Bài tập kinh tế chính trị | Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Phân tích sự hình thành và phát triển của kinh tế chính trị Mác - Lênin? Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác- lênin? Chức năng của ktct ML với tư cách là  một môn khoa học. Nêu ý nghĩa của việc nghiên cứu kinh tế chính trị Mác- Lênin trong quá trình lao động và quản trị quốc gia. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Thông tin:
14 trang 2 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Bài tập kinh tế chính trị | Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Phân tích sự hình thành và phát triển của kinh tế chính trị Mác - Lênin? Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác- lênin? Chức năng của ktct ML với tư cách là  một môn khoa học. Nêu ý nghĩa của việc nghiên cứu kinh tế chính trị Mác- Lênin trong quá trình lao động và quản trị quốc gia. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

17 9 lượt tải Tải xuống
Họ và Tên: Nguyễn Nhật Anh Mã sinh viên: 2251040005
Lớp: Truyền thông Đa phương tiện K42
CÂU HỎI ÔN TẬP 1
Câu 1: Phân tích sự hình thành và phát triển của kinh tế chính trị Mác -
Lênin?
Trong dòng chảy tư tưởng kinh tế của nhân loại kể từ thời kỳ cổ đại cho tới ngày
nay, do đặc thù về trình độ phát triển ứng với mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi nền sản
xuất xã hội đã hình thành nhiều tư tưởng, trường phái lý luận về kinh tế khác nhau.
Quá trình phát triển của khoa học kinh tế chính trị được khái quát qua hai thời kỳ
lịch sử như sau:
-Thứ nhất, từ thời cổ đại đến thế kỷ XVIII.
-Thứ hai, từ sau thế kỷ XVIII đến nay.
Trong thời kỳ cổ đại, trung đại (từ thế kỷ XV về trước), trình độ phát triển của các
nền sản xuất còn lạc hậu, chưa có đầy đủ những tiền đề cần thiết cho sự hình thành
các lý luận
Kinh tế chính trị cổ điển Anh được hình thành và phát triển từ cuối thế kỷ XVIII
đến nửa đầu thế kỷ XIX, mở đầu là các quan điểm lý luận của William Petty, tiếp
đến là A. Smith và kết thúc ở hệ thống lý luận có nhiều giá trị khoa học của David
Ricardo. Kinh tế chính trị cổ điển Anh nghiên cứu các quan hệ kinh tế trong quá
trình tái sản xuất, trình bày một cách hệ thống các phạm trù kinh tế chính trị như
phân công lao động, hàng hóa, giá trị, tiền tệ, giá cả, giá cả thị trường, tiền lương,
lợi nhuận, lợi tức, địa tô, tư bản... để rút ra các quy luật kinh tế. Lý luận kinh tế
chính trị cổ điển Anh đã rút ra kết luận giá trị là do hao phí lao động tạo ra, giá trị
khác với của cải... Đó là những đóng góp khoa học rất lớn của các đại biểu kinh tế
chính trị cổ điển Anh vào lĩnh vực lý luận kinh tế chính trị của nhân loại, thể hiện
sự phát triển vượt bậc so với hệ thống lý luận của chủ nghĩa trọng nông. Như vậy,
kinh tế chính trị là môn khoa học kinh tế nghiên cứu các quan hệ kinh tế để tìm ra
các quy luật chi phối sự vận động của các hiện tượng và quá trình hoạt động kinh
tế của con người tương ứng với những trình độ phát triển nhất định của nền sản
xuất xã hội.Kể từ sau những công trình nghiên cứu của A. Smith, lý luận kinh tế
chính trị chia thành hai dòng chính: - Dòng lý thuyết khai thác các luận điểm của
A. Smith khái quát dựa trên các quan sát mang tính tâm lý, hành vi để xây dựng
thành các lý thuyết kinh tế mới; không tiếp tục đi sâu vào phân tích, luận giải các
quan hệ xã hội trong nền sản xuất. Từ đó, tạo cơ sở cho việc xây dựng các lý
thuyết kinh tế về hành vi của người tiêu dùng, người sản xuất hoặc các đại lượng
lớn của nền kinh tế. Dòng lý thuyết này không ngừng được bổ sung và phát triển
bởi rất nhiều nhà kinh tế và nhiều trường phái lý thuyết ở các quốc gia châu Âu,
Bắc Mỹ cho đến ngày nay. - Dòng lý thuyết thể hiện từ D. Ricardo, kế thừa những
giá trị trong lý luận khoa học của A. Smith, tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh nội dung
luận giải về các phạm trù kinh tế chính trị, đi sâu phân tích các quan hệ xã hội
trong nền sản xuất, tạo ra những giá trị lý luận khoa học chuẩn xác. C. Mác (1818 -
1883) đã kế thừa trực tiếp những thành quả lý luận khoa học đó của D. Ricardo để
phát triển thành lý luận kinh tế chính trị mang tên ông về phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa
Kinh tế chính trị, một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác. Lý luận kinh
tế chính trị của C. Mác và Ph. Ăngghen được thể hiện tập trung và cô đọng nhất
trong bộ Tư bản. Trong bộ Tư bản, C. Mác trình bày một cách khoa học và chỉnh
thể các phạm trù cơ bản của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa như: hàng hóa,
tiền tệ, tư bản, giá trị thặng dư, tích lũy, tuần hoàn, chu chuyển, lợi nhuận, lợi tức,
địa tô, cạnh tranh..., rút ra các quy luật kinh tế cơ bản cũng như các quan hệ xã hội
giữa các giai cấp trong nền kinh tế thị trường dưới bối cảnh nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa. C. Mác đã tạo ra bước nhảy vọt về lý luận khoa học so với D. Ricardo
khi phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, tạo tiền đề cho việc
luận giải một cách khoa học về lý luận giá trị thặng dư. Hệ thống lý luận kinh tế
chính trị của C. Mác nêu trên được trình bày dưới hình thức các học thuyết lớn như
học thuyết giá trị, học thuyết giá trị thặng dư, học thuyết tích lũy, học thuyết về lợi
nhuận, học thuyết về địa tô... Với học thuyết giá trị thặng dư nói riêng và bộ Tư
bản nói chung, C. Mác đã xây dựng cơ sở khoa học, cách mạng cho sự hình thành
chủ nghĩa Mác như một chỉnh thể làm nền tảng tư tưởng cho giai cấp công nhân và
nhân dân lao động. Học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác đồng thời cũng là cơ sở
khoa học luận chứng về vai trò lịch sử của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Sau khi C. Mác và Ph. Ăngghen qua đời, V.I. Lênin tiếp tục kế thừa, bổ sung, phát
triển lý luận kinh tế chính trị theo phương pháp luận của C. Mác và có nhiều đóng
góp khoa học rất lớn; trong đó, nổi bật là kết quả nghiên cứu chỉ ra những đặc điểm
kinh tế của độc quyền, độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản giai đoạn cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, những vấn đề kinh tế chính trị của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội... Với ý nghĩa đó, lý thuyết kinh tế chính trị này được định danh
với tên gọi kinh tế chính trị Mác - Lênin.
Công trình nghiên cứu đó được xếp vào nhánh kinh tế chính trị mác xít (maxist -
những người theo chủ nghĩa Mác). Bên cạnh đó, cũng trong giai đoạn từ thế kỷ XV
đến thế kỷ XIX, còn có một số lý thuyết kinh tế chính trị của các nhà tư tưởng xã
hội chủ nghĩa không tưởng (thế kỷ XV - XIX) và kinh tế chính trị tiểu tư sản (cuối
thế kỷ XIX). Các lý thuyết này hướng vào phê phán những khuyết tật của chủ
nghĩa tư bản, song nhìn chung các quan điểm dựa trên cơ sở tình cảm cá nhân, chịu
ảnh hưởng của chủ nghĩa nhân đạo, không chỉ ra được các quy luật kinh tế cơ bản
của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và do đó không luận chứng được vai
trò lịch sử của chủ nghĩa tư bản trong quá trình phát triển của nhân loại. Như vậy,
kinh tế chính trị Mác - Lênin là một trong những dòng lý thuyết kinh tế chính trị
nằm trong dòng chảy tư tưởng kinh tế phát triển liên tục trên thế giới, được hình
thành,xây dựng bởi C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin, dựa trên cơ sở kế thừa và
phát triển những giá trị khoa học kinh tế chính trị của nhân loại trước đó, trực tiếp
là những giá trị khoa học của kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh. Kinh tế chính trị
Mác - Lênin có quá trình phát triển không ngừng kể từ giữa thế kỷ XIX đến nay.
Kinh tế chính trị Mác - Lênin là một môn khoa học trong hệ thống các môn khoa
học kinh tế của nhân loại
Câu 2: Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác- lênin? Chức năng của
ktct ML với tư cách là một môn khoa học
2.1 Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin
Với tư cách là một môn khoa học, kinh tế chính trị Mác - Lênin có đối tượng
nghiên cứu riêng. Trở lại lịch sử kinh tế chính trị, trước C. Mác, ở mỗi thời kỳ phát
triển, có các hướng xác định tìm đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị tương
ứng. Chủ nghĩa trọng thương phát hiện đối tượng nghiên cứu trong lĩnh vực lưu
thông; chủ nghĩa trọng nông chuyển đối tượng nghiên cứu trong các quan hệ kinh
tế ở lĩnh vực nông nghiệp; kinh tế chính trị sản xuất và lưu thông. Điều này thể
hiện sự phát triển trong lý luận kinh tế chính trị của C. Mác so với các lý luận kinh
tế chính trị của các nhà tư tưởng trước C. Mác. Luận giải về khoa học kinh tế chính
trị, C. Mác và Ph. Ăngghen chỉ ra: Kinh tế chính trị có thể được hiểu theo nghĩa
hẹp hoặc theo nghĩa rộng. Theo nghĩa hẹp, kinh tế chính trị là khoa học kinh tế
nghiên cứu quan hệ sản xuất và trao đổi trong một phương thức sản xuất nhất định.
Cách tiếp cận này được C.Mác thể hiện rõ nhất trong bộ Tư bản. Cụ thể, C. Mác
cho rằng, đối tượng nghiên cứu của bộ Tư bản là các quan hệ sản xuất và trao đổi
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và mục đích cuối cùng của bộ Tư bản
là tìm ra quy luật vận động kinh tế của xã hội ấy. Theo nghĩa rộng, Ph. Ăngghen
cho rằng: “Kinh tế chính trị, theo nghĩa rộng nhất, là khoa học về những quy luật
chi phối sự sản xuất và trao đổi những tư liệu sinh hoạt vật chất trong xã hội loài
người... Những điều kiện trong đó người ta sản xuất sản phẩm và trao đổi chúng,
đều thay đổi tuỳ từng nước, và trong mỗi nước lại thay đổi tuỳ từng thế hệ. Bởi
vậy, không thể có cùng một môn kinh tế chính trị duy nhất cho tất cả mọi nước và
tất cả mọi thời đại lịch sử...; môn kinh tế chính trị, về thực chất là một môn khoa
học có tính chất lịch sử...; nó nghiên cứu trước hết là những quy luật đặc thù của
từng giai đoạn phát triển của sản xuất và của trao đổi, và chỉ sau khi nghiên cứu
như thế xong xuôi rồi nó mới có thể xác định ra một vài quy luật hoàn toàn có tính
chất chung, thích dụng, nói chung cho sản xuất và trao đổi” .
Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị không phải là quan hệ thuộc một lĩnh
vực, một khía cạnh của nền sản xuất xã hội mà là chỉnh thể thống nhất của các
quan hệ sản xuất và trao đổi. Đó là hệ thống các quan hệ giữa người với người
trong sản xuất và trao đổi, các quan hệ trong mỗi khâu và các quan hệ giữa các
khâu của quá trình tái sản xuất xã hội với tư cách là sự thống nhất biện chứng của
sản xuất và thị trường.Kinh tế chính trị không nghiên cứu biểu hiện kỹ thuật của sự
sản xuất và trao đổi mà là hệ thống các quan hệ xã hội của sản xuất và trao đổi.
Các quan hệ của sản xuất và trao đổi chịu sự tác động biện chứng không chỉ bởi
trình độ của lực lượng sản xuất mà còn cả kiến trúc thượng tầng tương ứng. Do
vậy, khi xác định đối tượng nghiên cứu, kinh tế chính trị Mác - Lênin tất yếu đặt
các quan hệ xã hội của sản xuất và trao đổi trong mối liên hệ biện chứng với trình
độ của lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng tương ứng của phương thức sản
xuất. Kinh tế chính trị không nghiên cứu yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất,
cũng không nghiên cứu biểu hiện cụ thể của kiến trúc thượng tầng mà đặt các quan
hệ của sản xuất và trao đổi trong mối liên hệ biện chứng với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng tương ứng. Khái quát lại, đối tượng
nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin là các quan hệ xã hội của sản xuất và
trao đổi mà các quan hệ này được đặt trong sự liên hệ biện chứng với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng tương ứng của phương thức
sản xuất nhất định
Quan hệ xã hội của sản xuất và trao đổi biểu hiện ở những bộ phận như: quan hệ sở
hữu; quan hệ quản lý; quan hệ phân phối, phân bổ nguồn lực; quan hệ xã hội trong
lưu thông; quan hệ xã hội trong tiêu dùng; quan hệ xã hội trong quản trị phát triển
quốc gia; quản trị phát triển địa phương; quan hệ giữa sản xuất và lưu thông; giữa
sản xuất và thị trường...Khi nhấn mạnh việc đặt các quan hệ sản xuất và trao đổi
trong mối liên hệ với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng
tầng tương ứng, kinh tế chính trị
Mác - Lênin không xem nhẹ các quan hệ kinh tế khách quan giữa các quá trình
kinh tế trong một khâu và giữa các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội với tư
cách là một chỉnh thể biện chứng của sản xuất, lưu thông, phân phối, tiêu dùng.
Trước đây, trong các công trình nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin thuộc
hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, hầu hết các nhà nghiên cứu chỉ nhấn mạnh đối
tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin là mặt quan hệ sản xuất, mà
quan hệ sản xuất thì lại chỉ quy về quan hệ sở hữu, quan hệ tổ chức quản lý, quan
hệ phân phối thu nhập. Cách hiểu này phù hợp với điều kiện nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung, không sát với quan điểm của các nhà kinh điển của kinh tế chính trị
Mác - Lênin nêu trên và không thực sự phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế thị
trường. Các nhà kinh điển khẳng định, kinh tế chính trị Mác - Lênin nghiên cứu
quan hệ xã hội của sản xuất và trao đổi nghĩa là mặt xã hội của sự thống nhất biện
chứng của cả sản xuất, lưu thông, phân phối, tiêu dùng. Đây là quan điểm khoa học
và phản ánh đúng thực tiễn vận động của nền sản xuất xã hội có sự vận hành của
các quy luật thị trường
2.2 Chức năng
Công trình nghiên cứu sẽ làm thay đổi bản chất, quan hệ đó không còn là quan hệ
lợi ích kinh tế.Ngày nay, với sự phát triển hết sức phức tạp của các quan hệ kinh tế,
ngoài các phương pháp nghiên cứu đặc thù, kinh tế chính trị Mác - Lênin còn yêu
cầu sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu liên ngành, các phương pháp nghiên
cứu hiện đại, nghiên cứu dựa trên bằng chứng, tổng kết thực tiễn để làm cho các
kết quả nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin gắn bó mật thiết với thực tiễn.
2.2.1 Chức năng nhận thức
Kinh tế chính trị Mác - Lênin là môn khoa học kinh tế cung cấp hệ thống tri thức lý
luận về sự vận động của các quan hệ giữa người với người trong sản xuất và trao
đổi; về sự liên hệ tác động biện chứng giữa các quan hệ giữa người với người trong
sản xuất và trao đổi với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng tương ứng
trong những trình độ phát triển khác nhau của nền sản xuất xã hội. Kinh tế chính trị
Mác - Lênin cung cấp hệ thống tri thức mở về những quy luật chi phối sự phát
triển của sản xuất và trao đổi gắn với phương thức sản xuất, về lịch sử phát triển
các quan hệ của sản xuất và trao đổi của nhân loại nói chung, về nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nói riêng. Kinh tế chính trị
Mác - Lênin cung cấp những phạm trù kinh tế cơ bản được khái quát, phản ánh từ
hiện tượng kinh tế mang tính biểu hiện trên bề mặt xã hội. Trên cơ sở hệ thống
những tri thức khoa học như vậy, kinh tế chính trị Mác - Lênin góp phần làm
phong phú tri thức, tư duy lý luận của người lao động và toàn xã hội, sự hiểu biết
của mỗi á nhân về các quan hệ kinh tế, những triển vọng, xu hướng phát triển kinh
tế - xã hội vốn vận động phức tạp, đan xen, tưởng như rất hỗn độn trên bề mặt xã
hội nhưng thực chất chúng đều tuân thủ các quy luật nhất định. Từ đó, nhận thức
được ở tầng sâu hơn, xuyên qua các quan hệ phức tạp như vậy, nhận thức được các
quy luật và tính quy luật.
Trên cơ sở nhận thức được mở rộng, phong phú, và ngày càng sâu sắc do được tiếp
nhận những tri thức là kết quả nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin, người
lao động cũng như những nhà hoạch định chính sách hình thành được năng lực, kỹ
năng vận dụng các quy luật kinh tế vào thực tiễn hoạt động lao động cũng như
quản trị quốc gia. Việc vận dụng đúng các quy luật kinh tế khách quan thông qua
điều chỉnh hành vi cá nhân hoặc các chính sách kinh tế sẽ góp phần thúc đẩy kinh
tế - xã hội phát triển theo hướng tiến bộ. Kinh tế chính trị Mác - Lênin, theo nghĩa
đó, thực hiện chức năng cải tạo thực tiễn, thúc đẩy văn minh của xã hội. Kinh tế
chính trị Mác - Lênin tham gia đắc lực vào sự hình thành phương pháp luận, cơ sở
khoa học để giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích trong quá trình phát triển, tạo
động lực thúc đẩy từng cá nhân và toàn xã hội sáng tạo, từ đó không ngừng cải
thiện đời sống vật chất, tinh thần của toàn xã hội. Đối với sinh viên nói riêng, kinh
tế chính trị Mác - Lênin là cơ sở khoa học lý luận để nhận diện và định vị vai trò,
trách nhiệm sáng tạo cao cả của mình. Từ đó xây dựng tư duy và tầm nhìn, kỹ năng
thực hiện các hoạt động kinh tế - xã hội trên mọi lĩnh vực, ngành, nghề của đời
sống xã hội phù hợp với quy luật khách quan. Thông qua đó đóng góp xứng đáng
vào sự phát triển chung của xã hội
2.2.2 Chức năng tư tưởng
Kinh tế chính trị Mác - Lênin góp phần xây dựng nền tảng tư tưởng mới cho những
người lao động tiến bộ, biết quý trọng thành quả lao động của bản thân và của xã
hội; yêu chuộng tự do, hòa bình, củng cố niềm tin cho sự phấn đấu vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Kinh tế chính trị Mác - Lênin góp
phần xây dựng lý tưởng khoa học cho những chủ thể có mong muốn xây dựng chế
độ xã hội tốt đẹp, hướng tới giải phóng con người, xóa bỏ dần những áp bức, bất
công giữa con người với con người.
Kinh tế chính trị Mác - Lênin thể hiện chức năng phương pháp luận, nền tảng lý
luận khoa học cho việc nhận diện sâu hơn nội hàm khoa học của các khái niệm,
phạm trù của các khoa học kinh tế chuyên ngành trong bối cảnh ngày nay. Ví dụ,
lý thuyết tiền tệ của kinh tế học cũng nghiên cứu về tiền, chỉ ra các chức năng của
tiền tệ. Tuy nhiên, để hiểu được cội nguồn bản chất của tiền trong tiến trình phát
triển của sản xuất và trao đổi, mối quan hệ giữa tiền và thế giới hàng hóa phản ánh
bản chất nào và vì sao tiền tệ lại có các chức năng khách quan ấy mà không phải
do tâm lý chủ quan thừa nhận, vì sao tiền có thể mua được các loại hàng hóa... thì
đòi hỏi phải dựa trên nền tảng lý luận của kinh tế chính trị Mác - Lênin. Do vậy,
chức năng phương pháp luận cần được kết hợp khi nghiên cứu các khoa học kinh
tế chuyên ngành
Câu 3: Nêu ý nghĩa của việc nghiên cứu kinh tế chính trị Mác- Lênin trong
quá trình lao động và quản trị quốc gia
Học tập kinh tế chính trị, hiểu được sự thay đổi của các phương thức sản xuất, các
hình thái kinh tế – xã hội là tất yếu khách quan, là quy luật của lịch sử, giúp người
học có niềm tin sâu sắc vào con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng Cộng sản Việt
Nam và nhân dân ta đã lựa chọn là phù hợp với quy luật khách quan, đi tới mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh trên đất nước
Trong nền kinh tế thị trường, nhà nước thực hiện quản trị phát triển nền kinh tế
thông qua việc tạo lập môi trường kinh tế tốt nhất cho các chủ thể kinh tế phát huy
sức sáng tạo của họ. Việc này đòi hỏi mỗi cá nhân có trách nhiệm trong bộ máy
quản lý nhà nước cần phải nhận thức được trách nhiệm của mình là thúc đẩy phát
triển, không gây cản trở sự phát triển của nền kinh tế thị trường bởi những hành
động tiêu cực như tạo ra các rào cản đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, làm
kìm hãm động lực sáng tạo của các chủ thể sản xuất kinh doanh. Thông qua nghiên
cứu kinh tế chính trị Mác Lênin, những nhà hoạch định chính sách được mở rộng
nhận thức, làm phong phú và sâu sắc nhận thức từ đó có khả năng vận dụng các
quy luật kinh tế vào trong việc quản trị quốc gia của mình, bằng các chính sách
kinh tế góp phần thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển theo hướng tiến bộ.
Quy luật giá trị:
Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá: Là sự phân phối lại các yếu tố tư
liệu sån xuất và sức lao động từ ngành sản xuất này sang ngành sản xuất
khác theo hướng từ nơi có ít hoặc không lợi nhuận sang nơi lãi nhiều. Từ
một nền kinh tế lúa nước lạc hậu, nền kinh tế Việt Nam đã chuyển dịch tích
cực theo hướng công nghiệp hoáhiện đại hoá, chuyển lao động dư thừa, vốn
đầu tư phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ
nhờ đó đạt được nhiều thành tựu quan trọng như kinh tế liên tục tăng trưởng,
tỷ lệ thất nghiệp giảm và kiểm soát lạm phát trong giới hạn cho phép....Đồng
thời nâng cao chất lượng và quy mô cơ sở hạ tầng giao thông, khuyến khích
xuất nhập khẩu hàng hoá để tạo điều kiện cho hàng hoá được lưu thông từ
nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao, để hàng hoá được phân phối hợp lý
giữa các vùng.
Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất nhằm tăng năng suất lao
động: Xây dựng, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, thử nghiệm cơ chế thúc đẩy
quá trình chuyển đổi số kinh tế số phát triển các mô hình kinh tế mới khởi
nghiệp sáng tạo
Phân hoá những người sản xuất thành những người nghèo, người giàu một
cách tự nhiên: Để hạn chế những tiêu cực xã hội khi phân hoá giàu nghèo
ngày càng trở nên sâu sắc, cần có những chính sách hỗ trợ về vốn sản xuất
và xúc tiến cho các chủ thể sản xuất yếu thế hơn có cơ hội phát triển sản
xuất. Bên cạnh đó cần có những văn bản pháp luật xử lý những chủ thể chạy
theo lợi ích cá nhân, đầu cơ, gian lận làm tăng thêm sự phân hoá sản xuất
một cách tiêu cực.
Quy luật cung-cầu: Quy luật cung cầu là quy luật kinh tế phản ánh mối quan
hệ giữa cung và cầu hàng hóa trên thị trường. Quy luật này đòi hỏi cung -
cầu phải có sự thống nhất, nếu không có sự thống nhất giữa chúng thì sẽ có
các nhân tố xuất hiện điều chỉnh chúng. Như vậy trong quản trị quốc gia,
Nhà nước vận dụng các chính sách kinh tế như một bàn tay vô hình để tác
động lên nền kinh tế thị trường, thống nhất hai bên cung - cầu. Ngoài bàn tay
vô hình Nhà nước còn có thể trực tiếp tác động vào mộtngành, nghề đang
phát triển, phát triển trọng yếu trong nền kinh tế nhưng chưa thực sự được
các thành phần kinh tế chú trọng và đầu tư do hạn chế nguồn lực. Vì thế việc
nhà nước phát hiện và can thiệp vào là không thể tránh khỏi.
->Việc độc quyền Nhà nước trong các ngành kinh tế trọng yếu và phát triển
giúp ổn định cung - cầu tránh lạm phát và giảm cung quá mức của các thành
phần kinh tế độc quyền.Ngoài độc quyền Nhà nước, Nhà nước còn can thiệp
vào các thành phần kinh tế như các công ty có vốn nhà nước nhằm tạo lòng
tin cho người dân và ổn định thành phần kinh tế này.
Quy luật lưu thông tiền tệ: Việc vận dụng quy luật lưu thông tiền tệ vào
quản lý nhà nước là tất yếu, đây cũng là một trong những yêu cầu độc quyền
có và chỉ có ở nhà nước đó là phát hành và cho phép lưu thông tiền tệ. Phát
hành tiền là một trong những chức năng kinh tế cơ bản của nhà nước, việc
điều chỉnh khối lượng tiền tệ trong một khoảng thời gian nhất định là việc tất
yếu để không gây lạm phát và các hoạt động kích động của thế lực thù địch;
hạn chế các chính sách thao túng tiền tệ trên thế giới gây bất ổn chính trị thế
giới.Cho phép lưu thông tiền tệ cũng là một trong những chính sách mà Nhà
nước dùng để quản lý khối lượng tiền tệ lưu thông trong nền kinh tế, giảm
thiểu lạm phát khi có quả nhiều loại tiền tệ được lưu thông cùng một lúc
trong một khu vực thì việc quản lý vòng tiền trở nên khó khăn và không thể
điều chỉnh khi các loại tiền tệ khác tăng hoặc giảm không thể khống chế.
Quy luật cạnh tranh: Để tránh việc cạnh tranh không lành mạnh dẫn đến lãng
phí nguồn lực xã hội, tồn hại môi trường kinh doanh và gây tổn hại đến phúc
lợi xã hội, nhà nước thực tế luôn can thiệp vào các thành phần kinh tế một
cách bài bản thông qua các biện pháp như duy trì một mức độ bảo hộ cần
thiết khi hàng hóa của các nhà sản xuất trong nước đang có sức cạnh tranh
yếu hoặc bị các hãng sản xuất nước ngoài cạnh tranh mạnh hơn và có nguy
cơ xâm chiếm thị phần. Bên cạnh đó, nhà nước cũng sử dụng các công cụ
kinh tế để khắc phục các khuyết tật của nền kinh tế thị trường, làm cho nền
kinh tế thị trường hoạt động hiệu quả. Nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn
những rủi ro khủng hoảng có thể diễn ra cục bộ hay trên phạm vi tổng thể và
đặc biệt rất khó để dự báo chính xác thời điểm xảy ra. Vì vậy, nhà nước
đóng vai trò quan trọng trong việc khôi phục lại nền kinh tế thông qua các
công cụ như chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ, điều chỉnh tỷ giá hối
đoái và các gói hỗ trợ nhằm hồi phục lại khả năng sản xuất và kích thích
tổng cầu hàng hoá. Bên cạnh đó, nền kinh tế thị trường không thể tự khắc
phục xu hướng cạn kiệt tài nguyên không thể tái tạo, suy thoái môi trường tự
nhiên, môi trường xã hội. Do đó cần có các tác động từ nhà nước như hoàn
chỉnh hệ thống văn bản pháp luật bảo vệ môi trường, ban hành các chính
sách về phát triển kinh tế phải gắn với bảo vệ môi trường, nghiêm chỉnh thi
hành Luật bảo vệ môi trường; rà soát và ban hành đồng bộ các văn bản dưới
luật, bảo đảm nâng cao hiệu lực của luật; ban hành các chính sách về thuế,
môi trường, ban hành các chính sách về phát triển kinh tế phải gắn với bảo
vệ môi trường, nghiêm chỉnh thi hành Luật bảo vệ môi trường; rà soát và
ban hành đồng bộ các văn bản dưới luật, bảo đảm nâng cao hiệu lực của
luật; ban hành các chính sách về thuế, tín dụng nhằm khuyến khích áp dụng
các công nghệ sạch; thể chế hóa việc đóng góp chi phí bảo vệ môi trường;
thể chế hóa việc phối hợp giải quyết các vấn đề phát triển kinh tế với bảo vệ
môi trường: trong các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội phải có các chỉ
tiêu, biện pháp bảo vệ môi trường; tính toán hiệu quả kinh tế, so sánh các
phương án phải tính toán cả chi phí về bảo vệ môi trường. Thêm nữa, nền
kinh tế thị trường không tự nó khắc phục được sự phân hoá sâu sắc trong xã
hội. Nhà nước từ đó đưa ra những chính sách an sinh xã hội để chăm sóc cho
những người yếu thế hơn được đảm bảo những nhu cầu cơ bản trong cuộc
sống thông qua các diện gia đình chính sách, hộ nghèo, cận nghèo, hỗ trợ
cho vay với lãi suất thấp cho những người khó khăn để xây nhà ở, đảm bảo
điều kiện vệ sinh nước sạch, hỗ trợ học phí học bổng, các gói vay vốn phát
triển sản xuất, kinh doanh,...
CÂU HỎI ÔN TẬP SỐ 2
Câu 1: Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa?
Sản xuất hàng hóa ra đời tồn tại dựa trên hai điều kiện. Gắn với thực tế khai thác
các nhu cầutìm kiếm lợi ích trên thị trường. Đâyhai điều kiện cần và đủ của
sản xuất hàng hóa. Thiếu một trong hai điều kiện đó sẽ không sản xuất hàng
hóa. Cũng chính tính tất yếu gắn với sự ra đời phát triển của sản xuất hàng
hóa đến hiện tại.
Có sự phân công lao động xã hội:
Phân công lao động hội sự phân công trong tính chất nghề nghiệp, năng lực
chuyên môn. Từ đó các lao động nắm giữ chức năng, thực hiện các nhóm công
việc cụ thể. Mang đến sự chuyên môn hóa sản xuất, mang đến các ngành lĩnh
vực sản xuất riêng biệt. Phân chia lao động hội vào các ngành, các vùng, các
lĩnh vực sản xuất khác nhau. Từ đó định hướng đào tạo lao động trình độ, tay
nghề, đáp ứng điều kiện công việc.
Các điều kiện thúc đẩy sản xuất hàng hóa:
Phân công lao động hội làm cho việc trao đổi sản phẩm trở thành tất yếu. Hàng
hóa được sản xuất với quy lớn, số lượng nhiều. Việc trao đổi, tiêu thụ phải
được đảm bảo.
Bởi vì, khi phân công lao động hội, mỗi người, mỗi sở chỉ sản xuất một
hoặc một vài thứ sản phẩm nhất định. Thực hiện thế mạnh trong sản xuất, nâng cao
năng suất với các chi phí vốn ổn định nhất. Trong khi nhu cầu của cuộc sống đòi
hỏi họ phải nhiều loại sản phẩm khác nhau. Do đó, họ cần đến sản phẩm của
nhau, trao đổi với nhau.
Điều đó giúp lao động được đào tạo trong chuyên môn công việc. Nhưng vẫn đảm
bảo tìm kiếm các lợi nhuận trong trao đổi, mua bán. Cũng như được đáp ứng các
nhu cầu khác nhau thông qua sản phẩm trên thị trường.
Mặt khác, nhờ phân công lao động hội, chuyên môn hóa sản xuất làm cho
năng suất lao động tăng lên. Các định hướng trong cải tiến sản xuất hay nâng cao
năng suất lao động được nghiên cứu phát triển. Sản phẩm thặng ngày càng
nhiều và trao đổi sản phẩm ngày càng phổ biến. Các sản phẩm tương tự mang đến
nhiều sự lựa chọn hơn cho nhu cầu của con người. Trong các tiêu chí về giá cả,
chất lượng, thương hiệu,…
Như vậy,
Phân công lao động hội sở, tiền đề của sản xuất hàng hóa. Phải lao
động với chuyên môn, đảm nhận các khâu công việc nhất định. Vừa tạo ra việc làm
cho người dân, vừa thúc đẩy phát triển kinh tế. Phân công lao động hội ngày
càng phát triển, thì sản xuất trao đổi hàng hóa càng mở rộng, đa dạng hơn.
Trong định hướng tiếp cận các nhu cầu thực tế của người tiêu dùng trong khả năng
của đơn vị sản xuất.
Tuy nhiên, nếu chỉ phân công lao động hội thôi thì chưa đủ. Khi hàng hóa,
đáp ứng các nhu cầu, tìm kiếm lợi ích kinh tế tách biệt cho các chủ thể cũng được
quan tâm. Để sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại còn phải có một điều kiện thứ hai
sau đây:
Thứ hai: Có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản
xuất:
Những người sản xuất trở thành những chủ thể sản xuất, độc lập nhất định. Họ tìm
kiếm và khai thác tốt nhất các lợi ích cho mình. Do đó phải cố gắng tìm kiếm được
lợi nhuận cao từ hoạt động mua bán diễn ra trên thị trường. Từ đó sản phẩm làm ra
thuộc quyền sở hữu hoặc do họ chi phối một cách chủ động. Do vậy, người này
muốn tiêu dùng sản phẩm lao động của người khác cần phải thông qua trao đổi
mua bán hàng hóa.
Phản ánh tính tất yếu theo chiều dài lịch sử sản xuất hàng hóa:
Trong lịch sử, sự tách biệt này do chế độ hữu về liệu sản xuất quy định.
hữu thể hiện với đặc điểm riêng biệt đối với việc sở hữu các liệu sản xuất.
trong chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của mỗi cá
nhân. Việc sử dụng hay sử dụng, tìm kiếm lợi ích từ liệu sản xuất thuộc chính
chủ sở hữu đó. Mang đến kết quả sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của họ,
nó trở thành hàng hóa. Việc trao đổi, mua bán diễn ra riêng lẻ, chưa có sự liên kết,
tổ chức sản xuất có quy mô.
Còn trong điều kiện của nền sản xuất hiện đại, sự tách biệt này còn do các hình
thức sở hữu khác nhau về liệu sản xuất sự tách rời giữa quyền sở hữu
quyền sử dụng đối với tư liệu sản xuất quy định.
Câu 2: Liên hệ thực tiễn
Theo quan điểm của Các Mác kinh tế hàng hóa không phải là một phương thức sản
xuất độc lập một hình thức tổ chức kinh tế tồn tại trong các phương thức
hội. Với phạm vi mức độ khác nhau, tuy cùng nền kinh tế hàng hóa nhưng
bản chất của xã hội quy định đặc điểm của kinh tế hàng hóa xã hội đó. Nhà nước ta
nhà nước hội chủ nghĩa nên vai trò quản của nhà nước định hướng nền
kinh tế hàng hóa theo chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Thực trạng kinh tế Việt Nam để chúng ta phải chuyển sang phát triển kinh tế hàng
hóa tất yếu khách quan. Sau kháng chiến thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm sản
xuất của các nước XHCN, đất nước ta bắt đầu xây dựng mô hình kế hoạch hóa tập
trung dựa trên hình thức sở hữu công cộng về liệu sản xuất. Với sự nỗ lực của
nhân dân ta cộng thêm sự giúp đỡ tận tình của các nước XHCN khác, hình kế
hoạch hóa đã phát huy được những tính ưu việt của nó. Từ một nền kinh tế hàng
hóa lạc hậu phân tán bằng công cụ kế hoạch Nhà nước đã tập trung vào tay
mình một lực lượng quan trong về đất đai, tài sản tiền bạc để ổn định phát
triển kinh tế.
Ngay từ tháng 8 năm 1979, Nhà nước ta đã chủ trương phát triển sản xuất hàng
hóa. Chỉ thị 1000 của ban Bí thư trung ương và quyết định số 25/CP của Chính phủ
năm 1981 đã để cho các hợp tác xã tự chủ trong sản xuất kinh doanh.
CÂU HỎI TỰ HỌC 3
Câu 1: Hai thuộc tính của hàng hóa là gì?
Hàng hoá có hai thuộc tính cơ bản là giá trị sử dụng và giá trị. Giữa hai thuộc tính
này có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau, nếu thiếu một trong hai thuộc tính thì
không phải là hàng hoá.
Gía trị sử dụng.
Giá trị sử dụng của hàng hóa công dụng của sản phẩm, thể thỏa mãn
nhu cầu nào đó của con người.
Nhu cầu đó thể nhu cầu vật chất hoặc tinh thần; thể nhu cầu cho
tiêu dùng cá nhân, có thể là nhu cầu cho sản xuất.
Gía trị sử dụng chỉ được thực hiện trong việc sử dụng hay tiêu dùng. Nền
sản xuất càng phát triển, khoa học – công nghệ càng hiện đại, càng giúp con
người phát hiện thêm các giá trị sử dụng của sản phẩm.
Gía trị sử dụng của hang hóa giá trị sử dụng nhằm đáp ứng yêu cầu của
người mua. Vì vậy, người sản xuất phải chú ý hoàn thiện giá trị sử dụng của
hàng hóa do mình sản xuất ra sao cho ngày càng đáp ứng nhu cầu khắt khe
và tinh tế của người mua.
Gía trị của hàng hóa
Để nhận biết được thuộc tính giá trị của hang hóa cần đặt trong mối quan hệ
trao đổi.
Sở dĩ các hang hóa trao đổi được với nhau vì chúng có một điểm chung: đều
sản phẩm của lao động; một lượng lao động bằng nhau đã hao phí để tạo
ra số lượng các giá trị sử dụng trong quan hệ trao đổi đó.
Vậy, giá tr lao động hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong
hàng hóa.
Gía trị của hàng hóa biểu thị mối quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất,
trao đổi hàng hóa phạm trù tính lịch sử. Khi nào giá trị sản xuất
và trao đổi hàng hóa, khi đó phạm trù giá trị hang hóa. Gía trị trao đổi
hình thức bên ngoài của giá trị; giá trị nội dung, sở của trao đổi. Khi
trao đổi người ta ngầm so sánh lao động hao phí ẩn giấu trong hang hóa với
nhau.
Câu 2: Liên hệ thực tiễn với hoạt động sản xuất một hàng hóa/ dịch vụ nào
đó?
Coca-Cola và Pepsi: Đây là hai thương hiệu nước ngọt nổi tiếng trên toàn thế giới.
Coca-Cola có thương hiệu mạnh hơn và là sản phẩm được ưa chuộng hơn trong
thời gian dài. Pepsi có giá cả thấp hơn và được xem là một sản phẩm thay thế cho
Coca-Cola. Tuy nhiên, Pepsi đã đưa ra các chiến lược quảng cáo và marketing để
thu hút khách hàng và cạnh tranh với Coca-Cola, đặc biệt trong thị trường nước
ngọt có ga. Các sản phẩm của cả hai thương hiệu đều có chất lượng tốt và đáp ứng
được nhu cầu của khách hàng, nhưng thương hiệu của Coca-Cola đã giúp cho sản
phẩm của họ trở thành một biểu tượng văn hóa và có thể bán với giá cao hơn.
Câu 3: Làm thế nào để nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa?
Về giá trị sử dụng
Sản xuất phải chú trọng đến chất lượng của hàng hóa, mang lại giá trị sử dụng tốt,
đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, đem đến cho khách hàng những trải nghiệm
tốt nhất khi sử dụng hàng hóa. Giá trị sử dụng phải làm cho hàng hóa tốt, bền, đẹp,
có nhiều công dụng, tính năng. Hiện nay, việc sản xuất hàng hóa ở Việt Nam về cơ
bản đã đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn chưa đáp
ứng những nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. vậy, để sản xuất hàng
hóa ngày càng nâng cao giá trị sử dụng thì chúng ta cần chú trọng đến những vấn
đề sau:
Nghiên cứu thị trường trong ngoài nước. Tìm hiểu về những xu thế sản
xuất hàng hóa trên thị trường trong và ngoài nước.
Tiếp tục nâng cao tay nghề, chủ động, sáng tạo linh hoạt trong việc quản
lý, đào tạo nguồn nhân lực cho người lao động.
Đổi mới trao đổi công nghệ, sử dụng những công nghệ tiên tiến để tăng năng
suất sản xuất đem đến những hàng hóa giá trị sử dụng cao, đáp ứng
những nhu cầu của khách hàng.
Về giá trị trao đổi của hàng hóa
Để thực hiện được giá trị trao đổi của hàng hóa hay nói cách khác muốn bán
được hàng hóa sản xuất ra thì cần phải làm cho giá trị biệt của hàng hóa thấp
hơn giá trị xã hội mới có lãi. Do đó để làm được đều này cần thực hiện những biện
pháp như sau:
Tiến hành đổi mới kỹ thuật công nghệ, sử dụng những công nghệ tiến tiến
vào quá trình sản xuất làm tăng năng suất sản xuất đem đến những chất
lượng hàng hóa cao, đápng nhu cầu của người tiêu dùng, đồng thời tối đa
hóa chi phí sản xuất làm tăng giá trị trao đổi hàng hóa.
Hợp lý hóa sản xuất, tiết kiệm các nguồn lực trong sản xuất và kinh doanh.
Tăng năng suất lao động
Tóm lại, để đáp ứng nhu cầu đa dạng ngày càng tăng của người tiêu dùng, thì
việc sản xuất hàng hóa cần phải coi trọng cả hai thuộc tính của hàng hóa để không
ngừng cải tiến chất lượng, mẫu mã, nâng cao giá trị sử dụng và đem đến cho khách
hàng giá cả sản phẩm phải chăng, hợp lý thúc đẩy quá trình trao đổi hàng hóa trên
thị trường. Trong nền kinh tế hàng hóa hiện nay, kinh tế hàng hóa không thể thiếu
được góp phần thúc đẩy kinh tế, giải quyết việc làm sự phân công lao
động trong xã hội.
| 1/14

Preview text:

Họ và Tên: Nguyễn Nhật Anh
Mã sinh viên: 2251040005
Lớp: Truyền thông Đa phương tiện K42 CÂU HỎI ÔN TẬP 1
Câu 1: Phân tích sự hình thành và phát triển của kinh tế chính trị Mác - Lênin?
Trong dòng chảy tư tưởng kinh tế của nhân loại kể từ thời kỳ cổ đại cho tới ngày
nay, do đặc thù về trình độ phát triển ứng với mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi nền sản
xuất xã hội đã hình thành nhiều tư tưởng, trường phái lý luận về kinh tế khác nhau.
Quá trình phát triển của khoa học kinh tế chính trị được khái quát qua hai thời kỳ lịch sử như sau:
-Thứ nhất, từ thời cổ đại đến thế kỷ XVIII.
-Thứ hai, từ sau thế kỷ XVIII đến nay.
Trong thời kỳ cổ đại, trung đại (từ thế kỷ XV về trước), trình độ phát triển của các
nền sản xuất còn lạc hậu, chưa có đầy đủ những tiền đề cần thiết cho sự hình thành các lý luận
Kinh tế chính trị cổ điển Anh được hình thành và phát triển từ cuối thế kỷ XVIII
đến nửa đầu thế kỷ XIX, mở đầu là các quan điểm lý luận của William Petty, tiếp
đến là A. Smith và kết thúc ở hệ thống lý luận có nhiều giá trị khoa học của David
Ricardo. Kinh tế chính trị cổ điển Anh nghiên cứu các quan hệ kinh tế trong quá
trình tái sản xuất, trình bày một cách hệ thống các phạm trù kinh tế chính trị như
phân công lao động, hàng hóa, giá trị, tiền tệ, giá cả, giá cả thị trường, tiền lương,
lợi nhuận, lợi tức, địa tô, tư bản... để rút ra các quy luật kinh tế. Lý luận kinh tế
chính trị cổ điển Anh đã rút ra kết luận giá trị là do hao phí lao động tạo ra, giá trị
khác với của cải... Đó là những đóng góp khoa học rất lớn của các đại biểu kinh tế
chính trị cổ điển Anh vào lĩnh vực lý luận kinh tế chính trị của nhân loại, thể hiện
sự phát triển vượt bậc so với hệ thống lý luận của chủ nghĩa trọng nông. Như vậy,
kinh tế chính trị là môn khoa học kinh tế nghiên cứu các quan hệ kinh tế để tìm ra
các quy luật chi phối sự vận động của các hiện tượng và quá trình hoạt động kinh
tế của con người tương ứng với những trình độ phát triển nhất định của nền sản
xuất xã hội.Kể từ sau những công trình nghiên cứu của A. Smith, lý luận kinh tế
chính trị chia thành hai dòng chính: - Dòng lý thuyết khai thác các luận điểm của
A. Smith khái quát dựa trên các quan sát mang tính tâm lý, hành vi để xây dựng
thành các lý thuyết kinh tế mới; không tiếp tục đi sâu vào phân tích, luận giải các
quan hệ xã hội trong nền sản xuất. Từ đó, tạo cơ sở cho việc xây dựng các lý
thuyết kinh tế về hành vi của người tiêu dùng, người sản xuất hoặc các đại lượng
lớn của nền kinh tế. Dòng lý thuyết này không ngừng được bổ sung và phát triển
bởi rất nhiều nhà kinh tế và nhiều trường phái lý thuyết ở các quốc gia châu Âu,
Bắc Mỹ cho đến ngày nay. - Dòng lý thuyết thể hiện từ D. Ricardo, kế thừa những
giá trị trong lý luận khoa học của A. Smith, tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh nội dung
luận giải về các phạm trù kinh tế chính trị, đi sâu phân tích các quan hệ xã hội
trong nền sản xuất, tạo ra những giá trị lý luận khoa học chuẩn xác. C. Mác (1818 -
1883) đã kế thừa trực tiếp những thành quả lý luận khoa học đó của D. Ricardo để
phát triển thành lý luận kinh tế chính trị mang tên ông về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
Kinh tế chính trị, một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác. Lý luận kinh
tế chính trị của C. Mác và Ph. Ăngghen được thể hiện tập trung và cô đọng nhất
trong bộ Tư bản. Trong bộ Tư bản, C. Mác trình bày một cách khoa học và chỉnh
thể các phạm trù cơ bản của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa như: hàng hóa,
tiền tệ, tư bản, giá trị thặng dư, tích lũy, tuần hoàn, chu chuyển, lợi nhuận, lợi tức,
địa tô, cạnh tranh..., rút ra các quy luật kinh tế cơ bản cũng như các quan hệ xã hội
giữa các giai cấp trong nền kinh tế thị trường dưới bối cảnh nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa. C. Mác đã tạo ra bước nhảy vọt về lý luận khoa học so với D. Ricardo
khi phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, tạo tiền đề cho việc
luận giải một cách khoa học về lý luận giá trị thặng dư. Hệ thống lý luận kinh tế
chính trị của C. Mác nêu trên được trình bày dưới hình thức các học thuyết lớn như
học thuyết giá trị, học thuyết giá trị thặng dư, học thuyết tích lũy, học thuyết về lợi
nhuận, học thuyết về địa tô... Với học thuyết giá trị thặng dư nói riêng và bộ Tư
bản nói chung, C. Mác đã xây dựng cơ sở khoa học, cách mạng cho sự hình thành
chủ nghĩa Mác như một chỉnh thể làm nền tảng tư tưởng cho giai cấp công nhân và
nhân dân lao động. Học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác đồng thời cũng là cơ sở
khoa học luận chứng về vai trò lịch sử của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Sau khi C. Mác và Ph. Ăngghen qua đời, V.I. Lênin tiếp tục kế thừa, bổ sung, phát
triển lý luận kinh tế chính trị theo phương pháp luận của C. Mác và có nhiều đóng
góp khoa học rất lớn; trong đó, nổi bật là kết quả nghiên cứu chỉ ra những đặc điểm
kinh tế của độc quyền, độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản giai đoạn cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, những vấn đề kinh tế chính trị của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội... Với ý nghĩa đó, lý thuyết kinh tế chính trị này được định danh
với tên gọi kinh tế chính trị Mác - Lênin.
Công trình nghiên cứu đó được xếp vào nhánh kinh tế chính trị mác xít (maxist -
những người theo chủ nghĩa Mác). Bên cạnh đó, cũng trong giai đoạn từ thế kỷ XV
đến thế kỷ XIX, còn có một số lý thuyết kinh tế chính trị của các nhà tư tưởng xã
hội chủ nghĩa không tưởng (thế kỷ XV - XIX) và kinh tế chính trị tiểu tư sản (cuối
thế kỷ XIX). Các lý thuyết này hướng vào phê phán những khuyết tật của chủ
nghĩa tư bản, song nhìn chung các quan điểm dựa trên cơ sở tình cảm cá nhân, chịu
ảnh hưởng của chủ nghĩa nhân đạo, không chỉ ra được các quy luật kinh tế cơ bản
của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và do đó không luận chứng được vai
trò lịch sử của chủ nghĩa tư bản trong quá trình phát triển của nhân loại. Như vậy,
kinh tế chính trị Mác - Lênin là một trong những dòng lý thuyết kinh tế chính trị
nằm trong dòng chảy tư tưởng kinh tế phát triển liên tục trên thế giới, được hình
thành,xây dựng bởi C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin, dựa trên cơ sở kế thừa và
phát triển những giá trị khoa học kinh tế chính trị của nhân loại trước đó, trực tiếp
là những giá trị khoa học của kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh. Kinh tế chính trị
Mác - Lênin có quá trình phát triển không ngừng kể từ giữa thế kỷ XIX đến nay.
Kinh tế chính trị Mác - Lênin là một môn khoa học trong hệ thống các môn khoa
học kinh tế của nhân loại
Câu 2: Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác- lênin? Chức năng của
ktct ML với tư cách là một môn khoa học

2.1 Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin
Với tư cách là một môn khoa học, kinh tế chính trị Mác - Lênin có đối tượng
nghiên cứu riêng. Trở lại lịch sử kinh tế chính trị, trước C. Mác, ở mỗi thời kỳ phát
triển, có các hướng xác định tìm đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị tương
ứng. Chủ nghĩa trọng thương phát hiện đối tượng nghiên cứu trong lĩnh vực lưu
thông; chủ nghĩa trọng nông chuyển đối tượng nghiên cứu trong các quan hệ kinh
tế ở lĩnh vực nông nghiệp; kinh tế chính trị sản xuất và lưu thông. Điều này thể
hiện sự phát triển trong lý luận kinh tế chính trị của C. Mác so với các lý luận kinh
tế chính trị của các nhà tư tưởng trước C. Mác. Luận giải về khoa học kinh tế chính
trị, C. Mác và Ph. Ăngghen chỉ ra: Kinh tế chính trị có thể được hiểu theo nghĩa
hẹp hoặc theo nghĩa rộng. Theo nghĩa hẹp, kinh tế chính trị là khoa học kinh tế
nghiên cứu quan hệ sản xuất và trao đổi trong một phương thức sản xuất nhất định.
Cách tiếp cận này được C.Mác thể hiện rõ nhất trong bộ Tư bản. Cụ thể, C. Mác
cho rằng, đối tượng nghiên cứu của bộ Tư bản là các quan hệ sản xuất và trao đổi
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và mục đích cuối cùng của bộ Tư bản
là tìm ra quy luật vận động kinh tế của xã hội ấy. Theo nghĩa rộng, Ph. Ăngghen
cho rằng: “Kinh tế chính trị, theo nghĩa rộng nhất, là khoa học về những quy luật
chi phối sự sản xuất và trao đổi những tư liệu sinh hoạt vật chất trong xã hội loài
người... Những điều kiện trong đó người ta sản xuất sản phẩm và trao đổi chúng,
đều thay đổi tuỳ từng nước, và trong mỗi nước lại thay đổi tuỳ từng thế hệ. Bởi
vậy, không thể có cùng một môn kinh tế chính trị duy nhất cho tất cả mọi nước và
tất cả mọi thời đại lịch sử...; môn kinh tế chính trị, về thực chất là một môn khoa
học có tính chất lịch sử...; nó nghiên cứu trước hết là những quy luật đặc thù của
từng giai đoạn phát triển của sản xuất và của trao đổi, và chỉ sau khi nghiên cứu
như thế xong xuôi rồi nó mới có thể xác định ra một vài quy luật hoàn toàn có tính
chất chung, thích dụng, nói chung cho sản xuất và trao đổi” .
Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị không phải là quan hệ thuộc một lĩnh
vực, một khía cạnh của nền sản xuất xã hội mà là chỉnh thể thống nhất của các
quan hệ sản xuất và trao đổi. Đó là hệ thống các quan hệ giữa người với người
trong sản xuất và trao đổi, các quan hệ trong mỗi khâu và các quan hệ giữa các
khâu của quá trình tái sản xuất xã hội với tư cách là sự thống nhất biện chứng của
sản xuất và thị trường.Kinh tế chính trị không nghiên cứu biểu hiện kỹ thuật của sự
sản xuất và trao đổi mà là hệ thống các quan hệ xã hội của sản xuất và trao đổi.
Các quan hệ của sản xuất và trao đổi chịu sự tác động biện chứng không chỉ bởi
trình độ của lực lượng sản xuất mà còn cả kiến trúc thượng tầng tương ứng. Do
vậy, khi xác định đối tượng nghiên cứu, kinh tế chính trị Mác - Lênin tất yếu đặt
các quan hệ xã hội của sản xuất và trao đổi trong mối liên hệ biện chứng với trình
độ của lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng tương ứng của phương thức sản
xuất. Kinh tế chính trị không nghiên cứu yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất,
cũng không nghiên cứu biểu hiện cụ thể của kiến trúc thượng tầng mà đặt các quan
hệ của sản xuất và trao đổi trong mối liên hệ biện chứng với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng tương ứng. Khái quát lại, đối tượng
nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin là các quan hệ xã hội của sản xuất và
trao đổi mà các quan hệ này được đặt trong sự liên hệ biện chứng với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng tương ứng của phương thức sản xuất nhất định
Quan hệ xã hội của sản xuất và trao đổi biểu hiện ở những bộ phận như: quan hệ sở
hữu; quan hệ quản lý; quan hệ phân phối, phân bổ nguồn lực; quan hệ xã hội trong
lưu thông; quan hệ xã hội trong tiêu dùng; quan hệ xã hội trong quản trị phát triển
quốc gia; quản trị phát triển địa phương; quan hệ giữa sản xuất và lưu thông; giữa
sản xuất và thị trường...Khi nhấn mạnh việc đặt các quan hệ sản xuất và trao đổi
trong mối liên hệ với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng
tầng tương ứng, kinh tế chính trị
Mác - Lênin không xem nhẹ các quan hệ kinh tế khách quan giữa các quá trình
kinh tế trong một khâu và giữa các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội với tư
cách là một chỉnh thể biện chứng của sản xuất, lưu thông, phân phối, tiêu dùng.
Trước đây, trong các công trình nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin thuộc
hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, hầu hết các nhà nghiên cứu chỉ nhấn mạnh đối
tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin là mặt quan hệ sản xuất, mà
quan hệ sản xuất thì lại chỉ quy về quan hệ sở hữu, quan hệ tổ chức quản lý, quan
hệ phân phối thu nhập. Cách hiểu này phù hợp với điều kiện nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung, không sát với quan điểm của các nhà kinh điển của kinh tế chính trị
Mác - Lênin nêu trên và không thực sự phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế thị
trường. Các nhà kinh điển khẳng định, kinh tế chính trị Mác - Lênin nghiên cứu
quan hệ xã hội của sản xuất và trao đổi nghĩa là mặt xã hội của sự thống nhất biện
chứng của cả sản xuất, lưu thông, phân phối, tiêu dùng. Đây là quan điểm khoa học
và phản ánh đúng thực tiễn vận động của nền sản xuất xã hội có sự vận hành của
các quy luật thị trường 2.2 Chức năng
Công trình nghiên cứu sẽ làm thay đổi bản chất, quan hệ đó không còn là quan hệ
lợi ích kinh tế.Ngày nay, với sự phát triển hết sức phức tạp của các quan hệ kinh tế,
ngoài các phương pháp nghiên cứu đặc thù, kinh tế chính trị Mác - Lênin còn yêu
cầu sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu liên ngành, các phương pháp nghiên
cứu hiện đại, nghiên cứu dựa trên bằng chứng, tổng kết thực tiễn để làm cho các
kết quả nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin gắn bó mật thiết với thực tiễn.
2.2.1 Chức năng nhận thức
Kinh tế chính trị Mác - Lênin là môn khoa học kinh tế cung cấp hệ thống tri thức lý
luận về sự vận động của các quan hệ giữa người với người trong sản xuất và trao
đổi; về sự liên hệ tác động biện chứng giữa các quan hệ giữa người với người trong
sản xuất và trao đổi với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng tương ứng
trong những trình độ phát triển khác nhau của nền sản xuất xã hội. Kinh tế chính trị
Mác - Lênin cung cấp hệ thống tri thức mở về những quy luật chi phối sự phát
triển của sản xuất và trao đổi gắn với phương thức sản xuất, về lịch sử phát triển
các quan hệ của sản xuất và trao đổi của nhân loại nói chung, về nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nói riêng. Kinh tế chính trị
Mác - Lênin cung cấp những phạm trù kinh tế cơ bản được khái quát, phản ánh từ
hiện tượng kinh tế mang tính biểu hiện trên bề mặt xã hội. Trên cơ sở hệ thống
những tri thức khoa học như vậy, kinh tế chính trị Mác - Lênin góp phần làm
phong phú tri thức, tư duy lý luận của người lao động và toàn xã hội, sự hiểu biết
của mỗi á nhân về các quan hệ kinh tế, những triển vọng, xu hướng phát triển kinh
tế - xã hội vốn vận động phức tạp, đan xen, tưởng như rất hỗn độn trên bề mặt xã
hội nhưng thực chất chúng đều tuân thủ các quy luật nhất định. Từ đó, nhận thức
được ở tầng sâu hơn, xuyên qua các quan hệ phức tạp như vậy, nhận thức được các
quy luật và tính quy luật.
Trên cơ sở nhận thức được mở rộng, phong phú, và ngày càng sâu sắc do được tiếp
nhận những tri thức là kết quả nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin, người
lao động cũng như những nhà hoạch định chính sách hình thành được năng lực, kỹ
năng vận dụng các quy luật kinh tế vào thực tiễn hoạt động lao động cũng như
quản trị quốc gia. Việc vận dụng đúng các quy luật kinh tế khách quan thông qua
điều chỉnh hành vi cá nhân hoặc các chính sách kinh tế sẽ góp phần thúc đẩy kinh
tế - xã hội phát triển theo hướng tiến bộ. Kinh tế chính trị Mác - Lênin, theo nghĩa
đó, thực hiện chức năng cải tạo thực tiễn, thúc đẩy văn minh của xã hội. Kinh tế
chính trị Mác - Lênin tham gia đắc lực vào sự hình thành phương pháp luận, cơ sở
khoa học để giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích trong quá trình phát triển, tạo
động lực thúc đẩy từng cá nhân và toàn xã hội sáng tạo, từ đó không ngừng cải
thiện đời sống vật chất, tinh thần của toàn xã hội. Đối với sinh viên nói riêng, kinh
tế chính trị Mác - Lênin là cơ sở khoa học lý luận để nhận diện và định vị vai trò,
trách nhiệm sáng tạo cao cả của mình. Từ đó xây dựng tư duy và tầm nhìn, kỹ năng
thực hiện các hoạt động kinh tế - xã hội trên mọi lĩnh vực, ngành, nghề của đời
sống xã hội phù hợp với quy luật khách quan. Thông qua đó đóng góp xứng đáng
vào sự phát triển chung của xã hội
2.2.2 Chức năng tư tưởng
Kinh tế chính trị Mác - Lênin góp phần xây dựng nền tảng tư tưởng mới cho những
người lao động tiến bộ, biết quý trọng thành quả lao động của bản thân và của xã
hội; yêu chuộng tự do, hòa bình, củng cố niềm tin cho sự phấn đấu vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Kinh tế chính trị Mác - Lênin góp
phần xây dựng lý tưởng khoa học cho những chủ thể có mong muốn xây dựng chế
độ xã hội tốt đẹp, hướng tới giải phóng con người, xóa bỏ dần những áp bức, bất
công giữa con người với con người.
Kinh tế chính trị Mác - Lênin thể hiện chức năng phương pháp luận, nền tảng lý
luận khoa học cho việc nhận diện sâu hơn nội hàm khoa học của các khái niệm,
phạm trù của các khoa học kinh tế chuyên ngành trong bối cảnh ngày nay. Ví dụ,
lý thuyết tiền tệ của kinh tế học cũng nghiên cứu về tiền, chỉ ra các chức năng của
tiền tệ. Tuy nhiên, để hiểu được cội nguồn bản chất của tiền trong tiến trình phát
triển của sản xuất và trao đổi, mối quan hệ giữa tiền và thế giới hàng hóa phản ánh
bản chất nào và vì sao tiền tệ lại có các chức năng khách quan ấy mà không phải
do tâm lý chủ quan thừa nhận, vì sao tiền có thể mua được các loại hàng hóa... thì
đòi hỏi phải dựa trên nền tảng lý luận của kinh tế chính trị Mác - Lênin. Do vậy,
chức năng phương pháp luận cần được kết hợp khi nghiên cứu các khoa học kinh tế chuyên ngành
Câu 3: Nêu ý nghĩa của việc nghiên cứu kinh tế chính trị Mác- Lênin trong
quá trình lao động và quản trị quốc gia

Học tập kinh tế chính trị, hiểu được sự thay đổi của các phương thức sản xuất, các
hình thái kinh tế – xã hội là tất yếu khách quan, là quy luật của lịch sử, giúp người
học có niềm tin sâu sắc vào con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng Cộng sản Việt
Nam và nhân dân ta đã lựa chọn là phù hợp với quy luật khách quan, đi tới mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh trên đất nước
Trong nền kinh tế thị trường, nhà nước thực hiện quản trị phát triển nền kinh tế
thông qua việc tạo lập môi trường kinh tế tốt nhất cho các chủ thể kinh tế phát huy
sức sáng tạo của họ. Việc này đòi hỏi mỗi cá nhân có trách nhiệm trong bộ máy
quản lý nhà nước cần phải nhận thức được trách nhiệm của mình là thúc đẩy phát
triển, không gây cản trở sự phát triển của nền kinh tế thị trường bởi những hành
động tiêu cực như tạo ra các rào cản đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, làm
kìm hãm động lực sáng tạo của các chủ thể sản xuất kinh doanh. Thông qua nghiên
cứu kinh tế chính trị Mác Lênin, những nhà hoạch định chính sách được mở rộng
nhận thức, làm phong phú và sâu sắc nhận thức từ đó có khả năng vận dụng các
quy luật kinh tế vào trong việc quản trị quốc gia của mình, bằng các chính sách
kinh tế góp phần thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển theo hướng tiến bộ.
Quy luật giá trị:
Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá: Là sự phân phối lại các yếu tố tư
liệu sån xuất và sức lao động từ ngành sản xuất này sang ngành sản xuất
khác theo hướng từ nơi có ít hoặc không lợi nhuận sang nơi lãi nhiều. Từ
một nền kinh tế lúa nước lạc hậu, nền kinh tế Việt Nam đã chuyển dịch tích
cực theo hướng công nghiệp hoáhiện đại hoá, chuyển lao động dư thừa, vốn
đầu tư phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ
nhờ đó đạt được nhiều thành tựu quan trọng như kinh tế liên tục tăng trưởng,
tỷ lệ thất nghiệp giảm và kiểm soát lạm phát trong giới hạn cho phép....Đồng
thời nâng cao chất lượng và quy mô cơ sở hạ tầng giao thông, khuyến khích
xuất nhập khẩu hàng hoá để tạo điều kiện cho hàng hoá được lưu thông từ
nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao, để hàng hoá được phân phối hợp lý giữa các vùng. 
Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất nhằm tăng năng suất lao
động: Xây dựng, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, thử nghiệm cơ chế thúc đẩy
quá trình chuyển đổi số kinh tế số phát triển các mô hình kinh tế mới khởi nghiệp sáng tạo 
Phân hoá những người sản xuất thành những người nghèo, người giàu một
cách tự nhiên: Để hạn chế những tiêu cực xã hội khi phân hoá giàu nghèo
ngày càng trở nên sâu sắc, cần có những chính sách hỗ trợ về vốn sản xuất
và xúc tiến cho các chủ thể sản xuất yếu thế hơn có cơ hội phát triển sản
xuất. Bên cạnh đó cần có những văn bản pháp luật xử lý những chủ thể chạy
theo lợi ích cá nhân, đầu cơ, gian lận làm tăng thêm sự phân hoá sản xuất một cách tiêu cực. 
Quy luật cung-cầu: Quy luật cung cầu là quy luật kinh tế phản ánh mối quan
hệ giữa cung và cầu hàng hóa trên thị trường. Quy luật này đòi hỏi cung -
cầu phải có sự thống nhất, nếu không có sự thống nhất giữa chúng thì sẽ có
các nhân tố xuất hiện điều chỉnh chúng. Như vậy trong quản trị quốc gia,
Nhà nước vận dụng các chính sách kinh tế như một bàn tay vô hình để tác
động lên nền kinh tế thị trường, thống nhất hai bên cung - cầu. Ngoài bàn tay
vô hình Nhà nước còn có thể trực tiếp tác động vào mộtngành, nghề đang
phát triển, phát triển trọng yếu trong nền kinh tế nhưng chưa thực sự được
các thành phần kinh tế chú trọng và đầu tư do hạn chế nguồn lực. Vì thế việc
nhà nước phát hiện và can thiệp vào là không thể tránh khỏi.
->Việc độc quyền Nhà nước trong các ngành kinh tế trọng yếu và phát triển
giúp ổn định cung - cầu tránh lạm phát và giảm cung quá mức của các thành
phần kinh tế độc quyền.Ngoài độc quyền Nhà nước, Nhà nước còn can thiệp
vào các thành phần kinh tế như các công ty có vốn nhà nước nhằm tạo lòng
tin cho người dân và ổn định thành phần kinh tế này. 
Quy luật lưu thông tiền tệ: Việc vận dụng quy luật lưu thông tiền tệ vào
quản lý nhà nước là tất yếu, đây cũng là một trong những yêu cầu độc quyền
có và chỉ có ở nhà nước đó là phát hành và cho phép lưu thông tiền tệ. Phát
hành tiền là một trong những chức năng kinh tế cơ bản của nhà nước, việc
điều chỉnh khối lượng tiền tệ trong một khoảng thời gian nhất định là việc tất
yếu để không gây lạm phát và các hoạt động kích động của thế lực thù địch;
hạn chế các chính sách thao túng tiền tệ trên thế giới gây bất ổn chính trị thế
giới.Cho phép lưu thông tiền tệ cũng là một trong những chính sách mà Nhà
nước dùng để quản lý khối lượng tiền tệ lưu thông trong nền kinh tế, giảm
thiểu lạm phát khi có quả nhiều loại tiền tệ được lưu thông cùng một lúc
trong một khu vực thì việc quản lý vòng tiền trở nên khó khăn và không thể
điều chỉnh khi các loại tiền tệ khác tăng hoặc giảm không thể khống chế. 
Quy luật cạnh tranh: Để tránh việc cạnh tranh không lành mạnh dẫn đến lãng
phí nguồn lực xã hội, tồn hại môi trường kinh doanh và gây tổn hại đến phúc
lợi xã hội, nhà nước thực tế luôn can thiệp vào các thành phần kinh tế một
cách bài bản thông qua các biện pháp như duy trì một mức độ bảo hộ cần
thiết khi hàng hóa của các nhà sản xuất trong nước đang có sức cạnh tranh
yếu hoặc bị các hãng sản xuất nước ngoài cạnh tranh mạnh hơn và có nguy
cơ xâm chiếm thị phần. Bên cạnh đó, nhà nước cũng sử dụng các công cụ
kinh tế để khắc phục các khuyết tật của nền kinh tế thị trường, làm cho nền
kinh tế thị trường hoạt động hiệu quả. Nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn
những rủi ro khủng hoảng có thể diễn ra cục bộ hay trên phạm vi tổng thể và
đặc biệt rất khó để dự báo chính xác thời điểm xảy ra. Vì vậy, nhà nước
đóng vai trò quan trọng trong việc khôi phục lại nền kinh tế thông qua các
công cụ như chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ, điều chỉnh tỷ giá hối
đoái và các gói hỗ trợ nhằm hồi phục lại khả năng sản xuất và kích thích
tổng cầu hàng hoá. Bên cạnh đó, nền kinh tế thị trường không thể tự khắc
phục xu hướng cạn kiệt tài nguyên không thể tái tạo, suy thoái môi trường tự
nhiên, môi trường xã hội. Do đó cần có các tác động từ nhà nước như hoàn
chỉnh hệ thống văn bản pháp luật bảo vệ môi trường, ban hành các chính
sách về phát triển kinh tế phải gắn với bảo vệ môi trường, nghiêm chỉnh thi
hành Luật bảo vệ môi trường; rà soát và ban hành đồng bộ các văn bản dưới
luật, bảo đảm nâng cao hiệu lực của luật; ban hành các chính sách về thuế,
môi trường, ban hành các chính sách về phát triển kinh tế phải gắn với bảo
vệ môi trường, nghiêm chỉnh thi hành Luật bảo vệ môi trường; rà soát và
ban hành đồng bộ các văn bản dưới luật, bảo đảm nâng cao hiệu lực của
luật; ban hành các chính sách về thuế, tín dụng nhằm khuyến khích áp dụng
các công nghệ sạch; thể chế hóa việc đóng góp chi phí bảo vệ môi trường;
thể chế hóa việc phối hợp giải quyết các vấn đề phát triển kinh tế với bảo vệ
môi trường: trong các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội phải có các chỉ
tiêu, biện pháp bảo vệ môi trường; tính toán hiệu quả kinh tế, so sánh các
phương án phải tính toán cả chi phí về bảo vệ môi trường. Thêm nữa, nền
kinh tế thị trường không tự nó khắc phục được sự phân hoá sâu sắc trong xã
hội. Nhà nước từ đó đưa ra những chính sách an sinh xã hội để chăm sóc cho
những người yếu thế hơn được đảm bảo những nhu cầu cơ bản trong cuộc
sống thông qua các diện gia đình chính sách, hộ nghèo, cận nghèo, hỗ trợ
cho vay với lãi suất thấp cho những người khó khăn để xây nhà ở, đảm bảo
điều kiện vệ sinh nước sạch, hỗ trợ học phí học bổng, các gói vay vốn phát
triển sản xuất, kinh doanh,...
CÂU HỎI ÔN TẬP SỐ 2
Câu 1: Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa?
Sản xuất hàng hóa ra đời tồn tại dựa trên hai điều kiện. Gắn với thực tế khai thác
các nhu cầu và tìm kiếm lợi ích trên thị trường. Đây là hai điều kiện cần và đủ của
sản xuất hàng hóa. Thiếu một trong hai điều kiện đó sẽ không có sản xuất hàng
hóa. Cũng chính là tính tất yếu gắn với sự ra đời và phát triển của sản xuất hàng hóa đến hiện tại. 
Có sự phân công lao động xã hội:
Phân công lao động xã hội là sự phân công trong tính chất nghề nghiệp, năng lực
chuyên môn. Từ đó các lao động nắm giữ chức năng, thực hiện các nhóm công
việc cụ thể. Mang đến sự chuyên môn hóa sản xuất, mang đến các ngành và lĩnh
vực sản xuất riêng biệt. Phân chia lao động xã hội vào các ngành, các vùng, các
lĩnh vực sản xuất khác nhau. Từ đó định hướng đào tạo lao động có trình độ, tay
nghề, đáp ứng điều kiện công việc.
Các điều kiện thúc đẩy sản xuất hàng hóa:
Phân công lao động xã hội làm cho việc trao đổi sản phẩm trở thành tất yếu. Hàng
hóa được sản xuất với quy mô lớn, số lượng nhiều. Việc trao đổi, tiêu thụ phải được đảm bảo.
Bởi vì, khi có phân công lao động xã hội, mỗi người, mỗi cơ sở chỉ sản xuất một
hoặc một vài thứ sản phẩm nhất định. Thực hiện thế mạnh trong sản xuất, nâng cao
năng suất với các chi phí vốn ổn định nhất. Trong khi nhu cầu của cuộc sống đòi
hỏi họ phải có nhiều loại sản phẩm khác nhau. Do đó, họ cần đến sản phẩm của nhau, trao đổi với nhau.
Điều đó giúp lao động được đào tạo trong chuyên môn công việc. Nhưng vẫn đảm
bảo tìm kiếm các lợi nhuận trong trao đổi, mua bán. Cũng như được đáp ứng các
nhu cầu khác nhau thông qua sản phẩm trên thị trường.
Mặt khác, nhờ có phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa sản xuất làm cho
năng suất lao động tăng lên. Các định hướng trong cải tiến sản xuất hay nâng cao
năng suất lao động được nghiên cứu phát triển. Sản phẩm thặng dư ngày càng
nhiều và trao đổi sản phẩm ngày càng phổ biến. Các sản phẩm tương tự mang đến
nhiều sự lựa chọn hơn cho nhu cầu của con người. Trong các tiêu chí về giá cả,
chất lượng, thương hiệu,… Như vậy,
Phân công lao động xã hội là cơ sở, là tiền đề của sản xuất hàng hóa. Phải có lao
động với chuyên môn, đảm nhận các khâu công việc nhất định. Vừa tạo ra việc làm
cho người dân, vừa thúc đẩy phát triển kinh tế. Phân công lao động xã hội ngày
càng phát triển, thì sản xuất và trao đổi hàng hóa càng mở rộng, đa dạng hơn.
Trong định hướng tiếp cận các nhu cầu thực tế của người tiêu dùng trong khả năng của đơn vị sản xuất.
Tuy nhiên, nếu chỉ có phân công lao động xã hội thôi thì chưa đủ. Khi hàng hóa,
đáp ứng các nhu cầu, tìm kiếm lợi ích kinh tế tách biệt cho các chủ thể cũng được
quan tâm. Để sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại còn phải có một điều kiện thứ hai sau đây:
Thứ hai: Có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất:
Những người sản xuất trở thành những chủ thể sản xuất, độc lập nhất định. Họ tìm
kiếm và khai thác tốt nhất các lợi ích cho mình. Do đó phải cố gắng tìm kiếm được
lợi nhuận cao từ hoạt động mua bán diễn ra trên thị trường. Từ đó sản phẩm làm ra
thuộc quyền sở hữu hoặc do họ chi phối một cách chủ động. Do vậy, người này
muốn tiêu dùng sản phẩm lao động của người khác cần phải thông qua trao đổi mua bán hàng hóa.
Phản ánh tính tất yếu theo chiều dài lịch sử sản xuất hàng hóa:
Trong lịch sử, sự tách biệt này do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất quy định. Tư
hữu thể hiện với đặc điểm riêng biệt đối với việc sở hữu các tư liệu sản xuất. Vì
trong chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của mỗi cá
nhân. Việc sử dụng hay sử dụng, tìm kiếm lợi ích từ tư liệu sản xuất thuộc chính
chủ sở hữu đó. Mang đến kết quả là sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của họ,
nó trở thành hàng hóa. Việc trao đổi, mua bán diễn ra riêng lẻ, chưa có sự liên kết,
tổ chức sản xuất có quy mô.
Còn trong điều kiện của nền sản xuất hiện đại, sự tách biệt này còn do các hình
thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sự tách rời giữa quyền sở hữu và
quyền sử dụng đối với tư liệu sản xuất quy định.
Câu 2: Liên hệ thực tiễn
Theo quan điểm của Các Mác kinh tế hàng hóa không phải là một phương thức sản
xuất độc lập mà là một hình thức tổ chức kinh tế tồn tại trong các phương thức xã
hội. Với phạm vi và mức độ khác nhau, tuy cùng là nền kinh tế hàng hóa nhưng
bản chất của xã hội quy định đặc điểm của kinh tế hàng hóa xã hội đó. Nhà nước ta
là nhà nước xã hội chủ nghĩa nên vai trò quản lý của nhà nước định hướng nền
kinh tế hàng hóa theo chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Thực trạng kinh tế Việt Nam để chúng ta phải chuyển sang phát triển kinh tế hàng
hóa là tất yếu khách quan. Sau kháng chiến thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm sản
xuất của các nước XHCN, đất nước ta bắt đầu xây dựng mô hình kế hoạch hóa tập
trung dựa trên hình thức sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Với sự nỗ lực của
nhân dân ta cộng thêm sự giúp đỡ tận tình của các nước XHCN khác, mô hình kế
hoạch hóa đã phát huy được những tính ưu việt của nó. Từ một nền kinh tế hàng
hóa lạc hậu và phân tán bằng công cụ kế hoạch Nhà nước đã tập trung vào tay
mình một lực lượng quan trong về đất đai, tài sản và tiền bạc để ổn định và phát triển kinh tế.
Ngay từ tháng 8 năm 1979, Nhà nước ta đã chủ trương phát triển sản xuất hàng
hóa. Chỉ thị 1000 của ban Bí thư trung ương và quyết định số 25/CP của Chính phủ
năm 1981 đã để cho các hợp tác xã tự chủ trong sản xuất kinh doanh. CÂU HỎI TỰ HỌC 3
Câu 1: Hai thuộc tính của hàng hóa là gì?
Hàng hoá có hai thuộc tính cơ bản là giá trị sử dụng và giá trị. Giữa hai thuộc tính
này có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau, nếu thiếu một trong hai thuộc tính thì không phải là hàng hoá.  Gía trị sử dụng.
 Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của sản phẩm, có thể thỏa mãn
nhu cầu nào đó của con người.
 Nhu cầu đó có thể là nhu cầu vật chất hoặc tinh thần; có thể là nhu cầu cho
tiêu dùng cá nhân, có thể là nhu cầu cho sản xuất.
 Gía trị sử dụng chỉ được thực hiện trong việc sử dụng hay tiêu dùng. Nền
sản xuất càng phát triển, khoa học – công nghệ càng hiện đại, càng giúp con
người phát hiện thêm các giá trị sử dụng của sản phẩm.
 Gía trị sử dụng của hang hóa là giá trị sử dụng nhằm đáp ứng yêu cầu của
người mua. Vì vậy, người sản xuất phải chú ý hoàn thiện giá trị sử dụng của
hàng hóa do mình sản xuất ra sao cho ngày càng đáp ứng nhu cầu khắt khe
và tinh tế của người mua.
Gía trị của hàng hóa
 Để nhận biết được thuộc tính giá trị của hang hóa cần đặt trong mối quan hệ trao đổi.
 Sở dĩ các hang hóa trao đổi được với nhau vì chúng có một điểm chung: đều
là sản phẩm của lao động; một lượng lao động bằng nhau đã hao phí để tạo
ra số lượng các giá trị sử dụng trong quan hệ trao đổi đó.
 Vậy, giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.
 Gía trị của hàng hóa biểu thị mối quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất,
trao đổi hàng hóa và là phạm trù có tính lịch sử. Khi nào có giá trị sản xuất
và trao đổi hàng hóa, khi đó có phạm trù giá trị hang hóa. Gía trị trao đổi là
hình thức bên ngoài của giá trị; giá trị là nội dung, cơ sở của trao đổi. Khi
trao đổi người ta ngầm so sánh lao động hao phí ẩn giấu trong hang hóa với nhau.
Câu 2: Liên hệ thực tiễn với hoạt động sản xuất một hàng hóa/ dịch vụ nào đó?
Coca-Cola và Pepsi: Đây là hai thương hiệu nước ngọt nổi tiếng trên toàn thế giới.
Coca-Cola có thương hiệu mạnh hơn và là sản phẩm được ưa chuộng hơn trong
thời gian dài. Pepsi có giá cả thấp hơn và được xem là một sản phẩm thay thế cho
Coca-Cola. Tuy nhiên, Pepsi đã đưa ra các chiến lược quảng cáo và marketing để
thu hút khách hàng và cạnh tranh với Coca-Cola, đặc biệt trong thị trường nước
ngọt có ga. Các sản phẩm của cả hai thương hiệu đều có chất lượng tốt và đáp ứng
được nhu cầu của khách hàng, nhưng thương hiệu của Coca-Cola đã giúp cho sản
phẩm của họ trở thành một biểu tượng văn hóa và có thể bán với giá cao hơn.
Câu 3: Làm thế nào để nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa?
Về giá trị sử dụng
Sản xuất phải chú trọng đến chất lượng của hàng hóa, mang lại giá trị sử dụng tốt,
đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, đem đến cho khách hàng những trải nghiệm
tốt nhất khi sử dụng hàng hóa. Giá trị sử dụng phải làm cho hàng hóa tốt, bền, đẹp,
có nhiều công dụng, tính năng. Hiện nay, việc sản xuất hàng hóa ở Việt Nam về cơ
bản đã đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn chưa đáp
ứng những nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Vì vậy, để sản xuất hàng
hóa ngày càng nâng cao giá trị sử dụng thì chúng ta cần chú trọng đến những vấn đề sau:
 Nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước. Tìm hiểu về những xu thế sản
xuất hàng hóa trên thị trường trong và ngoài nước.
 Tiếp tục nâng cao tay nghề, chủ động, sáng tạo và linh hoạt trong việc quản
lý, đào tạo nguồn nhân lực cho người lao động.
 Đổi mới trao đổi công nghệ, sử dụng những công nghệ tiên tiến để tăng năng
suất sản xuất và đem đến những hàng hóa có giá trị sử dụng cao, đáp ứng
những nhu cầu của khách hàng.
Về giá trị trao đổi của hàng hóa
Để thực hiện được giá trị trao đổi của hàng hóa hay nói cách khác là muốn bán
được hàng hóa sản xuất ra thì cần phải làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa thấp
hơn giá trị xã hội mới có lãi. Do đó để làm được đều này cần thực hiện những biện pháp như sau:
 Tiến hành đổi mới kỹ thuật công nghệ, sử dụng những công nghệ tiến tiến
vào quá trình sản xuất làm tăng năng suất sản xuất và đem đến những chất
lượng hàng hóa cao, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, đồng thời tối đa
hóa chi phí sản xuất làm tăng giá trị trao đổi hàng hóa.
 Hợp lý hóa sản xuất, tiết kiệm các nguồn lực trong sản xuất và kinh doanh.
 Tăng năng suất lao động
Tóm lại, để đáp ứng nhu cầu đa dạng và ngày càng tăng của người tiêu dùng, thì
việc sản xuất hàng hóa cần phải coi trọng cả hai thuộc tính của hàng hóa để không
ngừng cải tiến chất lượng, mẫu mã, nâng cao giá trị sử dụng và đem đến cho khách
hàng giá cả sản phẩm phải chăng, hợp lý thúc đẩy quá trình trao đổi hàng hóa trên
thị trường. Trong nền kinh tế hàng hóa hiện nay, kinh tế hàng hóa không thể thiếu
được vì nó góp phần thúc đẩy kinh tế, giải quyết việc làm và sự phân công lao động trong xã hội.