-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Bài tập giữ kì kinh tế chính trị | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Làm rõ lý luận độc quyền của Lenin và biểu hiện mới trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Vận dụng vào thực tiễn thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay. Đầu thế kỉ XX, Lênin đã chỉ rõ "Chủ nghĩa tư bản độc quyền chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước là khuynh hướng tất yếu. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Kinh tế chính trị Mác Lênin (vshsvhs) 51 tài liệu
Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.3 K tài liệu
Bài tập giữ kì kinh tế chính trị | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Làm rõ lý luận độc quyền của Lenin và biểu hiện mới trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Vận dụng vào thực tiễn thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay. Đầu thế kỉ XX, Lênin đã chỉ rõ "Chủ nghĩa tư bản độc quyền chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước là khuynh hướng tất yếu. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Kinh tế chính trị Mác Lênin (vshsvhs) 51 tài liệu
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.3 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Preview text:
Họ tên: Lê Hương Thảo - Mã SV: 2056080041
Lớp: Truyền hình CLC K40
BÀI TẬP GIỮA KỲ MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Đề bài: Làm rõ lý luận độc quyền của Lenin và biểu hiện mới trong nền kinh tế thị trường
hiện nay. Vận dụng vào thực tiễn thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay. Bài làm
I. NGUYÊN NHÂN RA ĐỜI VÀ BẢN CHẤT CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC
1. Nguyên nhân ra đời
Đầu thế kỉ XX, Lênin đã chỉ rõ "Chủ nghĩa tư bản độc quyền chuyển thành chủ
nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước là khuynh hướng tất yếu. Nhưng chỉ đến những năm
50 của thế kỉ XX, chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước mới trở thành một thực thể rõ
ràng và là một đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Sự hình thành của chủ
nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước do những nguyên nhân chủ yếu sau:
• Chủ nghĩa tư bản Nhà nước ra đời trước hết là do quá trình phát triển cao hơn nữa
của tích tụ và tập trung sản xuất. Tích tụ và tập trung sản xuất cao sinh ra những cơ cấu
kinh tế to lớn đòi hỏi sự điều tiết xã hội đối với sản xuất và phân phối. Sự xã hội hoá
sản xuất cao dẫn đến một yêu cầu khách quan là Nhà nước phải đại diện cho toàn xã
hội để quản lí nên sản xuất xã hội. Lực lượng sản xuất xã hội hoá càng cao càng mâu
thuẫn gay gắt với hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Để làm dịu bớt mâu
thuẫn đó, tư bản độc quyền cố tạo ra một hình thức mới của quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa, đó chính là chủ nghĩa tư ban độc quyền Nhà nước.
• Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật hiện đại đã làm biến đổi căn bản cơ cấu của
nền kinh tế. Để cải tạo cơ cấu kinh tế đòi hỏi một khoản vốn lớn mà không một tổ
chức độc quyền tư nhân nào có thể đảm bảo được, vì vậy cần có sự giúp đỡ của nhà
nước, dẫn đến sự can thiệp sâu rộng của Nhà nước vào kinh tế. Mặt khác sự xuất hiện
của một số ngành mà các tổ chức độc quyền tư nhân không muốn đầu tư vào do vốn
lớn mà lợi nhuận thấp như: năng lượng, giao thông vận tải, giáo dục, nghiên cứu khoa
học, Nhà nước phải đứng ra kinh doanh các ngành đó để tạo điều kiện cho sự phát
triển kinh tế một cách đồng đều.
• Một trong những hậu quả của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật dẫn đến sự xã hội
hoá cao trong sản xuất là làm cho nền kinh tế của các nước tư bản ngày càng không ổn
định, khủng hoảng kinh tế diễn ra thường xuyên. Mặt khác sự ra đời và phát triển của
hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới và sự phát triển của phong trào giải phóng dân
tộc tại các nước thuộc địa đã thu hẹp thị trường của chủ nghĩa tư bản , đặt chủ nghĩa tư
bản trước một thách thức sống còn hoặc điều chỉnh để tồn tại hoặc sụp đổ hoàn toàn.
• Sự thống trị của tư bản độc quyền làm cho mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản - vô sản
và nhân dân lao động ngày càng sâu sắc. Để làm dịu bớt mâu thuẫn đó, Nhà nước phải
can thiệp vào đời sống kinh tế xã hội bằng cách thực hiện các chính sách kinh tế xã hội
như : chính sách trợ cấp thất nghiệp, diều tiết thu nhập, mở rộng phúc lợi xã hội...
• Trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế thế giới hiện nay, sự bành trướng của các tổ
chức độc quyền vấp phải những hàng rào quốc gia dân tộc và xung đột về lợi ích trên
thị trường thế giới, vì vậy Nhà nước có vai trò đứng ra giải quyết các mối quan hệ kinh tế thế giới.
Như vậy, tất cả những tình hình kinh tế chính trị xã hội nêu trên đã thúc đẩy Nhà
nước can thiệp ngày càng sâu vào kinh tế, làm cho chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà
nước hình thành phát triển và trở thành phổ biến trong tất cả các nước tư bản.
2. Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước
Chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước là nấc thang phát triển mới của chủ nghĩa tư
bản độc quyền (chủ nghĩa đế quốc). Nó là sự thống nhất của ba quá trình gắn bó chặt
chẽ với nhau: tăng sức mạnh của các tổ chức độc quyền, tăng vai trò can thiệp của Nhà
nước vào kinh tế, kết hợp sức mạnh của tổ chức độc quyền tự nhân với sức mạnh của
Nhà nước trong một cơ chế thống nhất và bộ máy Nhà nước phụ thuộc vào các tổ chức
độc quyền. Trong cơ cấu của chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước, Nhà nước trở thành
một tập thể tư bản khổng lồ, can thiệp trực tiếp vào kinh tế. Nhà nước được sinh ra trên
một cơ sở kinh tế nhất định đồng thời nó cũng tác động ngược trở lại đối với cơ sở kinh
tế đó, tuy nhiên ở mỗi một chế độ xã hội khác nhau thì vai trò kinh tế của Nhà nước bộc
lộ khác nhau và phù hợp với xã hội đó.Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh
tranh, Nhà nước đóng vai trò là người bảo vệ tài sản cho giai cấp tư sản và duy trì
những điều kiện chung bên ngoài của sản xuất, còn bản thân quá trình sản xuất do các
quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản quết định. Nhưng khi tiến đến chủ nghĩa tư bản
độc quyền, Nhà nước dần can thiệp sâu vào kinh tế, tham gia trực tiếp vào điều tiết sản
xuất từ đầu vào, khâu trung gian cho đến phân phối.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước là một mối quan hệ kinh tế, chính
trị, xã hội trong đó sự kết hợp hay dung hợp sức mạnh của tổ chức độc quyền với Nhà
nước tư sản là yếu tố quan trọng. Để có thể điều chỉnh nền kinh tế, các tổ chức độc
quyền đã kết hợp với bộ máy Nhà nước tư sản thành một tổ chức vừa có sức mạnh về
kinh tế, vừa có sức mạnh về chính trị, chi phối tất cả các hoạt động của đời sống kinh tế
xã hội. Nhà nước can thiệp sâu vào kinh tế dẫn đến sự phụ thuộc vào các tổ chức độc
quyền. Nhà nước là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng nên về sâu sa nó phụ thuộc
vào cơ sở kinh tế. Tuy nhiên có thể coi sự dung hợp này đã tạo ra một thể chế và thết
chế thống nhất nhằm điều tiết sự vận động của nền kinh tế, phục vụ lợi ích của tư bản độc quyền.
Như vậy chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước là bước phát triển của chủ nghĩa tư
bản, không phải là một chính sách tạm thời trong một giai đoạn độc quyền của chủ
nghĩa tư bản. Quan hệ sở hữu tư bản chủ nghĩa đã có sự cải biến mới. Sở hữu tư nhân
được thay thế bằng sở hữu hỗn hợp giữa tư bản tư nhân và Nhà nước. Trong xã hội tư
bản, Nhà nước tư sản xuất hiện như một chủ sở hữu tư bản, đứng ra quản lý xã hội, điều
tiết bằng luật pháp dưới bộ máy quyền lực to lớn. Đây được coi là hình thức mới của
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Hình thực vận động này nhằm duy trì sự tồn tại của
chủ nghĩa tư bản, làm cho chủ nghĩa tư bản thích nghi với điều kiện lịch sử mới.
II. NHỮNG BIỂU HIỆN MỚI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG HIỆN NAY
1. Những biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước.
1.1 Sự kết hợp về nhân sự gia tổ chức độc quyền và bộ máy Nhà nước
Sự kết hợp về nhân sự được thực hiện thông qua các đảng phái tư sản. Đây chính là
cơ sở xã hội để thực hiện sự thống trị và trực tiếp xây dựng đội ngũ công chức cho bộ
máy Nhà nước. Bên cạnh đó còn có các hội chủ xí nghiệp đóng vai trò là lực lượng
chính trị, kinh tế to lớn, là chỗ dựa cho chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước. Các hội
chủ này hoạt động thông qua các đảng phái, cung cấp kinh phí cho các đảng, quyết
định mặt nhân sự, tham gia vào việc thành lập, tư vấn tham mưu các hoạt động. Các
đại biểu của các tổ chức độc quyền được tham gia vào bộ máy Nhà nước, các quan
chức Nhà nước được coi như những người đỡ đầu cho các hoạt động của các tổ chức
độc quyền. Như vậy sự can thiệp trực tiếp đã hướng các hoạt động của Nhà nước tư
sản nhằm phục vụclợi ích của tư bản độc quyền. Sự thâm nhập lẫn nhau này đã tạo ra
những biểu hiện mới trong mối quan hệ giữa Nhà nước tư sản và tổ chức độc quyền.
1.2 Sự hình thành và phát triển sở hữu Nhà nước
Sở hữu độc quyền Nhà nước là sở hữu tập thể của giai cấp tư bản độc quyền có
nhiệm vụ ủng hộ và phục vụ lợi ích của tư bản độc quyền nhằm duy trì sự tồn tại của
chủ nghĩa tư bản. Sở hữu Nhà nước bao gồm động sản, bất động sản cần thiết cho hoạt
động của bộ máy Nhà nước và hệ thống các doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp
nhà nước được hình thành dưới các hình thức sau:
- Xây dựng các doanh nghiệp nhà nước bằng vốn của ngân sách
- Quốc hữu hoá các doanh nghiệp tư nhân bằng cách mua lại
- Mua cổ phiếu của các doanh nghiệp tư nhân
- Mở rộng các doanh nghiệp Nhà nước bằng vốn tích luỹ của chúng
Các doanh nghiệp nhà nước thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế tư bản tư nhân bằng các hình thức như Nhà
nước đứng ra kinh doanh các ngành củ thua lỗ, những ngành công nghệ mới đòi hỏi
nhiều vốn, nghiên cứu và triển khai khoa học công nghệ
- Giải phóng tư bản của các tổ chức độc quyền tư nhân từ những ngành ít lãi để
chuyển sang những ngành có lợi nhuận cao hơn
- Làm chỗ dựa cho sự điều tiết kinh tế tư bản chủ nghĩa theo những chương trình nhất định.
1.3 Sự hình thành thị trường Nhà nước
Nhà nước chủ động mở rộng thị trường trong nước đã giúp tư bản tư nhân khắc
phục được một phần khó khăn trong thời kì khủng hoảng thừa, góp phần bảo đảm cho
quá trình tái sản xuất được diễn ra bình thường. Đồng thời, các tổ chức độc quyền tư
nhân vừa tiêu thụ được hàng hoá, vừa bảo đảm lợi nhuận ổn định, khắc phục được tình
trạng thiếu nhiên liệu, nguyên liệu chiến lược.
1.4 Sự điều tiết kinh tế của Nhà nước tư sản.
Cơ chế kinh tế của Chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước là sự kết hợp của 3 yếu
tố: cơ chế thị trường, sự điều chỉnh của độc quyền tư nhân và sự điều tiết kinh tế của
Nhà nước tư sản. ự kết hợp này nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực
của từng cơ chế, hay nói cách khác, đó là cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà
nước nhằm phục vụ chủ nghĩa tư bản độc quyền. Hệ thống điều tiết của Nhà nước tư
sản là tổng thể những thiết chế và thể chế kinh tế của Nhà nước. Nó được tổ chức chặt
chẽ với một hệ thống chính sách công cụ có khả năng điều tiết sự vận động của toàn
bộ nền kinh tế. Sự điều tiết này được thực hiện dưới nhiều hình thức như hướng dẫn,
kiểm soát, uốn nắn lệch lạc bằng các công cụ kinh tế và các công cụ pháp lý, bằng các
giải pháp chiến lược dài hạn như lập các chương trình kế hoạch tổng thể phát triển
kinh tế xã hội, chống khủng hoảng lạm phát. Đặc biệt các chính sách kinh tế của Nhà
nước là biểu hiện quan trọng nhất của chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước. Tuỳ
thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của từng nước, trong từng thời kì, việc áp
dụng các chính sách sao cho phù hợp là khác nhau.
1.5 Sự can thiệp của Nhà nước vào các quan hệ kinh tế đối ngoại
Nhà nước đứng ra điều chỉnh ngoại thương như quy định nhập khẩu, khuyến khích
xuất khẩu, kí hiệp định thương mại song phương và địa phương, điều chỉnh quan hệ tín
dụng quốc tế. Đồng thời Nhà nước đẩy mạnh xuất khẩu tư bản, tạo điều kiện cho xuất
khẩu tư bản tư nhân, thực hiện nhất thể hoá kinh tế và chính trị.
2. Những biểu hiện mới của chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước hiện nay
2.1. Sự phát triển nhảy vọt về lực lượng sản xuất
Cách mạng công nghệ thông tin và công nghệ cao phát triển mạnh mẽ. Công nghệ
thông tin phát triển mạnh mẽ, trở thành ngành lớn nhất và ngành tăng trưởng nhanh,
nhất là vào nửa cuối thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Cùng với sự lan rộng trên toàn cầu của
cách mạng công nghệ thông tin, các ngành công nghệ cao mới khác như sinh học, vật
liệu mới, nguồn năng lượng mới, hàng không vũ trụ… cũng đang phát triển manh mẽ.
Sự tiến bộ và những bước đột phá của khoa học kỹ thuật đã mở ra không gian rộng lớn
mới cho sự phát triển của sức sản xuất. Đồng thời, giáo dục – đào tạo được tăng cường
làm cho tố chất công nhân được nâng cao, từ đó đặt nền móng vững chắc cho việc nâng
cao năng suất lao động và sức canh tranh.
2.2 Nền kinh tế đang có xu hướng chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ nhất diễn ra 200 năm trước, thúc đẩy chủ
nghĩa tư bản chuyên đổi từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp, cách mạng
công nghệ thông tin hiện nay đang thúc đẩy nền kinh tế tư bản chủ nghĩa chuyển từ kinh
tế công nghiệp sang kinh tế tri thức. Trong kinh tế tri thức, vai trò của tri thức (và kỹ
thuật) đã cao hơn các yếu tố như nguồn tài nguyên tự nhiên và vốn, trỏ thành yếu tố sản
xuất quan trọng nhât Vận hành của kinh tế tri thức chủ yếu không còn do người lao
động cơ bắp thao tác máy móc mà chủ yếu do những người lao động trí óc trong các
ngành thiết kế, nghiên cứu phát triển cũng như truyền bá tri thức thúc đẩy.
Cùng với sự chuyển đổi loại hình kinh tế, kết cấủ ngành nghề của chủ nghĩa tư bản
cũng được điều chỉnh và nâng cấp hơn, chuyển sang dịch vụ hóa và công nghệ cao hóa.
Điều này thể hiện ở chỗ: trong ba ngành nghề lớn, vị trí của nông nghiệp hạ thấp, vị trí
của dịch vụ, đặc biệt là ngành dịch vụ có liên quan đến công nghệ mới được tăng lên.
2.3 Sự điểu chỉnh về quan hệ sản xuất và quan hệ giai cấp
Thứ nhất, quan hệ sở hữu cũng có những thay đổi, biểu hiện nổi bật là sự phân tán
quyền nắm cổ phiếu tăng lên. Phân tán hóa quyền khống chế cổ phiếu có lợi cho cải
thiện quan hệ giữa chủ xí nghiệp và công nhân. Nhưng trên thực tế, cộng nhân là cổ
đông nhỏ, không thể cùng với nhà tư bản phân chia quyền lực, nên phân tán hóa quyền
không chế cổ phiếu cũng không thể làm thay đổi địa vị làm thuê của người lao động.
Thứ hai, kết cấu giai cấp cũng đã có những biến đôi lớn, các giai cấp, tầng lớp, đoàn thế
xã hội và tập đoàn cùng tồn tại và tác động lẫn nhau. Nổi bật nhất là sự xuất hiện của
tầng lớp trung lưu (hay còn gọi là giai cấp trung sản), chiếm khoảng 40 – 50% dân số.
Trên thực tế, phần lớn trong số này có cổ phiếu hoặc một phần vồn, rất nhiều trong số
họ là phần tử tri thức hoặc nhân viên chuyên ngành, có địa vị nghề nghiệp khá tốt, đã
không còn là giai cấp vô sản theo quan niệm truyền thông nữa.
Thứ ba, cùng với sự tăng trưởng của sản xuất và sự điều chỉnh về quan hệ sản xuất,
thu nhập bằng tiền lương của người lao động cũng có được mức tăng trưởng khá lớn.
Tất cả những điều này cho thấy, mâu thuẫn giai cấp trong xã hội tư bản chủ nghĩa vẫn
tồn tại nhưng nhờ những điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản về quan hệ sản xuất, mà bắt
nguồn từ những thay đổi trong quan hệ sở hữu, nên đã phần nào xoa dịu được tính gay
gắt của mâu thuẫn này. Những điều chỉnh đó nói lên rằng chủ nghĩa tư bản muốn tồn tại
và phát triển cũng phải lo giải quyết các vấin đề xã hội, giải quyết mối quan hệ giữa tư
bản và lao động, song song với sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất và
cuộc đấu tranh bền bỉ của giai cấp công nhân.
2.4 Thể chế quản lý kinh doanh trong nội bộ doanh nghiệp có những biến đổi lớn
Trong điều kiện mới của cách mạng khoa học kỹ thuật và kinh tế tri thức, thể chế
quản lý kinh doanh trong nội bộ các doanh nghiệp đã thực hiện các bước điều chỉnh và
cải cách lớn. Thứ nhất, doanh nghiệp cải cách cơ chế quản lý, thiết lập cơ cấu tổ chức
hàng ngang và mạng lưới. Phương hướng cải cách là xóa bỏ hệ thống kiểu kim tự tháp
truyền thống như tập trung quá lớn quyền lực, đa tầng thứ và theo chiều dọc, thay thế
bằng hệ thống kiểu mạng lưới phân quyền, ít tầng thứ và theo chiều ngang, nhằm giảm
bớt khâu trung gian, thông tin thuận lợi, đơn giản trình tự quyết sách, phát huy đầy đủ
tính chủ động và trách nhiệm của toàn thể công nhân, nhằm nâng cao hiệu quả công tác.
Thứ hai, dùng công nghệ cao cải cách cơ chế quản lý sản xuất. Để thích ứng với những
thay đổi từ thể chế sản xuất theo “đơn đặt hàng”, doanh nghiệp thiết lập hệ thống sản
xuất linh hoạt, hệ thống sản xuất bằng máy tính, chế độ cung cấp thích hợp và cơ chế
phát triển theo nhu cầu (tức khâu sản xuất càng gần gũi với khách hàng hơn).
Thứ ba, thực hiện cải cách quản lý lao động lấy con người làm gốc, yêu cầu đối với
công nhân chủ yếu không phải là điều kiện thể lực mà là phải có kỹ năng và tri thức cao
hơn, để họ phát huy tính chủ động và tính sáng tạo, từ đó nâng cao năng suất lao động
và tăng cường thế canh tranh của doanh nghiệp.
Thứ tư, thay đổi hình thức tổ chức doanh nghiệp xuất hiện xu thế hai loại hình lớn
hóa và nhỏ hóa cùng hỗ trợ nhau tồn tại. Các doanh nghiệp lớn đã không ngừng mở
rộng ưu thế vể quy mô, tăng cường sức mạnh thị trường của công ty. Đồng thời, các
doanh nghiệp nhỏ linh hoạt hơn, có tình thần sáng tạo hơn cũng được phát triển mạnh
mẽ, làm cho kinh tế tư bản chủ nghĩa có sức sông và hiệu quả cao.
2.5 Điều tiết vĩ mô của nhà nước ngày càng được tăng cường
Kịp thời điều chỉnh chiến lược tổng thể phát triển kinh tế nhằm nâng cao sức cạnh
tranh tông thể của quốc gia. Những năm 90 của thế kỷ XX, việc thiết lập thị trường
chung châu Âu và sự ra đời của đồng tiền chung châu Âu, bất kể đối với châu Âu hay
đôi với cả thế giới, đều có ý nghĩa không thể xem nhẹ. Đồng thời, phải lựa chọn chính
sách thực dụng. Những năm 90 của thế kỷ XX, dù là Mỹ hay châu Âu đều đã áp dụng
mô hình chính sách “Con đường thứ ba”, trên thực tế là sự dung hòa quan niệm giá trị
truyền thống và chủ trương chính trị của chủ nghĩa tự do với một số biện pháp của chủ
nghĩa bảo thủ mới, đóng vai trò tích cực cho việc xoa dịu những mâu thuẫn của chủ
nghĩa tư bản hiện nay. Cần căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế khác nhau của từng
thời kỳ, vận dụng linh hoạt chính sách tái chính và chính sách tiền tệ, kịp thời điều
chỉnh mâu thuẫn cung cầu trong xã hội và mâu thuẫn giữa các tầng lớp xã hội khác nhau.
2.6 Các công ty xuyên quốc gia có vai trò ngày càng quan trọng trong hệ thống kinh
tế tư bản chủ nghĩa, là lực lượng chủ yếu thúc đẩy toàn cầu hóa kinh tế
Các công ty xuyên quốc gia (TNC) là các cồng ty tư bản độc quyền bành trướng thế
lực ra nước ngoài dưới hình thức cài cắm nhanh. Hiện tại, các công ty xuyên quốc gia
được nhà nước ở các nước tư bản chủ nghĩa nâng đỡ, thông qua đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài trên quy mô lớn, các công ty xuyên quốc gia mua và thôn tính các tài sản ở nước
ngoài, không ngừng tăng cường thực lực, mỏ rộng thị phần. Cùng với sự phát triên
nhanh của toàn cầu hóa kinh tế, ngày càng nhiều xí nghiệp trong nước trở thành công ty
xuyên quốc gia. Dựa vào thực lực hùng hậu của bản thân, các công ty xuyên quốc gia đã
trở thành lực lượng chủ yếu thúc đẩy toàn cầu hóa kinh tế và chủ nghĩa tư bản độc
quyền liên quốc gia phát triển. Do có thực lực kinh tế, chính trị hùng mạnh, hệ thông
sản xuất, tiêu thụ, dịch vụ, nghiên cứu khoa học, thông tin toàn cầu hóa, các công ty
xuyên quốc gia đã có tác động lớn đến các mặt của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội, và thế lực của họ đã thâm nhập các lĩnh vực trên toàn thế giới.
2.7 Điều tiết và phối hợp quốc tế được tăng cường
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, nhà nước của các quôc gia tư bản chủ nghĩa
ngày càng chú trọng phối hợp chính sách kinh tế vĩ mô. Vì vậy, những xung đột kinh tế
như chiến tranh mậu dịch, chiến tranh tỷ giá hôi đoái, chiến tranh lãi suất mà trước đây
thường có giữa các nước phương Tây đã giảm xuống. Việc giải quyết mâu thuẫn giữa
các nước phương Tây đã giảm xuống và thường áp dụng hình thức thương lượng thỏa
hiệp chứ không đối kháng gay gắt như trước. Những năm gần đây, phối hợp và hợp tác
quốc tế được táng cường rõ rệt, hiệu quả cũng không ngừng được nâng cao. (Ví dụ như:
sự phối hợp giữa các nước tư bản về chính sách tài chính, tiền tệ sau “sự kiện ngày 11-
9-2001”, sự phôi hợp giữa Mỹ, EU và Nhật Bản để tìm lối thoát ra khỏi khủng hoảng
tài chính – tiền tệ trên quy mô toàn cầu năm 2008). Vai trò của các tổ chức kinh tế khu
vực và quốc tế phát huy tác dụng ngày càng nổi bật khi điều tiết quan hệ kinh tế quốc tế
và trở thành một trong những chủ thể mới điều tiết quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa
(chẳng hạn, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) tham gia một cách toàn diện vào công việc cứu
viện ữong khủng hoảng tài chính châu Á đã giúp các nước hội viên khắc phục khó khăn
tạm thời về thu chi tài chính quốc tế). Tăng cường điều tiết và phối hợp quốc tế có vai
trò không thể xem nhẹ trong việc xoa dịu mâu thuẫn bên trong và bên ngoài các nước tư
bản chủ nghĩa, tạo không gian phát triên rộng lớn hơn cho chủ nghĩa tư bản.
III.VẬN DỤNG VÀO KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tham khảo kinh nghiệm phát
triển của các quốc gia trên thế giới và từ thực tiễn phát triển Việt Nam, Đảng ta đã đề ra
đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCH. Đây là bước phát triển mới
về tư duy lý luận, một sự vận dụng độc lập, sáng tạo của Đảng ta trong quá trình đổi
mới và là sự vận dụng sáng tạo từ chỉ dẫn của chủ nghĩa Mác - Lênin về CNXH và con
đường đi lên CNXH, đặc biệt là những chỉ dẫn của Lê-nin trong chính sách kinh tế mới.
Với mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, nền kinh tế nước ta đã đạt nhiều thành
tựu, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn chiến tranh, bảo vệ nền độc lập dân tộc, thống nhất
đất nước. Tuy nhiên, sau khi thống nhất đất nước, cả nước đi lên CNXH, mô hình kinh
tế này đã bộc lộ nhiều hạn chế. Trước tình trạng sản xuất đình đốn, thương mại trì trệ,
năng suất lao động thấp, tốc độ tăng trưởng kinh tế rất thấp, lực lượng sản xuất lạc
hậu... Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin vào thực tiễn nước ta, quyết tâm từ bỏ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan
liêu, bao cấp để chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Ở Việt Nam, mặc dù đã có quan điểm manh nha về kinh tế thị trường từ Đại hội VI
khi xác định xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, tuy nhiên đến Đại hội IX,
thuật ngữ “phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN” mới chính thức được sử
dụng trong Văn kiện của Đảng. Tại Đại hội X của Đảng (2006), 5 thành phần kinh tế
gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài được xác lập trong nền kinh tế nước ta. Vị trí, vai trò của
từng thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân đã được nhận thức rõ ràng và xác định cụ thể.
Đến Đại hội XI của Đảng (2011) đã phát triển và hoàn thiện thêm một bước đặc trưng
kinh tế của CNXH, trong đó Đảng ta xác định: “Nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các
thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của
nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh
lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được
củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng
vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của
nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các hình
thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển”.
Trên cơ sở kế thừa nhận thức của các đại hội trước, Đại hội XII của Đảng đã có
những bổ sung đáng kể với sự hiện diện khá toàn diện và cụ thể các thành tố cấu thành
nền kinh tế, thể hiện bước tiến trong nhận thức lý luận của Đảng về mô hình kinh tế Việt
Nam, đó là: Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam là nền kinh tế vận hành
đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng
XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường
hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một
động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình
đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy
động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải
phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bố theo chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường.
Như vâ €y, nền kinh tế thị trường ở Việt Nam không phải là cái khác biệt mà vẫn là
“nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật khách quan của kinh tế thị
trường” như quy luật tự do cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật giá trị; thực hiện tự
do hoá thương mại... Các nguyên tắc, thông lệ quốc tế trong quản lý và điều hành kinh
tế được tuân thủ và vận dụng một cách hợp lý, linh hoạt. Nhà nước quản lý, điều hành
nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, pháp luật và bằng cả sức
mạnh vật chất của lực lượng kinh tế nhà nước; thực hiện sự điều tiết ở tầm vĩ mô, “định
hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế; tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng,
minh bạch” bảo đảm cho thị trường phát triển lành mạnh, tuân thủ các quy luật của kinh tế thị trường.
Ngoài ra, nền kinh tế thị trường phải hiện đại và hội nhập quốc tế. Nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam đã và đang thực hiện quá trình hội nhập quốc tế, mở rộng và gia tăng
các mối quan hệ với các nước trong khu vực và trên thế giới nhằm tranh thủ nhiều cơ
hội hợp tác, giúp đỡ về nhiều mặt từ các nước, đặc biệt là các quốc gia phát triển; chủ
động và tích cực, nhanh chóng và hiệu quả, tận dụng tốt những thời cơ, vận hội, phát
huy tối đa các nguồn lực trong và ngoài nước cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế, đồng
thời có những biện pháp gia tăng khả năng dự phòng của nền kinh tế, ứng phó tốt với
những rủi ro, thách thức của tiến trình hội nhập.
2. Một số vấn đề đă \t ra
Nhìn lại trong hơn 30 năm đổi mới có thể thấy, lý luận về mô hình kinh tế đã được
đổi mới liên tục theo thời gian. Nhờ đó, đã tạo ra xung lực mới cho sự phát triển và đã
làm cho nền kinh tế từ nghèo khó từng bước được cải thiện và khởi sắc đi lên. Cùng với
việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam, cần quan tâm một số vấn đề sau:
Mô €t là, nhận thức rõ quá trình xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam là không đơn giản, đó là quá trình lâu dài và trải qua nhiều
giai đoạn, vừa tìm tòi, phát triển không ngừng trong nhận thức lý luận, vừa phải linh
hoạt, sáng tạo trong thực tiễn, ứng phó tốt trước khó khăn, thách thức, đòi hỏi sự quyết
tâm và đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta hiện nay là một lựa chọn tất yếu và không có cách lựa chọn khác để đi lên CNXH.
Hai là, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam chính là nền kinh tế thị
trường hiện đại, ở đó có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều này có nghĩa là
những yếu tố thị trường của nền kinh tế thị trường hiện đại thì đều được phát huy và
phát triển ở mức cao như tính tích cực của nền kinh tế thị trường, năng động và hiệu
quả, đồng thời, nền kinh tế thị trường cần có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
để hạn chế các mặt trái tiêu cực của nền kinh tế thị trường, cũng như những tác động
làm cho các quan hệ kinh tế thay đổi về cách thức và phương thức mới theo hướng phát
triển tốt hơn, hiệu quả hơn.
Ba là, để có một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phát triển, đòi hỏi phải có
môi trường công khai, minh bạch, có bộ máy nhà nước tinh gọn, đủ năng lực điều hành
và quản lý nền kinh tế, đưa nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao, chất lượng và
hiệu quả, giải quyết tốt những vấn đề xã hội, bảo đảm nền kinh tế phát triển bền vững một cách thật sự.
Bốn là, để nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phát triển, cần tạo lập một môi
trường kinh doanh thông thoáng, hòa nhập với thị trường thế giới. Nền kinh tế thị
trường không có sự phân biệt đối xử đối với các đối tượng và chủ thể trên thị trường. Và
để đạt được điều đó, thì kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác cần được xem như mọi
thành phần kinh tế khác, được đối xử bình đẳng, không có sự ưu tiên hay phân biệt. Các
khu vực kinh tế đều là bộ phận hợp thành của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
hoạt động bình đẳng, đúng pháp luật, được luật pháp bảo vệ và khuyến khích phát triển như nhau.
Năm là, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam được định hướng theo
đuổi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; huy động sức
mạnh của mọi thành phần kinh tế cũng như của toàn xã hội cho tăng trưởng kinh tế,
từng bước nâng cao đời sống cho đại bộ phận nhân dân. Tuy nhiên, việc thực hiện mục
tiêu phát triển kinh tế không phải bằng mọi giá, nóng vội mà phải được cân nhắc tính
toán cho phù hợp với điều kiện đất nước theo hướng phát triển nhanh, hiệu quả mà bền
vững; gắn mục tiêu tăng tưởng kinh tế với bảo đảm độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia,
bảo vệ môi trường... Tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ, công bằng xã hội trong
từng bước, từng chính sách phát triển nhằm đảo bảo công bằng về cơ hội phát triển cho
mọi thành viên trong cộng đồng được thụ hưởng lợi ích chính đáng, công bằng từ những
kết quả lao động và cống hiến xã hội của mình và "không mô €t ai bị bỏ lại phía sau”…