












Preview text:
lOMoAR cPSD| 59703641 BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN:
LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 1
Đề bài: Hãy chỉ ra những bất cập và định hướng hoàn
thiện các quy định trong Bộ luật Dân sự năm 20 1 5 về
thừa kế theo pháp luật
Hà Nội, 20 20 lOMoAR cPSD| 59703641 MỤC LỤC
BẢNG TỪ VIẾT TẮT...........................................................................................1
MỞ ĐẦU................................................................................................................2
NỘI DUNG............................................................................................................2
I. Khái niệm về thừa kế theo pháp luật..................................................................2
II. Những điểm bất cập về thừa kế theo pháp luật quy định trong Bộ luật Dân sự
2015........................................................................................................................3
1. Về quyền thừa kế thế vị của cháu và chắt..........................................................3
1.1. Quy định của pháp luật...................................................................................3
1.2. Kiến nghị.........................................................................................................4
2. Về quan hệ thừa kế giữa bố mẹ chồng và con dâu, bố mẹ vợ và con rể............5
2.1. Quy định của pháp luật...................................................................................5
2.2. Kiến nghị.........................................................................................................6
3. Về quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế....................................6
3.1. Quy định của pháp luật...................................................................................6
3.2. Kiến nghị.........................................................................................................8
4. Về quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ.......9
4.1. Quy định của pháp luật...................................................................................9
4.2. Kiến nghị.......................................................................................................10
KẾT LUẬN..........................................................................................................11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................11 lOMoAR cPSD| 59703641 1
BẢNG TỪ VIẾT TẮT BLDS Bộ luật Dân sự BLHS Bộ luật Hình sự lOMoAR cPSD| 59703641 2 MỞ ĐẦU
Thừa kế theo pháp luật là một chế định về thừa kế được quy định tại Bộ luật Dân sự
2015, trong đó quy định các nội dung liên quan đến việc thừa kế theo pháp luật khi người
đã mất không để lại di chúc. Việc xuất hiện chế định thừa kế theo pháp luật nhằm đảm
bảo quyền lợi của những người có quan hệ huyết thổng, hôn nhân, nuôi dưỡng đối với
người đã mất khi người đã mất không hoặc chưa kịp để lại di chúc.
Tuy nhiên, những quy định của pháp luật về thừa kế theo pháp luật trong Bộ luật Dân
sự 2015 còn nhiều thiếu xót, chưa được đầy đủ và còn nhiều bất cập khiến cho chế định
về thừa kế theo pháp luật chưa thực sự hoàn thiện. Vậy nên, em xin lựa chọn đề bài: “Hãy
chỉ ra những bất cập và định hướng hoàn thiện các quy định trong Bộ luật Dân sự năm
2015 về thừa kế theo pháp luật” để tiến hành nghiên cứu, tìm hiểu và chỉ ra những điểm
bất cập cũng như định hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về thừa kế theo pháp luật. NỘI DUNG
I. Khái niệm về thừa kế theo pháp luật
Theo điều 649 Bộ luật Dân sự 2015 (BLDS) quy định: “Thừa kế theo pháp luật là thừa
kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.”
Thừa kế theo pháp luật là việc dịch chuyển tài sản của người chết cho những người còn
sống theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.
Cá nhân có quyền sở hữu với tài sản của mình, sau khi chết, số tài sản còn lại được chia
đều cho những người thừa kế. Người được thừa kế theo pháp luật là những người có quan
hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân và nuôi dưỡng.
Những người được hưởng thừa kế theo quy định của pháp luật không phụ thuộc vào
mức độ năng lực hành vi. Mọi người bình đẳng trong việc hưởng di sản thừa kế của người
chết, thực hiện nghĩa vụ mà người chết chưa thực hiện trong phạm vi di sản nhận.
II. Những điểm bất cập về thừa kế theo pháp luật quy định trong Bộ luật Dân sự 2015 lOMoAR cPSD| 59703641 3
1. Về quyền thừa kế thế vị của cháu và chắt
1.1. Quy định của pháp luật
Theo quy định tại Điều 652 BLDS năm 2015 thì: “Trường hợp con của người để lại di
sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần
di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước
hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha
hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống”.
Với quy định mà điều luật đã nêu, nếu hiểu theo những gì điều luật viết thì khi cha mẹ
của cháu hoặc chắt không được hưởng di sản của ông, bà hoặc cụ do có một trong các
hành vi được nêu tại khoản 1 Điều 621 BLDS năm 2015 thì đồng nghĩa với việc, “quýt
làm cam chịu”, cháu hoặc chắt dù không có một trong những hành vi được nêu trong
khoản 1 điều 621 BLDS thì cũng không được hưởng thừa kế thế vị.1
Nếu như cha hoặc mẹ của cháu hoặc chắt có một trong các hành vi vi phạm được nêu
tại khoản 1 điều 621 BLDS năm 2015 thì đó là hành vi độc lập của cha hoặc mẹ của cháu
hoặc chắt. Hai người là hai cá thể độc lập mà theo BLHS thì trách nhiệm hình sự chỉ được
áp dụng đối với những người có hành vi phạm tội, tức là “chỉ người nào phạm một tội đã
được BLHS quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Cháu hoặc chắt không hề có
lỗi, không hề liên quan đến hành vi của cha hoặc mẹ mình, nên không có nghĩa vụ gánh
chịu những hành vi độc lập của cha hoặc mẹ gây ra. Vậy thì việc không cho cháu hoặc
chắt có quyền hưởng thừa kế thế vị có hơi bất công cho cháu hoặc chắt không? Nhất là
đối với cháu hoặc chắt chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng không có khả năng lao
động thì tài sản được thừa kế này sẽ giúp đỡ cho cuộc sống của cháu hoặc chắt sau này,
khi cha hoặc mẹ mình qua đời.
1 Có quan điểm cho rằng “dù đã được xóa án tích cũng không được quyền hưởng di sản của người chết”. (Xem:
Hoàng Thế Liên, Nguyễn Đức Giao – Đồng chủ biên (2001), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự Việt Nam, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, tập 3, tr. 31.) lOMoAR cPSD| 59703641 4 1.2. Kiến nghị
Về phương diện lý luận và thực tiễn, không có quyền hưởng di sản là một chế tài được
áp dụng đối với riêng người có lỗi.2 Do vậy, quyền thừa kế thế vị của cháu hoặc chắt
không thể bị pháp luật tước bỏ khi mà giữa cha, mẹ và các con hoàn toàn chịu trách nhiệm
hình sự với tư cách cá nhân và hành vi của họ lại hoàn toàn độc lập với nhau. Chỉ có
người có lỗi thì mới không được hưởng di sản, còn cháu chắt không có lỗi gì thì vẫn phải
để cho cháu chắt được hưởng thừa kế thế vị. Cho nên, nếu chỉ hiểu một cách máy móc là
cha hoặc mẹ của cháu khi còn sống không có quyền hưởng di sản, thì cháu cũng không
có quyền hưởng thừa kế thế vị nếu cha, mẹ của cháu chết trước hoặc chết cùng với ông,
bà thì đó là điều hết sức bất công, không thể để tình trạng “quýt làm, cam chịu” như vậy
được, điều đó là không phù hợp với xu hướng chung của pháp luật hiện đại và trái với
truyền thống, tập quán, quan niệm về thừa kế trong nhân dân3.
Do vậy, thiết nghĩ để đảm bảo quyền, lợi ích của các cháu của người để lại di sản, đặc
biệt là trường hợp cháu và chắt là người chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng không
có khả năng lao động. Cho nên, BLDS cần quy định bổ sung trường hợp cháu và chắt vẫn
được hưởng thừa kế thế vị trong trường hợp cha hoặc mẹ của cháu và chắt khi còn sống
đã bị kết án về một trong các hành vi theo quy định tại khoản 1 Điều 621 BLDS năm
2015. Mặt khác, để bảo vệ quyền được hưởng di sản của cháu và chắt khi bản thân họ
không bị Tòa án tước quyền và cũng không bị người để lại di sản truất quyền hưởng di
sản, nhưng do họ không có khả năng lao động để tự nuôi sống bản thân mình, thì pháp
luật cũng nên cho họ hưởng thừa kế thế vị thay cho cha mẹ họ bị truất hoặc bị tước quyền
khi còn sống nhưng chết trước người để lại di sản để cháu được thừa kế di sản của ông
bà, chắt được hưởng di sản của các cụ (tương tự như quy định tại Điều 644 BLDS năm
2015 về trường hợp những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc), trừ
2 Nguyễn Ngọc Điện (1999), Một số suy nghĩ về thừa kế trong Luật dân sự Việt Nam, Nxb. Trẻ TP. HCM, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 59.
3 Phùng Trung Tập (2008), Luật thừa kế Việt Nam, Nxb. Hà Nội, Hà Nội, tr. 275. lOMoAR cPSD| 59703641 5
trường hợp khi chính con, cháu của họ cũng có một trong các hành vi vi phạm được nêu
tại khoản 1 Điều 621 BLDS năm 2015. 2. Về quan hệ thừa kế giữa bố mẹ chồng và con
dâu, bố mẹ vợ và con rể 2.1. Quy định của pháp luật
So với những năm trước, khi Luật Hôn nhân gia đình 2014 chưa có hiệu lực, thì quyền
và nghĩa vụ của con dâu, con rể đối với cha mẹ vợ, cha mẹ chồng thuộc phạm trù đạo đức
và do các chuẩn mực đạo đức xã hội điều chỉnh. Khi Luật Hôn nhân gia đình 2014 có
hiệu lực, thì nhà làm luật đã luật hóa các quy chuẩn đạo đức đó và để Luật Hôn nhân gia
đình điều chỉnh. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc con dâu, con rể bắt buộc phải thực
hiện các nghĩa vụ này. Thậm chí nếu vi phạm các quy định nêu trên, thì sẽ phải chịu chế
tài cụ thể mà Luật định. Trong mối tương quan giữa quyền và nghĩa vụ của tất cả các mối
quan hệ, quyền sẽ gắn liền với nghĩa vụ và ngược lại. Vậy một câu hỏi được đặt ra ở đây?
Bên cạnh các nghĩa vụ được đặt ra cho con dâu, con rể, thì họ còn có quyền gì, ngoài các
nhóm quyền nhân thân, liệu họ có quyền tài sản không? Chẳng hạn như quyền được
hưởng thừa kế từ bố mẹ chồng, bố mẹ vợ. Tuy nhiên, các hàng thừa kế theo pháp luật
được quy định tại Điều 651 BLDS 2015 lại không có trường hợp nào nhắc đến con dâu, con rể cả.
Như vậy, con dâu, con rể không có quyền được hưởng thừa kế theo pháp luật đối với
phần di sản của cha mẹ vợ, cha mẹ chồng. Đây chính là điểm bất cập của chế định này.
Bởi trong thực tế cuộc sống có rất nhiều trường hợp, con dâu, con rể đối xử tốt với bố mẹ
chồng, bố mẹ vợ, thậm chí khi con trai mất đi, con dâu vẫn tận tâm chăm sóc, nuôi dưỡng
bố mẹ chồng.... Trong trường hợp bố mẹ chồng, bố mẹ vợ muốn chia tài sản cho con dâu,
con rể, thì họ buộc phải lập di chúc, nhưng nếu như họ qua đời mà không kịp để lại di
chúc thì sẽ rất bất công đối với con dâu, con rể có công chăm sóc, phụng dưỡng họ. Hơn
thế, nếu nhìn nhận một cách khách quan, các nhà làm luật chỉ cụ thể hóa nghĩa vụ, quyền
nhân thân của con dâu, con rể đối với bố mẹ vợ, bố mẹ chồng mà không quy định quyền
tài sản của họ, điều này khiến mối liên hệ giữa quyền và nghĩa vụ mất đi sự hài hòa. 2.2. Kiến nghị lOMoAR cPSD| 59703641 6
Vậy nên, việc quy định về thừa kế cho con dâu, con rể là vô cùng cần thiết, nếu như họ
có công chăm sóc, nuôi dưỡng bố mẹ chồng, bố mẹ vợ và quy định một cách rõ ràng, cụ
thể về những trường hợp mà con dâu, con rể có thể được thừa kế nếu như bố mẹ chồng,
bố mẹ vợ qua đời, nhằm đảm bảo quyền lợi cho họ khi họ có công chăm sóc bố mẹ chồng, bố mẹ vợ.
3. Về quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế
3.1. Quy định của pháp luật
Theo quy định tại Điều 654 BLDS năm 2015 thì: “Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu
có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của
nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này”.
Theo đó, để được hưởng quyền thừa kế di sản giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế thì pháp
luật quy định họ phải có quan hệ chăm sóc nhau như cha con, mẹ con. Tuy nhiên, trên
thực tế khi áp dụng quy định này để giải quyết các trường hợp cụ thể thì có nhiều cách
hiểu khác nhau dẫn đến việc áp dụng pháp luật không thống nhất về nội dung như thế nào
được hiểu là “chăm sóc như cha con, mẹ con” và dựa vào tiêu chí nào để đánh giá là có
sự chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì pháp luật cũng chưa đề cập đến.
Chẳng hạn như: (1) thời gian chăm sóc, nuôi dưỡng nhau giữa con riêng và bố dượng, mẹ
kế là bao lâu sẽ được coi là chăm sóc như cha con, mẹ con; (2) hành vi chăm sóc sẽ được
thể hiện từ hai bên hay chỉ từ một bên (người được thừa kế) và (3) nếu như một bên chỉ
thể hiện hành vi chăm sóc, nuôi dưỡng, nhưng về tình cảm giữa họ đối với nhau không
như cha con, mẹ con thì họ có được thừa kế theo pháp luật của nhau không? Ngoài ra,
việc xác định hàng thừa kế sau khi đã xác định được quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng như
cha con, mẹ con thì điều luật lại không quy định trong trường hợp này thì con riêng, bố
dượng, mẹ kế sẽ thuộc hàng thừa kế thứ mấy nếu đối chiếu với quy định tại khoản 1 Điều
651 BLDS năm 2015 về người thừa kế theo pháp luật.
Có quan điểm còn cho rằng, nên bỏ quy định về thừa kế thế vị của con riêng, vì giữa
con riêng và bố dượng, mẹ kế với lý do là giữa họ không có mối quan hệ huyết thống và lOMoAR cPSD| 59703641 7
cũng không có mối quan hệ pháp lý nào ràng buộc, nếu có ràng buộc đi chăng nữa thì đó
cũng chỉ là sự ràng buộc về mặt đạo đức xã hội. Có thể lý giải cho cơ sở của quan điểm
này là xuất phát từ sự so sánh với trường hợp người con dâu không được hưởng thừa kế
đối với phần di sản của cha mẹ chồng, vì giữa họ không có mối quan hệ huyết thống,
nhưng do phong tục tập quán của người Việt và trên thực tế phần lớn người con dâu cũng
là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ chồng. Chính vì vậy, quan điểm trên cho
rằng việc quy định con riêng được hưởng thừa kế thế vị thay bố dượng, mẹ kế là không
thuyết phục và cần phải được xóa bỏ.
Dưới góc độ kỹ thuật lập pháp, Điều 654 BLDS năm 2015 còn cho thấy việc dẫn chiếu
đến Điều 652 và Điều 653 làm cho người đọc có sự hiểu nhầm là thiếu Điều 651 về người
thừa kế theo pháp luật, nhưng ở Điều 653 đã có dẫn chiếu đến Điều 651; đồng thời còn
thể hiện sự trùng lắp khi Điều 653 đã có dẫn chiếu đến Điều 652 nhưng Điều 654 lại tiếp
tục dẫn chiếu đến Điều 652. Lẽ ra, các nhà làm luật chỉ cần dẫn chiếu trực tiếp đến Điều
651 và Điều 652 sẽ hợp lý và chính xác hơn. 3.2. Kiến nghị
Quan hệ thừa kế giữa con riêng và cha dượng, mẹ kế phát sinh dựa trên cơ sở nuôi
dưỡng, chăm sóc nhau như cha con, mẹ con. Tuy nhiên, để hiểu như thế nào là “chăm
sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con” thì hiện nay vẫn chưa có văn bản nào hướng
dẫn một cách cụ thể. Do đó, để áp dụng chế định “quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố
dượng, mẹ kế”, chúng ta cần phải chứng minh sự tồn tại “quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng
nhau như cha con, mẹ con” giữa cha dượng và con riêng của vợ, mẹ kế và con riêng của
chồng4. Ngoài ra, chúng ta còn có thể hiểu, con riêng và cha dượng, mẹ kế chăm sóc, nuôi
dưỡng nhau như cha con, mẹ con khi giữa họ thể hiện những hành vi được quy định tại
các điều 69, 70, 71 và 72 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Theo đó, cha dượng,
mẹ kế có nghĩa vụ và quyền cùng yêu thương, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của con riêng, chăm lo cho việc học tập và giáo dục con phát
triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức,… cha, mẹ không được phân biệt đối xử giữa
4 Bản án số 232/2005/DSPT ngày 31/10/2005 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội. lOMoAR cPSD| 59703641 8
các con, không ngược đãi, hành hạ, xúc phạm con, …; con riêng có bổn phận yêu quý,
kính trọng, hiếu thảo với cha dượng, mẹ kế, có quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc
cha mẹ, không được ngược đãi, hành hạ, xúc phạm cha mẹ,… Hay nói cách khác, pháp
luật cần ghi nhận các tiêu chí để đánh giá việc chăm sóc, nuôi dưỡng nhau giữa con riêng
và cha dượng, mẹ kế tương tự như quyền và nghĩa vụ của con đẻ với cha, mẹ đẻ. Đồng
thời, cũng cần quy định rằng việc chăm sóc lẫn nhau giữa con riêng và cha dượng, mẹ kế
không nhất thiết phải dựa trên cơ sở cùng sống chung với nhau dưới một mái nhà, bởi vì
trên thực tế có rất nhiều trường hợp người con ở xa (như đi làm xa hoặc có vợ chồng xa)
nhưng vẫn luôn quan tâm, thể hiện được tình cảm yêu thương lẫn nhau và có những hành
động giúp đỡ cha dượng, mẹ kế bằng cách gửi tiền cũng như các vật chất khác5. Do đó,
việc xác định thế nào là chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha, mẹ con theo tác giả không
nên chỉ phụ thuộc vào nơi cư trú của các thành viên trong gia đình.
Vì vậy, trong thời gian tới cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Điều 654
BLDS năm 2015 về trường hợp thế nào là “chăm sóc như cha con, mẹ con” và việc “con
riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ
con” nếu được hưởng di sản của nhau thì sẽ được xác định là hàng thừa kế nào trong các
hàng thừa kế được quy định tại khoản 1 Điều 651 BLDS năm 2015. Cần thừa nhận theo
hướng để con riêng, bố dượng, mẹ kế nếu có quyền thừa kế của nhau thì sẽ được thừa kế
ở hàng thứ nhất như thực tiễn xét xử trong thời gian vừa qua là hợp lý và thuyết phục6.
4. Về quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ
4.1. Quy định của pháp luật
Bên cạnh quan hệ huyết thống và hôn nhân để xác định hàng thừa kế thì pháp luật còn
căn cứ vào quan hệ nuôi dưỡng. Đây là một quan hệ làm phát sinh nhiều hệ quả pháp lý
trong đó có việc xác định hàng thừa kế được hưởng di sản thừa kế theo pháp luật.
5 Bản án số 232/2005/DSPT ngày 31/10/2005 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
6 Đỗ Văn Đại (2016), Luật thừa kế Việt Nam, Bản án và bình luận bản án (tái bản lần thứ 4), Nxb. Hồng Đức – Hội luật gia
Việt Nam, Hà Nội, tr. 269. lOMoAR cPSD| 59703641 9
Điều 653 Bộ luật dân sự 2015 quy định: Quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi,
mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ: “con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau
và được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 651 và Điều 652 của Bộ luật này.
Theo quy định trên, một người đã nhận người khác làm con nuôi của mình theo quy
định của pháp luật sẽ là cha nuôi, mẹ nuôi của người con nuôi đó. Vì thế họ là những
người thừa kế ở hàng thứ nhất của con nuôi và ngược lại, con nuôi là người thừa kế ở
hàng thứ nhất của cha mẹ nuôi mình.
Quy định này được hiểu, một người vừa được thừa kế di sản của bố mẹ nuôi vừa được
thừa kế đối với gia đình cha mẹ đẻ như người không làm con nuôi của người khác. Người
nhận nuôi con nuôi vừa thừa kế của con nuôi vừa được thừa kế của con đẻ như một người
không nuôi con nuôi. Cụ thể hơn đối với cha mẹ vừa có quan hệ thừa kế với con đẻ vừa
có quan hệ thừa kế với con nuôi. Quy định này vẫn còn khá chung chung dẫn đến nhiều
cách hiểu khác nhau như: (1) khi người con đẻ của người để lại di sản chết trước hoặc
cùng một thời điểm với người để lại di sản, thì người con nuôi của người con đẻ của người
để lại di sản có được hưởng thừa kế thế vị hay không? (2) khi con nuôi của người để lại
di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản, thì con đẻ của người
con nuôi đó có được hưởng thừa kế thế vị không? (3) người con nuôi của người để lại di
sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản, thì con nuôi của người
con nuôi đó có được hưởng thừa kế thế vị không? Có quan điểm cho rằng trường hợp (3)
không được thừa kế thế vị, trường hợp (2) được thừa kế thế vị, còn trường hợp (1) chỉ
được thừa kế thế vị nếu người để lại di sản coi như cháu ruột.7 4.2. Kiến nghị
Quan hệ thừa kế giữa con riêng và cha dượng, mẹ kế phát sinh dựa trên cơ sở nuôi
dưỡng, chăm sóc nhau như cha con, mẹ con. Tuy nhiên, để hiểu như thế nào là “chăm
sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con” thì hiện nay vẫn chưa có văn bản nào hướng
7 Phạm Văn Tuyết, Lê Kim Giang (2017), Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh chấp, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 328 – 329. lOMoAR cPSD| 59703641 10
dẫn một cách cụ thể. Do đó, để áp dụng chế định “quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố
dượng, mẹ kế”, chúng ta cần phải chứng minh sự tồn tại “quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng
nhau như cha con, mẹ con” giữa cha dượng và con riêng của vợ, mẹ kế và con riêng của chồng.
Pháp luật cần ghi nhận các tiêu chí để đánh giá việc chăm sóc, nuôi dưỡng nhau giữa
con riêng và cha dượng, mẹ kế tương tự như quyền và nghĩa vụ của con đẻ với cha, mẹ
đẻ. Đồng thời, cũng cần quy định rằng việc chăm sóc lẫn nhau giữa con riêng và cha
dượng, mẹ kế không nhất thiết phải dựa trên cơ sở cùng sống chung với nhau dưới một
mái nhà, bởi vì trên thực tế có rất nhiều trường hợp người con ở xa (như đi làm xa hoặc
có vợ chồng xa) nhưng vẫn luôn quan tâm, thể hiện được tình cảm yêu thương lẫn nhau
và có những hành động giúp đỡ cha dượng, mẹ kế bằng cách gửi tiền cũng như các vật
chất khác. Vì vậy, trong thời gian tới cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn thi hành
Điều 654 BLDS năm 2015 về trường hợp thế nào là “chăm sóc như cha con, mẹ con” và
việc “con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha
con, mẹ con” nếu được hưởng di sản của nhau thì sẽ được xác định là hàng thừa kế nào
trong các hàng thừa kế được quy định tại khoản 1 Điều 651 BLDS năm 2015. KẾT LUẬN
Các quy định về thừa kế theo pháp luật nói chung và người thừa kế theo pháp luật nói
riêng trong thời gian qua đã phần nào phát huy được hiệu quả điều chỉnh trên thực tế. Tuy
nhiên, qua phân tích đã cho thấy vẫn còn có một số hạn chế nhất định, chưa phù hợp về
mặt lý luận, cũng như xu thế chung của pháp luật hiện đại. Chính vì vậy, trong tương lai
BLDS năm 2015 cần sửa đổi để quy định về người thừa kế theo pháp luật được hoàn thiện
và phù hợp hơn, cần sớm ban hành những văn bản hướng dẫn các điều luật để tránh dẫn
đến có nhiều cách hiểu khác nhau đối với một điều luật, gây khó khăn trong quá trình giải
quyết và ảnh hưởng đến quyền thừa kế của một số cá nhân. lOMoAR cPSD| 59703641 11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.
Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam.Tập 1 /Trường Đại học Luật Hà Nội; Chủ biên:
Đinh Văn Thanh, Nguyễn Minh Tuấn; Vũ Thị Hồng Yến ... 2.
Hoàng Thế Liên, Nguyễn Đức Giao – Đồng chủ biên (2001), Bình luận khoa học
Bộ luật dân sự Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 3, tr. 31.) 3.
Nguyễn Ngọc Điện (1999), Một số suy nghĩ về thừa kế trong Luật dân sự Việt
Nam, Nxb. Trẻ TP. HCM, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 59. 4.
Phùng Trung Tập (2008), Luật thừa kế Việt Nam, Nxb. Hà Nội, Hà Nội, tr. 275. 5.
Bản án số 232/2005/DSPT ngày 31/10/2005 của Tòa án nhân dân thành phốHà Nội. 6.
Bản án số 232/2005/DSPT ngày 31/10/2005 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội. 7.
Đỗ Văn Đại (2016), Luật thừa kế Việt Nam, Bản án và bình luận bản án (táibản lần
thứ 4), Nxb. Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam, Hà Nội, tr. 269. 8.
Phạm Văn Tuyết, Lê Kim Giang (2017), Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải
quyết tranh chấp, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 328 – 329.