














Preview text:
lOMoARcPSD|45734214
DÂN SỰ 1 - Quy định về quyền thừa kế theo pháp luật
Luật Dân sự (Trường Đại học Luật Hà Nội) Scan to open on Studeersnel
Studocu is not sponsored or endorsed by any college or university
Downloaded by Mai Linh (Vj1@gmail.com) lOMoARcPSD|45734214 BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN:
LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 1
Đề bài: Hãy chỉ ra những bất cập và định hướng hoàn
thiện các quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2015 về
thừa kế theo pháp luật Hà Nội, 2020
Downloaded by Mai Linh (Vj1@gmail.com) lOMoARcPSD|45734214 MỤC LỤC
BẢNG TỪ VIẾT TẮT.............................................................................. . . . . . . 1
MỞ ĐẦU............................................................................................................... 2
NỘI DUNG........................................................................................... . . . . . . . . 2
I. Khái niệm về thừa kế theo pháp luật........................................ . . . . . . . . . . . . .2
II. Những điểm bất cập về thừa kế theo pháp luật quy định trong Bộ luật Dân sự
2015................................................................................................................... . . 3
1. Về quyền thừa kế thế vị của cháu và chắt............................................... . . . . . 3
1.1. Quy định của pháp luật....................................................... . . . . . . . . . . . . . .3
1.2. Kiến nghị................................................................................................ . . . . 4
2. Về quan hệ thừa kế giữa bố mẹ chồng và con dâu, bố mẹ vợ và con rể. . . . ....5
2.1. Quy định của pháp luật....................................................... . . . . . . . . . . . . . .5
2.2. Kiến nghị................................................................................................ . . . . 6
3. Về quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế......................... . . . . . 6
3.1. Quy định của pháp luật....................................................... . . . . . . . . . . . . . .6
3.2. Kiến nghị................................................................................................ . . . . 8
4. Về quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ.......9
4.1. Quy định của pháp luật....................................................... . . . . . . . . . . . . . .9
4.2. Kiến nghị.............................................................................................. . . . . 10
KẾT LUẬN................................................................................................. . . . . 11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................ . . . . . . 11
Downloaded by Mai Linh (Vj1@gmail.com) lOMoARcPSD|45734214 1
BẢNG TỪ VIẾT TẮT BLDS Bộ luật Dân sự BLHS Bộ luật Hình sự
Downloaded by Mai Linh (Vj1@gmail.com) lOMoARcPSD|45734214 2 MỞ ĐẦU
Thừa kế theo pháp luật là một chế định về thừa kế được quy định tại Bộ luật
Dân sự 2015, trong đó quy định các nội dung liên quan đến việc thừa kế theo
pháp luật khi người đã mất không để lại di chúc. Việc xuất hiện chế định thừa kế
theo pháp luật nhằm đảm bảo quyền lợi của những người có quan hệ huyết
thổng, hôn nhân, nuôi dưỡng đối với người đã mất khi người đã mất không hoặc
chưa kịp để lại di chúc.
Tuy nhiên, những quy định của pháp luật về thừa kế theo pháp luật trong Bộ
luật Dân sự 2015 còn nhiều thiếu xót, chưa được đầy đủ và còn nhiều bất cập
khiến cho chế định về thừa kế theo pháp luật chưa thực sự hoàn thiện. Vậy nên,
em xin lựa chọn đề bài: “Hãy chỉ ra những bất cập và định hướng hoàn thiện
các quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2015 về thừa kế theo pháp luật” để tiến
hành nghiên cứu, tìm hiểu và chỉ ra những điểm bất cập cũng như định hướng
hoàn thiện các quy định của pháp luật về thừa kế theo pháp luật. NỘI DUNG
I. Khái niệm về thừa kế theo pháp luật
Theo điều 649 Bộ luật Dân sự 2015 (BLDS) quy định: “Thừa kế theo pháp
luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.”
Thừa kế theo pháp luật là việc dịch chuyển tài sản của người chết cho những
người còn sống theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.
Cá nhân có quyền sở hữu với tài sản của mình, sau khi chết, số tài sản còn lại
được chia đều cho những người thừa kế. Người được thừa kế theo pháp luật là
những người có quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân và nuôi dưỡng.
Downloaded by Mai Linh (Vj1@gmail.com) lOMoARcPSD|45734214 3
Những người được hưởng thừa kế theo quy định của pháp luật không phụ
thuộc vào mức độ năng lực hành vi. Mọi người bình đẳng trong việc hưởng di
sản thừa kế của người chết, thực hiện nghĩa vụ mà người chết chưa thực hiện
trong phạm vi di sản nhận.
II. Những điểm bất cập về thừa kế theo pháp luật quy định trong Bộ luật Dân sự 2015
1. Về quyền thừa kế thế vị của cháu và chắt
1.1. Quy định của pháp luật
Theo quy định tại Điều 652 BLDS năm 2015 thì: “Trường hợp con của người
để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu
được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống;
nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì
chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống”.
Với quy định mà điều luật đã nêu, nếu hiểu theo những gì điều luật viết thì khi
cha mẹ của cháu hoặc chắt không được hưởng di sản của ông, bà hoặc cụ do có
một trong các hành vi được nêu tại khoản 1 Điều 621 BLDS năm 2015 thì đồng
nghĩa với việc, “quýt làm cam chịu”, cháu hoặc chắt dù không có một trong
những hành vi được nêu trong khoản 1 điều 621 BLDS thì cũng không được
hưởng thừa kế thế vị.1
Nếu như cha hoặc mẹ của cháu hoặc chắt có một trong các hành vi vi phạm
được nêu tại khoản 1 điều 621 BLDS năm 2015 thì đó là hành vi độc lập của cha
hoặc mẹ của cháu hoặc chắt. Hai người là hai cá thể độc lập mà theo BLHS thì
trách nhiệm hình sự chỉ được áp dụng đối với những người có hành vi phạm tội,
tức là “chỉ người nào phạm một tội đã được BLHS quy định mới phải chịu trách
1 Có quan điểm cho rằng “dù đã được xóa án tích cũng không được quyền hưởng di sản của người chết”. (Xem:
Hoàng Thế Liên, Nguyễn Đức Giao – Đồng chủ biên (2001), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự Việt Nam, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 3, tr. 31.)
Downloaded by Mai Linh (Vj1@gmail.com) lOMoARcPSD|45734214 4
nhiệm hình sự”. Cháu hoặc chắt không hề có lỗi, không hề liên quan đến hành vi
của cha hoặc mẹ mình, nên không có nghĩa vụ gánh chịu những hành vi độc lập
của cha hoặc mẹ gây ra. Vậy thì việc không cho cháu hoặc chắt có quyền hưởng
thừa kế thế vị có hơi bất công cho cháu hoặc chắt không? Nhất là đối với cháu
hoặc chắt chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng không có khả năng lao động
thì tài sản được thừa kế này sẽ giúp đỡ cho cuộc sống của cháu hoặc chắt sau
này, khi cha hoặc mẹ mình qua đời. 1.2. Kiến nghị
Về phương diện lý luận và thực tiễn, không có quyền hưởng di sản là một chế
tài được áp dụng đối với riêng người có lỗi.2 Do vậy, quyền thừa kế thế vị của
cháu hoặc chắt không thể bị pháp luật tước bỏ khi mà giữa cha, mẹ và các con
hoàn toàn chịu trách nhiệm hình sự với tư cách cá nhân và hành vi của họ lại
hoàn toàn độc lập với nhau. Chỉ có người có lỗi thì mới không được hưởng di
sản, còn cháu chắt không có lỗi gì thì vẫn phải để cho cháu chắt được hưởng
thừa kế thế vị. Cho nên, nếu chỉ hiểu một cách máy móc là cha hoặc mẹ của cháu
khi còn sống không có quyền hưởng di sản, thì cháu cũng không có quyền hưởng
thừa kế thế vị nếu cha, mẹ của cháu chết trước hoặc chết cùng với ông, bà thì đó
là điều hết sức bất công, không thể để tình trạng “quýt làm, cam chịu” như vậy
được, điều đó là không phù hợp với xu hướng chung của pháp luật hiện đại và
trái với truyền thống, tập quán, quan niệm về thừa kế trong nhân dân3.
Do vậy, thiết nghĩ để đảm bảo quyền, lợi ích của các cháu của người để lại di
sản, đặc biệt là trường hợp cháu và chắt là người chưa thành niên hoặc đã thành
niên nhưng không có khả năng lao động. Cho nên, BLDS cần quy định bổ sung
trường hợp cháu và chắt vẫn được hưởng thừa kế thế vị trong trường hợp cha
hoặc mẹ của cháu và chắt khi còn sống đã bị kết án về một trong các hành vi
2 Nguyễn Ngọc Điện (1999), Một số suy nghĩ về thừa kế trong Luật dân sự Việt Nam, Nxb. Trẻ TP. HCM, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 59.
3 Phùng Trung Tập (2008), Luật thừa kế Việt Nam, Nxb. Hà Nội, Hà Nội, tr. 275.
Downloaded by Mai Linh (Vj1@gmail.com) lOMoARcPSD|45734214 5
theo quy định tại khoản 1 Điều 621 BLDS năm 2015. Mặt khác, để bảo vệ quyền
được hưởng di sản của cháu và chắt khi bản thân họ không bị Tòa án tước quyền
và cũng không bị người để lại di sản truất quyền hưởng di sản, nhưng do họ
không có khả năng lao động để tự nuôi sống bản thân mình, thì pháp luật cũng
nên cho họ hưởng thừa kế thế vị thay cho cha mẹ họ bị truất hoặc bị tước quyền
khi còn sống nhưng chết trước người để lại di sản để cháu được thừa kế di sản
của ông bà, chắt được hưởng di sản của các cụ (tương tự như quy định tại Điều
644 BLDS năm 2015 về trường hợp những người thừa kế không phụ thuộc vào
nội dung di chúc), trừ trường hợp khi chính con, cháu của họ cũng có một trong
các hành vi vi phạm được nêu tại khoản 1 Điều 621 BLDS năm 2015.
2. Về quan hệ thừa kế giữa bố mẹ chồng và con dâu, bố mẹ vợ và con rể
2.1. Quy định của pháp luật
So với những năm trước, khi Luật Hôn nhân gia đình 2014 chưa có hiệu lực,
thì quyền và nghĩa vụ của con dâu, con rể đối với cha mẹ vợ, cha mẹ chồng
thuộc phạm trù đạo đức và do các chuẩn mực đạo đức xã hội điều chỉnh. Khi
Luật Hôn nhân gia đình 2014 có hiệu lực, thì nhà làm luật đã luật hóa các quy
chuẩn đạo đức đó và để Luật Hôn nhân gia đình điều chỉnh. Điều đó cũng đồng
nghĩa với việc con dâu, con rể bắt buộc phải thực hiện các nghĩa vụ này. Thậm
chí nếu vi phạm các quy định nêu trên, thì sẽ phải chịu chế tài cụ thể mà Luật
định. Trong mối tương quan giữa quyền và nghĩa vụ của tất cả các mối quan hệ,
quyền sẽ gắn liền với nghĩa vụ và ngược lại. Vậy một câu hỏi được đặt ra ở đây?
Bên cạnh các nghĩa vụ được đặt ra cho con dâu, con rể, thì họ còn có quyền gì,
ngoài các nhóm quyền nhân thân, liệu họ có quyền tài sản không? Chẳng hạn
như quyền được hưởng thừa kế từ bố mẹ chồng, bố mẹ vợ. Tuy nhiên, các hàng
thừa kế theo pháp luật được quy định tại Điều 651 BLDS 2015 lại không có
trường hợp nào nhắc đến con dâu, con rể cả.
Downloaded by Mai Linh (Vj1@gmail.com) lOMoARcPSD|45734214 6
Như vậy, con dâu, con rể không có quyền được hưởng thừa kế theo pháp luật
đối với phần di sản của cha mẹ vợ, cha mẹ chồng. Đây chính là điểm bất cập của
chế định này. Bởi trong thực tế cuộc sống có rất nhiều trường hợp, con dâu, con
rể đối xử tốt với bố mẹ chồng, bố mẹ vợ, thậm chí khi con trai mất đi, con dâu
vẫn tận tâm chăm sóc, nuôi dưỡng bố mẹ chồng.... Trong trường hợp bố mẹ
chồng, bố mẹ vợ muốn chia tài sản cho con dâu, con rể, thì họ buộc phải lập di
chúc, nhưng nếu như họ qua đời mà không kịp để lại di chúc thì sẽ rất bất công
đối với con dâu, con rể có công chăm sóc, phụng dưỡng họ. Hơn thế, nếu nhìn
nhận một cách khách quan, các nhà làm luật chỉ cụ thể hóa nghĩa vụ, quyền nhân
thân của con dâu, con rể đối với bố mẹ vợ, bố mẹ chồng mà không quy định
quyền tài sản của họ, điều này khiến mối liên hệ giữa quyền và nghĩa vụ mất đi sự hài hòa. 2.2. Kiến nghị
Vậy nên, việc quy định về thừa kế cho con dâu, con rể là vô cùng cần thiết, nếu
như họ có công chăm sóc, nuôi dưỡng bố mẹ chồng, bố mẹ vợ và quy định một
cách rõ ràng, cụ thể về những trường hợp mà con dâu, con rể có thể được thừa kế
nếu như bố mẹ chồng, bố mẹ vợ qua đời, nhằm đảm bảo quyền lợi cho họ khi họ
có công chăm sóc bố mẹ chồng, bố mẹ vợ.
3. Về quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế
3.1. Quy định của pháp luật
Theo quy định tại Điều 654 BLDS năm 2015 thì: “Con riêng và bố dượng, mẹ
kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được
thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 652 và
Điều 653 của Bộ luật này”. Theo đó, để được hưởng quyền thừa kế di sản giữa
con riêng và bố dượng, mẹ kế thì pháp luật quy định họ phải có quan hệ chăm
sóc nhau như cha con, mẹ con. Tuy nhiên, trên thực tế khi áp dụng quy định này
để giải quyết các trường hợp cụ thể thì có nhiều cách hiểu khác nhau dẫn đến
Downloaded by Mai Linh (Vj1@gmail.com) lOMoARcPSD|45734214 7
việc áp dụng pháp luật không thống nhất về nội dung như thế nào được hiểu là
“chăm sóc như cha con, mẹ con” và dựa vào tiêu chí nào để đánh giá là có sự
chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì pháp luật cũng chưa đề cập
đến. Chẳng hạn như: (1) thời gian chăm sóc, nuôi dưỡng nhau giữa con riêng và
bố dượng, mẹ kế là bao lâu sẽ được coi là chăm sóc như cha con, mẹ con; (2)
hành vi chăm sóc sẽ được thể hiện từ hai bên hay chỉ từ một bên (người được
thừa kế) và (3) nếu như một bên chỉ thể hiện hành vi chăm sóc, nuôi dưỡng,
nhưng về tình cảm giữa họ đối với nhau không như cha con, mẹ con thì họ có
được thừa kế theo pháp luật của nhau không? Ngoài ra, việc xác định hàng thừa
kế sau khi đã xác định được quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng như cha con, mẹ con
thì điều luật lại không quy định trong trường hợp này thì con riêng, bố dượng,
mẹ kế sẽ thuộc hàng thừa kế thứ mấy nếu đối chiếu với quy định tại khoản 1
Điều 651 BLDS năm 2015 về người thừa kế theo pháp luật.
Có quan điểm còn cho rằng, nên bỏ quy định về thừa kế thế vị của con riêng, vì
giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế với lý do là giữa họ không có mối quan hệ
huyết thống và cũng không có mối quan hệ pháp lý nào ràng buộc, nếu có ràng
buộc đi chăng nữa thì đó cũng chỉ là sự ràng buộc về mặt đạo đức xã hội. Có thể
lý giải cho cơ sở của quan điểm này là xuất phát từ sự so sánh với trường hợp
người con dâu không được hưởng thừa kế đối với phần di sản của cha mẹ chồng,
vì giữa họ không có mối quan hệ huyết thống, nhưng do phong tục tập quán của
người Việt và trên thực tế phần lớn người con dâu cũng là người trực tiếp chăm
sóc, nuôi dưỡng cha mẹ chồng. Chính vì vậy, quan điểm trên cho rằng việc quy
định con riêng được hưởng thừa kế thế vị thay bố dượng, mẹ kế là không thuyết
phục và cần phải được xóa bỏ.
Dưới góc độ kỹ thuật lập pháp, Điều 654 BLDS năm 2015 còn cho thấy việc
dẫn chiếu đến Điều 652 và Điều 653 làm cho người đọc có sự hiểu nhầm là thiếu
Điều 651 về người thừa kế theo pháp luật, nhưng ở Điều 653 đã có dẫn chiếu đến
Downloaded by Mai Linh (Vj1@gmail.com) lOMoARcPSD|45734214 8
Điều 651; đồng thời còn thể hiện sự trùng lắp khi Điều 653 đã có dẫn chiếu đến
Điều 652 nhưng Điều 654 lại tiếp tục dẫn chiếu đến Điều 652. Lẽ ra, các nhà làm
luật chỉ cần dẫn chiếu trực tiếp đến Điều 651 và Điều 652 sẽ hợp lý và chính xác hơn. 3.2. Kiến nghị
Quan hệ thừa kế giữa con riêng và cha dượng, mẹ kế phát sinh dựa trên cơ sở
nuôi dưỡng, chăm sóc nhau như cha con, mẹ con. Tuy nhiên, để hiểu như thế nào
là “chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con” thì hiện nay vẫn chưa có
văn bản nào hướng dẫn một cách cụ thể. Do đó, để áp dụng chế định “quan hệ
thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế”, chúng ta cần phải chứng minh sự
tồn tại “quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con” giữa cha
dượng và con riêng của vợ, mẹ kế và con riêng của chồng4. Ngoài ra, chúng ta
còn có thể hiểu, con riêng và cha dượng, mẹ kế chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như
cha con, mẹ con khi giữa họ thể hiện những hành vi được quy định tại các điều
69, 70, 71 và 72 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Theo đó, cha dượng,
mẹ kế có nghĩa vụ và quyền cùng yêu thương, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con riêng, chăm lo cho việc học tập và
giáo dục con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức,… cha, mẹ không
được phân biệt đối xử giữa các con, không ngược đãi, hành hạ, xúc phạm con,
…; con riêng có bổn phận yêu quý, kính trọng, hiếu thảo với cha dượng, mẹ kế,
có quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc cha mẹ, không được ngược đãi,
hành hạ, xúc phạm cha mẹ,… Hay nói cách khác, pháp luật cần ghi nhận các
tiêu chí để đánh giá việc chăm sóc, nuôi dưỡng nhau giữa con riêng và cha
dượng, mẹ kế tương tự như quyền và nghĩa vụ của con đẻ với cha, mẹ đẻ. Đồng
thời, cũng cần quy định rằng việc chăm sóc lẫn nhau giữa con riêng và cha
dượng, mẹ kế không nhất thiết phải dựa trên cơ sở cùng sống chung với nhau
4 Bản án số 232/2005/DSPT ngày 31/10/2005 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
Downloaded by Mai Linh (Vj1@gmail.com) lOMoARcPSD|45734214 9
dưới một mái nhà, bởi vì trên thực tế có rất nhiều trường hợp người con ở xa
(như đi làm xa hoặc có vợ chồng xa) nhưng vẫn luôn quan tâm, thể hiện được
tình cảm yêu thương lẫn nhau và có những hành động giúp đỡ cha dượng, mẹ kế
bằng cách gửi tiền cũng như các vật chất khác5. Do đó, việc xác định thế nào là
chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha, mẹ con theo tác giả không nên chỉ phụ
thuộc vào nơi cư trú của các thành viên trong gia đình.
Vì vậy, trong thời gian tới cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Điều
654 BLDS năm 2015 về trường hợp thế nào là “chăm sóc như cha con, mẹ con”
và việc “con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng
nhau như cha con, mẹ con” nếu được hưởng di sản của nhau thì sẽ được xác định
là hàng thừa kế nào trong các hàng thừa kế được quy định tại khoản 1 Điều 651
BLDS năm 2015. Cần thừa nhận theo hướng để con riêng, bố dượng, mẹ kế nếu
có quyền thừa kế của nhau thì sẽ được thừa kế ở hàng thứ nhất như thực tiễn xét
xử trong thời gian vừa qua là hợp lý và thuyết phục6.
4. Về quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ
4.1. Quy định của pháp luật
Bên cạnh quan hệ huyết thống và hôn nhân để xác định hàng thừa kế thì pháp
luật còn căn cứ vào quan hệ nuôi dưỡng. Đây là một quan hệ làm phát sinh nhiều
hệ quả pháp lý trong đó có việc xác định hàng thừa kế được hưởng di sản thừa kế theo pháp luật.
Điều 653 Bộ luật dân sự 2015 quy định: Quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha
nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ: “con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di
sản của nhau và được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 651 và Điều 652 của Bộ luật này.
5 Bản án số 232/2005/DSPT ngày 31/10/2005 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
6 Đỗ Văn Đại (2016), Luật thừa kế Việt Nam, Bản án và bình luận bản án (tái bản lần thứ 4), Nxb. Hồng Đức –
Hội luật gia Việt Nam, Hà Nội, tr. 269.
Downloaded by Mai Linh (Vj1@gmail.com) lOMoARcPSD|45734214 10
Theo quy định trên, một người đã nhận người khác làm con nuôi của mình theo
quy định của pháp luật sẽ là cha nuôi, mẹ nuôi của người con nuôi đó. Vì thế họ
là những người thừa kế ở hàng thứ nhất của con nuôi và ngược lại, con nuôi là
người thừa kế ở hàng thứ nhất của cha mẹ nuôi mình.
Quy định này được hiểu, một người vừa được thừa kế di sản của bố mẹ nuôi
vừa được thừa kế đối với gia đình cha mẹ đẻ như người không làm con nuôi của
người khác. Người nhận nuôi con nuôi vừa thừa kế của con nuôi vừa được thừa
kế của con đẻ như một người không nuôi con nuôi. Cụ thể hơn đối với cha mẹ
vừa có quan hệ thừa kế với con đẻ vừa có quan hệ thừa kế với con nuôi.
Quy định này vẫn còn khá chung chung dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau
như: (1) khi người con đẻ của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời
điểm với người để lại di sản, thì người con nuôi của người con đẻ của người để
lại di sản có được hưởng thừa kế thế vị hay không? (2) khi con nuôi của người
để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản, thì con
đẻ của người con nuôi đó có được hưởng thừa kế thế vị không? (3) người con
nuôi của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại
di sản, thì con nuôi của người con nuôi đó có được hưởng thừa kế thế vị không?
Có quan điểm cho rằng trường hợp (3) không được thừa kế thế vị, trường hợp (2)
được thừa kế thế vị, còn trường hợp (1) chỉ được thừa kế thế vị nếu người để lại
di sản coi như cháu ruột.7 4.2. Kiến nghị
Quan hệ thừa kế giữa con riêng và cha dượng, mẹ kế phát sinh dựa trên cơ sở
nuôi dưỡng, chăm sóc nhau như cha con, mẹ con. Tuy nhiên, để hiểu như thế nào
là “chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con” thì hiện nay vẫn chưa có
văn bản nào hướng dẫn một cách cụ thể. Do đó, để áp dụng chế định “quan hệ
thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế”, chúng ta cần phải chứng minh sự
7 Phạm Văn Tuyết, Lê Kim Giang (2017), Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh chấp, Nxb. Tư pháp,
Hà Nội, tr. 328 – 329.
Downloaded by Mai Linh (Vj1@gmail.com) lOMoARcPSD|45734214 11
tồn tại “quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con” giữa cha
dượng và con riêng của vợ, mẹ kế và con riêng của chồng.
Pháp luật cần ghi nhận các tiêu chí để đánh giá việc chăm sóc, nuôi dưỡng
nhau giữa con riêng và cha dượng, mẹ kế tương tự như quyền và nghĩa vụ của
con đẻ với cha, mẹ đẻ. Đồng thời, cũng cần quy định rằng việc chăm sóc lẫn
nhau giữa con riêng và cha dượng, mẹ kế không nhất thiết phải dựa trên cơ sở
cùng sống chung với nhau dưới một mái nhà, bởi vì trên thực tế có rất nhiều
trường hợp người con ở xa (như đi làm xa hoặc có vợ chồng xa) nhưng vẫn luôn
quan tâm, thể hiện được tình cảm yêu thương lẫn nhau và có những hành động
giúp đỡ cha dượng, mẹ kế bằng cách gửi tiền cũng như các vật chất khác.
Vì vậy, trong thời gian tới cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Điều
654 BLDS năm 2015 về trường hợp thế nào là “chăm sóc như cha con, mẹ con”
và việc “con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng
nhau như cha con, mẹ con” nếu được hưởng di sản của nhau thì sẽ được xác định
là hàng thừa kế nào trong các hàng thừa kế được quy định tại khoản 1 Điều 651 BLDS năm 2015. KẾT LUẬN
Các quy định về thừa kế theo pháp luật nói chung và người thừa kế theo pháp
luật nói riêng trong thời gian qua đã phần nào phát huy được hiệu quả điều chỉnh
trên thực tế. Tuy nhiên, qua phân tích đã cho thấy vẫn còn có một số hạn chế
nhất định, chưa phù hợp về mặt lý luận, cũng như xu thế chung của pháp luật
hiện đại. Chính vì vậy, trong tương lai BLDS năm 2015 cần sửa đổi để quy định
về người thừa kế theo pháp luật được hoàn thiện và phù hợp hơn, cần sớm ban
hành những văn bản hướng dẫn các điều luật để tránh dẫn đến có nhiều cách hiểu
khác nhau đối với một điều luật, gây khó khăn trong quá trình giải quyết và ảnh
hưởng đến quyền thừa kế của một số cá nhân.
Downloaded by Mai Linh (Vj1@gmail.com) lOMoARcPSD|45734214 12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam.Tập 1 /Trường Đại học Luật Hà Nội; Chủ
biên: Đinh Văn Thanh, Nguyễn Minh Tuấn; Vũ Thị Hồng Yến ...
2. Hoàng Thế Liên, Nguyễn Đức Giao – Đồng chủ biên (2001), Bình luận khoa
học Bộ luật dân sự Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 3, tr. 31.)
3. Nguyễn Ngọc Điện (1999), Một số suy nghĩ về thừa kế trong Luật dân sự Việt
Nam, Nxb. Trẻ TP. HCM, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 59.
4. Phùng Trung Tập (2008), Luật thừa kế Việt Nam, Nxb. Hà Nội, Hà Nội, tr. 275.
5. Bản án số 232/2005/DSPT ngày 31/10/2005 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
6. Bản án số 232/2005/DSPT ngày 31/10/2005 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
7. Đỗ Văn Đại (2016), Luật thừa kế Việt Nam, Bản án và bình luận bản án (tái
bản lần thứ 4), Nxb. Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam, Hà Nội, tr. 269.
8. Phạm Văn Tuyết, Lê Kim Giang (2017), Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải
quyết tranh chấp, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 328 – 329.
Downloaded by Mai Linh (Vj1@gmail.com)