






Preview text:
  lOMoAR cPSD| 58137911                                      
BÀI TẬP LỚN – MÔN TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN 
Đề : Phân tích cặp phạm trù bản chất, hiện tượng. Từ góc độ 
quan điểm của Triết học Mác – Leenin về bản chất - hiện 
tượng, liên hệ giải quyết vấn đề đối với tình huống được nêu  ra.                                                lOMoAR cPSD| 58137911  
Bản chất và hiện tượng là một trong sáu cặp phạm trù cơ bản của phép duy 
vật biện chứng, nó giúp mỗi chúng ta có cái nhìn vừa tổng quát, vừa cụ thể và sâu 
sắc hơn về những sự vật, hiện tượng của thế giới xung quanh. Qua đó, mỗi chúng 
ta có thể vận dụng giá trị của phương pháp luận để phân tích, xem xét các vấn đề 
trong quá trình nhận thức cũng như ứng dụng trong cuộc sống thực tiễn. 
1. Khái niệm bản chất và hiện tượng 
- Bản chất là phạm trù chỉ tổng thể các mối liên hệ khách quan, tất 
nhiên,tương đối ổn định bên trong, quy định sự vận động, phát triển của đối tượng 
và thể hiện mình qua các hiện tượng tương ứng của đối tượng. 
- Hiện tượng là phạm trù chỉ những biểu hiện của các mặt, mối liên hệ 
tấtnhiên tương đối ổn định ở bên ngoài; là mặt dễ biến đổi hơn và là hình thức thể 
hiện của bản chất đối tượng. 
Bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan trong mối liên hệ hữu cơ, cái 
này khổng thể tồn tại thiếu cái kia. Về cơ bản, bản chất và hiện tượng có xu hướng 
phù hợp với nhau, bởi mỗi đối tượng đều là sự thống nhất giữa bản chất với hiện 
tượng và sự thống nhất đó được thê hiện ở chỗ, bản chất tồn tại thông qua hiện 
tượng còn hiện tượng phải là sự thể hiện của bản chất; bản chất “được ánh lên” 
nhờ hiện tượng (Hêghen).  2. 
Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cặp phạm trù bản chất 
vàhiện tượng 
Qua tìm hiểu định nghĩa về cặp phạm trù bản chất và hiện tượng, ta thấy hai 
phạm trù này đều tồn tại khách quan. Mối quan hệ giữa chúng là hai mặt vừa thống  nhất, vừa đối lập. 
- Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng: 
Qua ví dụ đã nêu, ta thấy bản chất là cái bên trong chỉ được biểu hiện thông 
qua hiện tượng. Hay nói cách khác, hiện tượng luôn thể hiện một bản chất nhất 
định. Như vậy, không có bản chất tồn tại thuần túy tách rời hiện tượng, cũng như 
không có hiện tượng lại không biểu hiện của một bản chất nào. Lê - nin khẳng 
định: “Bản chất hiện ra, hiện tương tường là có tính bản chất”. 
Chính vì vậy, bản chất thay đổi thì hiện tượng cũng thay đổi theo. Chúng sẽ 
luôn tồn tại cùng nhau, nếu bản chất cũ mất đi thì các hiện tượng do nó sinh ra 
cũng mất theo. Ngược lại, khi bản chất mới xuất hiện thì nó lại sản sinh ra các 
hiện tượng phù hợp với nó. 
- Sự đối lập giữa bản chất và hiện tượng:      lOMoAR cPSD| 58137911
Sự đối lập của cặp phạm trù bản chất và hiện tượng được thể hiện thông qua  các yếu tố sau: 
+ Bản chất là cái chung, cái tất yếu, còn hiện tượng là cái riêng biệt phong phú và  đa dạng. 
+ Bản chất là cái bên trong, hiện tượng là cái bên ngoài. 
+ Bản chất là cái tương đói ổn định, còn hiện tượng là cái thường xuyên biến đổi. 
3. Vận dụng thực tiễn cặp phạm trù bản chất và hiện tượng 
Vận dụng cặp phạm trù bản chất - hiện tượng để phân tích lối sống của Sinh  viên Việt Nam hiện nay. 
Trước hết, chúng ta có thể khẳng định một điều rằng sinh viên hiện nay rất 
năng động, sáng tạo và nhạy bén với cuộc sống. Nếu như trước đây, khi cuộc sống 
đang còn khó khăn, chúng ta chỉ thấy một lớp sinh viên học hành chăm chỉ cốt 
sao cho sau này ra trường sẽ xin được một công việc vào biên chế trong Nhà nước, 
từ đó cuộc sống cứ thế tiếp diễn. 
Nhưng ngày nay cơ chế thị trường mở của, sinh viên đã có điều kiện để phát 
triển khả năng sáng tạo do có đầy đủ thông tin, một cuộc sống chất lượng tốt hơn 
và chủ động hơn trong việc lựa chọn nghề nghiệp. Tất cả những yếu tố đó làm cho 
sinh viên năng động hơn, ngày càng chiếm lĩnh những lĩnh vực mới lạ. Vì thế mà 
bốn bạn trẻ: Trịnh Xuân Hảo, Phạm Thị Hoàng lam, Trịnh Minh Khôi và Lê 
Nguyễn Vũ Bình (sinh viên ĐH GTVTTPHCM) đã có sự khởi đầu khá ngoạn 
mục: Khi đang là sinh viên năm thứ 3, họ đã hoàn thành công trình nghiên cứu 
“thiết kế bảng đèn thông tin điện tử” – đã đoạt giải nhất sinh viên nghiên cứu khoa 
học cấp trường và đoạt giải ba Eureka 2002 do Sở Khoa học Công nghệ và Môi 
trường cùng Trung tâm Khoa học Công nghệ trẻ Thành đoàn TPHCM tổ chức. 
4. Ví dụ về cặp phạm trù bản chất và hiện tượng 
- Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên tươngđối 
ổn định ở bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật đó. 
Ví dụ: Bản chất của con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội trong cuộc 
sống. Nếu ai đó không có bất cứ mối quan hệ xã hội nào, dù nhỏ nhất, thì người 
đó chưa phải là con người theo đúng nghĩa. 
- Hiện tượng là sự biểu hiện của những mặt, những mối liên hệ thuộc bảnchất 
của sự vật, hiện tượng ra bên ngoài. 
Ví dụ: Màu da cụ thể của một người nào đó là trắng, vàng hay đen… chỉ là hiện 
tượng, là vẻ bề ngoài.      lOMoAR cPSD| 58137911
- Bản chất chính là mặt bên trong, mặt tương đối ổn định của hiện thựckhách 
quan. Nó ẩn giấu đằng sau cái vẻ bề ngoài của hiện tượng và biểu lộ ra qua những 
hiện tượng ấy. Còn hiện tượng là mặt bên ngoài, mặt di động và biến đổi hơn của 
hiện thực khách quan. Nó là hình thức biểu hiện của bản chất. 
- Phạm trù bản chất gắn bó hết sức chặt chẽ với phạm trù cái chung. Cái 
tạonên bản chất của một lớp sự vật nhất định cũng đồng thời là cái chung của các 
sự vật đó. Nhưng không phải cái chung nào cũng là cái bản chất. Vì bản chất chỉ 
là cái chung tất yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật. 
- Cái bản chất cũng đồng thời là cái có tính quy luật. Tức là, tổ hợp nhữngquy 
luật quyết định sự vật động, phát triển của sự vật chính là bản chất của sự vật ấy. 
Lê-nin viết: “Quy luật và bản chất là những khái niệm cùng một loại (cùng một 
bậc), hay nói đúng hơn là cùng một trình độ…” 
Ví dụ: Quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản. 
Quy luật này chi phối toàn bộ quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong của chủ 
nghĩa tư bản. Đồng thời, quy luật này cũng là bản chất của chủ nghĩa tư bản. Bản 
chất đó cho thấy chủ nghĩa tư bản luôn có mục tiêu sản xuất giá trị thặng dư càng  nhiều càng tốt. 
- Tuy cùng trình độ, nhưng bản chất và quy luật không hoàn toàn đồngnhất 
với nhau. Phạm trù bản chất rộng hơn và phong phú hơn phạm trù quy luật: 
+ Quy luật là mối liên hệ tất nhiên, phổ biến, lặp đi lặp lại, ổn định giữa các hiện 
tượng hay giữa các mặt của cùng một hiện tượng. 
+ Còn bản chất là tổng hợp tất cả những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định 
ở bên trong sự vật, tức là ngoài những mối liên hệ chung, nó còn những mối liên 
hệ riêng chỉ nó mới có. 
5. Ý nghĩa phương pháp luận cặp phạm trù bản chất và hiện tượng 
Muốn nhận thức đúng sự thật, hiện tượng thì không dừng lại ở hiện tượng 
bên ngoài mà phải đi vào bản chất. Phải thông qua nhiều hiện tượng khác nhau 
mới nhận thức đúng và đầy đủ bản chất. Theo V.I.Lênin: “Tư tưởng của người ta 
đi sâu một cách vô hạn, từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất cấp một… đến  bản chất cấp hai..." 
Nhiệm vụ của nhận thức nói chung, của khoa học nhận thức nói riêng là phải 
vạch ra được bản chất của sự vật. 
Còn trong hoạt động thực tiễn, cần dựa vào bản chất chứ không phải dựa vào  hiện tượng.      lOMoAR cPSD| 58137911
- Vì bản chất tồn tại khách quan ở ngay trong bản thân sự vật nên chỉ có 
thểtìm ra bản chất sự vật ở bên trong sự vật ấy chứ không phải ở bên ngoài nó. 
Khi kết luận về bản chất của sự vật, cần tránh những nhận định chủ quan, tùy tiện. 
- Vì bản chất không tồn tại dưới dạng thuần túy mà bao giờ cũng bộc lộ rabên 
ngoài thông qua các hiện tượng tương ứng của mình nên chỉ có thể tìm ra cái bản 
chất trên cơ sở nghiên cứu các hiện tượng. 
- Trong quá trình nhận thức bản chất của sự vật phải xem xét rất nhiều 
hiệntượng khác nhau từ nhiều góc độ khác nhau. 
Sở dĩ như vậy vì hiện tượng bao giờ cũng biểu hiện bản chất dưới dạng đã 
cải biến, nhiều khi xuyên tạc bản chất. 
Nhưng trong một hoàn cảnh và một phạm vi thời gian nhất định ta không bao 
giờ có thể xem xét hết được mọi hiện tượng biểu hiện bản chất của sự vật. Do vậy, 
ta phải ưu tiên xem xét trước hết các hiện tượng điển hình trong hoàn cảnh điển  hình. 
Dĩ nhiên, kết quả của một sự xem xét như vậy chưa thể phản ánh đầy đủ bản 
chất của sự vật. Mà đó mới chỉ phản ánh một cấp độ nhất định của nó. Quá trình 
đi vào nắm bắt các cấp độ tiếp theo, ngày càng sâu sắc hơn trong bản chất của sự 
vật là một quá trình hết sức khó khăn, lâu dài, công phu, không có điểm dừng. 
Cũng chính vì vậy, khi kết luận về bản chất của sự vật, chúng ta cần hết sức thận  trọng. 
Phần II : Thực tiễn 
 Tình huống diễn ra ở đây là sự chuyển biến, thay đổi của người bố đối 
với chính gia đình của mình. Mà cụ thể được phản ánh qua những sự việc 
người con gái hỏi mẹ về việc tại sao lại tha thứ cho cha của mình, ông ấy đã 
phản bội lại chúng ta. Người mẹ đang đối mặt với sự nhận thức của con gái 
theo hướng mang những giá trị tiêu cực. 
 Việc này có thể giải thích bằng phạm trù bản chất và hiện tượng. Bản chất 
là phạm trù chỉ tổng thể các mối liên hệ khách quan, tất nhiên, tương đối ổn 
định bên trong, quy định sự vận động, phát triển của đối tượng và thể hiện 
mình qua các hiện tượng tương ứng của đối tượng. Hiện tượng là phạm trù 
chỉ những biểu hiện của các mặt, mối liên hệ tất nhiên tương đối ổn định ở 
bên ngoài; là mặt dễ biến đổi hơn và là hình thức thể hiện của bản chất đối 
tượng. Chúng tồn tại thống nhất hữu cơ với nhau nghĩa là bản chất bộc lộ 
qua hiện tượng, hiện tượng cũng phản ánh bản chất. Trong tình huống này 
chúng ta hiểu bản chất là nhân cách người bố biểu hiện qua hiện tượng người 
bố phản bội lại gia đình của chính mình. Từ đây, qua nhiều hiện tượng để tìm      lOMoAR cPSD| 58137911
ra bản chất. Tuy nhiên, nếu chỉ một hay vài hiện tượng, vội kết luận bản chất, 
nhân cách của người bố thì sẽ là sai lầm. Kết luận bản chất con người không 
phải là một điều đơn giản. Hiện tượng đôi khi không phản ánh hoàn toàn bản 
chát. Bản chất thì ổn định, hiện tượng thì biến đổi nhanh hơn so với bản chất. 
Nếu vội kết luận ông bố là một người tồi tệ, nhân phẩm rách nát không thể 
tha thứ thì là quá vội vàng, như lời bà mẹ đã nói:”Mẹ chọn tha thứ không 
phải bởi vì những điều ông ấy làm sai mà là vì những điều ông ấy đã làm 
đúng trong cuộc hôn nhân này”. Chính điều này gây ra sự tranh cãi, chia làm 
2 phe một bên ủng hộ người mẹ một bên ủng hộ người con gái. Người xưa 
có quan điểm cho rằng:” Nhân chi sơ tính bản thiện”. Sự thay đổi trong tâm 
lí, tính cách của người cha chính là hiện tượng của hiện tại. Hoàn cảnh tác 
động to lớn đến bản chất. Những gì ông ấy làm sai ở đây có thể là phản bội 
về mặt tình cảm, chung thuỷ của mình, cụ thể là ngoại tình. Còn điều ông ấy 
làm đúng ở đây là trong cuộc sống ông ấy đã làm tròn trách nhiệm của người 
bố, cụ thể là chăm lo trọn vẹn cho gia đình mình, cho gia đình nội ngoại 2 
bên một cách trọn vẹn, làm trụ cột gánh vác cho gia đình và cũng đối xử tốt 
với hai mẹ con trọn vẹn nghĩa tình. Nhưng tình cảm cũng là một cái gì đó 
khó nói, giữa 2 bên tình nghĩa trách nhiệm và tình cảm thì người bố đã chọn 
tình cảm. Ông ấy làm thế vừa đúng cũng vừa sai. Sai ở chỗ ông ấy là phản 
bội lại những người tin tưởng mình nhất, là chỗ dựa tinh thần vững chắc từ 
trước đến giờ. Còn đúng là đúng ở chỗ ông ấy đã đưa ra được quyết định của 
mình, dứt khoát lựa chọn. Khi mà đứng ở giữa 2 thứ không thể chọn lựa thì 
kết cục duy nhất chỉ có thể là mất cả 2. Ông ấy đã lựa chọn kết thúc trọn vẹn 
để không làm khổ 2 bên thêm. 
 Khi đã hiểu được các phạm trù và nguyên nhân cơ bản cho sự thay đổi 
trong con người của bố, mẹ và con gái lúc này cần có biện pháp ứng xử phù 
hợp. Ở từng độ tuổi khác nhau sẽ có nhận thức về cuộc đời khác nhau, người 
mẹ ở góc nhìn trưởng thành cộng với nhiều năm chung sống sẽ nhìn nhận 
được bản chất của người đã từng chung giường chung chăn với mình nên lựa 
chọn tha thứ, còn người con gái non nớt mới bước vào cuộc đời khi thấy 
người bố- hình tượng lí tưởng của mình từ nhỏ sụp đổ thì lúc đó chỉ có duy 
nhất cảm xúc thất vọng tràn trề và hình tượng của người bố hiện tại trong 
mắt người con gái theo cô ấy chính là bản chất của người đàn ông này nên 
cô ấy lựa chọn không thể tha thứ. 
 Lời mở đầu cho trường hợp của người bố dưới góc độ Triết học là khẳng 
định đúng đắn trong nhận xét của C.Mác:” Trong tính hiện thực của nó, bản 
chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội”. Sự thay đổi của người      lOMoAR cPSD| 58137911
bố là tác động lẫn nhau từ các mối quan hệ trong đời sống xã hội mà người  bố sống trong đó. 
 Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển 
của con người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau, 
nhưng thống nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về 
sự phù hợp cơ thể với môi trường, quy luật về sự trao dổi chất, về di truyền, 
biến dị, tiến hoá,... quy định phương diện sinh học của con người. Hệ thống 
các quy luật tâm lý ý thức hình thành và vận động trên nền tảng sinh học của 
con người như hình thành tình cảm, nhu cầu thẩm mỹ và hưởng thụ các giá  trị tinh thần. 
 Xã hội do các cá nhân tạo nên. Các cá nhân sống và hoạt động trong các 
nhóm, cộng đồng và tập đoàn xã hội khác nhau, mang tính lịch sử xác định. 
Yếu tố xã hội là đặc trưng căn bản để hình thành cá nhân. Môi trường xã hội 
cũng ảnh hưởng tới sự phát triển con người. Nếu con người ít tiếp xúc, trao 
đổi với người xung quanh hoặc sống trong môi trường xã hội quá đơn điệu 
thì sẽ nghèo nàn về tâm lý, kém sự linh động. 
 Nhân cách là khái niệm chỉ bản sắc độc đáo, riêng biệt của mỗi cá nhân, 
là nội dung và tính chất bên trong của mỗi cá nhân. Bởi vậy, nếu cá nhân là 
khái niệm chỉ sự khác biệt giữa cá thể với giống loài thì nhân cách là khái 
niệm chỉ sự khác biệt giữa các cá nhân. Cá nhân là phương thức biểu hiện 
của giống loài còn nhân cách vừa là nội dung, vừa là cách thức biểu hiện của 
mỗi các nhân riêng biệt. 
 Nhân cách biểu hiện thế giới cái tôi của mỗi cá nhân, sự tổng hợp của các 
yếu tố sinh học, tâm lí, xã hội, tạo nên đặc trưng riêng có của cá nhân, đóng 
vai trò chủ thể tự ý thức, tự đánh giá, tự khẳng định và tự điều chỉnh mọi  hoạt động của mình.