầu tư phát triển; đó là điều kiện bắt buộc và
cũng là yêu cầu cấp thiết trong quá trình đổi mới đường lối và chính sách đối
ngoại, tham gia ngày càng sâu và rộng vào sân chơi quốc tế.
(3) Hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành động lực quan trọng thúc đẩy tăng
trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh của các
sản phẩm,của các doanh nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế.
Nếu như trong giai đoạn 1986-1990, trước khi đất nước bước vào thời kỳ mở
cửa, hội nhập toàn diện, tăng trưởng GDP bình quân chỉ đạt 4,4%/năm thì thời
kỳ từ 1991-2011 tăng trưởng GDP bình quân đạt từ 6 - 8%.
Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, phát huy vai trò của
khu vực công nghiệp - xây dựng và dịch vụ. Chất lượng tăng trưởng kinh tế
được cải thiện, trình độ công nghệ sản xuất được nâng lên. Kết quả là nước ta
thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và ra khỏi danh sách các nước kém phát
triển sau 30 năm đổi mới.
(4) Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra nền kinh tế mở, thúc đẩy xuất khẩu, cải
thiện cán cân thương mại
Hội nhập kinh tế quốc tế là yếu tố quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho Việt
Nam mở rộng thị trường và tăng cường xuất khẩu, đưa xuất khẩu đã trở thành
một động lực chính cho tăng trưởng kinh tế. Độ mở của nền kinh tế Việt Nam
ngày càng lớn: tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ so với GDP
đạt 208,6%, điều này chứng tỏ Việt Nam khai thác được thế mạnh của kinh tế
trong nước đồng thời tranh thủ được thị trường thế giới.
(5) Hội nhập kinh tế quốc tế đã thúc đẩy việc thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài, đáp ứng một phần quan trọng nhu cầu vốn và công nghệ của đất nước
trong giai đoạn đầu CNH, HĐH
Hiện nay, khu vực có vốn ĐTNN ngày càng phát triển, đã trở thành một trong
những khu vực năng động nhất của nền kinh tế, góp phần hình thành một số
ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế, phát triển nhiều ngành dịch vụ chất
lượng cao, tạo ra phương thức mới trong phân phối hàng hóa, tiêu dùng, góp
phần kích thích hoạt động thương mại nội địa; chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp,
nâng cao giá trị hàng hóa nông sản xuất khẩu; hình thành các khu đô thị mới,
các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế; góp phần cải thiện hệ thống
cảng biển của Việt Nam; góp quan trọng cho thúc đẩy và mở rộng thị trường
xuất khẩu, chuyển đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu và từng bước đưa Việt Nam
tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.
(6) Hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần quan trọng vào việc giải quyết việc
làm, nâng cao trình độ, kỹ năng của lực lượng lao động, góp phần giải quyết
nhiều vấn đề xã hội và phát triển bền vững.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã mang tới những cơ hội để tiếp cận các xu thế mới,
tri thức mới, những mô hình giáo dục hiện đại, tranh thủ các nguồn lực bên
ngoài, tạo thời cơ để phát triển giáo dục. Với việc tham gia các Công ước và nỗ
lực từ Trung ương tới địa phương, nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể
của ta đã được UNESCO công nhận, góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế xã hội. 2.Nhược điểm
Bên cạnh những thành quả và ưu điểm nêu trên, hội nhập kinh tế quốc tế thời
gian qua cũng bộc lộ nhiều hạn chế và bất cập.
(1) Hội nhập kinh tế quốc tế nhìn chung thể hiện chủ yếu trong chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước mà chưa biến thành
yếu tố nội sinh trong hành động của các cấp, các ngành và doanh nghiệp.
Các chủ trương, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế chậm được lồng ghép, nhìn
nhận đầy đủ trong chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chưa gắn
kết chặt chẽ với công tác quản lý điều hành phát triển kinh tế - xã hội, và thiếu
nguồn lực để thực hiện.
(2) Quá trình đổi mới ở trong nước, nhất là đổi mới, hoàn thiện thể chế, trước
hết là hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa được thực hiện một cách
đồng bộ, chưa gắn kết chặt chẽ với yêu cầu hội nhập và quá trình nâng cao
năng lực cạnh tranh. Mặt khác tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế bộc lộ nhiều
bất cập so với yêu cầu bảo đảm quốc phòng - an ninh, bảo vệ an ninh chính trị,
trật tự, an toàn xã hội, môi trường sinh thái, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Việc cải cách thể chế kinh tế trong nước vẫn chưa đáp ứng và theo kịp các yêu
cầu của việc thực thi cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Việc đẩy mạnh quá trình
đàm phán, ký kết và thực hiện các cam kết quốc tế chưa tạo sức ép đổi mới
trong nước, nhất là về thể chế kinh tế, cải cách hành chính. Tuy đã có nhiều
chính sách, pháp luật để hội nhập và thực hiện các cam kết trong khuôn khổ
WTO và tham gia các FTA, song vẫn thiếu các chính sách cụ thể và hiệu quả để
thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ lớn về phát huy nội lực, phát triển doanh
nghiệp trong nước, nông nghiệp nông thôn, công nghiệp hỗ trợ, phát triển nguồn
nhân lực, khoa học công nghệ... nhằm phát huy hiệu quả của hội nhập,thúc đẩy
quá trình tái cơ cấu và đổi mới mô hình tăng trưởng và thực hiện Chiến lược
phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
(3) Việc phối hợp hội nhập kinh tế quốc tế với hội nhập trong các lĩnh vực khác
chưa chặt chẽ để phát huy tổng lực và hạn chế rủi ro. Chưa tạo được sự đan
xen chặt chẽ lợi ích chiến lược, lâu dài với các đối tác, nhất là các đối tác quan
trọng. Việc ứng phó với những biến động và xử lý những tác động từ môi
trường khu vực và quốc tế còn bị động, lúng túng và chưa đồng bộ.
Khả năng nhận định, đánh giá và dự báo xu thế hội nhập kinh tế quốc tế chưa
cao. Các vấn đề về xây dựng cơ chế nhận biết, cảnh báo sớm tác động trong các
lĩnh vực hội nhập kinh tế trong bối cảnh Việt Nam đã hội nhập sâu với nền kinh
tế thế giới nhìn chung còn yếu. Công tác tham mưu, tư vấn chính sách vẫn còn
hạn chế trong việc phân tích, định hướng và dự báo những vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế phát sinh.
(4) Nền kinh tế vẫn mang tính gia công, chưa tạo ra các thương hiệu Việt Nam
có uy tín trên thị trường thế giới. Xuất khẩu tăng nhanh nhưng chưa thực sự
vững chắc, chất lượng tăng trưởng và hiệu quả xuất khẩu còn thấp, cơ cấu
hàng hóa xuất khẩu vẫn còn phụ thuộc nhiều vào doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua phát triển chưa bền vững.
Giá trị gia tăng của hàng hóa xuất khẩu còn thấp do chủ yếu dựa vào khai thác
các yếu tố về điều kiện tự nhiên và nguồn lao động rẻ; hàng hóa thô và sơ chế,
bao gồm cả dầu thô, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Xuất
khẩu của các mặt hàng dựa vào tài nguyên chiếm dưới 10% tổng kim ngạch
xuất khẩu, và tỷ lệ này gần như không thay đổi. Giá trị gia tăng của hàng hóa
xuất khẩu thấp. Hàng hóa xuất khẩu ngoài khoáng sản, nhiên liệu thô thì hàng
hóa nông nghiệp 90% là sản phẩm thô và sơ chế. Hàng công nghiệp chế biến
chủ yếu là gia công, lắp ráp dựa trên việc nhập khẩu nguyên liệu, phụ tùng, linh
kiện, chi tiết máy, bán thành phẩm, điều đó phản ánh một nền kinh tế trình độ
thấp, chủ yếu khai thác tài nguyên và lao động rẻ.
(5) Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và các sản phẩm chủ
lực còn thấp và chịu sức ép cạnh tranh với các doanh nghiệp và sản phẩm nước
ngoài ngay trên thị trường nội địa
Tác động lan tỏa về công nghệ, kỹ năng của khu vực FDI ở Việt Nam còn yếu.
Một số lĩnh vực sản xuất được bảo hộ quá lâu, hạn chế cạnh tranh và cả sự tham
gia trong mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Các doanh nghiệp tư nhân vừa
và nhỏ phát triển chưa mạnh, công nghiệp phụ trợ chưa phát triển, vì vậy, khả
năng tiếp nhận hiệu ứng lan tỏa tích cực từ FDI còn rất hạn chế.
III.GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH TẾ QUỐC TẾ
Cần tiếp tục quán triệt và triển khai hiệu quả các chủ trương, chính sách,
chương trình hành động của Đảng, Nhà nước về hội nhập kinh tế quốc tế, trong
đó chú trọng việc nâng cao toàn diện năng lực thực thi các cam kết hội nhập
kinh tế quốc tế; đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng
trưởng, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế; xây dựng các cơ chế, chính
sách phù hợp để tạo môi trường kinh doanh và đầu tư thuận lợi cho các doanh
nghiệp hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, qua đó, nâng cao năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp trong hội nhập.
(1)Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo các vấn đề về hội nhập kinh tế quốc tế
Các bộ, ngành và cơ quan liên quan tập trung nghiên cứu các vấn đề mang tính
chiến lược về hội nhập kinh tế quốc tế để làm cơ sở tham mưu, tư vấn cho
Chính phủ trong quá trình hoạch định chính sách về hội nhập kinh tế quốc tế
như tác động của việc tham gia các FTA thế hệ mới, xu hướng bảo hộ và nguy
cơ chiến tranh thương mại tác động đến kinh tế nước ta, xu hướng chuyển dịch
trọng tâm hợp tác trong các khuôn khổ khu vực và thế giới như ASEAN, APEC,
ASEM, WTO, tác động của tình hình kinh tế, chính trị thế giới tới tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
(2)Tổ chức thực thi hiệu quả các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế
Phát huy vai trò của Ủy ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế trong việc phối
hợp liên ngành, tăng cường hơn nữa việc kết nối, điều phối, điều hành tập trung,
thống nhất giữa hoạch định chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế với triển khai
đàm phán và thực thi các cam kết hội nhập. Đôn đốc và giám sát các bộ, ngành,
địa phương tổ chức thực thi hiệu quả các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế; thực
hiện và khai thác hiệu quả các FTA đã có hiệu lực. Tiến hành rà soát, hoàn thiện
cơ chế điều phối thực thi cam kết FTA đối với các lĩnh vực cụ thể theo hướng
thiết thực và hiệu quả hơn. Xây dựng và thực thi nghiêm túc các cam kết trong
hội nhập tài chính về thuế, hải quan, dịch vụ bảo hiểm, chứng khoán, kế toán -
kiểm toán và các dịch vụ khác; triển khai Hiệp định thuận lợi hóa thương mại
của WTO, Cơ chế một cửa quốc gia, Cơ chế một cửa ASEAN và tạo thuận lợi thương mại.
(3)Mở rộng thị trường cho hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam
Tăng cường phối hợp các bộ, ngành, cơ quan liên quan xử lý những vấn đề còn
tồn tại ở những hiệp định chuẩn bị ký kết nhằm sớm đưa các hiệp định đi vào
thực thi mang lại lợi ích cho doanh nghiệp và người dân. Xây dựng phương án
hợp lý để hoàn thiện việc đàm phán và ký kết các FTA đang triển khai, chủ động
nghiên cứu, đánh giá khả năng tham gia các FTA với các đối tác mới nhằm tìm
kiếm cơ hội mở rộng thị trường cho hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam.
(4)Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế, hải quan, hỗ trợ doanh nghiệp
Các bộ, ngành, địa phương cần triển khai các biện pháp đồng hành và hỗ trợ
doanh nghiệp trong quá trình hội nhập và thực hiện các cam kết về hội nhập
kinh tế quốc tế, kịp thời lắng nghe ý kiến và phản hồi của các doanh nghiệp về
các vấn đề chính sách, vướng mắc trong hội nhập kinh tế quốc tế và trong quá
trình đàm phán, thực thi các Hiệp định thương mại tự do (FTA); Chủ động đề
xuất các định hướng, biện pháp cụ thể để cùng tháo gỡ khó khăn cho doanh
nghiệp; Tận dụng các cơ hội do hội nhập quốc tế mang lại một cách hiệu quả,
phù hợp với các quy định, luật lệ, chuẩn mực quốc tế và các thể chế đa phương
để bảo vệ lợi ích chính đáng của doanh nghiệp..
Khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp và cá nhân thực hiện nghiên cứu,
chuyển giao, đổi mới, hoàn thiện công nghệ để nâng cao năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp và sản phẩm; đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đổi
mới sáng tạo để hỗ trợ cho quá trình đổi mới công nghệ quốc gia. KẾT LUẬN
Ngày nay hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu, khách quan trong quá
trình toàn cầu hóa, quốc tế hóa. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế thực sự là
điều kiện tiên quyết để Việt Nam có thể phát triển kinh tế và hoàn thành sứ
mệnh “sánh vai với các cường quốc năm châu”. Bởi Việt Nam không chỉ là đi
theo xu hướng chung của thời đại mà còn tìm kiếm những thời cơ cho đất nước.
Thời gian qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong hội nhập, đã trở
thành quốc gia có vị trí cao trong khu vực, đã tham gia vào tất cả các tổ chức
quốc tế lớn: WTO; ASEAN, ASEM, APEC và tham gia ký kết hàng hoạt các
Hiệp định thương mại tự do song phương với các đối tác trong khu vực và trên thế giới.
Bên cạnh những ưu điểm nổi bật và thành tích đáng tự hào trên, Việt Nam cũng
phải đối mặt với không ít những hạn chế, bất cập và thách thức. Nhưng không
vì thế mà chúng ta bỏ đi thời cơ của mình. Trái lại, chúng ta “hoà nhập chứ
không hoà tan”, các doanh nghiệp Việt Nam không tự chôn mình mà tìm những
giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh. Nói một cách chung nhất, chúng ta hãy
tranh thủ thời cơ, khắc phục khó khăn, đẩy mạnh quá trình chủ động hội nhập hơn nữa.
Chúng ta, những chủ nhân tương lai của đất nước phải thấy được tầm quan
trọng của vấn đề hội nhập đối với sự phát triển của quốc gia. Từ đó thực hiện tốt
trách nhiệm của mình để góp phần vào sự tiến bộ của đất nước.