







Preview text:
lOMoAR cPSD| 40551442
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TƯ VẤN VÀ SỐ LIỆU GIẢI QUYẾT LIÊN QUAN
ĐẾN VẤN ĐỀ QUYỀN THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT TẠI VĂN PHÒNG LUẬT SƯ 1.
Số liệu giải quyết vấn đề liên qua đến chia thừa kế tại văn phòng luật sư Nguyễn Thanh Thời gian
Số liệu giải quyết thừa kế( quyền sử dụng đất)
Từ 01/6/2018 đến 31/12/2018 12
Từ 01/01/2019 đến 31/12/2019 32
Từ 01/01/2020 đến 31/5/2020 17 2.
Hướng dẫn, tư vấn thủ tục lập di chúc.
Sẽ hỗ trợ khách hàng các vấn đề liên quan đến di chúc như sau: Tư vấn soạn
thảo, làm di chúc (lập di chúc)
Tư vấn luật về quyền thừa kế không phụ thuộc di chúc, chia tài sản thừa kế không phụ thuộc di chúc
Thủ tục làm di chúc (thủ tục lập di chúc) đối với tài sản là đồng sở hữu, tài sản chung vợ chồng
Cách thức chia thừa kế, hàng thừa kế, phân chia di sản thừa kế theo pháp luật, theo di chúc
Thủ tục để làm di chúc theo đúng quy định của pháp luật về thừa kế để có bản di chúc
hợp pháp, đảm bảo tính hiệu lực của di chúc. Tư vấn các vấn đề liên quan đến làm di chúc
(lập di chúc) cho tài sản khác.
3. Tư vấn về thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người thừa kế .
Thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người thừa kế được quy định tại Điều 614
BLSD 2015 như sau: “ kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền,
nghĩa vụ tài sản do người chết để lại ”
Việc xác định thời điểm mở thừa kế là rất quan trọng. Kể từ thời điểm đó xác định được
chính xác tài sản, quyền, nghĩa vụ về tài sản của người để lại thừa kế gồm những tài sản
của người để lại thừa kế gồm những gì và đến khi chia thừa kế còn bao nhiêu
Thời điểm chết xác định thời điểm mở thừa kế phải căn cứ vào giấy báo tử hoặc giấy tờ thay thế giấy báo tử.
Những quyền tài sản và nghĩa vụ tài sản của một người chấm dứt khi người đó chết và
được chuyển nhượng cho những người còn sống, trừ những quyền tài sản và nghĩa vụ
người gắn với nhân thân người chết. Vì vậy, thời điểm mở thừa kế là mốc thời gian kể từ
lúc đó các quyền tài sản và nghĩa vụ của tài sản của người chết được chuyển cho những người thừa kế.
4. Tư vấn phân chia thừa kế theo quy định của pháp luật.
Những trường hợp thừa kế theo pháp luật. lOMoAR cPSD| 40551442
Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp đầu tiên mà ai cũng có thể hiểu
một cách đơn giản là không có di chúc. Trường hợp này cũng dễ hiểu vì không có di chúc
để lại có nghĩa là người chết không có căn cứ biểu đạt ý chí của bản thân bằng văn bản
hay lời nói của mình để lại khối tài sản đó cho những người thân của mình trước khi chết,
mà quyền sở hữu tài sản của một người là không thể tước bỏ họ có quyền định đoạt khối
tài sản của mình. Vì vậy đơn giản có thể hiểu, pháp luật có thể dự theo các mối quan hệ
của họ để từ đó suy xét nếu họ có thể để lại di chúc thì ai có thể hưởng di chúc ấy. Nên
trong trường hợp nếu không có di chúc, pháp luật giải quyết chia tài sản theo pháp luật.
Tiếp theo là có di chúc nhưng di chúc không hợp pháp, theo quy định về hình thức của di
chúc thì di chúc có hai hình thức được thành lập thành văn bản và di chúc miệng, di chúc
hợp pháp được quy định cụ thể ở điều 630 Bộ luật dân sự 2015.
Pháp luật Dân sự cũng đặt ra trường hợp người được nhận di sản thừa kế (con) của người
để lại di sản chết cùng thời thởi điểm hoặc chết trước người để lại di sản thừa kế thì cháu
trong trường hợp này sẽ được thay vị trí của bố hoặc mẹ để hưởng phần di sản đó, chắt sẽ
được hưởng phần di sản thừa kế khi cháu cũng chết trước hoặc cùng thời điểm với người
để lại di sản chết, vấn đề này được quy định tại Điều 677, Bộ luật Dân sự năm 2015: Thừa kế thế vị.
Việc phân chia di sản thừa kế theo pháp luật cũng đặt ra hai trường hợp đối với người
thừa kế khi họ từ chối nhận di sản và không có quyền hưởng di sản thừa kế quy định tại
Điều 620, 621 Bộ luật Dân sự năm 2015, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích tốt nhất cho
người để lại di sản và người thừa kế. -
Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây: a) Không có di chúc;
b) Di chúc không hợp pháp;
c) Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với ngườilập di
chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;
d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyềnhưởng
di sản hoặc từ chối nhận di sản. -
Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:
a) Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;
b) Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực phápluật;
c) Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có
quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với
người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc,
nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.”
5. Tư vấn người thừa kế theo pháp luật:
5.1Hình thức thừa kế theo hàng thừa kế được áp dụng trong những trường hợp: lOMoAR cPSD| 40551442 -
Người chết không để lại di chúc. - Di chúc không hợp pháp. -
Những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với
người lập di chúc,cơ quan được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. -
Những người được chỉ định là người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng
di sản hoặc từ chối hưởng quyền di sản.
5.2Những người thừa kế theo pháp luật (hàng thừa kế) được quy định thứ tự như sau: -
Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con để, con nuôi của người chết. -
Hàng thừa kế thứ hai gồm: Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh chị em ruột, cháu
ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại. -
Hàng thừa kế thứ ba gồm: Cụ nội, cụ ngoại của người chết,bác ruột, chú ruột, cô ruột,
cậu ruột, dì ruột của người chết, cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột,
chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di chúc bằng nhau.
Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước
do đã chết,không có quyền hưởng di sản,bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản. -
Thừa kế thế vị pháp luật quy định: Trong trường hợp con của người để lại di sảnchết
trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà
cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống,nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng
thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của
chắt được hưởng nếu còn sống.
THỰC TRẠNG NHỮNG KHÓ KHĂN GẶP PHẢI KHI TƯ VẤN VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP
LUẬT TẠI VĂN PHÒNG LUẬT SƯ NGUYỄN THANH
Trong tham gia giải quyết các tranh chấp về thừa kế, tiếp xúc và trao đổi với khách hàng
là một bước đầu rất quan trọng. Luật sư phải vận dụng hết các kỹ năng như: kỹ năng lắng
nghe khách hàng trình bày, sau đó mới xác định được yêu cầu của khách hàng là gì . Trên
cơ sở yêu cầu của khách hàng luật sư sẻ trao đổi với khách hàng về những tình tiết của
tranh chấp mà khách hàng chưa trình bày hoặc trình bày chưa rõ, còn thiếu sót.
Qua đó có thể cho thấy còn một số điều luật quy định trong BLDS hiện hành về chia thừa
kế theo pháp luật còn gây ra những vướng mắc và khó hiểu đối với khách hàng như:
+ Về thời hiệu khởi kiện về thừa kế: lOMoAR cPSD| 40551442
Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của
mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa
kế. Đối với trường hợp mở thừa kế trước ngày 01/7/1996, thì thời hiệu khởi kiện về quyền
thừa kế được thực hiện theo quy định tại Điều 36 của Pháp lệnh thừa kế năm 1990 và
hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao. Khi xác định thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế mà thời điểm mở thừa
kế trước ngày 01/7/1991 và di sản là nhà ở thì thời gian từ ngày 01/7/1996 đến ngày
01/01/1999 không tính vào thời hiệu khởi kiện . Hết thời hiệu khởi kiện, Tòa án trả lại đơn
khởi kiện, không thụ lý vụ án . Tuy nhiên, Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày
10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lại có hướng dẫn như sau “
trong thời hạn mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh
chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc
thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa
nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản chuyển thành tài sản chung của các
thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Tòa án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi
kiện về quyền thừa kế mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải
quyết…”. Điều đó dẫn đến trường hợp, khi có tranh chấp về quyền thừa kế, các bên gửi
đơn khởi kiện ra Tòa án, nếu quá thời hạn mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế, tòa án
trả lại đơn khởi kiện, từ chối thụ lý vụ án, lập tức các bên gửi đơn yêu cầu chia tài sản
chung và Tòa án lại thụ lý vụ án . Điều đó vô hình trung đã làm cho việc quy định về thời
hiệu khởi kiện về thừa kế trở thành không có ý nghĩa. Cho thấy pháp luật Việt Nam đang
thiếu những quy định xác định tính chất pháp lý của tài sản khi hết thời hiệu khởi kiện.
Trong trường hợp hết thời hiệu khởi kiện, Tòa án từ chối thụ lý giải quyết, di sản để lại
thuộc quyền sở hữu của ai, họ phải làm thủ tục như thế nào để đăng ký quyền sở hữu của
mình, chúng ta chưa có quy phạm điều chỉnh vấn đề này, và do vậy, người đang chiếm
hữu tài sản tiếp tục chiếm hữu mà không thể trở thành chủ sở hữu, người đang tranh chấp
tiếp tục khiếu nại nhiều nơi, khiếu nại vượt cấp. + Về di chúc hợp pháp:
Khoản 5 Điều 652 của Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định “ Di chúc miệng được coi là hợp
pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai ng
ư ời làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm
chỉ. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì
di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực”. So với Bộ luật Dân sự năm 1995, điều
kiện có hiệu lực của di chúc miệng đã được bổ sung thêm một điều kiện về hình thức: phải
chứng nhận hoặc chứng thực trong thời hạn năm ngày kể từ ngày người di chúc miệng thể
hiện ý chí cuối cùng của mình. Điều đó có thể hiểu: nếu không được chứng nhận, chứng
thực trong thời hạn này, di chúc miệng sẽ mất hiệu lực. Điều luật không quy định cụ thể
nghĩa vụ thực hiện việc chứng nhận, chứng thực. Tuy nhiên, có thể thấy việc tiến hành
công chứng hoặc chứng thực này chỉ có thể do người làm chứng thực hiện (người thừa kế
có thể đi cùng người làm chứng hoặc không). Vấn đề đặt ra là: khi di chúc vô hiệu, quyền
và lợi ích của những người thừa kế sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng . Vậy những người làm
chứng nhưng không thực hiện việc đi chứng nhận, chứng thực di chúc có phải chịu trách
nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại - người đáng lẽ được hưởng phần di sản lớn hơn lOMoAR cPSD| 40551442
những người thừa kế khác theo di chúc hay không.Với điều kiện được bổ sung trên, di chúc
miệng sẽ dễ dàng lâm vào tình trạng vô hiệu do lỗi của người làm chứng mà pháp luật chưa
có quy định về trách nhiệm của họ. + Về thừa kế kế vị:
Tại quy định tại Điều 652 Bộ luật dân sự năm 2015 thì: “Trường hợp con của người để lại
di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng
phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước
hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha
hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống”.
Để đảm bảo quyền, lợi ích của các cháu của người để lại di sản, đặc biệt là trường hợp
cháu và chắt là người chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng không có khả năng lao
động. Cho nên, BLDS cần quy định bổ sung trường hợp cháu và chắt vẫn được hưởng
thừa kế thế vị trong trường hợp cha hoặc mẹ của cháu và chắt khi còn sống đã bị kết án
về một trong các hành vi theo quy định tại khoản 1 Điều 621 BLDS năm 2015. Mặt khác,
để bảo vệ quyền được hưởng di sản của cháu và chắt khi bản thân họ không bị Tòa án
tước quyền và cũng không bị người để lại di sản truất quyền hưởng di sản, nhưng do họ
không có khả năng lao động để tự nuôi sống bản thân mình, thì pháp luật cũng nên cho
họ hưởng thừa kế thế vị thay cho cha mẹ họ bị truất hoặc bị tước quyền khi còn sống
nhưng chết trước người để lại di sản để cháu được thừa kế di sản của ông bà, chắt được
hưởng di sản của các cụ (tương tự như quy định tại Điều 644 BLDS năm 2015 về trường
hợp những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc), trừ trường hợp khi
chính con, cháu của họ cũng có một trong các hành vi vi phạm được nêu tại khoản 1 Điều 621 BLDS năm 2015 lOMoAR cPSD| 40551442
4. Kiến nghị. 4.1 Về pháp luật: +
Việc quy định về người thừa kế
Pháp luật dân sự ghi nhận quyền thừa kế của cá nhân, tổ chức. Điều 613 BLDS quy định:
“Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra
và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết.”
Tất nhiên, người thừa kế theo pháp luật chỉ có thể là cá nhân, còn người thừa kế theo di
chúc có thể là cá nhân hoặc tổ chức.
Hiểu như thế nào về “người còn sống vào thời điểm mở thừa kế”, đặc biệt trong trường
hợp những người thừa kế chết mà không xác định được ai chết trước, ai chết sau.
Thực tế chỉ ra rằng, có nhiều trường hợp những người có quyền thừa kế di sản của nhau
chết cách nhau một khoảng thời gian rất ngắn, vụ việc tranh chấp thừa kế một thời gian
dài sau đó mới phát sinh, do vậy việc xác minh thời điểm chết của từng người rất khó khăn,
tạo phức tạp trong quá trình giải quyết vụ án (có lẽ, trong những trường hợp này, căn cứ
pháp lý duy nhất có thể tin cậy được là giấy chứng tử, nhưng trong nhiều trường hợp giấy
chứng tử lại không ghi cụ thể giờ, phút chết của cá nhân).
+ Thời hiệu khởi kiện.
Điều 623 BLDS 2015 quy định về thời hiệu yêu cầu chia thừa kế “Thời hiệu để người
thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể
từ thời điểm mở thừa kế”. Trong thực tiễn, khi áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa
kế, có nhiều cách hiểu khác nhau về vấn đề này, nếu không có hướng dẫn cụ thể sẽ tạo tình
trạng áp dụng không thống nhất khi xét xử các vụ án tranh chấp về thừa kế, đặc biệt là thừa
kế quyền sử dụng đất.
Ngoài ra BLDS 2015 còn quy định: “thời hiệu được tính từ thời điểm bắt đầu ngày đầu
tiên và chấm dứt tại thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hiệu”. Do đó, quy định này
dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau, phải hiểu thời điểm mở thừa kế là thời điểm được xác
định bằng giờ người để lại di sản chết, tại thời điểm đó xác định người thừa kế, di sản của
người chết… để bảo vệ quyền lợi của những người thừa kế. + Di sản thừa kế.
Theo quy định tại Điều 612 BLDS: Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài
sản riêng của người chết trong tài sản chung với người khác. Quyền sử dụng đất cũng thuộc
di sản thừa kế và được để lại thừa kế. lOMoAR cPSD| 40551442
Theo quy định tại Điều 105 Bộ luật dân sự tài sản gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền
tài sản. Như vậy, quyền tài sản nằm trong khái niệm về tài sản. Cho nên cần phải hiểu khái
niệm di sản còn bao gồm cả các quyền về tài sản như: quyền đòi bồi thường thiệt hại,
quyền đòi nợ, quyền thừa kế giá trị… Một thực tế hiện nay, có nhiều cách hiểu khác nhau
về di sản dẫn đến tình trạng các vụ án thực tế hiện nay phải xét xử lại do xác định di sản
không chính xác và đầy đủ. 4.2 Kiến nghị khác:
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của cơ quan tư pháp trong đó có hoạt
động áp dụng pháp luật trong lĩnh vựa phân chia tài sản. Nâng cao bản lính chính trị, và
nâng cao kinh nghiệm của đội ngũ Thẩm phán và đội ngũ luật sư cũng như là công tố viên.
Nâng cao chất lượng trong việc giải quyết các tranh chấp di sản thừa kế tại các cơ sở có
thẩm quyền (Tòa án nhân dân ) phải gắn liền với việc thực hiện đồng bộ các yêu cầu, nội
dung xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Đổi mới công tác xét xử của Tòa án nhân dân ác cấp theo hướng dân chủ, tranh luận tại
phiên tòa, thực hiện đầy đủ các nguyên tắc tố tụng.
Đi đôi với việc giải quyết tranh chấp di sản thừa kế tại tòa án phải gắn liền với nghĩa vụ
phổ biến tuyên truyền , giáo dục nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân. 5. Kết luận.
Trong Bộ luật dân sự nước ta cũng như nhiều Bộ luật dân sự của các nước trên thế giới ,
các quy định về thừa kế giữ vai trò quan trọng, nó thường được cấu thành thành một cơ
cấu riêng. Trong giao lưu dân sự, vấn đề thừa kế càng có ý nghĩa quan trọng , đặc biệt là
khi cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường , tài sản của thành viên trong xã hội
cũng được tăng lên đáng kể cả về số lượng và giá trị của nó. Thừa kế theo di chúc và thừa
kế theo pháp luật là hai hình thức đặc trưng cho hai loại thừa kế khác nhau. Dù ở hình thức
nào thì việc xác định khối di sản thừa kế và phân chia di sản là một trong những yếu tố
pháp lí hết sức quan trọng.
Xã hội càng phát triển thì các mối quan hệ trong xã hội ngày càng diễn biến phức tạp và
xảy ra nhiều tranh chấp. Đặc biệt là mối quan hệ tranh chấp trong phân chia di sản. Vì vậy
pháp luật nước ta cần có những đổi mới phù hợp với tình hình thực tế, để đi sâu vào việc
giải quyết các tranh chấp phân chia di sản thừa kế, bên cạnh đó góp phần vào nâng có ý
thức tự bảo vệ quyền và lợi ích của mỗi công dân.
Phân chia di sản thừa kế là một vấn đề khá quan trọng và phức tạp trong vấn đề thừa kế. lOMoAR cPSD| 40551442
Vấn đề thừa kế mới và những hiệu lực pháp luật liên quan cần phải được quy định cụ thể
hơn để tránh tình trạng phân chia di sản không đúng, mất công bằng của pháp luật. Trên
thực tế, các vụ án kiện về phân chia tài sản khi có người thừa kế mới còn khá là mới mẻ ở
Việt Nam. Bài viết trên đây em đã trình bày một số quan điểm của mình về vấn đề này, em
mong các thầy cô bổ sung thêm cho em. Em xin chân thành cảm ơn!