Họ và tên: Ngô Thanh Thảo
Ngày sinh: 25-10-2002
Mã sinh viên: 2056030042
BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC- LÊNIN
ĐỀ BÀI: Phân tích cơ sở lý luận và yêu cầu của quan điểm khách
quan. Vận dụng quan điểm khách quan vào phân tích, nhận định vấn đề bảo vệ môi
trường sinh thái.
BÀI LÀM:
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ QUAN ĐIỂM KHÁCH QUAN:
1. Cơ sở lý luận về bảo vệ môi trường sinh thái:
Không chỉ là một thực thể sinh học , mà con người cũng còn là một bộ phận của
giới tự nhiên . “ Giới tự nhiên ... là thân thể vô cơ của con người , ... đời sống thể
xác và tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên ” ? . Về phương diện
thực thể sinh học , con người còn phải phục tùng các quy luật của giới tự nhiên ,
các quy luật sinh học như di truyền , tiến hóa sinh học và các quá trình sinh học
của giới tự nhiên . Con người là một bộ phận đặc biệt , quan trọng của giới tự
nhiên , nhưng lại có thể biến đổi giới tự nhiên và chính bản thân mình , dựa trên
các quy luật khách quan . Đây chính là điểm khác biệt đặc biệt , rất quan trọng giữa
con người và các thực thể sinh học khác . Về mặt thể xác , con người sống bằng
những sản phẩm tự nhiên , dù là dưới hình thức thực phẩm , nhiên liệu , áo quần ,
nhà ở , vv ... . Bằng hoạt động thực tiễn con người trở thành một bộ phận của giới
tự nhiên có quan hệ với giới tự nhiên , thống nhất với giới tự nhiên , bởi giới tự
nhiên là “ thân thể vô cơ của con người ” . Vì thế con người phải dựa vào giới tự
nhiên , gắn bó với giới tự nhiên , hòa hợp với giới tự nhiên mới có thể tồn tại và
phát triển . Quan điểm này là nền tảng lý luận và phương pháp luận rất quan trọng ,
có tính thời sự trong bối cảnh khủng hoảng sinh thái và yêu cầu phát triển bền
vững hiện nay .
2. Quan điểm khách quan về những vấn đề mà môi trường sinh thái gặp phải
Môi trường sinh thái là một mạng lưới chỉnh thể có mối liên quan chặt chẽ với
nhau giữa đất, nước, không khí và các cơ thể sống trong phạm vi toàn cầu. Sự rối
loạn bất ổn định ở một khâu nào đó trong hệ thống sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng.
Con người và xã hội xuất thân từ tự nhiên, là một bộ phận của thiên nhiên. Thông
qua quá trình lao động, con người khai thác bảo vệ bồi đắp cho thiên nhiên. Cũng
qua quá trình đó con người xã hội dần dần có sự đối lập với tự nhiên.
Sự suy thoái về môi trường sinh thái toàn cầu hiện nay được thể hiện rõ nét trong
những vấn đề sau:
Trước hết là sự suy thoái tầng ozon. Tầng ozon bị suy thoái sẽ tác động mạnh đến
mọi sinh vật trên trái, làm tăng thêm các bệnh tật, làm giảm khả năng miễn dịch
của con người.
Thứ hai là hiện tượng “hiệu ứng nhà kính. Trong thế kỷ này, nhiệt độ của trái đất
tăng lên từ 0,30C đến 0,70C so với thế kỷ trước. Các nhà khoa học dự đoán rằng
đến năm 2030 nếu lượng khí CO2 tăng lên hai lần thì nhiệt độ tăng từ 1,50C đến
4,50C. Nhiệt độ của trái đất tăng lên sẽ làm tan khối lượng khổng lồ ở hai cực và
làm cho mực nước biển dâng lên. Mực nước biển dâng lên là nguy cơ đe doạ rất
nhiều quốc gia và đời sống của hàng triệu dân trên thế giới.
Ngoài ra sự suy thoái môi trường còn thể hiện ở sự ô nhiễm nguồn nước sạch.
Tổng lượng nước trên toàn cầu là 1.360 triệu km3, trong đó lượng nước ngọt chỉ
chiếm trên dưới 3% và con người chỉ sử dụng được khoảng 1% để phục vụ nhu cầu
của xã hội. Thế nhưng 1% đó đang bị ô nhiễm bởi các chất thải trong sinh hoạt,
trong sản xuất… Như các hoá chất dùng trong công nghiệp, thuốc trừ sâu, phân
bón hoá học dùng trong nông nghiệp…
Nguyên nhân chính dẫn đến một loạt sự suy thoái môi trường sinh thái trên, trước
hết phải kể đến sự phát triển của công nghiệp ồ ạt, đặc biệt là các ngành công
nghiệp gây ô nhiễm. Mỗi năm hoạt động sản xuất thải vào không khí 150 triệu tấn
khí SO2, 200 triệu tấn CO2, 350.000 tấn CFC3... Những chất mà những yếu tố
khác trong hệ thống, trong chỉnh thể môi trường sinh thái không thể hấp thụ được,
nên đã gây tác hại đến tầng ozon, đến nguồn nước sạch…
Nguyên nhân thứ hai là tệ nạn phá rừng ngày càng nghiêm trọng trên phạm vi toàn
cầu. Rừng đóng vai trò quan trọng như thế, nhưng hiện nay rừng trên thế giới đang
kêu cứu, cứ mỗi phút trôi qua có tới 21,5 ha rừng nhiệt đới bị phá huỷ. Sự mất mát
quá lớn của rừng tất yếu dẫn đến nghèo kiệt của đất đai và sự biến mất dần những
sinh vật quý hiếm, sự tăng hàm lượng CO2 trong khí quyển - một trong những chất
khí quan trọng nhất gây nên “hiệu ứng nhà kính”, làm tăng nhiệt độ trung bình của
trái đất…
Một nguyên nhân nữa là do sự mất cân bằng tài nguyên và dân số. Dân số tăng
nhanh đòi hỏi phải khai thác các tài nguyên tự do nhiều hơn nhịp điệu cao hơn,
chất thải các loại tăng nhanh hơn dẫn tới phá vỡ cân bằng, vắt kiệt tài nguyên và ô
nhiễm môi trường.
Tình trạng chạy đua vũ trang, sản xuất các loại vũ khí hạt nhân, vũ khí hoá học
cũng là nguyên nhân vừa gây ô nhiễm môi trường, vừa tạo khả năng huỷ diệt thiên
nhiên thông qua chiến tranh xung đột.
Đối với Việt Nam, tuy là một nước nông nghiệp, hơn nữa sự phát triển của xã hội
ta hiện nay vẫn chưa vượt ra khỏi trình độ của nền văn minh công nghiệp, thế
nhưng điều đó không có nghĩa là không có hiểm hoạ sinh thái đe doạ.
Ở Việt Nam, hiểm hoạ sinh thái là do sự kết hợp giữa phát triển và lạc hậu, do ảnh
hưởng còn nặng nề của nếp suy nghĩ, nếp làm của người sản xuất nhỏ và lối sống
công nghiệp còn chưa ổn định, chưa hoàn thiện.
Thiên nhiên nước ta trước đây bị phá hoại bởi những cuộc chiến tranh kéo dài, còn
bây giờ bị phá hoại bởi những hoạt động vô ý thức, bởi thái độ tuỳ tiện vô trách
nhiệm, thiếu kế hoạch trong việc khai thác và sử dụng các nguồn thiên nhiên. Ô
nhiễm môi trường cũng đang là vấn đề nan giải, chất thải công nghiệp, sinh hoạt,
chất độc hại của quá trình sản xuất không được xử lý nghiêm túc mà đưa trực tiếp
vào môi trường, gây bệnh tật và ô nhiễm môi trường sinh thái. Nồng độ bụi ở đô
thị vượt quá nhiều lần chỉ tiêu cho phép. Khí thải CO2 vượt tiêu chuẩn cho phép từ
1,5 – 2,5 lần.
Mặc dù những hành động vô ý thức đó chưa có sự tham gia tích cực của yếu tố kỹ
thuật, do vậy mà sức tàn phá đối với môi trường chưa đạt mức độ nghiêm trọng
như các nước công nghiệp phát triển, nhưng cũng không phải là không đáng bàn.
II. VẬN DỤNG:
Trước hết để làm tốt công tác bảo vệ môi trường sống, chúng ta cần phải thay đổi
nhận thức – xây dựng ý thức sinh thái.
Tức là làm cho mọi người nhận thức một cách tự giác về mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên. Con người cần phải nhận thức lại vị trí vai trò của mình và xã
hội trong hệ thống tự nhiên – con người – xã hội.
Thông qua quá trình phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ con người dân dần
nắm bắt được các quy luật của tự nhiên và tìm cách vận dụng một cách hợp lý các
quy luật đó vào hoạt động thực tiễn của xã hội, để tạo cơ sở tự nhiên bền vững cho
sự phát triển xã hội.
Thứ hai, cần phải kết hợp giữa mục tiêu kinh tế và mục tiêu sinh thái trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Ở Việt Nam, đã một thời do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, chúng ta chưa
nhận thức đầu đủ ý nghĩa vị trí tầm quan trọng của công tác bảo vệ môi trường sinh
thái. Tình trạng tách rời công tác này với sự phát triển kinh tế - xã hội xảy ra phổ
biến ở nhiều ngành, nhiều cấp. Ý thức sinh thái học chủ yếu mới nằm trong đầu
các nhà khoa học, các nhà quản lý … chứ chưa có sự chuyển biến mạnh mẽ trong
toàn xã hội (Mặc dù gần đây đã có luật bảo vệ môi trường). Đối với tình hình nước
ta muốn tăng trưởng kinh tế không có con đường nào khác là phải tiến hành công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nghị quyết Trung ương khoá VIII cũng khẳng
định: “Phát triển khoa học công nghệ gắn liền với bảo vệ và cảI thiện môi trường
sinh thái, bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững”
Đối với nước ta hiện nay, để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước hết phải
đổi mới công nghệ để tăng năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Đổi mới công
nghệ bằng hai con đường: chuyển giao công nghệ và tự tiếp thu công nghiệp hiện
đại – công nghệ có hàm lượng chất xám cao và công nghệ sạch, từ đó chúng ta mới
có thể thực hiện được công nghiệp hoá hiện đại hoá rút ngắn, đồng thời đó cũng
chính là phương thức thực hiện hữu hiệu nhất để kết hợp các mục tiêu kinh tế và
sinh thái. Kiên quyết không nhập công nghệ gây ô nhiễm môi trường sinh thái với
bất kỳ điều kiện nào. Phát triển kinh tế trên sự huỷ hoại môi trường cũng đồng
nghĩa với sự kết án tương lai của mình. Do vậy mục tiêu chuyển giao công nghệ
phải làm sao vừa đáp ứng được yêu cầu tăng trưởng kinh tế, vừa đảm bảo vấn đề
môi trường sinh thái.
Thứ ba, nên sản xuất xã hội cần phải thực hiện thêm chức năng tái sản xuất các
nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Trong một thời gian dài chúng ta đã tiêu xài quá phung phí một nguồn vốn - nguồn
tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là các nguồn tài nguyên thiên nhiên không tái tạo
được (các nguyên, nhiên liệu hoá thạch). Các nguồn tài nguyên là một loại vốn
không thể thay thế được, con người chỉ tìm ra chúng và sử dụng chúng một cách ồ
ạt, lãng phí, làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên và gây ô nhiễm môi trường. Nền
sản xuất xã hội chưa quan tâm đúng mức đến hiệu quả của tài nguyên thiên nhiên,
từ khâu khai thác chế biến, cũng như đến các chất thải bỏ, các quá trình sản xuất
phần lớn chưa đáp ứng được yêu cầu sinh thái, đã thải ra quá nhiều chất độc hại
cho môi trường.
Để tránh tình trạng trên, nền sản xuất sản xuất cần phải thực hiện thêm chức năng
tái sản xuất các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Cụ thể là phải thay thế phương thức
sử dụng các nguồn tài nguồn thiên nhiên từ bề rộng sang bề sâu, cố gắng sử dụng
tối đa các tính năng vốn có của nó để sao cho khi thảI ra khỏi quá trình sản xuất,
những chất thải đó, các sinh vật khác có thể sử dụng được, môi trường có thể tiếp
nhận được và xử lý được như những chất thải của các sinh vật tự nhiên khác. Nói
cách khác là thực hiện phương pháp chu trình công nghệ khép kín, nghĩa là đưa các
chất thải của sản xuất vào lĩnh vực tiêu dùng của sản xuất, tăng cường cái gọi là
“công nghệ khô”, khử các chất độc hại bằng sinh học.
Tóm lại, các nhân tố kinh tế, con người, môi trường, công nghệ gắn bó chặt chẽ với
nhau. Chỉ có sự thực hiện đồng bộ các nhân tố đó mới tạo ra được sự tiến bộ thật
sự của xã hội. Ở đây, con người với tư cách là chủ thể của lao động và trí tuệ là
nhân tố giữ vai trò quyết định cho sự phát triển lâu bền.

Preview text:

Họ và tên: Ngô Thanh Thảo Ngày sinh: 25-10-2002 Mã sinh viên: 2056030042
BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC- LÊNIN
ĐỀ BÀI: Phân tích cơ sở lý luận và yêu cầu của quan điểm khách
quan. Vận dụng quan điểm khách quan vào phân tích, nhận định vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái. BÀI LÀM: I.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ QUAN ĐIỂM KHÁCH QUAN:
1. Cơ sở lý luận về bảo vệ môi trường sinh thái:
Không chỉ là một thực thể sinh học , mà con người cũng còn là một bộ phận của
giới tự nhiên . “ Giới tự nhiên ... là thân thể vô cơ của con người , ... đời sống thể
xác và tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên ” ? . Về phương diện
thực thể sinh học , con người còn phải phục tùng các quy luật của giới tự nhiên ,
các quy luật sinh học như di truyền , tiến hóa sinh học và các quá trình sinh học
của giới tự nhiên . Con người là một bộ phận đặc biệt , quan trọng của giới tự
nhiên , nhưng lại có thể biến đổi giới tự nhiên và chính bản thân mình , dựa trên
các quy luật khách quan . Đây chính là điểm khác biệt đặc biệt , rất quan trọng giữa
con người và các thực thể sinh học khác . Về mặt thể xác , con người sống bằng
những sản phẩm tự nhiên , dù là dưới hình thức thực phẩm , nhiên liệu , áo quần ,
nhà ở , vv ... . Bằng hoạt động thực tiễn con người trở thành một bộ phận của giới
tự nhiên có quan hệ với giới tự nhiên , thống nhất với giới tự nhiên , bởi giới tự
nhiên là “ thân thể vô cơ của con người ” . Vì thế con người phải dựa vào giới tự
nhiên , gắn bó với giới tự nhiên , hòa hợp với giới tự nhiên mới có thể tồn tại và
phát triển . Quan điểm này là nền tảng lý luận và phương pháp luận rất quan trọng ,
có tính thời sự trong bối cảnh khủng hoảng sinh thái và yêu cầu phát triển bền vững hiện nay .
2. Quan điểm khách quan về những vấn đề mà môi trường sinh thái gặp phải
Môi trường sinh thái là một mạng lưới chỉnh thể có mối liên quan chặt chẽ với
nhau giữa đất, nước, không khí và các cơ thể sống trong phạm vi toàn cầu. Sự rối
loạn bất ổn định ở một khâu nào đó trong hệ thống sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng.
Con người và xã hội xuất thân từ tự nhiên, là một bộ phận của thiên nhiên. Thông
qua quá trình lao động, con người khai thác bảo vệ bồi đắp cho thiên nhiên. Cũng
qua quá trình đó con người xã hội dần dần có sự đối lập với tự nhiên.
Sự suy thoái về môi trường sinh thái toàn cầu hiện nay được thể hiện rõ nét trong những vấn đề sau:
Trước hết là sự suy thoái tầng ozon. Tầng ozon bị suy thoái sẽ tác động mạnh đến
mọi sinh vật trên trái, làm tăng thêm các bệnh tật, làm giảm khả năng miễn dịch của con người.
Thứ hai là hiện tượng “hiệu ứng nhà kính. Trong thế kỷ này, nhiệt độ của trái đất
tăng lên từ 0,30C đến 0,70C so với thế kỷ trước. Các nhà khoa học dự đoán rằng
đến năm 2030 nếu lượng khí CO2 tăng lên hai lần thì nhiệt độ tăng từ 1,50C đến
4,50C. Nhiệt độ của trái đất tăng lên sẽ làm tan khối lượng khổng lồ ở hai cực và
làm cho mực nước biển dâng lên. Mực nước biển dâng lên là nguy cơ đe doạ rất
nhiều quốc gia và đời sống của hàng triệu dân trên thế giới.
Ngoài ra sự suy thoái môi trường còn thể hiện ở sự ô nhiễm nguồn nước sạch.
Tổng lượng nước trên toàn cầu là 1.360 triệu km3, trong đó lượng nước ngọt chỉ
chiếm trên dưới 3% và con người chỉ sử dụng được khoảng 1% để phục vụ nhu cầu
của xã hội. Thế nhưng 1% đó đang bị ô nhiễm bởi các chất thải trong sinh hoạt,
trong sản xuất… Như các hoá chất dùng trong công nghiệp, thuốc trừ sâu, phân
bón hoá học dùng trong nông nghiệp…
Nguyên nhân chính dẫn đến một loạt sự suy thoái môi trường sinh thái trên, trước
hết phải kể đến sự phát triển của công nghiệp ồ ạt, đặc biệt là các ngành công
nghiệp gây ô nhiễm. Mỗi năm hoạt động sản xuất thải vào không khí 150 triệu tấn
khí SO2, 200 triệu tấn CO2, 350.000 tấn CFC3... Những chất mà những yếu tố
khác trong hệ thống, trong chỉnh thể môi trường sinh thái không thể hấp thụ được,
nên đã gây tác hại đến tầng ozon, đến nguồn nước sạch…
Nguyên nhân thứ hai là tệ nạn phá rừng ngày càng nghiêm trọng trên phạm vi toàn
cầu. Rừng đóng vai trò quan trọng như thế, nhưng hiện nay rừng trên thế giới đang
kêu cứu, cứ mỗi phút trôi qua có tới 21,5 ha rừng nhiệt đới bị phá huỷ. Sự mất mát
quá lớn của rừng tất yếu dẫn đến nghèo kiệt của đất đai và sự biến mất dần những
sinh vật quý hiếm, sự tăng hàm lượng CO2 trong khí quyển - một trong những chất
khí quan trọng nhất gây nên “hiệu ứng nhà kính”, làm tăng nhiệt độ trung bình của trái đất…
Một nguyên nhân nữa là do sự mất cân bằng tài nguyên và dân số. Dân số tăng
nhanh đòi hỏi phải khai thác các tài nguyên tự do nhiều hơn nhịp điệu cao hơn,
chất thải các loại tăng nhanh hơn dẫn tới phá vỡ cân bằng, vắt kiệt tài nguyên và ô nhiễm môi trường.
Tình trạng chạy đua vũ trang, sản xuất các loại vũ khí hạt nhân, vũ khí hoá học
cũng là nguyên nhân vừa gây ô nhiễm môi trường, vừa tạo khả năng huỷ diệt thiên
nhiên thông qua chiến tranh xung đột.
Đối với Việt Nam, tuy là một nước nông nghiệp, hơn nữa sự phát triển của xã hội
ta hiện nay vẫn chưa vượt ra khỏi trình độ của nền văn minh công nghiệp, thế
nhưng điều đó không có nghĩa là không có hiểm hoạ sinh thái đe doạ.
Ở Việt Nam, hiểm hoạ sinh thái là do sự kết hợp giữa phát triển và lạc hậu, do ảnh
hưởng còn nặng nề của nếp suy nghĩ, nếp làm của người sản xuất nhỏ và lối sống
công nghiệp còn chưa ổn định, chưa hoàn thiện.
Thiên nhiên nước ta trước đây bị phá hoại bởi những cuộc chiến tranh kéo dài, còn
bây giờ bị phá hoại bởi những hoạt động vô ý thức, bởi thái độ tuỳ tiện vô trách
nhiệm, thiếu kế hoạch trong việc khai thác và sử dụng các nguồn thiên nhiên. Ô
nhiễm môi trường cũng đang là vấn đề nan giải, chất thải công nghiệp, sinh hoạt,
chất độc hại của quá trình sản xuất không được xử lý nghiêm túc mà đưa trực tiếp
vào môi trường, gây bệnh tật và ô nhiễm môi trường sinh thái. Nồng độ bụi ở đô
thị vượt quá nhiều lần chỉ tiêu cho phép. Khí thải CO2 vượt tiêu chuẩn cho phép từ 1,5 – 2,5 lần.
Mặc dù những hành động vô ý thức đó chưa có sự tham gia tích cực của yếu tố kỹ
thuật, do vậy mà sức tàn phá đối với môi trường chưa đạt mức độ nghiêm trọng
như các nước công nghiệp phát triển, nhưng cũng không phải là không đáng bàn. II. VẬN DỤNG:
Trước hết để làm tốt công tác bảo vệ môi trường sống, chúng ta cần phải thay đổi
nhận thức – xây dựng ý thức sinh thái.
Tức là làm cho mọi người nhận thức một cách tự giác về mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên. Con người cần phải nhận thức lại vị trí vai trò của mình và xã
hội trong hệ thống tự nhiên – con người – xã hội.
Thông qua quá trình phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ con người dân dần
nắm bắt được các quy luật của tự nhiên và tìm cách vận dụng một cách hợp lý các
quy luật đó vào hoạt động thực tiễn của xã hội, để tạo cơ sở tự nhiên bền vững cho sự phát triển xã hội.
Thứ hai, cần phải kết hợp giữa mục tiêu kinh tế và mục tiêu sinh thái trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Ở Việt Nam, đã một thời do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, chúng ta chưa
nhận thức đầu đủ ý nghĩa vị trí tầm quan trọng của công tác bảo vệ môi trường sinh
thái. Tình trạng tách rời công tác này với sự phát triển kinh tế - xã hội xảy ra phổ
biến ở nhiều ngành, nhiều cấp. Ý thức sinh thái học chủ yếu mới nằm trong đầu
các nhà khoa học, các nhà quản lý … chứ chưa có sự chuyển biến mạnh mẽ trong
toàn xã hội (Mặc dù gần đây đã có luật bảo vệ môi trường). Đối với tình hình nước
ta muốn tăng trưởng kinh tế không có con đường nào khác là phải tiến hành công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nghị quyết Trung ương khoá VIII cũng khẳng
định: “Phát triển khoa học công nghệ gắn liền với bảo vệ và cảI thiện môi trường
sinh thái, bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững”
Đối với nước ta hiện nay, để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước hết phải
đổi mới công nghệ để tăng năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Đổi mới công
nghệ bằng hai con đường: chuyển giao công nghệ và tự tiếp thu công nghiệp hiện
đại – công nghệ có hàm lượng chất xám cao và công nghệ sạch, từ đó chúng ta mới
có thể thực hiện được công nghiệp hoá hiện đại hoá rút ngắn, đồng thời đó cũng
chính là phương thức thực hiện hữu hiệu nhất để kết hợp các mục tiêu kinh tế và
sinh thái. Kiên quyết không nhập công nghệ gây ô nhiễm môi trường sinh thái với
bất kỳ điều kiện nào. Phát triển kinh tế trên sự huỷ hoại môi trường cũng đồng
nghĩa với sự kết án tương lai của mình. Do vậy mục tiêu chuyển giao công nghệ
phải làm sao vừa đáp ứng được yêu cầu tăng trưởng kinh tế, vừa đảm bảo vấn đề môi trường sinh thái.
Thứ ba, nên sản xuất xã hội cần phải thực hiện thêm chức năng tái sản xuất các
nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Trong một thời gian dài chúng ta đã tiêu xài quá phung phí một nguồn vốn - nguồn
tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là các nguồn tài nguyên thiên nhiên không tái tạo
được (các nguyên, nhiên liệu hoá thạch). Các nguồn tài nguyên là một loại vốn
không thể thay thế được, con người chỉ tìm ra chúng và sử dụng chúng một cách ồ
ạt, lãng phí, làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên và gây ô nhiễm môi trường. Nền
sản xuất xã hội chưa quan tâm đúng mức đến hiệu quả của tài nguyên thiên nhiên,
từ khâu khai thác chế biến, cũng như đến các chất thải bỏ, các quá trình sản xuất
phần lớn chưa đáp ứng được yêu cầu sinh thái, đã thải ra quá nhiều chất độc hại cho môi trường.
Để tránh tình trạng trên, nền sản xuất sản xuất cần phải thực hiện thêm chức năng
tái sản xuất các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Cụ thể là phải thay thế phương thức
sử dụng các nguồn tài nguồn thiên nhiên từ bề rộng sang bề sâu, cố gắng sử dụng
tối đa các tính năng vốn có của nó để sao cho khi thảI ra khỏi quá trình sản xuất,
những chất thải đó, các sinh vật khác có thể sử dụng được, môi trường có thể tiếp
nhận được và xử lý được như những chất thải của các sinh vật tự nhiên khác. Nói
cách khác là thực hiện phương pháp chu trình công nghệ khép kín, nghĩa là đưa các
chất thải của sản xuất vào lĩnh vực tiêu dùng của sản xuất, tăng cường cái gọi là
“công nghệ khô”, khử các chất độc hại bằng sinh học.
Tóm lại, các nhân tố kinh tế, con người, môi trường, công nghệ gắn bó chặt chẽ với
nhau. Chỉ có sự thực hiện đồng bộ các nhân tố đó mới tạo ra được sự tiến bộ thật
sự của xã hội. Ở đây, con người với tư cách là chủ thể của lao động và trí tuệ là
nhân tố giữ vai trò quyết định cho sự phát triển lâu bền.