Bài tập Lịch sử Đảng

Bài tập Lịch sử Đảng

lOMoARcPSD| 36237285
1
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN
TRUYỀN
BÀI TẬP LỊCH SỬ ĐẢNG
Họ và Tên: Lê Thị Khánh Xuân
Lớp: TTĐC K41A1
Mã sinh viên: 2151050065
Số điện thoại: 0971992274
HÀ NỘI - 2021
lOMoARcPSD| 36237285
2
Câu 1: Anh (chị) hãy phân tích đặc điểm ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam? Ý nghĩa sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam?
1. Đặc điểm ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
a. Tình hình thế giới và tác động của nó đối với Việt Nam
Từ nửa cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản (CNTB) đã chuyển nhanh từ giai đoạn tự
do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền, giai đoạn đế quốc chủ nghĩa (ĐQCN). Chính
bước chuyển này đã làm cho mâu thuẫn trong thế giới TBCN ngày càng trở nên gay
gắt: Mâu thuẫn vốn trong CNTB mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất đã phát triển đến mức cần phải giải quyết. Cùng với mâu thuẫn nội tại
trong bản thân mỗi nước tư bản thì thời điểm này cũng xuất hiện mâu thuẫn giữa
các nước bản với nhau do tranh giành thuộc địa, phân chia thị trường và khu vực
ảnh hưởng. Đặc biệt sự thống trị tàn bạo của CNĐQ làm cho mâu thuẫn giữa các
dân tộc thuộc địa với CNĐQ thực dân ngày càng trở nên gay gắt và trở thành một
vấn đề mang tính thời đại. Trước bối cảnh đó, nhân dân các dân tộc bị áp bức đã
đứng lên đấu tranh tgiải phóng khỏi ách thực dân, đế quốc, tạo thành phong trào
giải phóng dân tộc mạnh mẽ, rộng khắp, nhất châu Á. Phong trào giải phóng
dân tộc các nước châu Á đầu thế kỷ XX phát triển rộng khắp, tác động mạnh mẽ
đến phong trào yêu nước Việt Nam.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,
một học thuyết cách mạng và khoa học đã khẳng định được vị tríđược xem là vũ
khí lý luận của giai cấp công nhân, đó là luận của Chủ nghĩa Mác-Lenin. Không
những thế luận của Chủ nghĩa Mác-Lenin cũng đã chỉ ra cho các dân tộc thuộc
địa con đường giải phóng mình, đó là phải tiến hành một cuộc cách mạng theo con
đường cách mạng vô sản.
Trong lúc phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đang phát triển mạnh mẽ, đặc
biệt khi được trang bị bởi một học thuyết cách mạng khoa học, cuộc cách mạng
lOMoARcPSD| 36237285
3
vô sản đầu tiên nổ ra và giành thắng lợi tại Nga năm 1917. Thắng lợi của cuộc cách
mạng Tháng mười đã cổ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân nhân
dân lao động trên thế giới, đặc biệt là nhân dân các nước thuộc địa. Cuộc cách mạng
Tháng Mười Nga 1917 cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân
nhân dân lao động trên thế giới, dẫn tới sự ra đời của hàng loạt các đảng cộng
sản.
Cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp, trí tuệ và bản lĩnh lãnh đạo của
Vladimir Ilyich Lênin. Ảnh: International Communist Press.
Tình hình đó đòi hỏi phải một tchức quốc tế đứng ra lãnh đạo, tập trung sức
mạnh của phong trào ở tất cả các quốc gia, dân tộc (Quốc tế II đã không còn vai trò
tiên phong kể từ sau khi Ăngghen qua đời năm 1895). Tháng 3- 1919, Quốc tế Cộng
sản được thành lập, với khẩu hiệu "Vô sản thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết
lại" đã đánh dấu một giai đoạn mới của phong trào cộng sản công nhân quốc tế.
"Lần đầu tiên trong lịch sử, quốc tế Cộng sản đã chỉ sự đoàn kết tất yếu, liên minh
chiến đấu giữa giai cấp sản các dân tộc thuộc địa đang rên xiết dưới ách thống
lOMoARcPSD| 36237285
4
trị thực dân". Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh vai tcủa Quốc tế Cộng sản đối với cách
mạng Việt Nam: “Xem trong cách tổ chức Đệ tam quốc tế, đặt ra một bộ riêng,
chuyên nghiên cứu giúp đỡ cho kách mệnh bên Á Đông. Xem khẩu hiệu Đệ tam
quốc tế, chẳng những rằng "vô sản giai cấp" lại thêm câu "... dân tộc bị áp
bức trong thế giới liên hợp lại". Xem những việc ấy thì đủ biết rằng An Nam muốn
kách mệnh thành công, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế.”
b. Sự chuyển biến về kinh tế - xã hội ở Việt Nam
Năm 1858, tại cửa biển Đà Nẵng, thực dân Pháp đã nổ súng tấn công xâm lược Việt
Nam. Mặc dù nhân dân ta đã chiến đấu anh dũng, song các phong trào đấu tranh đều
lần lượt thất bại. Đến năm 1897, thực dân Pháp đã áp đặt xong bộ máy cai trị nước
ta bắt đầu tiến hành khai thác thuộc địa với những chính sách phản động và
khắc.
Về chính trị, thực dân Pháp thực hiện chính sách chuyên chế với bộ máy đàn áp
nặng nề, mọi quyền hành đều thâu tóm trong tay các viên quan cai trị người Pháp:
Toàn quyền Đông Dương, Thống đốc Nam Kì, Thống sứ Bắc Kì và Khâm sứ Trung
Kì, Công sứ các tỉnh, biến vua quan Nam Triều thành nhìn tay sai, biến Việt Nam
từ một nước phong kiến thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Chúng dùng
chính sách chia để trị, chia nước ta thành 3 kì sát nhập với Lào, Campuchia, lập liên
bang Đông Dương nhằm xóa tên nước ta khỏi bản đồ thế giới. Mỗi kì có chính sách
khác nhau nhằm chia rẽ, gây thù hằn, làm cho dân tộc ta mất đoàn kết, không tạo
dựng được sức mạnh tổng hợp để chống lại chúng.
Về kinh tế, từ năm 1897, thực dân Pháp bắt đầu tiến hành khai thác thuộc địa: Cuộc
khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897-1914) khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919-
1929), tập trung vào hai khu vực chủ yếu là đồn điền cao su và mỏ than. Chúng tăng
cường ngân hàng để cho vay nặng lãi, tăng thuế lên 2-3 lần so với trước, độc quyền
thuốc phiện, rượu, muối. Chúng thực hiện chế độ mộ phu cực man rợ chiếm
đoạt ruộng đất của nông dân làm cho hơn 50% nông dân mất ruộng… Đời sống nhân
lOMoARcPSD| 36237285
5
dân cùng cực khổ. Chúng không du nhập phương thức sản xuất TBCN hoàn chỉnh
vậy nền kinh tế Việt Nam bị kìm hãm trong vòng lạc hậu, vừa mang tính chất
tư bản thực dân, vừa mang tính chất phong kiến.
Tranh biếm họa của Nguyễn Ái Quốc cho tờ Le Paria, đời sống người dân dưới ách thống trị của thực
dân Pháp.
Về văn hóa, thực dân Pháp thi hành triệt để chính sách văn hóa dịch, ngu dân,
gây tâm tự ti, khuyến khích các hoạt động tín dị đoan. Mọi hoạt động yêu nước
của nhân dân ta đều bcấm đoán. Chúng tìm mọi cách bưng bít ngăn chặn ảnh
hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam thi hành chính sách
ngu dân để dễ bề cai trị.
Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hóa, giáo dục thực
dân, xã hội Việt Nam đã diễn ra quá trình phân hóa sâu sắc. Giai cấp địa chủ câu kết
với thực dân Pháp tăng cường bóc lột, áp bức nông dân. Tuy nhiên, trong nội bộ địa
chủ Việt Nam lúc này có sự phân hóa. Một bộ phận địa chủ có lòng yêu nước, căm
ghét chế độ thực dân đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức
độ khác nhau.
Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam, bị thực dân
phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Tình cảnh bần cùng khốn khổ của giai cấp nông
dân Việt Nam đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc phong kiến tay sai, tăng
lOMoARcPSD| 36237285
6
thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành lại ruộng đất quyền sống
tự do.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực
dân Pháp, đa số xuất thân từ giai cấp nông dân, có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với
giai cấp nông dân, bị đế quốc, phong kiến áp bức bóc lột. Giai cấp tư sản Việt Nam
bị tư sản Pháp và tư sản người Hoa cạnh tranh chèn ép, do đó thế lực kinh tế và địa
vị chính trị nhỏ bé và yếu ớt, có tinh thần dân tộc và yêu nước ở mức độ nhất định.
Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam bao gồm hc sinh, trí thức, những người làm nghề tự
do… đời sống bấp bênh, dễ bị phá sản trở thành người sản, lòng yêu nước,
căm thù đế quốc, thực dân, có khnăng tiếp thu những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài
truyền vào.
Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người dân
mất nước những mức độ khác nhau, đều bị thực dân áp bức, bóc lột. vậy,
trong xã hội Việt Nam, ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân
với giai cấp địa chủ và phong kiến, đã nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ yếu
ngày càng gay gắt trong đời sống dân tộc, đó mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân
Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược. Tính chất của hội Việt Nam hội
thuộc địa nửa phong kiến đang đặt ra hai yêu cầu: Một là, phải đánh đuổi thực dân
Pháp xâm lược, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân; Hai là, xóa bỏ chế
độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu ruộng đất cho nông
dân. Trong đó, chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
c. Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng ra đời
Trước những yêu cầu đó, các phong trào yêu nước của nhân dân ta chống thực dân
Pháp diễn ra liên tục và sôi nổi nhưng đều không mang lại kết quả. Phong trào Cần
Vương - phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến, do giai cấp phong kiến
lãnh đạo đã chấm dứt ở cuối thế kỷ XIX với cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng
(năm 1896). Sang đầu thế kỷ XX, khuynh hướng này không còn khuynh hướng
lOMoARcPSD| 36237285
7
tiêu biểu nữa. Phong trào nông dân, tiêu biểu cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng
Hoa Thám kéo dài mấy chục năm cũng thất bại vào năm 1913. Phong trào yêu nước
theo khuynh hướng dân chủ sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh lãnh
đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo
cũng bị thất bại. Các phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX sự
tiếp nối truyền thống yêu nước, bất khuất của dân tộc ta được hun đúc qua hàng ngàn
năm lịch sử. Nhưng do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức lực lượng cần
thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại. Cách mạng Việt Nam chìm trong
cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
d. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Giữa lúc cách mạng Việt Nam đang lâm vào cuộc khủng hoảng về đường lối cứu
nước, ngày 5/6/1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái
Quốc, Hồ Chí Minh) ra nước ngoài, bắt đầu đi tìm con đường cứu nước. Người đã
qua nhiều nơi trên thế giới, vừa lao động, vừa học tập, nghiên cứu lý luận kinh
nghiệm các cuộc cách mạng sản điển hình (Pháp, Mỹ), tích cực tham gia hoạt
động trong Đảng Xã hội Pháp.
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã ảnh hưởng lớn đến tưởng
của Nguyễn Ái Quốc. Người rất ngưỡng mộ cuộc cách mạng đó, kính phục V.I.
Lênin đã tham gia nhiều hoạt động ủng hộ, bảo vcách mạng Nga; tham gia sáng
lập Đảng Cộng sản Pháp. Những hoạt động cách mạng phong phú đó đã giúp Người
từng bước rút ra những bài học quý báu bổ ích cho sự lựa chọn con đường cách
mạng của mình.
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về
vấn đề dân tộc vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin. Luận cương đã giải đáp trúng
những vấn đề Nguyễn Ái Quốc đang trăn trở. Từ đây, Người đã tìm ra con đường
cứu nước, cứu dân đúng đắn: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản”; xác định những vấn đề cơ bản của
lOMoARcPSD| 36237285
8
đường lối giải phóng dân tộc. Đó con đường giải phóng dân tộc gắn với giải phóng
giai cấp, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa hội, giai cấp sản phải nắm lấy ngọn
cờ giải phóng dân tộc, gắn cách mạng dân tộc từng nước với phong trào cách mạng
vô sản thế giới.
Tháng 12/1920, tại Đại hội Đảng hội Pháp ở Tua đã diễn ra cuộc tranh luận gay
gắt là gia nhập Quốc tế III hay lại Quốc tế II. Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán
thành gia nhập Quốc tế III tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện đó
đánh dấu bước ngoặt quyết định trong cuộc đời hoạt động của Người, từ chủ nghĩa
yêu nước đến với chủ nghĩa cộng sản, từ chiến giải phóng dân tộc trở thành một
chiến sĩ cộng sản quốc tế. Sự kiện đó cũng đánh dấu bước ngoặt mở đường thắng lợi
cho sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc người Việt Nam
đầu tiên tiếp thu vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào nước ta, tìm ra con
đường đúng đắn giải phóng dân tộc Việt Nam.
Trở thành chiến sĩ cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tham gia hoạt động trong
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào cách mạng thuộc địa; nghiên
cứu và truyền bá chnghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam qua các báo Người cùng khổ,
Nhân đạo, Đời sống công nhân và sau này là tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp
(1925).
Sau một thời gian ngắn tham gia học tập Liên hoạt động trong Quốc tế Cộng
sản, tháng 11/1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) trực tiếp chỉ đạo
việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại đây, Người sáng lập trực
tiếp huấn luyện Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, sáng lập viết bài cho báo
Thanh niên, xuất bản tác phẩm Đường Kách mệnh (1927)... nhằm tuyên truyền chủ
nghĩa Mác - Lênin vào trong nước. Người tổ chức đào tạo bồi dưỡng cán bộ cốt cán,
tiếp tục chuẩn bị về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng.
e. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
lOMoARcPSD| 36237285
9
Chủ nghĩa Mác - Lênin các tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc được giai
cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như ''người đi đường đang khát mà
nước uống, đang đói cơm ăn''. lôi cuốn những người yêu nước Việt
Nam đi theo con đường cách mạng vô sản; làm dấy lên cao trào đấu tranh mạnh mẽ,
sôi nổi khắp cả nước, trong đó giai cấp công nhân ngày càng trở thành một lực lượng
chính trị độc lập. Sự truyền chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào quần chúng
phong trào công nhân, làm cho phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và các
tầng lớp nhân dân phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải có tổ chức đảng chính trị lãnh
đạo. Vì vậy, các tổ chức cộng sản lần lượt được thành lập:
- Ngày 17/6/1929, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở Bắc Kỳ.
- Mùa Thu năm 1929, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ.
- Ngày l/l/1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập ở Trung Kỳ.
Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản tuyên
bố thành lập. Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu tranh cách mạng
Việt Nam, đồng thời sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong
một quốc gia nguy dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng đặt
ra là cần có mt đảng cộng sản duy nhất để lãnh đạo phong trào cách mạng của giai
cấp công nhân và nhân dân Việt Nam. Lãnh tụ Nguyền Ái Quốc cán bộ của Quốc tế
Cộng sản, người chiến cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam - người duy nhất
có đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu thống nhất các tổ chức cộng sản.
Từ ngày 6/l đến ngày 7/2/1930, Hội nghị hợp nhất ba tchức cộng sản họp tại bán
đảo Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái
Quốc. Hội nghị thảo luận bỏ mọi thành kiến, xung đột cũ, nhất trí thành lập một đảng
thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua Chánh cương vắn tắt,
Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng. Hội nghị được
coi như là hội nghị thành lập Đảng các văn kiện do Hội nghị thông qua chính
cương lĩnh đầu tiên của Đảng.
lOMoARcPSD| 36237285
10
2. Ý nghĩa sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
a. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam một tất yếu lịch sử; là sản
phẩmcủa skết hợp Chủ nghĩa Mác-Lenin với phong trào công nhân phong
trào yêu nước Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và giai
cấp, sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ
tưởng Mác-Lenin đối với cách mạng Việt Nam. Thực tế cho thấy Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời là sự lựa chọn của chính lịch sử. Giai đoạn đó đã có các phong trào
đấu tranh theo nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau, đồng thời cũng sự xuất
hiện của nhiều giai tầng trong hội trên đài chính trị… nhưng tất cả đều không
được lịch sử chấp nhận. Với sự nỗ lực của Nguyễn Ái Quốc và Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên thì chủ nghĩa Mác-Lenin được thâm nhập vào phong trào công nhân
và phong trào yêu nước, làm cho các phong trào này có khuynh hướng phát triển từ
tự phát sang tự giác. Chính xu hướng đó đã làm cho nhu cầu tất yếu của lịch sử đòi
hỏi phải thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, làm cho Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên sau khi hoàn thành xong sứ mệnh lịch sử của mình đã bị phân liệt, dẫn
đến sự ra đời của 3 tổ chức cộng sản cuối cùng sự tất yếu phải hợp nhất để
thành lập một đảng cộng sản duy nhất. Điều đó khẳng định sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam là sự lựa chọn của chính lịch sử, là sản phẩm của sự kết hợp 3 yếu tố
Chủ nghĩa Mác-Lenin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
b. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chấm dứt tình trạng khủng
hoảngvề lãnh đạo cách mạng những năm đầu thế kỉ XX.
Trước ách áp bức của thực dân Pháp xâm lược, các phong trào đấu tranh của nhân
dân Việt Nam diễn ra mạnh mẽ theo nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau, qua
đó cũng chứng kiến nhiều giai cấp, tầng lớp khác nhau lần lượt bước lên đài chính
trị với nhiều đường lối, phương pháp tiến hành đấu tranh khác nhau nhưng cuối cùng
đều rơi vào cùng một kết cục là thất bại.
lOMoARcPSD| 36237285
11
Sự ra đời của Đảng Cng sản Việt Nam đã khẳng đnh sự trưởng thành vượt bậc của
giai cấp công nhân Việt Nam. Trong khi các phong trào của các giai cấp, tầng lớp
khác đều lần lượt thất bại thì phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân lại từng
bước khẳng định sự lớn mạnh không chỉ về số lượng còn cả về chất lượng; không
chỉ về qui mô ngày càng lớn mà còn cả về tính tự giác; tính chính trị của phong trào
này ngày càng thể hiện rõ nét hơn.
Đúng như Hồ Chí Minh đã từng nhận xét: “Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt
cùng quan trọng trong lịch scách mạng Việt Nam ta.” ktừ đây, ngọn cờ
dân tộc được lịch strao cho giai cấp công nhân Việt Nam, giai cấp công nhân đã tự
mình trở thành dân tộc, trở thành giai cấp dân tộc, nắm vững giơ cao ngọn cờ giải
phóng dân tộc.
c. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã cho thấy cách mạng Việt Nam
đãtrở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới.
Do CNTB đã phát triển đến giai đoạn ĐQCN, mâu thuẫn nội tại của CNTB đã
đang tạo ra tính tất yếu của cuộc cách mạng vô sản, thời đại mới đã mở, đó là thời
đại của cách mạng vô sản. Chính vì vậy cho nên tất cả các cuộc cách mạng trên thế
giới, bao gồm cách mạng giải phóng dân tộc muốn giành thắng lợi đều phải đi theo
con đường cách mạng vô sản.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối cách mạng đi theo con đường
sản đã đặt cách mạng Việt Nam vào quỹ đạo của cách mạng thời đại, sở tiên
quyết để cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận của cách mạng thế giới. Từ
đây, giai cấp công nhân nông dân lao động Việt Nam đã tham gia một cách tự
giác vào sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nhân dân thế giới.
d. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên
tínhchất quyết định cho những bước phát triển nhảy vọt trong tiến trình tiến hóa
của dân tộc Việt Nam.
lOMoARcPSD| 36237285
12
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối cách mạng đúng đắn, phợp
với xu thế phát triển của thời đại điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của dân tộc Việt
Nam. Do đó giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong của mình Đảng Cộng
sản Việt Nam không chỉ tập hợp được giai cấp mình mà còn vận động, lôi kéo được
đông đảo các giai – tầng khác trong xã hội trên một “mẫu số chung”, đó là tinh thần
yêu nước. Không những thế, việc giai cấp công nhân nắm quyền lãnh đạo cách mạng
điều kiện tiên quyết để ch mạng Việt Nam trở thành một bộ phận của cách mạng
thế giới, cho phép cách mạng Việt Nam không chỉ phát huy được sức mạnh toàn dân
tộc mà còn kết hợp được với sức mạnh của thời đại, thông qua đó tạo nên sức mạnh
tổng hợp để giành được những thắng lợi to lớn.
Sau khi đất nước giành được độc lập thống nhất, Đảng tiếp tục phát huy tinh thần
độc lập tự chủ và sáng tạo, đặc biệt trong công cuộc đổi mới. Với bản chất cách
mạng và khoa học, Đảng đã không ngừng bổ sung và hoàn thiện đường lối cho phù
hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể, mang lại “những thành tựu to lớn và có ý nghĩa
lịch sử” sau 20 năm đổi mới, không ngừng nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế.
e. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Nguyễn
ÁiQuốc – Hồ Chí Minh, người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng ta.
Những đóng góp của Nguyễn Ái Quốc đối với cách mạng Việt Nam không chỉ ở sự
nỗ lực của Người trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam mà còn ở hệ thống
quan điểm toàn diện sâu sắc về những vấn đề bản của cách mạng Việt Nam,
trong đó nổi bật những quan điểm của Người về Đảng. Những quan điểm tưởng
đó luôn có tác dụng định hướng, soi đường chỉ lối cho Đảng Cộng sản Việt Nam giữ
vững và phát huy được vai trò là một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân Việt Nam
hoàn thành xuất sắc hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đưa dân
tộc Việt Nam vững bước tiến lên vì mục tiêu độc lập dân tộc CNXH, “dân giàu
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.”
lOMoARcPSD| 36237285
13
Câu 2: Phân tích đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp can
thiệp Mỹ của Đảng? Liên hệ với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong giai
đoạn hiện nay
1. Bối cảnh ra đời và quá trình hình thành đường lối (1945-1947)
a. Bối cảnh ra đời đường lối kháng chiến
Tình hình chung sau khi Cách mạng tháng Tám thắng lợi
Sau Cách mạng Tháng Tám, chính quyền nhân dân vừa mới được thành lập đã phải
đương đầu với những khó khăn, thử thách rất nghiêm trọng. Đất nước bị các thế lực
đế quốc, phản động bao vây và chống phá quyết liệt:
- Phía Bắc vĩ tuyến 16, có gần 20 vạn quân Tưởng, Việt quốc, Việt cách, Mỹ.
- Phía Nam tuyến 16, gần 2 vạn quân Anh. Được shậu thuẫn của quân
Anh, ngày 23/9/1945, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, mở đầu
cuộc xâm lược nước ta lần thứ hai.
- Trên đất nước ta lúc đó còn khoảng 6 vạn quân Nhật đang chờ giải giáp.
Một số quân Nhật đã thực hiện lệnh của quân Anh, cầm súng cùng với quân
Anh dọn đường cho quân Pháp mở rộng vùng chiếm đóng ở miền Nam.
- Lúc này, các tổ chức phản động "Việt quốc", "Việt cách", Đại Việt ráo riết
hoạt động. Chúng dựa vào thế lực bên ngoài để chống lại cách mạng.
Trong lúc đó, ta còn phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng về kinh tế, xã
hội:
- Nạn đói ở miền Bắc do Nhật, Pháp gây ra chưa được khắc phục. Ruộng đất bị
bỏ hoang. Công nghiệp đình đốn. Hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt, ngoại
thương đình trệ.
lOMoARcPSD| 36237285
14
- Tình hình tài chính rất khó khăn, kho bạc chỉ có 1,2 triệu đồng, trong đó quá
nửa tiền rách. Ngân hàng Đông Dương còn nằm trong tay bản Pháp.
Quân Tưởng tung tiền quốc tệ và quan kim gây rối loạn thị trường.
- 95% số dân không biết chữ, các tệ nạn xã hội do chế độ để lại hết sức nặng
nề.
Trong những năm đầu sau Cách mạng Tháng Tám, nước Việt Nam Dân chCộng
hoà chưa nước nào công nhận đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ ta. Đất
nước bị bao vây bốn phía, vận mệnh dân tộc như "ngàn cân treo sợi tóc". Tổ quốc
lâm nguy.
Chủ trương “Kháng chiến, kiến quốc” và quá trình tích cực chuẩn bị kháng
chiến toàn quốc (1945-1946)
Ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nêu ra sáu việc cấp bách: 1. Phát động chiến dịch tăng gia sản xuất để chống
đói; 2. Mở phong trào chống nạn chữ; 3. Sớm tổ chức Tổng tuyển cử; 4. Mở
phong trào giáo dục cần kiệm, liêm chính; 5. Bỏ thuế thân, thuế chợ, thuế đò; 6.
Tuyên bố tự do tín ngưỡng, lương giáo đoàn kết. Sau đó, Người đã nêu ra ba nhiệm
vụ lớn: diệt giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm
Ngày 25/11/1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra “Chỉ thị Kháng chiến kiến
quốc”, vạch những nhiệm vụ chiến lược, xác định cách mạng Đông Dương lúc
này vẫn cuộc cách mạng dân tộc giải phóng với kẻ thù chính thực dân Pháp
xâm lược. Cách mạng Việt Nam nhiệm vụ bản, trước mắt là: Củng cố chính
quyền cách mạng, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời
sống nhân dân. Nhiệm vụ bao trùm là bảo vệ, củng cố chính quyền cách mạng. Chỉ
thị vạch ra những biện pháp cụ thể để thực hiện các nhiệm v trên.
Tích cực xây dựng thực lực, chuẩn bị kháng chiến toàn quốc:
lOMoARcPSD| 36237285
15
- Xây dựng nền móng của chế độ mới: Tổ chức Tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội
đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (6/1/1946), thành lập chính phủ chính
thức, bầu cử hội đồng nhân dân các cấp; thông qua bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên
(9/11/1946).
- Củng cố khối đại đoàn kết toàn dân: Hội liên hiệp Quốc dân Việt Nam (gọi tắt
Liên Việt) được thành lập (5/1946); các đoàn thể quần chúng các đảng phái
dân chủ lần lượt ra đời.
- Đảng chú trọng xây dựng phát triển các công cụ bạo lực của cách mạng.
Cùng với lực lượng quân sự, ngày 19/8/1945, lực lượng công an nhân dân được
thành lập. Chúng ta nhanh chóng xoá bỏ bmáy cai trị của chính quyền như liêm
phóng, hiến binh, giải tán các đảng phái phản động.
- Về kinh tế - tài chính, Đảng Chính phủ phát động thi đua sản xuất; động
viên nhân dân tiết kiệm giúp nhau chống giặc đói; thực hiện bãi bỏ thuế thân và các
thứ thuế khác của chế độ thực dân; tiến hành tịch thu ruộng đất của đế quốc,
Việt gian chia cho nông dân nghèo,... Đảng đã động viên nhân dân tự nguyện đóng
góp cho công quỹ hàng chục triệu đồng và hàng trăm kilôgam vàng. - Về văn hóa –
hội, Đảng đã vận động toàn dân xây dựng nền văn hóa mới, xóa bỏ mọi tnạn
văn hóa nô dịch của thực dân, xóa bỏ các hủ tục lạc hậu, phát triển phong trào bình
dân học vụ để chống nạn mù chữ, diệt "giặc dốt".
- Thực hiện sách lược hòa hoãn, bảo vệ chính quyền cách mạng, từ 9/1945 đến
3/1946, Đảng Chính phủ ta đã thực hiện sách lược hoà hoãn, nhân nhượng với
quân đội Tưởng tay sai của chúng miền Bắc để tập trung chống Pháp miền
Nam; từ 3/1946 đến 12/1946, Đảng Chính phủ ta đã chọn giải pháp thương lượng
với Pháp, nhằm mục đích buộc quân Tưởng rút ngay về nước. Hiệp định bộ
6/3/1946, cuộc đàm phán Đà Lạt, Phôngtennơbờlô, Tạm ước 14/9/1946 đã tạo
điều kiện cho quân dân ta có thêm thời gian để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới.
Thực lực đất nước sau hơn 1 năm xây dựng, củng cố:
lOMoARcPSD| 36237285
16
- Đất nước gần 1 năm tương đối hoà bình để ổn định kinh tế, chính trị xây
dựng lực lượng, mở rộng tuyên truyền quốc tế.
- Hệ thống chính quyền được củng cố từ Trung ương đến địa phương. Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã hoàn toàn hợp hiến, đại diện hợp pháp của
nhân dân Việt Nam để thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại. Khối đại đoàn kết
được tăng cường vững chắc.
- Sau 19 tháng, bắt đầu từ 2/9/1945 đến 19/12/1946, từng bước khắc phục giặc
đói, giặc dốt, đời sống của nhân dân được cải thiện đáng kể, đồng thời xây dựng
được nền tài chính độc lập. Về mọi mặt, nhân dân ta được hưởng những quyền dân
sinh, dân chủ. Điều đó thể hiện rõ sự ưu việt của chế đ mới.
- Từng bước loại bớt các kẻ thù dân tộc, tập trung vào kẻ thù chính là thực dân
Pháp.
Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ
Từ cuối tháng 10-1946, tình hình chiến sự Việt Nam ngày càng căng thẳng do,
nguy cơ một cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và Pháp tăng dần. Nhiều lần, Chủ tịch
Hồ Chí Minh, thay mặt Chính phủ Việt Nam, đã gửi điện văn, thư từ cho Chính phủ
Pháp, cho Thủ tướng Pháp song đều không được hồi đáp; con đường ngoại giao với
đại diện Pháp tại Hà Nội cũng đều không đưa đến kết quả tích cực vì phía Pháp chỉ
muốn “dùng biện pháp quân sự để giải quyết mối quan hệ ViệtPháp”.
Cuối tháng 11/1946, thực dân Pháp mở cuộc tấn công trang đánh chiếm Hải
Phòng, Lạng Sơn, tiếp đó chiếm đóng trái phép Đà Nẵng, Hải Dương, tấn công
vào các vùng tự do của ta ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ.
Trong các ngày 16 17/12/1946, quân đội Pháp Nội ngang nhiên tấn công
đánh chiếm trụ sở Bộ Tài chính, Bộ Giao thông công chính của ta; bắn đại bác gây
ra vụ thảm sát đồng bào Hà Nội ở phố Yên Ninh và Hàng Bún.
Ngày 18/12, đại diện Pháp ở Hà Nội đơn phương tuyên bố cắt đứt mọi liên hệ với
lOMoARcPSD| 36237285
17
Chính phủ Việt Nam, đưa liên tiếp ba tối hậu thư đòi phía Việt Nam phải giải giáp;
giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu, đòi độc quyền thực thi nhiệm vụ kiểm soát, gìn
giữ an ninh, trật tự của thành phố...
Đến ngày 19/12/1946, thiện chí hòa bình của Chính phủ nhân dân Việt Nam đã
bị thực dân Pháp thẳng thừng cự tuyệt. Vì vậy, Đảng và nhân dân Việt Nam chỉ còn
một sự lựa chọn duy nhất cầm súng đứng lên chống lại thực dân Pháp xâm lược
để bảo vệ nền độc lập và chính quyền cách mạng; bảo vệ những thành quả của cuộc
Cách mạng Tháng Tám vừa giành được.
b. Quá trình hình thành đường lối kháng chiến:
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp can thiệp Mỹ được đề ra ngay từ đầu
cuộc kháng chiến được phát triển bổ sung hoàn chỉnh trong quá trình tiến hành
kháng chiến. Nội dung bản của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp được
thể hiện qua các văn kiện quan trọng của Đảng:
Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ nhất (10/1946) đề ra những chủ trương, biện
pháp cụ thể về tưởng, tổ chức để quân dân thể sẵn sàng bước vào cuộc chiến
đấu mới với mt kẻ thù nguy hiểm, không từ bỏ dã tâm xâm lược đất nước ta.
Chỉ thị “Công việc khẩn cấp bây giờ” (11/1946) nêu lên những vấn đề có tầm chiến
lược toàn cục cần phải tiến hành khi bước vào cuộc kháng chiến, đồng thời khẳng
định niềm tin sắt đá vào thắng lợi cuối cùng.
Khi cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, ngày 12/12/1946, Ban thường vụ Trung
ương Đảng đã ra Chỉ thị " Toàn dân kháng chiến". Bản chỉ thị đã làm tính chất,
mục đích của cuộc kháng chiến, các chính sách của cuộc kháng chiến như đoàn kết
toàn dân, xây dựng thực lực về mọi mặt, đoàn kết quốc tế (cả với nhân dân Pháp) để
chống bọn thực dân Pháp phản động, đồng thời còn dự đoán vcác giai đoạn phát
triển của cuộc kháng chiến, về chương trình kháng chiến, về quan lãnh đạo kháng
chiến, về tuyên truyền trong kháng chiến ...
lOMoARcPSD| 36237285
18
Tiếp đó ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra "Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến”, lời kêu gọi đã tỏ rõ quyết tâm cao độ của dân tộc và kháng chiến, là lời hịch
của non sông, đất nước, khơi dậy tình yêu quê hương, đất nước, lòng thào dân tộc,
ý chí quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Đó chính Cương lĩnh kháng chiến khái
quát trình độ cao, chứa đựng tưởng đường lối chiến tranh nhân dân ca Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Những tư tưởng và nội dung cơ bản đó được đồng chí Trường Chinh phát triển đầy
đủ trong tác phẩm "Kháng chiến nhất định thắng lợi” vào cuối năm 1947 và đã trở
thành những quan điểm bản về đường lối kháng chiến của Đảng. Tác phẩm tiếp
tục làm sáng tỏ thêm những vấn đề thuộc về đường lối kháng chiến như: Tính chất,
mục đích kháng chiến, kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình
là chính… bổ sung kịp thời những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn kháng chiến qua gần
một năm.
2. Nội dung đường lối kháng chiến
a. Xác định đối tượng, mục tiêu và tính chất của cuộc kháng chiến.
Đối tượng: Cuộc kháng chiến nhằm vào kẻ thù chính là bọn thực dân phản động
Pháp đang dùng vũ lực cướp lại nước ta, giành độc lập tự do và thống nhất thực sự,
hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, phát triển chế độ dân chủ nhân dân. Xác
định chính xác đối tượng chủ yếu của cuộc kháng là vấn đề chiến lược cực kỳ quan
trọng, nhằm tập trung mũi nhọn để tiêu diệt chúng, đoàn kết mọi lực lượng trong
nước, tranh thủ sự giúp đỡ nước ngoài để cô lập kẻ thù.
Mục tiêu: đánh đổ thực dân Pháp xâm lược, giành nền độc lập, tự do, thống nhất
hoàn toàn; nền tự do dân chủ góp phần bảo vệ hòa bình thế giới...Lúc này,
nhiệm vụ giải phóng dân tộc là yêu cầu nóng bỏng và cấp bách nhất.
lOMoARcPSD| 36237285
19
Tính chất: Cuộc kháng chiến chống Pháp mang tính chất dân tộc giải phóng và dân
chủ mới. Trong quá trình kháng chiến, phải từng bước thực hiện cải cách dân chủ
thực chất của vấn đề dân chủ lúc này là từng bước thực hiện “người cày có ruộng”.
b. Nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến
Quán triệt mục đích, tính chất của cuộc kháng chiến, Đảng ta đề ra đường lối kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ là đường lối kháng chiến toàn
dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính; đây là đường lối tiến hành chiến
tranh nhân dân phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh nước ta:
Kháng chiến toàn dân: cuộc kháng chiến phát huy sức mạnh của khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, toàn dân cùng đứng lên kháng chiến, đánh giặc theo khẩu hiệu:
“mỗi người dân một chiến sĩ, mỗi làng một pháo đài”. Phải kháng chiến
toàn dân vì:
- Xuất phát từ luận Mác-Lenin về vai trò quần chúng trong lịch snói chung,
lịch sđấu tranh nói riêng. Theo lí luận chủ nghĩa Mác-Lenin, quần chúng động
lực phát triển của cách mạng, muốn giành thắng lợi phải đông đảo quần chúng
tham gia, đo đó phải động viên toàn dân kháng chiến.
- Xuất phát từ truyền thống đoàn kết đấu tranh của dân tộc ta qua các thời
lịch sử. Dân tộc ta vốn có truyền thống yêu nước và đấu tranh bất khuất. Cách mạng
sự nghiệp của toàn dân, phát huy sức mạnh toàn dân thì chúng ta mới thể
đánh địch toàn diện và lâu dài.
- Xuất phát từ tương quan lực lượng giữa ta thực dân Pháp lúc này quá chênh
lệch. Nhân dân ta vừa giành được độc lập từ ta kẻ thù, đang đứng trước muôn vàn
khó khăn thử thách, trong đó 3 thứ giặc phải đối phó: giặc đói, giặc dốt giặc
ngoại xâm. Còn quân thù thì không ngừng tăng cường lực lượng bao vây nhằm
chống phá cách mạng. Vì vậy, muốn giành thắng lợi chúng ta nhất thiết phải kháng
lOMoARcPSD| 36237285
20
chiến toàn dân, phát huy sức mạnh toàn dân thì mới có khả năng đánh tan thực dân
Pháp xâm lược.
- Xuất phát từ lợi ích của mỗi người dân, vai tbổn phận của một người dân
với đất nước. Thực dân pháp đánh vào mọi người dân, cho nên mọi người dân phải
đứng lên chống pháp, chỉ có hợp sức lại đánh tan quân thù thì tất cả sẽ được độc lập
và tự do.
Với chiến lược toàn dân kháng chiến, Đảng đã tổ chức cả nước thành một mặt trận,
tạo nền thể trận "cả nước đánh giặc". Trong "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến",
chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: "Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ,
không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ người Việt Nam thì phải đứng lên
đánh thực dân Pháp cứu Tổ quốc. Ai súng dùng súng, ai gươm dùng gươm,
không thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân
Pháp cứu nước".
Kháng chiến toàn diện: là kháng chiến về mọi mặt: quân sự, chính trị, kinh tế, văn
hoá – giáo dục, ngoại giao…Phải kháng chiến toàn diện vì:
- Xuất phát từ thực dân Pháp, chúng đánh ta trên tất cả các mặt: chính trị, quân
sự, kinh tế, văn hoá, tư tưởng…. tương quan lực lượng không cân, vậy chúng ta
cũng phải đánh địch trên tất cả các mặt thì mới tạo nên chiến thắng toàn diện, phát
huy mọi sức mạnh tiềm năng của đất nước và buộc chúng phải khuất phục.
- Xuất phát từ nhiệm vụ kiến quốc cũng được tiến hành một cách toàn diện
vậy khi tiến hành kháng chiến chúng ta cũng phải đánh địch toàn diện nhằm phát
huy được sức mạnh nội lực của chính mình.
- Chống lại âm mưu chiến tranh toàn diện lấy chiến tranh nuôi chiến tranh
của bọn thực dân Pháp
- Kháng chiến toàn diện điều kiện đthực hiện kháng chiến toàn dân sẽ
phát huy được sức mạnh toàn dân.
lOMoARcPSD| 36237285
21
Về chính trị: Đảng ta nhấn mạnh vấn đề xây dựng khối toàn dân đoàn kết. Trong suốt
cuộc kháng chiến, Đảng ta đã ra sức củng cố khối liên minh công, nông và trí thức,
không ngừng mở rộng mặt trận đoàn kết dân tộc, đặc biệt chăm lo củng cố xây
dựng nhà nước dân chủ cộng hòa, thường xuyên kiện toàn bộ máy kháng chiến t
trung ương đến địa phương, kiên quyết trấn áp bọn phản cách mạng.
Về quân s: Đảng đã chăm lo trang toàn dân, xây dựng lực lượng nhân dân, đánh
lâu dài làm phương châm chiến lược, quán triệt tư tưởng tích cực tiến công, kết hợp
đánh địch cả bằng chiến tranh du kích chiến tranh chính quy, cả bằng quân sự,
chính trị và binh vận. Tiến công địch cả ba vùng chiến lược: nông thôn, đô thị và
miền núi.
Về kinh tế: ta vừa phải phá kinh tế địch, vừa xây dựng kinh tế của ta, cải cách ruộng
đất, xây dựng nền kinh tế của ta trong thời chiến. Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta vượt
lên mọi khó khăn, xây dựng liên kết tự chủ, bảo đảm nhu cầu của kháng chiến. Kết
hợp chặt chẽ nhiệm vụ kháng chiến với kiến quốc.
Về n hóa: ta vừa chống lại văn hóa dịch của địch, vừa xây dựng nền văn hóa
với ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học và đại chúng.
Về ngoại giao: đấu tranh trên mặt trận ngoại giao, mở rộng quan hệ quốc tế nhằm
tranh thủ thêm nhiều bầu bạn, làm cho nhân dân thế giới kcả nhân dân Pháp hiểu
và ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân ta.
Kháng chiến lâu dài: là tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng. Kháng chiến lâu dài
nhưng không nghĩa là kéo dài thời hạn phải luôn tranh thủ, chớp thời
thúc đẩy cuộc kháng chiến bước nhảy vọt về chất, thắng từng bước để đi đến
thắng lợi cuối cùng. Phải kháng chiến lâu dài vì:
- So sánh tương quan lực lượng giữa ta Pháp trong những ngày đầu cuộc
chiến quá chênh lệch. Nhiều người đã dùng hình ảnh châu chấu đá voi hay
châu chấu đá xe để so sánh. Trên thực tế lúc này quân Pháp rất mạnh, gấp
lOMoARcPSD| 36237285
22
nhiều lần chúng ta, với đầy đủ các quân binh chủng, được trang bị đầy đủ vũ
khí tối tân nhất lúc bấy giờ. Địa bàn Việt Nam lại quá quen thuộc với quân
Pháp sau hơn 80 năm mặt trên đất nước ta...Còn về phía chúng ta, khi bước
vào cuộc chiến chúng ta chỉ có bộ binh, lại chưa được huấn luyện bài bản.
khí thì thiếu thốn. Trước so sánh tương quan lực lượng như vậy, nếu chúng ta
đưa quân chủ lực ra đương đầu với quân Pháp thì chỉ một trận “hết vốn”.
thế, Đảng ta Chủ tịch Hồ Chí Minh mới sáng suốt chọn phương châm
phù hợp là: Trường kỳ kháng chiến - đánh lâu dài.
- Đánh lâu dài là nhằm đối chọi và làm phá sản âm mưu của thực dân Pháp.
Đảng ta chỉ rõ: “chỗ mạnh của địch là quân sự, chỗ yếu của địch là chính trị "Địch
mạnh về ngọn, ta mạnh về gốc". Chiến lược của địch đánh nhanh, thắng nhanh.
Ta dùng chiến lược đánh lâu dài để tiêu diệt địch. Không để cho quân Pháp áp đặt
lối chơi, phát huy thế mạnh, đồng thời, nhằm vào “gót chân Achilles” của kẻ thù,
chúng ta đã chọn cách đánh du kích, lâu dài. Đây cũng là cách đánh “Lấy đoản binh
chế trường trận” đã được Đảng ta vận dụng trong thời đại mới.
Kháng chiến dựa vào sức mình chính: nhằm phát huy mọi nỗ lực chủ quan, tránh
bị động trông chờ vào sự giúp đỡ từ bên ngoài. Hơn nữa trong thời gian đầu của cuộc
kháng chiến (trước 1949) ta nằm trong tình thế bị bao vây cô lập thì càng phải phát
huy tinh thần tự lực tự cường. như chủ tịch Hồ CMinh đã khẳng định: “Một
dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chdân tộc khác giúp đỡ thì không xứng
đáng được độc lập.” Phải lấy nguồn nội lực của dân tộc, phát huy nguồn sức mạnh
vật chất, tinh thần vốn của trong nhân dân ta làm chỗ dựa chyếu, nguồn lực chủ
yếu của cuộc chiến tranh nhân dân. Trên cơ sở đó, để tìm kiếm, phát huy cao độ
hiệu quả sự ủng hộ, giúp đỡ tinh thần vật chất của quốc tế khi điều kiện.
Lấy độc lập, tchủ về đường lối yếu tquan trọng hàng đầu. Triển vọng của cuộc
kháng chiến: Cuộc kháng chiến sẽ lâu dài, gian khổ, song nhất định thắng lợi.
lOMoARcPSD| 36237285
23
3. Ý nghĩa của đường lối kháng chiến
Đường lối kháng chiến của Đảng là sự kế thừa, nâng lên tầm cao mới tư tưởng quân
sự truyền thống của cha ông ta, sự vận dụng luận chiến tranh cách mạng của
chủ nghĩa Mác-Lênin kinh nghiệm quân sự một số nước anh em vào điều kiện
Việt Nam.
Đường lối kháng chiến của Đảng thể hiện tưởng kết hợp độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội trong điều kiện chiến tranh cách mạng bảo vệ Tổ quốc. Đó đường lối
chiến tranh nhân dân, kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, tự lực cánh sinh
chính.
Đường lối kháng chiến của Đảng là đường lối đấu tranh nhân dân, toàn dân đánh
giặc, tập trung vào nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc. Nhiệm vụ cách
mạng ruộng đất, chống phong kiến được tiến hành từng bước, kết hợp phục vụ
cho nhiệm vụ chống đế quốc. Đường lối đó là đúng đắn, sáng tạo.
Đường lối kháng chiến lâu dài, toàn diện toàn dân niềm tin, động lực, sức mạnh
cho toàn dân Việt Nam chiến đấu và chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và can thiệp Mỹ.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp chứng minh sự tài tình của
việc hoạch định đường lối, cũng như tổ chức chỉ đạo kháng chiến của Đảng. Với
chiến thắng Điện Biên Phủ - kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi
cho thấy Đảng đạt tầm cao tư tưởng trí tuệ Việt Nam, cũng như thời đại. Tuy
nhiên, do chưa thực tiễn chỉ đạo kháng chiến nên cũng những điểm hạn chế,
còn nhiều biểu hiện của sự rập khuôn theo luận quân snước ngoài như luận
kháng chiến ba giai đoạn (phòng ngự, cầm cự, tổng phản công). Những hạn chế ấy
được dần nhận thức qua thực tiễn của cuộc kháng chiến từng bước bổ sung đường
lối kháng chiến, phát triển một cách khoa học nghệ thuật chiến tranh nhân dân.
3. Liên hệ với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay
Một trong những nguyên nhân bản, quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp đường lối kháng chiến toàn dân. Đây skết hợp nhuần
lOMoARcPSD| 36237285
24
nhuyễn những nguyên lý cơ bản về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa MácLênin
với truyền thống, tinh hoa nghệ thuật đánh giặc giữ nước của ông cha kinh
nghiệm đấu tranh quân sự của một số nước trên thế giới, đgiải quyết những vấn đề
quân sự do thực tiễn cuộc chiến tranh yêu nước của dân tộc ta chống thực dân Pháp
xâm lược can thiệp Mỹ đặt ra. Bài học này càng ý nghĩa đặc biệt quan trọng
trong việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc để chiến thắng dịch bệnh COVID-19,
biến khát vọng phát triển đất nước được đề ra từ Đại hội XIII của Đảng thành hiện
thực.
Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đặt ra trong việc vận dụng đường lối
chiến tranh nhân dân phải “hóa giải” được những thách thức không chỉ an ninh
truyền thống còn vấn đề an ninh phi truyền thống, đe dọa đến an nguy của đất
nước. Đặc biệt, vấn đề an ninh phi truyền thống tính toàn cầu ngày càng nổi lên
thách thức đến công cuộc bảo vệ Tổ quốc như sự biến đổi khí hậu, tội phạm xuyên
quốc gia, “diễn biến hòa bình”, dịch bệnh… Chúng ta càng thấm thía điều này khi
cả nhân loại suốt một khoảng thời gian qua đang phải gồng mình chống chọi với
đại dịch Covid-19.
Nhận thức hiểm họa của dịch Covid-19, ngay từ đầu Đảng, Nhà nước ta đã xác
định chống dịch như chống giặc. Việc xác định đó thể hiện tầm duy chiến lược
của Đảng coi dịch Covid-19 một thứ “giặc”. Để chiến thắng “giặc” nguy hiểm
này, đòi hỏi phải đường lối, nghệ thuật thực hành chiến tranh, phương pháp
tác chiến phù hợp. Đảng, Nhà nước ta đã vận dụng hết sức sáng tạo đường lối
chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc vào “cuộc chiến chống đại dịch Covid19”.
Trước hết là nhận diện “đối tượng của cuộc chiến”. Virus Corona (SARS-CoV2)
với tác hại nguy hiểm của chính đối tượng cần phải tiêu diệt. Không dừng
định vị đối tượng SARS-CoV-2, Đảng ta đồng thời xác định thông tin sai sự thật về
dịch bệnh cũng là “đối tượng tác chiến”, còn nguy hiểm hơn dịch bệnh gấp
nhiều lần. Việc nhận diện chính xác “đối tượng tác chiến”, tạo cơ sở cho việc hoạch
định chiến lược của Đảng từ mục tiêu, tưởng chỉ đạo, tổ chức lực lượng đến
lOMoARcPSD| 36237285
25
phương pháp tiến hành của cuộc chiến chưa từng có tiền lệ lịch sử này. Về mục tiêu
của “cuộc chiến chống dịch Covid-19”: Mục tiêu của cuộc chiến này nằm trong
mục tiêu chung của Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, được Đảng xác
định tại Nghị quyết số 28 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) song được
định vị cụ thể, là: “Hạn chế tối đa tử vong không có gì quý hơn tính mạng. Chúng
ta làm hết sức vì sức khỏe, vì tính mạng của người dân, vì sự bình yên của xã hội”.
Sự vận dụng sáng tạo đây không chỉ đối với chống dịch Covid-19 còn trong
đấu tranh chống thông tin xuyên tạc tình hình dịch, nhất là thông tin do các thế lực
thù địch ngụy tạo làm rối loạn xã hội.
Về tưởng chỉ đạo của "cuộc chiến chống dịch Covid-19": Đảng, Nnước ta
chỉ rõ: “Chủ động ngăn ngừa; phát hiện sớm, xử kịp thời, hiệu quả”. Riêng đối
với dịch Covid-19 cần “cách ly kịp thời, khoanh vùng gọn, dập dịch triệt để, điều tr
khỏi bệnh”. Trong đó, việc phát hiện sớm, tăng cường ngăn chặn cùng quan
trọng. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chỉ rõ: “Nếu chúng ta chậm trễ, dịch bệnh sẽ
hạ knock-out chúng ta; nếu chúng ta không kịp thời, không nhanh chóng thì dịch
bệnh sẽ lây lan cấp số nhân, lũy thừa”. Đối với thông tin xuyên tạc lợi dụng tình hình
dịch bệnh cần kịp thời ngăn chặn sự tán phát, xác minh, xử nghiêm minh đúng
pháp luật.
Cùng với tinh thần chủ động chống dịch, Đảng ch, cần phát huy sức mạnh của cả
hệ thống chính trị và toàn dân, huy động tất cả lực lượng vào cuộc, hiệp đồng chặt
chẽ, đặc biệt phát huy sự tham gia tích cực của nhân dân. Phó thủ tướng Đức
Đam rút ra từ thực tiễn chống dịch giai đoạn 1: “Càng lúc khó khăn càng thấy sức
mạnh của nhân dân toàn bhệ thống chính trị”. Đồng thời phát huy sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại, cần hợp tác chặt chẽ với các nước, triển khai đồng bộ các
biện pháp để ngăn chặn nguồn dịch lây lan từ bên ngoài vào trong nước trên tinh
thần vừa mềm dẻo, vừa cương quyết; sẵn sàng nhận hỗ trợ chia sẻ về kinh nghiệm
xử lý dịch, chữa trị người nhiễm với cộng đồng quốc tế. Tính đến ngày 23/11/2021,
Việt Nam cũng đã nhận được hỗ trtổng cộng 17,5 triệu liều vắc xin từ Hoa Kì. Đây
lOMoARcPSD| 36237285
26
chính tư tưởng cách mạng tiến công của đường lối chiến tranh nhân dân được vận
dụng sáng tạo vào “cuộc chiến chống dịch Covid-19” chống hành vi lợi dụng tình
hình dịch đưa thông tin sai lệch để phá hoại đất nước. Về tổ chức lực lượng trong
"cuộc chiến chống dịch Covid-19": Đảng, Nhà nước tiến hành thành lập Ban Chỉ
đạo quốc gia về phòng chống dịch. Tiếp đến, các cấp, ngành, địa phương thành lập
ban chỉ đạo phòng, chống dịch ở cấp mình. Nhờ đó đã huy động sức mạnh của toàn
dân, của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến sở vào cuộc. Do tính đặc thù
của cuộc chiến chống “giặc” dịch bệnh, cùng với đó là chống hành vi lợi dụng
tình hình dịch đưa thông tin sai lệch chống phá đất nước nên Đảng, Nhà nước đã xác
định lực lượng nòng cốt của cuộc chiến này là đội ngũ y tế, thông tin-truyền thông,
quân đội, công an. Trong lực lượng công an, nhấn mạnh an ninh mạng phòng,
chống tội phạm công nghệ cao. Cùng với huy động nguồn nhân lực, Đảng, Nhà nước
đã huy động lực lượng vật chất cao nhất về tài chính, trang thiết bị, sản xuất đồ bảo
hộ… phục vụ phòng, chống dịch với tinh thần “sẵn sàng hy sinh lợi ích kinh tế trong
ngắn hạn để ngăn chặn dịch bệnh”.
lOMoARcPSD| 36237285
27
Các y, bác sỹ lan tỏa thông điệp cả ớc chung tay quyết tâm chống dịch COVID-19. (Ảnh: giadinh.net.vn)
Về phương pháp tác chiến chống dịch Covid-19: Trên snhận diện đối tượng
tác chiến, mục tiêu, tưởng chỉ đạo cuộc chiến của Đảng, Nhà nước đã vạch ra
phương pháp phòng, chống, bao gồm: Thứ nhất, phải đề cao kỷ cương, vai trò trách
nhiệm trong việc thực hiện chỉ đạo của Ban thư, của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ và Ban Chỉ đạo quốc gia về phòng, chống dịch. Thứ hai, tổ chức hướng dẫn kịp
thời, chính xác, đơn giản, dễ hiểu nhất cho mọi người dân hiểu được dịch bệnh,
thông tin sai lệch vdịch bệnh; hiểu được việc mình cần phải làm không được
làm đchống dịch và lợi dụng tình hình dịch. Để thực hiện cần nâng cao hiệu quả
thông tin-truyền thông, không để các thế lực tđịch lợi dụng chiếm lĩnh “khoảng
trống” để đưa thông tin sai lệnh, nhất là trên truyền thông xã hội. Đối với các thông
tin sai lệch về dịch bệnh cần nhanh chóng phát hiện, ngăn chặn, phân loại thông tin
đối tượng đưa tin để xử nghiêm khắc. Thứ ba, phải tăng cường ngăn chặn với
lOMoARcPSD| 36237285
28
những quy định chặt chẽ, phù hợp với tình hình diễn biến dịch bệnh đối với xuất,
nhập cảnh; điều kiện cụ thể dừng cấp thị thực... Đối với các trường hợp đã nhiễm
bệnh phải tiến hành cứu chữa kịp thời; các trường hợp nghi nhiễm phải phân loại,
không để sót, thực hiện cách ly tập trung, tại chphù hợp; phòng, chống hạn chế đến
mức thấp nhất sự lây nhiễm chéo, nhất là lây nhiễm sang đội ngũ y tế, những người
trực tiếp nơi tuyến đầu chống dịch. Thứ , thực hiện khai báo y tế toàn dân, chứ
không dừng ở khai báo y tế đối với người nhập cảnh. Đây không chỉ là trách nhiệm
chống dịch theo quy định của pháp luật còn hành động cụ thể đmọi người
dân Việt Nam cùng chung sức, đồng lòng, toàn dân chống dịch. Các thông tin khai
báo này phải được quản lý chặt chẽ, chỉ để phục vụ vào mục đích chống dịch, không
để thực hiện vào mục đích nào khác.
Cuộc chiến “chống dịch như chống giặc” trong thực tế đã khẳng định vững chắc
phương châm “toàn dân, toàn diện” của Đảng Nhà nước. Tất cả người dân Việt
Nam đều tham gia vào công cuộc chống lại dịch bệnh, ý thức kluật của nhiều
nhân sẽ tạo nên ý thức, kỉ luật của cả cộng đồng. Tinh thần đoàn kết, tương thân
tương ái, hỗ trợ giúp đnhau của nhân dân ta đã để lại những hình ảnh đầy xúc động
và ý nghĩa, tạo nên sức mạnh tổng hợp, góp phần không nhỏ đưa đất nước vượt qua
giai đoạn khó khăn. Bên cạnh đó, tính toàn diện cũng được chú trọng phát huy
với những chính sách phù hợp của Đảng Nhà nước. Việc chống dịch không chỉ
trên lĩnh vực y tế mà đi cùng với đó là nhiệm vụ phát triển kinh tế, giáo dục ý thức,
ổn định an ninh chính trị. Đây là cuộc chiến diễn ra trên mọi mặt trận, từng bước tạo
nên tấm khiên chắn vững chắc trước những diễn biến phức tạp của dịch bệnh trong
giai đoạn tới.
Đường lối của Đảng Nhà nước giai đoạn hiện nay hàm chứa đầy đủ, sâu sắc sự
vận dụng sáng tạo đường lối chiến tranh nhân dân từ mục tiêu, tư tưởng chỉ đạo, tổ
chức lực lượng, phương pháp tác chiến vào một cuộc chiến đặc thù-"cuộc chiến
chống dịch Covid-19" chống hành vi lợi dụng tình hình dịch để chống phát đất
nước hiện nay. Sự vận dụng đó thể hiện tầm tư duy chiến lược của Đảng trong xử
lOMoARcPSD| 36237285
29
tình huống tác động trực tiếp đến công cuộc bảo vệ Tổ quốc ở thời kỳ mới. Nhờ đó
huy động được sức mạnh tổng hợp của toàn dân-sức mạnh địch của chiến
tranh nhân dân, bảo đảm chiến thắng của cuộc chiến như Phó thủ tướng Đức
Đam nói: “Chúng ta đồng lòng, toàn bộ người dân Việt Nam đều đồng lòng, toàn
dân chống dịch tViệt Nam sẽ chiến thắng như dân tộc Việt Nam đã từng nhiều lần
chiến thắng”.
| 1/29

Preview text:

lOMoAR cPSD| 36237285
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
BÀI TẬP LỊCH SỬ ĐẢNG
Họ và Tên: Lê Thị Khánh Xuân Lớp: TTĐC K41A1
Mã sinh viên: 2151050065
Số điện thoại: 0971992274 HÀ NỘI - 2021 1 lOMoAR cPSD| 36237285
Câu 1: Anh (chị) hãy phân tích đặc điểm ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam? Ý nghĩa sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam?
1. Đặc điểm ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
a. Tình hình thế giới và tác động của nó đối với Việt Nam
Từ nửa cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản (CNTB) đã chuyển nhanh từ giai đoạn tự
do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền, giai đoạn đế quốc chủ nghĩa (ĐQCN). Chính
bước chuyển này đã làm cho mâu thuẫn trong thế giới TBCN ngày càng trở nên gay
gắt: Mâu thuẫn vốn có trong CNTB là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất đã phát triển đến mức cần phải giải quyết. Cùng với mâu thuẫn nội tại
trong bản thân mỗi nước tư bản thì thời điểm này cũng xuất hiện mâu thuẫn giữa
các nước tư bản với nhau do tranh giành thuộc địa, phân chia thị trường và khu vực
ảnh hưởng. Đặc biệt sự thống trị tàn bạo của CNĐQ làm cho mâu thuẫn giữa các
dân tộc thuộc địa với CNĐQ thực dân ngày càng trở nên gay gắt và trở thành một
vấn đề mang tính thời đại. Trước bối cảnh đó, nhân dân các dân tộc bị áp bức đã
đứng lên đấu tranh tự giải phóng khỏi ách thực dân, đế quốc, tạo thành phong trào
giải phóng dân tộc mạnh mẽ, rộng khắp, nhất là ở châu Á. Phong trào giải phóng
dân tộc ở các nước châu Á đầu thế kỷ XX phát triển rộng khắp, tác động mạnh mẽ
đến phong trào yêu nước Việt Nam.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,
một học thuyết cách mạng và khoa học đã khẳng định được vị trí và được xem là vũ
khí lý luận của giai cấp công nhân, đó là lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lenin. Không
những thế lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lenin cũng đã chỉ ra cho các dân tộc thuộc
địa con đường giải phóng mình, đó là phải tiến hành một cuộc cách mạng theo con
đường cách mạng vô sản.
Trong lúc phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đang phát triển mạnh mẽ, đặc
biệt là khi được trang bị bởi một học thuyết cách mạng và khoa học, cuộc cách mạng 2 lOMoAR cPSD| 36237285
vô sản đầu tiên nổ ra và giành thắng lợi tại Nga năm 1917. Thắng lợi của cuộc cách
mạng Tháng mười đã cổ vũ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động trên thế giới, đặc biệt là nhân dân các nước thuộc địa. Cuộc cách mạng
Tháng Mười Nga 1917 cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động trên thế giới, dẫn tới sự ra đời của hàng loạt các đảng cộng sản.
Cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp, trí tuệ và bản lĩnh lãnh đạo của
Vladimir Ilyich Lênin. Ảnh: International Communist Press.
Tình hình đó đòi hỏi phải có một tổ chức quốc tế đứng ra lãnh đạo, tập trung sức
mạnh của phong trào ở tất cả các quốc gia, dân tộc (Quốc tế II đã không còn vai trò
tiên phong kể từ sau khi Ăngghen qua đời năm 1895). Tháng 3- 1919, Quốc tế Cộng
sản được thành lập, với khẩu hiệu "Vô sản thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết
lại" đã đánh dấu một giai đoạn mới của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
"Lần đầu tiên trong lịch sử, quốc tế Cộng sản đã chỉ rõ sự đoàn kết tất yếu, liên minh
chiến đấu giữa giai cấp vô sản và các dân tộc thuộc địa đang rên xiết dưới ách thống 3 lOMoAR cPSD| 36237285
trị thực dân". Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh vai trò của Quốc tế Cộng sản đối với cách
mạng Việt Nam: “Xem trong cách tổ chức Đệ tam quốc tế, có đặt ra một bộ riêng,
chuyên nghiên cứu và giúp đỡ cho kách mệnh bên Á Đông. Xem khẩu hiệu Đệ tam
quốc tế, chẳng những rằng "vô sản giai cấp" mà lại thêm câu "... và dân tộc bị áp
bức trong thế giới liên hợp lại". Xem những việc ấy thì đủ biết rằng An Nam muốn
kách mệnh thành công, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế.”
b. Sự chuyển biến về kinh tế - xã hội ở Việt Nam
Năm 1858, tại cửa biển Đà Nẵng, thực dân Pháp đã nổ súng tấn công xâm lược Việt
Nam. Mặc dù nhân dân ta đã chiến đấu anh dũng, song các phong trào đấu tranh đều
lần lượt thất bại. Đến năm 1897, thực dân Pháp đã áp đặt xong bộ máy cai trị ở nước
ta và bắt đầu tiến hành khai thác thuộc địa với những chính sách phản động và hà khắc.
Về chính trị, thực dân Pháp thực hiện chính sách chuyên chế với bộ máy đàn áp
nặng nề, mọi quyền hành đều thâu tóm trong tay các viên quan cai trị người Pháp:
Toàn quyền Đông Dương, Thống đốc Nam Kì, Thống sứ Bắc Kì và Khâm sứ Trung
Kì, Công sứ các tỉnh, biến vua quan Nam Triều thành bù nhìn tay sai, biến Việt Nam
từ một nước phong kiến thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Chúng dùng
chính sách chia để trị, chia nước ta thành 3 kì sát nhập với Lào, Campuchia, lập liên
bang Đông Dương nhằm xóa tên nước ta khỏi bản đồ thế giới. Mỗi kì có chính sách
khác nhau nhằm chia rẽ, gây thù hằn, làm cho dân tộc ta mất đoàn kết, không tạo
dựng được sức mạnh tổng hợp để chống lại chúng.
Về kinh tế, từ năm 1897, thực dân Pháp bắt đầu tiến hành khai thác thuộc địa: Cuộc
khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897-1914) và khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919-
1929), tập trung vào hai khu vực chủ yếu là đồn điền cao su và mỏ than. Chúng tăng
cường ngân hàng để cho vay nặng lãi, tăng thuế lên 2-3 lần so với trước, độc quyền
thuốc phiện, rượu, muối. Chúng thực hiện chế độ mộ phu cực kì man rợ và chiếm
đoạt ruộng đất của nông dân làm cho hơn 50% nông dân mất ruộng… Đời sống nhân 4 lOMoAR cPSD| 36237285
dân vô cùng cực khổ. Chúng không du nhập phương thức sản xuất TBCN hoàn chỉnh
vì vậy nền kinh tế Việt Nam bị kìm hãm trong vòng lạc hậu, vừa mang tính chất
tư bản thực dân, vừa mang tính chất phong kiến.
Tranh biếm họa của Nguyễn Ái Quốc cho tờ Le Paria, đời sống người dân dưới ách thống trị của thực dân Pháp.
Về văn hóa, thực dân Pháp thi hành triệt để chính sách văn hóa nô dịch, ngu dân,
gây tâm lý tự ti, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan. Mọi hoạt động yêu nước
của nhân dân ta đều bị cấm đoán. Chúng tìm mọi cách bưng bít và ngăn chặn ảnh
hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam và thi hành chính sách
ngu dân để dễ bề cai trị.
Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hóa, giáo dục thực
dân, xã hội Việt Nam đã diễn ra quá trình phân hóa sâu sắc. Giai cấp địa chủ câu kết
với thực dân Pháp tăng cường bóc lột, áp bức nông dân. Tuy nhiên, trong nội bộ địa
chủ Việt Nam lúc này có sự phân hóa. Một bộ phận địa chủ có lòng yêu nước, căm
ghét chế độ thực dân đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau.
Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam, bị thực dân và
phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Tình cảnh bần cùng khốn khổ của giai cấp nông
dân Việt Nam đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và phong kiến tay sai, tăng 5 lOMoAR cPSD| 36237285
thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành lại ruộng đất và quyền sống tự do.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực
dân Pháp, đa số xuất thân từ giai cấp nông dân, có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với
giai cấp nông dân, bị đế quốc, phong kiến áp bức bóc lột. Giai cấp tư sản Việt Nam
bị tư sản Pháp và tư sản người Hoa cạnh tranh chèn ép, do đó thế lực kinh tế và địa
vị chính trị nhỏ bé và yếu ớt, có tinh thần dân tộc và yêu nước ở mức độ nhất định.
Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam bao gồm học sinh, trí thức, những người làm nghề tự
do… đời sống bấp bênh, dễ bị phá sản trở thành người vô sản, có lòng yêu nước,
căm thù đế quốc, thực dân, có khả năng tiếp thu những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài truyền vào.
Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người dân
mất nước và ở những mức độ khác nhau, đều bị thực dân áp bức, bóc lột. Vì vậy,
trong xã hội Việt Nam, ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân
với giai cấp địa chủ và phong kiến, đã nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ yếu
và ngày càng gay gắt trong đời sống dân tộc, đó là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân
Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược. Tính chất của xã hội Việt Nam là xã hội
thuộc địa nửa phong kiến đang đặt ra hai yêu cầu: Một là, phải đánh đuổi thực dân
Pháp xâm lược, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân; Hai là, xóa bỏ chế
độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nông
dân. Trong đó, chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
c. Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng ra đời
Trước những yêu cầu đó, các phong trào yêu nước của nhân dân ta chống thực dân
Pháp diễn ra liên tục và sôi nổi nhưng đều không mang lại kết quả. Phong trào Cần
Vương - phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến, do giai cấp phong kiến
lãnh đạo đã chấm dứt ở cuối thế kỷ XIX với cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng
(năm 1896). Sang đầu thế kỷ XX, khuynh hướng này không còn là khuynh hướng 6 lOMoAR cPSD| 36237285
tiêu biểu nữa. Phong trào nông dân, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng
Hoa Thám kéo dài mấy chục năm cũng thất bại vào năm 1913. Phong trào yêu nước
theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh lãnh
đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo
cũng bị thất bại. Các phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là sự
tiếp nối truyền thống yêu nước, bất khuất của dân tộc ta được hun đúc qua hàng ngàn
năm lịch sử. Nhưng do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần
thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại. Cách mạng Việt Nam chìm trong
cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
d. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Giữa lúc cách mạng Việt Nam đang lâm vào cuộc khủng hoảng về đường lối cứu
nước, ngày 5/6/1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái
Quốc, Hồ Chí Minh) ra nước ngoài, bắt đầu đi tìm con đường cứu nước. Người đã
qua nhiều nơi trên thế giới, vừa lao động, vừa học tập, nghiên cứu lý luận và kinh
nghiệm các cuộc cách mạng tư sản điển hình (Pháp, Mỹ), tích cực tham gia hoạt
động trong Đảng Xã hội Pháp.
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã ảnh hưởng lớn đến tư tưởng
của Nguyễn Ái Quốc. Người rất ngưỡng mộ cuộc cách mạng đó, kính phục V.I.
Lênin và đã tham gia nhiều hoạt động ủng hộ, bảo vệ cách mạng Nga; tham gia sáng
lập Đảng Cộng sản Pháp. Những hoạt động cách mạng phong phú đó đã giúp Người
từng bước rút ra những bài học quý báu và bổ ích cho sự lựa chọn con đường cách mạng của mình.
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về
vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin. Luận cương đã giải đáp trúng
những vấn đề mà Nguyễn Ái Quốc đang trăn trở. Từ đây, Người đã tìm ra con đường
cứu nước, cứu dân đúng đắn: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản”; xác định những vấn đề cơ bản của 7 lOMoAR cPSD| 36237285
đường lối giải phóng dân tộc. Đó là con đường giải phóng dân tộc gắn với giải phóng
giai cấp, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, giai cấp vô sản phải nắm lấy ngọn
cờ giải phóng dân tộc, gắn cách mạng dân tộc từng nước với phong trào cách mạng vô sản thế giới.
Tháng 12/1920, tại Đại hội Đảng xã hội Pháp ở Tua đã diễn ra cuộc tranh luận gay
gắt là gia nhập Quốc tế III hay ở lại Quốc tế II. Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán
thành gia nhập Quốc tế III và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện đó
đánh dấu bước ngoặt quyết định trong cuộc đời hoạt động của Người, từ chủ nghĩa
yêu nước đến với chủ nghĩa cộng sản, từ chiến sĩ giải phóng dân tộc trở thành một
chiến sĩ cộng sản quốc tế. Sự kiện đó cũng đánh dấu bước ngoặt mở đường thắng lợi
cho sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam
đầu tiên tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào nước ta, tìm ra con
đường đúng đắn giải phóng dân tộc Việt Nam.
Trở thành chiến sĩ cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tham gia hoạt động trong
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào cách mạng thuộc địa; nghiên
cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam qua các báo Người cùng khổ,
Nhân đạo, Đời sống công nhân và sau này là tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925).
Sau một thời gian ngắn tham gia học tập ở Liên Xô và hoạt động trong Quốc tế Cộng
sản, tháng 11/1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) trực tiếp chỉ đạo
việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại đây, Người sáng lập và trực
tiếp huấn luyện Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, sáng lập và viết bài cho báo
Thanh niên, xuất bản tác phẩm Đường Kách mệnh (1927)... nhằm tuyên truyền chủ
nghĩa Mác - Lênin vào trong nước. Người tổ chức đào tạo bồi dưỡng cán bộ cốt cán,
tiếp tục chuẩn bị về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng.
e. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời 8 lOMoAR cPSD| 36237285
Chủ nghĩa Mác - Lênin và các tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc được giai
cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như ''người đi đường đang khát mà
có nước uống, đang đói mà có cơm ăn''. Nó lôi cuốn những người yêu nước Việt
Nam đi theo con đường cách mạng vô sản; làm dấy lên cao trào đấu tranh mạnh mẽ,
sôi nổi khắp cả nước, trong đó giai cấp công nhân ngày càng trở thành một lực lượng
chính trị độc lập. Sự truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào quần chúng và
phong trào công nhân, làm cho phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và các
tầng lớp nhân dân phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải có tổ chức đảng chính trị lãnh
đạo. Vì vậy, các tổ chức cộng sản lần lượt được thành lập: -
Ngày 17/6/1929, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở Bắc Kỳ. -
Mùa Thu năm 1929, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ. -
Ngày l/l/1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập ở Trung Kỳ.
Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản tuyên
bố thành lập. Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu tranh cách mạng
ở Việt Nam, đồng thời sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong
một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng đặt
ra là cần có một đảng cộng sản duy nhất để lãnh đạo phong trào cách mạng của giai
cấp công nhân và nhân dân Việt Nam. Lãnh tụ Nguyền Ái Quốc cán bộ của Quốc tế
Cộng sản, người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam - là người duy nhất
có đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu thống nhất các tổ chức cộng sản.
Từ ngày 6/l đến ngày 7/2/1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp tại bán
đảo Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái
Quốc. Hội nghị thảo luận bỏ mọi thành kiến, xung đột cũ, nhất trí thành lập một đảng
thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam và thông qua Chánh cương vắn tắt,
Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng. Hội nghị được
coi như là hội nghị thành lập Đảng và các văn kiện do Hội nghị thông qua chính là
cương lĩnh đầu tiên của Đảng. 9 lOMoAR cPSD| 36237285
2. Ý nghĩa sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam a.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu lịch sử; là sản
phẩmcủa sự kết hợp Chủ nghĩa Mác-Lenin với phong trào công nhân và phong
trào yêu nước Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và giai
cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư
tưởng Mác-Lenin đối với cách mạng Việt Nam. Thực tế cho thấy Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời là sự lựa chọn của chính lịch sử. Giai đoạn đó đã có các phong trào
đấu tranh theo nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau, đồng thời cũng là sự xuất
hiện của nhiều giai – tầng trong xã hội trên vũ đài chính trị… nhưng tất cả đều không
được lịch sử chấp nhận. Với sự nỗ lực của Nguyễn Ái Quốc và Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên thì chủ nghĩa Mác-Lenin được thâm nhập vào phong trào công nhân
và phong trào yêu nước, làm cho các phong trào này có khuynh hướng phát triển từ
tự phát sang tự giác. Chính xu hướng đó đã làm cho nhu cầu tất yếu của lịch sử đòi
hỏi phải thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam, làm cho Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên sau khi hoàn thành xong sứ mệnh lịch sử của mình đã bị phân liệt, dẫn
đến sự ra đời của 3 tổ chức cộng sản và cuối cùng là sự tất yếu phải hợp nhất để
thành lập một đảng cộng sản duy nhất. Điều đó khẳng định sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam là sự lựa chọn của chính lịch sử, là sản phẩm của sự kết hợp 3 yếu tố
Chủ nghĩa Mác-Lenin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. b.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chấm dứt tình trạng khủng
hoảngvề lãnh đạo cách mạng những năm đầu thế kỉ XX.
Trước ách áp bức của thực dân Pháp xâm lược, các phong trào đấu tranh của nhân
dân Việt Nam diễn ra mạnh mẽ theo nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau, qua
đó cũng chứng kiến nhiều giai cấp, tầng lớp khác nhau lần lượt bước lên vũ đài chính
trị với nhiều đường lối, phương pháp tiến hành đấu tranh khác nhau nhưng cuối cùng
đều rơi vào cùng một kết cục là thất bại. 10 lOMoAR cPSD| 36237285
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định sự trưởng thành vượt bậc của
giai cấp công nhân Việt Nam. Trong khi các phong trào của các giai cấp, tầng lớp
khác đều lần lượt thất bại thì phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân lại từng
bước khẳng định sự lớn mạnh không chỉ về số lượng mà còn cả về chất lượng; không
chỉ về qui mô ngày càng lớn mà còn cả về tính tự giác; tính chính trị của phong trào
này ngày càng thể hiện rõ nét hơn.
Đúng như Hồ Chí Minh đã từng nhận xét: “Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt
vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta.” Và kể từ đây, ngọn cờ
dân tộc được lịch sử trao cho giai cấp công nhân Việt Nam, giai cấp công nhân đã tự
mình trở thành dân tộc, trở thành giai cấp dân tộc, nắm vững và giơ cao ngọn cờ giải phóng dân tộc. c.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã cho thấy cách mạng Việt Nam
đãtrở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới.
Do CNTB đã phát triển đến giai đoạn ĐQCN, mâu thuẫn nội tại của CNTB đã và
đang tạo ra tính tất yếu của cuộc cách mạng vô sản, thời đại mới đã mở, đó là thời
đại của cách mạng vô sản. Chính vì vậy cho nên tất cả các cuộc cách mạng trên thế
giới, bao gồm cách mạng giải phóng dân tộc muốn giành thắng lợi đều phải đi theo
con đường cách mạng vô sản.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối cách mạng đi theo con đường
vô sản đã đặt cách mạng Việt Nam vào quỹ đạo của cách mạng thời đại, là cơ sở tiên
quyết để cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận của cách mạng thế giới. Từ
đây, giai cấp công nhân và nông dân lao động Việt Nam đã tham gia một cách tự
giác vào sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nhân dân thế giới. d.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có
tínhchất quyết định cho những bước phát triển nhảy vọt trong tiến trình tiến hóa
của dân tộc Việt Nam. 11 lOMoAR cPSD| 36237285
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp
với xu thế phát triển của thời đại và điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của dân tộc Việt
Nam. Do đó giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong của mình là Đảng Cộng
sản Việt Nam không chỉ tập hợp được giai cấp mình mà còn vận động, lôi kéo được
đông đảo các giai – tầng khác trong xã hội trên một “mẫu số chung”, đó là tinh thần
yêu nước. Không những thế, việc giai cấp công nhân nắm quyền lãnh đạo cách mạng
là điều kiện tiên quyết để cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận của cách mạng
thế giới, cho phép cách mạng Việt Nam không chỉ phát huy được sức mạnh toàn dân
tộc mà còn kết hợp được với sức mạnh của thời đại, thông qua đó tạo nên sức mạnh
tổng hợp để giành được những thắng lợi to lớn.
Sau khi đất nước giành được độc lập thống nhất, Đảng tiếp tục phát huy tinh thần
độc lập tự chủ và sáng tạo, đặc biệt trong công cuộc đổi mới. Với bản chất cách
mạng và khoa học, Đảng đã không ngừng bổ sung và hoàn thiện đường lối cho phù
hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể, mang lại “những thành tựu to lớn và có ý nghĩa
lịch sử” sau 20 năm đổi mới, không ngừng nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. e.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Nguyễn
ÁiQuốc – Hồ Chí Minh, người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng ta.
Những đóng góp của Nguyễn Ái Quốc đối với cách mạng Việt Nam không chỉ ở sự
nỗ lực của Người trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam mà còn ở hệ thống
quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam,
trong đó nổi bật là những quan điểm của Người về Đảng. Những quan điểm tư tưởng
đó luôn có tác dụng định hướng, soi đường chỉ lối cho Đảng Cộng sản Việt Nam giữ
vững và phát huy được vai trò là một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân Việt Nam
hoàn thành xuất sắc hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đưa dân
tộc Việt Nam vững bước tiến lên vì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, “dân giàu
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.” 12 lOMoAR cPSD| 36237285
Câu 2: Phân tích đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp và can
thiệp Mỹ của Đảng? Liên hệ với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong giai
đoạn hiện nay
1. Bối cảnh ra đời và quá trình hình thành đường lối (1945-1947)
a. Bối cảnh ra đời đường lối kháng chiến
Tình hình chung sau khi Cách mạng tháng Tám thắng lợi
Sau Cách mạng Tháng Tám, chính quyền nhân dân vừa mới được thành lập đã phải
đương đầu với những khó khăn, thử thách rất nghiêm trọng. Đất nước bị các thế lực
đế quốc, phản động bao vây và chống phá quyết liệt: -
Phía Bắc vĩ tuyến 16, có gần 20 vạn quân Tưởng, Việt quốc, Việt cách, Mỹ. -
Phía Nam vĩ tuyến 16, có gần 2 vạn quân Anh. Được sự hậu thuẫn của quân
Anh, ngày 23/9/1945, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, mở đầu
cuộc xâm lược nước ta lần thứ hai. -
Trên đất nước ta lúc đó còn có khoảng 6 vạn quân Nhật đang chờ giải giáp.
Một số quân Nhật đã thực hiện lệnh của quân Anh, cầm súng cùng với quân
Anh dọn đường cho quân Pháp mở rộng vùng chiếm đóng ở miền Nam. -
Lúc này, các tổ chức phản động "Việt quốc", "Việt cách", Đại Việt ráo riết
hoạt động. Chúng dựa vào thế lực bên ngoài để chống lại cách mạng.
Trong lúc đó, ta còn phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng về kinh tế, xã hội: -
Nạn đói ở miền Bắc do Nhật, Pháp gây ra chưa được khắc phục. Ruộng đất bị
bỏ hoang. Công nghiệp đình đốn. Hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt, ngoại thương đình trệ. 13 lOMoAR cPSD| 36237285 -
Tình hình tài chính rất khó khăn, kho bạc chỉ có 1,2 triệu đồng, trong đó quá
nửa là tiền rách. Ngân hàng Đông Dương còn nằm trong tay tư bản Pháp.
Quân Tưởng tung tiền quốc tệ và quan kim gây rối loạn thị trường. -
95% số dân không biết chữ, các tệ nạn xã hội do chế độ cũ để lại hết sức nặng nề.
Trong những năm đầu sau Cách mạng Tháng Tám, nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà chưa có nước nào công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ ta. Đất
nước bị bao vây bốn phía, vận mệnh dân tộc như "ngàn cân treo sợi tóc". Tổ quốc lâm nguy.
Chủ trương “Kháng chiến, kiến quốc” và quá trình tích cực chuẩn bị kháng
chiến toàn quốc (1945-1946)
Ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nêu ra sáu việc cấp bách: 1. Phát động chiến dịch tăng gia sản xuất để chống
đói; 2. Mở phong trào chống nạn mù chữ; 3. Sớm tổ chức Tổng tuyển cử; 4. Mở
phong trào giáo dục cần kiệm, liêm chính; 5. Bỏ thuế thân, thuế chợ, thuế đò; 6.
Tuyên bố tự do tín ngưỡng, lương giáo đoàn kết. Sau đó, Người đã nêu ra ba nhiệm
vụ lớn: diệt giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm
Ngày 25/11/1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra “Chỉ thị Kháng chiến kiến
quốc”, vạch rõ những nhiệm vụ chiến lược, xác định cách mạng Đông Dương lúc
này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng với kẻ thù chính là thực dân Pháp
xâm lược. Cách mạng Việt Nam có nhiệm vụ cơ bản, trước mắt là: Củng cố chính
quyền cách mạng, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời
sống nhân dân. Nhiệm vụ bao trùm là bảo vệ, củng cố chính quyền cách mạng. Chỉ
thị vạch ra những biện pháp cụ thể để thực hiện các nhiệm vụ trên.
Tích cực xây dựng thực lực, chuẩn bị kháng chiến toàn quốc: 14 lOMoAR cPSD| 36237285 -
Xây dựng nền móng của chế độ mới: Tổ chức Tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội
đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (6/1/1946), thành lập chính phủ chính
thức, bầu cử hội đồng nhân dân các cấp; thông qua bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên (9/11/1946). -
Củng cố khối đại đoàn kết toàn dân: Hội liên hiệp Quốc dân Việt Nam (gọi tắt
là Liên Việt) được thành lập (5/1946); các đoàn thể quần chúng và các đảng phái
dân chủ lần lượt ra đời. -
Đảng chú trọng xây dựng và phát triển các công cụ bạo lực của cách mạng.
Cùng với lực lượng quân sự, ngày 19/8/1945, lực lượng công an nhân dân được
thành lập. Chúng ta nhanh chóng xoá bỏ bộ máy cai trị của chính quyền cũ như liêm
phóng, hiến binh, giải tán các đảng phái phản động. -
Về kinh tế - tài chính, Đảng và Chính phủ phát động thi đua sản xuất; động
viên nhân dân tiết kiệm giúp nhau chống giặc đói; thực hiện bãi bỏ thuế thân và các
thứ thuế vô lý khác của chế độ thực dân; tiến hành tịch thu ruộng đất của đế quốc,
Việt gian chia cho nông dân nghèo,... Đảng đã động viên nhân dân tự nguyện đóng
góp cho công quỹ hàng chục triệu đồng và hàng trăm kilôgam vàng. - Về văn hóa –
xã hội, Đảng đã vận động toàn dân xây dựng nền văn hóa mới, xóa bỏ mọi tệ nạn
văn hóa nô dịch của thực dân, xóa bỏ các hủ tục lạc hậu, phát triển phong trào bình
dân học vụ để chống nạn mù chữ, diệt "giặc dốt". -
Thực hiện sách lược hòa hoãn, bảo vệ chính quyền cách mạng, từ 9/1945 đến
3/1946, Đảng và Chính phủ ta đã thực hiện sách lược hoà hoãn, nhân nhượng với
quân đội Tưởng và tay sai của chúng ở miền Bắc để tập trung chống Pháp ở miền
Nam; từ 3/1946 đến 12/1946, Đảng và Chính phủ ta đã chọn giải pháp thương lượng
với Pháp, nhằm mục đích buộc quân Tưởng rút ngay về nước. Hiệp định Sơ bộ
6/3/1946, cuộc đàm phán ở Đà Lạt, ở Phôngtennơbờlô, Tạm ước 14/9/1946 đã tạo
điều kiện cho quân dân ta có thêm thời gian để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới.
Thực lực đất nước sau hơn 1 năm xây dựng, củng cố: 15 lOMoAR cPSD| 36237285 -
Đất nước có gần 1 năm tương đối hoà bình để ổn định kinh tế, chính trị xây
dựng lực lượng, mở rộng tuyên truyền quốc tế. -
Hệ thống chính quyền được củng cố từ Trung ương đến địa phương. Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã hoàn toàn hợp hiến, là đại diện hợp pháp của
nhân dân Việt Nam để thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại. Khối đại đoàn kết
được tăng cường vững chắc. -
Sau 19 tháng, bắt đầu từ 2/9/1945 đến 19/12/1946, từng bước khắc phục giặc
đói, giặc dốt, đời sống của nhân dân được cải thiện đáng kể, đồng thời xây dựng
được nền tài chính độc lập. Về mọi mặt, nhân dân ta được hưởng những quyền dân
sinh, dân chủ. Điều đó thể hiện rõ sự ưu việt của chế độ mới. -
Từng bước loại bớt các kẻ thù dân tộc, tập trung vào kẻ thù chính là thực dân Pháp.
Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ
Từ cuối tháng 10-1946, tình hình chiến sự ở Việt Nam ngày càng căng thẳng do,
nguy cơ một cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và Pháp tăng dần. Nhiều lần, Chủ tịch
Hồ Chí Minh, thay mặt Chính phủ Việt Nam, đã gửi điện văn, thư từ cho Chính phủ
Pháp, cho Thủ tướng Pháp song đều không được hồi đáp; con đường ngoại giao với
đại diện Pháp tại Hà Nội cũng đều không đưa đến kết quả tích cực vì phía Pháp chỉ
muốn “dùng biện pháp quân sự để giải quyết mối quan hệ ViệtPháp”.
Cuối tháng 11/1946, thực dân Pháp mở cuộc tấn công vũ trang đánh chiếm Hải
Phòng, Lạng Sơn, tiếp đó chiếm đóng trái phép ở Đà Nẵng, Hải Dương, tấn công
vào các vùng tự do của ta ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ.
Trong các ngày 16 và 17/12/1946, quân đội Pháp ở Hà Nội ngang nhiên tấn công
đánh chiếm trụ sở Bộ Tài chính, Bộ Giao thông công chính của ta; bắn đại bác gây
ra vụ thảm sát đồng bào Hà Nội ở phố Yên Ninh và Hàng Bún.
Ngày 18/12, đại diện Pháp ở Hà Nội đơn phương tuyên bố cắt đứt mọi liên hệ với 16 lOMoAR cPSD| 36237285
Chính phủ Việt Nam, đưa liên tiếp ba tối hậu thư đòi phía Việt Nam phải giải giáp;
giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu, đòi độc quyền thực thi nhiệm vụ kiểm soát, gìn
giữ an ninh, trật tự của thành phố...
Đến ngày 19/12/1946, thiện chí hòa bình của Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã
bị thực dân Pháp thẳng thừng cự tuyệt. Vì vậy, Đảng và nhân dân Việt Nam chỉ còn
một sự lựa chọn duy nhất là cầm súng đứng lên chống lại thực dân Pháp xâm lược
để bảo vệ nền độc lập và chính quyền cách mạng; bảo vệ những thành quả của cuộc
Cách mạng Tháng Tám vừa giành được.
b. Quá trình hình thành đường lối kháng chiến:
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ được đề ra ngay từ đầu
cuộc kháng chiến và được phát triển bổ sung hoàn chỉnh trong quá trình tiến hành
kháng chiến. Nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp được
thể hiện qua các văn kiện quan trọng của Đảng:
Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ nhất (10/1946) đề ra những chủ trương, biện
pháp cụ thể về tư tưởng, tổ chức để quân và dân có thể sẵn sàng bước vào cuộc chiến
đấu mới với một kẻ thù nguy hiểm, không từ bỏ dã tâm xâm lược đất nước ta.
Chỉ thị “Công việc khẩn cấp bây giờ” (11/1946) nêu lên những vấn đề có tầm chiến
lược và toàn cục cần phải tiến hành khi bước vào cuộc kháng chiến, đồng thời khẳng
định niềm tin sắt đá vào thắng lợi cuối cùng.
Khi cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, ngày 12/12/1946, Ban thường vụ Trung
ương Đảng đã ra Chỉ thị " Toàn dân kháng chiến". Bản chỉ thị đã làm rõ tính chất,
mục đích của cuộc kháng chiến, các chính sách của cuộc kháng chiến như đoàn kết
toàn dân, xây dựng thực lực về mọi mặt, đoàn kết quốc tế (cả với nhân dân Pháp) để
chống bọn thực dân Pháp phản động, đồng thời còn dự đoán về các giai đoạn phát
triển của cuộc kháng chiến, về chương trình kháng chiến, về cơ quan lãnh đạo kháng
chiến, về tuyên truyền trong kháng chiến ... 17 lOMoAR cPSD| 36237285
Tiếp đó ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra "Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến”, lời kêu gọi đã tỏ rõ quyết tâm cao độ của dân tộc và kháng chiến, là lời hịch
của non sông, đất nước, khơi dậy tình yêu quê hương, đất nước, lòng tự hào dân tộc,
ý chí quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Đó chính là Cương lĩnh kháng chiến khái
quát ở trình độ cao, chứa đựng tư tưởng và đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Những tư tưởng và nội dung cơ bản đó được đồng chí Trường Chinh phát triển đầy
đủ trong tác phẩm "Kháng chiến nhất định thắng lợi” vào cuối năm 1947 và đã trở
thành những quan điểm cơ bản về đường lối kháng chiến của Đảng. Tác phẩm tiếp
tục làm sáng tỏ thêm những vấn đề thuộc về đường lối kháng chiến như: Tính chất,
mục đích kháng chiến, kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình
là chính… bổ sung kịp thời những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn kháng chiến qua gần một năm.
2. Nội dung đường lối kháng chiến
a. Xác định đối tượng, mục tiêu và tính chất của cuộc kháng chiến.
Đối tượng: Cuộc kháng chiến nhằm vào kẻ thù chính là bọn thực dân phản động
Pháp đang dùng vũ lực cướp lại nước ta, giành độc lập tự do và thống nhất thực sự,
hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, phát triển chế độ dân chủ nhân dân. Xác
định chính xác đối tượng chủ yếu của cuộc kháng là vấn đề chiến lược cực kỳ quan
trọng, nhằm tập trung mũi nhọn để tiêu diệt chúng, đoàn kết mọi lực lượng trong
nước, tranh thủ sự giúp đỡ nước ngoài để cô lập kẻ thù.
Mục tiêu: đánh đổ thực dân Pháp xâm lược, giành nền độc lập, tự do, thống nhất
hoàn toàn; vì nền tự do dân chủ và góp phần bảo vệ hòa bình thế giới...Lúc này,
nhiệm vụ giải phóng dân tộc là yêu cầu nóng bỏng và cấp bách nhất. 18 lOMoAR cPSD| 36237285
Tính chất: Cuộc kháng chiến chống Pháp mang tính chất dân tộc giải phóng và dân
chủ mới. Trong quá trình kháng chiến, phải từng bước thực hiện cải cách dân chủ và
thực chất của vấn đề dân chủ lúc này là từng bước thực hiện “người cày có ruộng”.
b. Nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến
Quán triệt mục đích, tính chất của cuộc kháng chiến, Đảng ta đề ra đường lối kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ là đường lối kháng chiến toàn
dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính; đây là đường lối tiến hành chiến
tranh nhân dân phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh nước ta:
Kháng chiến toàn dân: là cuộc kháng chiến phát huy sức mạnh của khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, toàn dân cùng đứng lên kháng chiến, đánh giặc theo khẩu hiệu:
“mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã là một pháo đài”. Phải kháng chiến toàn dân vì: -
Xuất phát từ lý luận Mác-Lenin về vai trò quần chúng trong lịch sử nói chung,
lịch sử đấu tranh nói riêng. Theo lí luận chủ nghĩa Mác-Lenin, quần chúng là động
lực phát triển của cách mạng, muốn giành thắng lợi phải có đông đảo quần chúng
tham gia, đo đó phải động viên toàn dân kháng chiến. -
Xuất phát từ truyền thống đoàn kết đấu tranh của dân tộc ta qua các thời kì
lịch sử. Dân tộc ta vốn có truyền thống yêu nước và đấu tranh bất khuất. Cách mạng
là sự nghiệp của toàn dân, có phát huy sức mạnh toàn dân thì chúng ta mới có thể
đánh địch toàn diện và lâu dài. -
Xuất phát từ tương quan lực lượng giữa ta và thực dân Pháp lúc này quá chênh
lệch. Nhân dân ta vừa giành được độc lập từ ta kẻ thù, đang đứng trước muôn vàn
khó khăn thử thách, trong đó có 3 thứ giặc phải đối phó: giặc đói, giặc dốt và giặc
ngoại xâm. Còn quân thù thì không ngừng tăng cường lực lượng bao vây nhằm
chống phá cách mạng. Vì vậy, muốn giành thắng lợi chúng ta nhất thiết phải kháng 19 lOMoAR cPSD| 36237285
chiến toàn dân, phát huy sức mạnh toàn dân thì mới có khả năng đánh tan thực dân Pháp xâm lược. -
Xuất phát từ lợi ích của mỗi người dân, vai trò bổn phận của một người dân
với đất nước. Thực dân pháp đánh vào mọi người dân, cho nên mọi người dân phải
đứng lên chống pháp, chỉ có hợp sức lại đánh tan quân thù thì tất cả sẽ được độc lập và tự do.
Với chiến lược toàn dân kháng chiến, Đảng đã tổ chức cả nước thành một mặt trận,
tạo nền thể trận "cả nước đánh giặc". Trong "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến",
chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: "Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ,
không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên
đánh thực dân Pháp cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm,
không có gì thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước".
Kháng chiến toàn diện: là kháng chiến về mọi mặt: quân sự, chính trị, kinh tế, văn
hoá – giáo dục, ngoại giao…Phải kháng chiến toàn diện vì: -
Xuất phát từ thực dân Pháp, chúng đánh ta trên tất cả các mặt: chính trị, quân
sự, kinh tế, văn hoá, tư tưởng…. tương quan lực lượng không cân, vì vậy chúng ta
cũng phải đánh địch trên tất cả các mặt thì mới tạo nên chiến thắng toàn diện, phát
huy mọi sức mạnh tiềm năng của đất nước và buộc chúng phải khuất phục. -
Xuất phát từ nhiệm vụ kiến quốc cũng được tiến hành một cách toàn diện vì
vậy khi tiến hành kháng chiến chúng ta cũng phải đánh địch toàn diện nhằm phát
huy được sức mạnh nội lực của chính mình. -
Chống lại âm mưu chiến tranh toàn diện và lấy chiến tranh nuôi chiến tranh của bọn thực dân Pháp -
Kháng chiến toàn diện là điều kiện để thực hiện kháng chiến toàn dân vì sẽ
phát huy được sức mạnh toàn dân. 20 lOMoAR cPSD| 36237285
Về chính trị: Đảng ta nhấn mạnh vấn đề xây dựng khối toàn dân đoàn kết. Trong suốt
cuộc kháng chiến, Đảng ta đã ra sức củng cố khối liên minh công, nông và trí thức,
không ngừng mở rộng mặt trận đoàn kết dân tộc, đặc biệt chăm lo củng cố và xây
dựng nhà nước dân chủ cộng hòa, thường xuyên kiện toàn bộ máy kháng chiến từ
trung ương đến địa phương, kiên quyết trấn áp bọn phản cách mạng.
Về quân sự: Đảng đã chăm lo vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng nhân dân, đánh
lâu dài làm phương châm chiến lược, quán triệt tư tưởng tích cực tiến công, kết hợp
đánh địch cả bằng chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy, cả bằng quân sự,
chính trị và binh vận. Tiến công địch ở cả ba vùng chiến lược: nông thôn, đô thị và miền núi.
Về kinh tế: ta vừa phải phá kinh tế địch, vừa xây dựng kinh tế của ta, cải cách ruộng
đất, xây dựng nền kinh tế của ta trong thời chiến. Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta vượt
lên mọi khó khăn, xây dựng liên kết tự chủ, bảo đảm nhu cầu của kháng chiến. Kết
hợp chặt chẽ nhiệm vụ kháng chiến với kiến quốc.
Về văn hóa: ta vừa chống lại văn hóa nô dịch của địch, vừa xây dựng nền văn hóa
với ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học và đại chúng.
Về ngoại giao: đấu tranh trên mặt trận ngoại giao, mở rộng quan hệ quốc tế nhằm
tranh thủ thêm nhiều bầu bạn, làm cho nhân dân thế giới kể cả nhân dân Pháp hiểu
và ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân ta.
Kháng chiến lâu dài: là tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng. Kháng chiến lâu dài
nhưng không có nghĩa là kéo dài vô thời hạn mà phải luôn tranh thủ, chớp thời cơ
thúc đẩy cuộc kháng chiến có bước nhảy vọt về chất, thắng từng bước để đi đến
thắng lợi cuối cùng. Phải kháng chiến lâu dài vì: -
So sánh tương quan lực lượng giữa ta và Pháp trong những ngày đầu cuộc
chiến quá chênh lệch. Nhiều người đã dùng hình ảnh châu chấu đá voi hay
châu chấu đá xe để so sánh. Trên thực tế lúc này quân Pháp rất mạnh, gấp 21 lOMoAR cPSD| 36237285
nhiều lần chúng ta, với đầy đủ các quân binh chủng, được trang bị đầy đủ vũ
khí tối tân nhất lúc bấy giờ. Địa bàn Việt Nam lại quá quen thuộc với quân
Pháp sau hơn 80 năm có mặt trên đất nước ta...Còn về phía chúng ta, khi bước
vào cuộc chiến chúng ta chỉ có bộ binh, lại chưa được huấn luyện bài bản. Vũ
khí thì thiếu thốn. Trước so sánh tương quan lực lượng như vậy, nếu chúng ta
đưa quân chủ lực ra đương đầu với quân Pháp thì chỉ một trận là “hết vốn”.
Vì thế, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh mới sáng suốt chọn phương châm
phù hợp là: Trường kỳ kháng chiến - đánh lâu dài. -
Đánh lâu dài là nhằm đối chọi và làm phá sản âm mưu của thực dân Pháp.
Đảng ta chỉ rõ: “chỗ mạnh của địch là quân sự, chỗ yếu của địch là chính trị "Địch
mạnh về ngọn, ta mạnh về gốc". Chiến lược của địch là đánh nhanh, thắng nhanh.
Ta dùng chiến lược đánh lâu dài để tiêu diệt địch. Không để cho quân Pháp áp đặt
lối chơi, phát huy thế mạnh, đồng thời, nhằm vào “gót chân Achilles” của kẻ thù,
chúng ta đã chọn cách đánh du kích, lâu dài. Đây cũng là cách đánh “Lấy đoản binh
chế trường trận” đã được Đảng ta vận dụng trong thời đại mới.
Kháng chiến dựa vào sức mình là chính: nhằm phát huy mọi nỗ lực chủ quan, tránh
bị động trông chờ vào sự giúp đỡ từ bên ngoài. Hơn nữa trong thời gian đầu của cuộc
kháng chiến (trước 1949) ta nằm trong tình thế bị bao vây cô lập thì càng phải phát
huy tinh thần tự lực tự cường. Và như chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Một
dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng
đáng được độc lập.” Phải lấy nguồn nội lực của dân tộc, phát huy nguồn sức mạnh
vật chất, tinh thần vốn của trong nhân dân ta làm chỗ dựa chủ yếu, nguồn lực chủ
yếu của cuộc chiến tranh nhân dân. Trên cơ sở đó, để tìm kiếm, phát huy cao độ và
có hiệu quả sự ủng hộ, giúp đỡ tinh thần và vật chất của quốc tế khi có điều kiện.
Lấy độc lập, tự chủ về đường lối là yếu tố quan trọng hàng đầu. Triển vọng của cuộc
kháng chiến: Cuộc kháng chiến sẽ lâu dài, gian khổ, song nhất định thắng lợi. 22 lOMoAR cPSD| 36237285
3. Ý nghĩa của đường lối kháng chiến
Đường lối kháng chiến của Đảng là sự kế thừa, nâng lên tầm cao mới tư tưởng quân
sự truyền thống của cha ông ta, là sự vận dụng lý luận chiến tranh cách mạng của
chủ nghĩa Mác-Lênin và kinh nghiệm quân sự một số nước anh em vào điều kiện Việt Nam.
Đường lối kháng chiến của Đảng thể hiện tư tưởng kết hợp độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội trong điều kiện chiến tranh cách mạng bảo vệ Tổ quốc. Đó là đường lối
chiến tranh nhân dân, kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, tự lực cánh sinh là chính.
Đường lối kháng chiến của Đảng là đường lối đấu tranh nhân dân, toàn dân đánh
giặc, tập trung vào nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc. Nhiệm vụ cách
mạng ruộng đất, chống phong kiến được tiến hành từng bước, kết hợp và phục vụ
cho nhiệm vụ chống đế quốc. Đường lối đó là đúng đắn, sáng tạo.
Đường lối kháng chiến lâu dài, toàn diện toàn dân là niềm tin, động lực, sức mạnh
cho toàn dân Việt Nam chiến đấu và chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và can thiệp Mỹ.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp chứng minh sự tài tình của
việc hoạch định đường lối, cũng như tổ chức chỉ đạo kháng chiến của Đảng. Với
chiến thắng Điện Biên Phủ - kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi
cho thấy Đảng đạt tầm cao tư tưởng và trí tuệ Việt Nam, cũng như thời đại. Tuy
nhiên, do chưa có thực tiễn chỉ đạo kháng chiến nên cũng có những điểm hạn chế,
còn nhiều biểu hiện của sự rập khuôn theo lý luận quân sự nước ngoài như lý luận
kháng chiến ba giai đoạn (phòng ngự, cầm cự, tổng phản công). Những hạn chế ấy
được dần nhận thức qua thực tiễn của cuộc kháng chiến và từng bước bổ sung đường
lối kháng chiến, phát triển một cách khoa học nghệ thuật chiến tranh nhân dân.
3. Liên hệ với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay
Một trong những nguyên nhân cơ bản, quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp là đường lối kháng chiến toàn dân. Đây là sự kết hợp nhuần 23 lOMoAR cPSD| 36237285
nhuyễn những nguyên lý cơ bản về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa MácLênin
với truyền thống, tinh hoa và nghệ thuật đánh giặc giữ nước của ông cha và kinh
nghiệm đấu tranh quân sự của một số nước trên thế giới, để giải quyết những vấn đề
quân sự do thực tiễn cuộc chiến tranh yêu nước của dân tộc ta chống thực dân Pháp
xâm lược và can thiệp Mỹ đặt ra. Bài học này càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
trong việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc để chiến thắng dịch bệnh COVID-19,
biến khát vọng phát triển đất nước được đề ra từ Đại hội XIII của Đảng thành hiện thực.
Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đặt ra trong việc vận dụng đường lối
chiến tranh nhân dân là phải “hóa giải” được những thách thức không chỉ an ninh
truyền thống mà còn vấn đề an ninh phi truyền thống, đe dọa đến an nguy của đất
nước. Đặc biệt, vấn đề an ninh phi truyền thống có tính toàn cầu ngày càng nổi lên
thách thức đến công cuộc bảo vệ Tổ quốc như sự biến đổi khí hậu, tội phạm xuyên
quốc gia, “diễn biến hòa bình”, dịch bệnh… Chúng ta càng thấm thía điều này khi
mà cả nhân loại suốt một khoảng thời gian qua đang phải gồng mình chống chọi với đại dịch Covid-19.
Nhận thức rõ hiểm họa của dịch Covid-19, ngay từ đầu Đảng, Nhà nước ta đã xác
định chống dịch như chống giặc. Việc xác định đó thể hiện tầm tư duy chiến lược
của Đảng coi dịch Covid-19 là một thứ “giặc”. Để chiến thắng “giặc” nguy hiểm
này, đòi hỏi phải có đường lối, nghệ thuật thực hành chiến tranh, có phương pháp
tác chiến phù hợp. Và Đảng, Nhà nước ta đã vận dụng hết sức sáng tạo đường lối
chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc vào “cuộc chiến chống đại dịch Covid19”.
Trước hết là nhận diện “đối tượng của cuộc chiến”. Virus Corona (SARS-CoV2)
với tác hại nguy hiểm của nó chính là đối tượng cần phải tiêu diệt. Không dừng ở
định vị đối tượng SARS-CoV-2, Đảng ta đồng thời xác định thông tin sai sự thật về
dịch bệnh cũng là “đối tượng tác chiến”, vì nó còn nguy hiểm hơn dịch bệnh gấp
nhiều lần. Việc nhận diện chính xác “đối tượng tác chiến”, tạo cơ sở cho việc hoạch
định chiến lược của Đảng từ mục tiêu, tư tưởng chỉ đạo, tổ chức lực lượng đến 24 lOMoAR cPSD| 36237285
phương pháp tiến hành của cuộc chiến chưa từng có tiền lệ lịch sử này. Về mục tiêu
của “cuộc chiến chống dịch Covid-19”: Mục tiêu của cuộc chiến này nằm trong
mục tiêu chung của Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, được Đảng xác
định tại Nghị quyết số 28 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) song được
định vị cụ thể, là: “Hạn chế tối đa tử vong vì không có gì quý hơn tính mạng. Chúng
ta làm hết sức vì sức khỏe, vì tính mạng của người dân, vì sự bình yên của xã hội”.
Sự vận dụng sáng tạo ở đây không chỉ đối với chống dịch Covid-19 mà còn trong
đấu tranh chống thông tin xuyên tạc tình hình dịch, nhất là thông tin do các thế lực
thù địch ngụy tạo làm rối loạn xã hội.
Về tư tưởng chỉ đạo của "cuộc chiến chống dịch Covid-19": Đảng, Nhà nước ta
chỉ rõ: “Chủ động ngăn ngừa; phát hiện sớm, xử lý kịp thời, hiệu quả”. Riêng đối
với dịch Covid-19 cần “cách ly kịp thời, khoanh vùng gọn, dập dịch triệt để, điều trị
khỏi bệnh”. Trong đó, việc phát hiện sớm, tăng cường ngăn chặn là vô cùng quan
trọng. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chỉ rõ: “Nếu chúng ta chậm trễ, dịch bệnh sẽ
hạ knock-out chúng ta; nếu chúng ta không kịp thời, không nhanh chóng thì dịch
bệnh sẽ lây lan cấp số nhân, lũy thừa”. Đối với thông tin xuyên tạc lợi dụng tình hình
dịch bệnh cần kịp thời ngăn chặn sự tán phát, xác minh, xử lý nghiêm minh đúng pháp luật.
Cùng với tinh thần chủ động chống dịch, Đảng chỉ rõ, cần phát huy sức mạnh của cả
hệ thống chính trị và toàn dân, huy động tất cả lực lượng vào cuộc, hiệp đồng chặt
chẽ, đặc biệt phát huy sự tham gia tích cực của nhân dân. Phó thủ tướng Vũ Đức
Đam rút ra từ thực tiễn chống dịch giai đoạn 1: “Càng lúc khó khăn càng thấy sức
mạnh của nhân dân và toàn bộ hệ thống chính trị”. Đồng thời phát huy sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại, cần hợp tác chặt chẽ với các nước, triển khai đồng bộ các
biện pháp để ngăn chặn nguồn dịch lây lan từ bên ngoài vào trong nước trên tinh
thần vừa mềm dẻo, vừa cương quyết; sẵn sàng nhận hỗ trợ và chia sẻ về kinh nghiệm
xử lý dịch, chữa trị người nhiễm với cộng đồng quốc tế. Tính đến ngày 23/11/2021,
Việt Nam cũng đã nhận được hỗ trợ tổng cộng 17,5 triệu liều vắc xin từ Hoa Kì. Đây 25 lOMoAR cPSD| 36237285
chính là tư tưởng cách mạng tiến công của đường lối chiến tranh nhân dân được vận
dụng sáng tạo vào “cuộc chiến chống dịch Covid-19” và chống hành vi lợi dụng tình
hình dịch đưa thông tin sai lệch để phá hoại đất nước. Về tổ chức lực lượng trong
"cuộc chiến chống dịch Covid-19": Đảng, Nhà nước tiến hành thành lập Ban Chỉ
đạo quốc gia về phòng chống dịch. Tiếp đến, các cấp, ngành, địa phương thành lập
ban chỉ đạo phòng, chống dịch ở cấp mình. Nhờ đó đã huy động sức mạnh của toàn
dân, của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở vào cuộc. Do tính đặc thù
của cuộc chiến chống “giặc” là dịch bệnh, cùng với đó là chống hành vi lợi dụng
tình hình dịch đưa thông tin sai lệch chống phá đất nước nên Đảng, Nhà nước đã xác
định lực lượng nòng cốt của cuộc chiến này là đội ngũ y tế, thông tin-truyền thông,
quân đội, công an. Trong lực lượng công an, nhấn mạnh an ninh mạng và phòng,
chống tội phạm công nghệ cao. Cùng với huy động nguồn nhân lực, Đảng, Nhà nước
đã huy động lực lượng vật chất cao nhất về tài chính, trang thiết bị, sản xuất đồ bảo
hộ… phục vụ phòng, chống dịch với tinh thần “sẵn sàng hy sinh lợi ích kinh tế trong
ngắn hạn để ngăn chặn dịch bệnh”. 26 lOMoAR cPSD| 36237285
Các y, bác sỹ lan tỏa thông điệp cả nước chung tay quyết tâm chống dịch COVID-19. (Ảnh: giadinh.net.vn)
Về phương pháp tác chiến chống dịch Covid-19: Trên cơ sở nhận diện đối tượng
tác chiến, mục tiêu, tư tưởng chỉ đạo cuộc chiến của Đảng, Nhà nước đã vạch ra
phương pháp phòng, chống, bao gồm: Thứ nhất, phải đề cao kỷ cương, vai trò trách
nhiệm trong việc thực hiện chỉ đạo của Ban Bí thư, của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ và Ban Chỉ đạo quốc gia về phòng, chống dịch. Thứ hai, tổ chức hướng dẫn kịp
thời, chính xác, đơn giản, dễ hiểu nhất cho mọi người dân hiểu được dịch bệnh,
thông tin sai lệch về dịch bệnh; hiểu được việc mình cần phải làm và không được
làm để chống dịch và lợi dụng tình hình dịch. Để thực hiện cần nâng cao hiệu quả
thông tin-truyền thông, không để các thế lực thù địch lợi dụng chiếm lĩnh “khoảng
trống” để đưa thông tin sai lệnh, nhất là trên truyền thông xã hội. Đối với các thông
tin sai lệch về dịch bệnh cần nhanh chóng phát hiện, ngăn chặn, phân loại thông tin
và đối tượng đưa tin để xử nghiêm khắc. Thứ ba, phải tăng cường ngăn chặn với 27 lOMoAR cPSD| 36237285
những quy định chặt chẽ, phù hợp với tình hình diễn biến dịch bệnh đối với xuất,
nhập cảnh; điều kiện cụ thể dừng cấp thị thực... Đối với các trường hợp đã nhiễm
bệnh phải tiến hành cứu chữa kịp thời; các trường hợp nghi nhiễm phải phân loại,
không để sót, thực hiện cách ly tập trung, tại chỗ phù hợp; phòng, chống hạn chế đến
mức thấp nhất sự lây nhiễm chéo, nhất là lây nhiễm sang đội ngũ y tế, những người
trực tiếp nơi tuyến đầu chống dịch. Thứ tư, thực hiện khai báo y tế toàn dân, chứ
không dừng ở khai báo y tế đối với người nhập cảnh. Đây không chỉ là trách nhiệm
chống dịch theo quy định của pháp luật mà còn là hành động cụ thể để mọi người
dân Việt Nam cùng chung sức, đồng lòng, toàn dân chống dịch. Các thông tin khai
báo này phải được quản lý chặt chẽ, chỉ để phục vụ vào mục đích chống dịch, không
để thực hiện vào mục đích nào khác.
Cuộc chiến “chống dịch như chống giặc” trong thực tế đã khẳng định vững chắc
phương châm “toàn dân, toàn diện” của Đảng và Nhà nước. Tất cả người dân Việt
Nam đều tham gia vào công cuộc chống lại dịch bệnh, ý thức kỉ luật của nhiều cá
nhân sẽ tạo nên ý thức, kỉ luật của cả cộng đồng. Tinh thần đoàn kết, tương thân
tương ái, hỗ trợ giúp đỡ nhau của nhân dân ta đã để lại những hình ảnh đầy xúc động
và ý nghĩa, tạo nên sức mạnh tổng hợp, góp phần không nhỏ đưa đất nước vượt qua
giai đoạn khó khăn. Bên cạnh đó, tính toàn diện cũng được chú trọng và phát huy
với những chính sách phù hợp của Đảng và Nhà nước. Việc chống dịch không chỉ
trên lĩnh vực y tế mà đi cùng với đó là nhiệm vụ phát triển kinh tế, giáo dục ý thức,
ổn định an ninh chính trị. Đây là cuộc chiến diễn ra trên mọi mặt trận, từng bước tạo
nên tấm khiên chắn vững chắc trước những diễn biến phức tạp của dịch bệnh trong giai đoạn tới.
Đường lối của Đảng và Nhà nước giai đoạn hiện nay hàm chứa đầy đủ, sâu sắc sự
vận dụng sáng tạo đường lối chiến tranh nhân dân từ mục tiêu, tư tưởng chỉ đạo, tổ
chức lực lượng, phương pháp tác chiến vào một cuộc chiến đặc thù-"cuộc chiến
chống dịch Covid-19" và chống hành vi lợi dụng tình hình dịch để chống phát đất
nước hiện nay. Sự vận dụng đó thể hiện tầm tư duy chiến lược của Đảng trong xử lý 28 lOMoAR cPSD| 36237285
tình huống tác động trực tiếp đến công cuộc bảo vệ Tổ quốc ở thời kỳ mới. Nhờ đó
mà huy động được sức mạnh tổng hợp của toàn dân-sức mạnh vô địch của chiến
tranh nhân dân, bảo đảm chiến thắng của cuộc chiến như Phó thủ tướng Vũ Đức
Đam nói: “Chúng ta đồng lòng, toàn bộ người dân Việt Nam đều đồng lòng, toàn
dân chống dịch thì Việt Nam sẽ chiến thắng như dân tộc Việt Nam đã từng nhiều lần chiến thắng”. 29