lOMoARcPSD| 58137911
BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
Đề : Phân tích cặp phạm trù bản chất, hiện tượng. Từ góc độ
quan điểm của Triết học Mác – Leenin về bản chất - hin
ợng, liên hệ giải quyết vấn đề đối với tình huống được nêu
ra.
lOMoARcPSD| 58137911
Bản chất hiện tượng một trong sáu cặp phạm trù bản của phép duy
vật biện chứng, giúp mỗi chúng ta cái nhìn vừa tổng quát, vừa cụ thể u
sắc hơn về những sự vật, hiện tượng của thế giới xung quanh. Qua đó, mỗi chúng
ta có thể vận dụng giá trị của phương pháp luận để phân tích, xem xét các vấn đ
trong quá trình nhận thức cũng như ứng dụng trong cuộc sống thực tiễn.
1. Khái niệm bản chất và hiện tượng
- Bản chất phạm trù chỉ tổng thể các mối liên hệ khách quan, tất
nhiên,tương đối ổn định bên trong, quy định svận động, phát triển của đối tượng
và thể hiện mình qua các hiện tượng tương ứng của đối tượng.
- Hiện tượng phạm trù chỉ những biểu hiện của các mặt, mối liên hệ
tấtnhiên tương đối ổn định bên ngoài; là mặt dễ biến đổi hơn và là hình thức thể
hiện của bản chất đối tượng.
Bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan trong mối liên hệ hữu cơ, cái
này khổng thể tồn tại thiếu cái kia. Về bản, bản chất hiện tượng xu hướng
phù hợp với nhau, bởi mỗi đối tượng đều là sự thống nhất giữa bản chất với hiện
tượng sự thống nhất đó được thê hiện chỗ, bản chất tồn tại thông qua hiện
tượng còn hiện tượng phải là sự thể hiện của bản chất; bản chất “được ánh lên”
nhờ hiện tượng (Hêghen).
2. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cặp phạm trù bản chất
vàhiện tượng
Qua tìm hiểu định nghĩa về cặp phạm trù bản chất và hiện tượng, ta thấy hai
phạm trù này đều tồn tại khách quan. Mối quan hệ giữa chúng hai mặt vừa thống
nhất, vừa đối lập.
- Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng:
Qua ví dụ đã nêu, ta thấy bản chất là cái bên trong chỉ được biểu hiện thông
qua hiện tượng. Hay nói cách khác, hiện tượng luôn thể hiện một bản chất nhất
định. Như vậy, không có bản chất tồn tại thuần túy tách rời hiện tượng, cũng như
không hiện tượng lại không biểu hiện của một bản chất nào. - nin khẳng
định: “Bản chất hiện ra, hiện tương tường là có tính bản chất”.
Chính vì vậy, bản chất thay đổi thì hiện tượng cũng thay đổi theo. Chúng sẽ
luôn tồn tại cùng nhau, nếu bản chất mất đi thì các hiện tượng do sinh ra
cũng mất theo. Ngược lại, khi bản chất mới xuất hiện thì lại sản sinh ra các
hiện tượng phù hợp với nó.
- Sự đối lập giữa bản chất và hiện tượng:
lOMoARcPSD| 58137911
Sự đối lập của cặp phạm trù bản chất và hiện tượng được thể hiện thông qua
các yếu tố sau:
+ Bản chất là cái chung, cái tất yếu, n hiện tượng là cái riêng biệt phong phú
đa dạng.
+ Bản chất là cái bên trong, hiện tượng là cái bên ngoài.
+ Bản chất là cái tương đói ổn định, còn hiện tượng là cái thường xuyên biến đổi.
3. Vận dụng thực tiễn cặp phạm trù bản chất và hiện tượng
Vận dụng cặp phạm trù bản chất - hiện tượng để phân tích lối sống của Sinh
viên Việt Nam hiện nay.
Trước hết, chúng ta thể khẳng định một điều rằng sinh viên hiện nay rất
năng động, sáng tạo nhạy bén với cuộc sống. Nếu như trước đây, khi cuộc sống
đang còn khó khăn, chúng ta chỉ thấy một lớp sinh viên học hành chăm chỉ cốt
sao cho sau này ra trường sẽ xin được một công việc vào biên chế trong Nhà nước,
từ đó cuộc sống cứ thế tiếp diễn.
Nhưng ngày nay chế thị trường mở của, sinh viên đã có điều kiện để phát
triển khả năng sáng tạo do có đầy đủ thông tin, một cuộc sống chất lượng tốt hơn
chủ động hơn trong việc lựa chọn nghề nghiệp. Tất cả những yếu tố đó làm cho
sinh viên năng động hơn, ngày càng chiếm lĩnh những lĩnh vực mới lạ. Vì thế mà
bốn bạn trẻ: Trịnh Xuân Hảo, Phạm Thị Hoàng lam, Trịnh Minh Khôi
Nguyễn Bình (sinh viên ĐH GTVTTPHCM) đã sự khởi đầu khá ngoạn
mục: Khi đang sinh viên năm thứ 3, họ đã hoàn thành công trình nghiên cứu
“thiết kế bảng đèn thông tin điện tử” đã đoạt giải nhất sinh viên nghiên cứu khoa
học cấp trường đoạt giải ba Eureka 2002 do Sở Khoa học Công nghệ Môi
trường cùng Trung tâm Khoa học Công nghệ trẻ Thành đoàn TPHCM tổ chức.
4. Ví dụ về cặp phạm trù bản chất và hiện tượng
- Bản chất tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên tươngđối
ổn định ở bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật đó.
dụ: Bản chất của con người tổng hòa các mối quan hệ hội trong cuộc
sống. Nếu ai đó không có bất cứ mối quan hệ hội nào, dù nhỏ nhất, thì người
đó chưa phải là con người theo đúng nghĩa.
- Hiện tượng sự biểu hiện của những mặt, những mối liên hệ thuộc bảnchất
của sự vật, hiện tượng ra bên ngoài.
Ví dụ: Màu da cụ thể của một người nào đó trắng, vàng hay đen… chỉ là hiện
tượng, là vẻ bề ngoài.
lOMoARcPSD| 58137911
- Bản chất chính mặt bên trong, mặt tương đối n định của hiện thựckhách
quan. Nó ẩn giấu đằng sau cái vẻ bề ngoài của hiện tượng và biểu lộ ra qua những
hiện tượng ấy. Còn hiện tượng là mặt bên ngoài, mặt di động và biến đổi hơn của
hiện thực khách quan. Nó là hình thức biểu hiện của bản chất.
- Phạm trù bản chất gắn hết sức chặt chẽ với phạm tcái chung. Cái
tạonên bản chất của một lớp sự vật nhất định cũng đồng thời là cái chung của các
sự vật đó. Nhưng không phải cái chung nào cũng là cái bản chất. Vì bản chất chỉ
là cái chung tất yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật.
- Cái bản chất cũng đồng thời cái tính quy luật. Tức là, tổ hợp nhữngquy
luật quyết định sự vật động, phát triển của sự vật chính là bản chất của sự vật ấy.
-nin viết: “Quy luật bản chất những khái niệm cùng một loại (cùng một
bậc), hay nói đúng hơn là cùng một trình độ…”
Ví dụ: Quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản.
Quy luật này chi phối toàn bquá trình phát sinh, phát triển diệt vong của ch
nghĩa bản. Đồng thời, quy luật này cũng bản chất của chủ nghĩa bản. Bản
chất đó cho thấy chủ nghĩa bản luôn mục tiêu sản xuất giá trị thặng dư càng
nhiều càng tốt.
- Tuy cùng trình độ, nhưng bản chất quy luật không hoàn toàn đồngnhất
với nhau. Phạm trù bản chất rộng hơn và phong phú hơn phạm trù quy luật:
+ Quy luật là mối liên hệ tất nhiên, phổ biến, lặp đi lặp lại, ổn định giữa các hiện
tượng hay giữa các mặt của cùng một hiện tượng.
+ Còn bản chất là tổng hợp tất cả những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định
ở bên trong sự vật, tức là ngoài những mối liên hệ chung, nó còn những mối liên
hệ riêng chỉ nó mới có.
5. Ý nghĩa phương pháp luận cặp phạm trù bản chất và hiện tượng
Muốn nhận thức đúng sự thật, hiện tượng thì không dừng lại hiện tượng
bên ngoài phải đi vào bản chất. Phải thông qua nhiều hiện tượng khác nhau
mới nhận thức đúng và đầy đủ bản chất. Theo V.I.Lênin: “Tư tưởng của người ta
đi sâu một cách hạn, từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất cấp một… đến
bản chất cấp hai..."
Nhiệm vụ của nhận thức nói chung, của khoa học nhận thức nói riêng là phải
vạch ra được bản chất của sự vật.
Còn trong hoạt động thực tiễn, cần dựa vào bản chất chứ không phải dựa vào
hiện tượng.
lOMoARcPSD| 58137911
- bản chất tồn tại khách quan ngay trong bản thân sự vật nên chỉ
thểtìm ra bản chất sự vật bên trong sự vật ấy chứ không phải bên ngoài nó.
Khi kết luận về bản chất của sự vật, cần tránh những nhận định chủ quan, tùy tiện.
- bản chất không tồn tại dưới dạng thuần túy bao giờ cũng bộc lộ rabên
ngoài thông qua các hiện tượng tương ứng của mình nên chỉ có thể tìm ra cái bản
chất trên cơ sở nghiên cứu các hiện tượng.
- Trong quá trình nhận thức bản chất của sự vật phải xem xét rất nhiều
hiệntượng khác nhau từ nhiều góc độ khác nhau.
Sở như vậy hiện tượng bao giờ cũng biểu hiện bản chất dưới dạng đã
cải biến, nhiều khi xuyên tạc bản chất.
Nhưng trong một hoàn cảnh một phạm vi thời gian nhất định ta không bao
giờ thể xem xét hết được mọi hiện tượng biểu hiện bản chất của svật. Do vậy,
ta phải ưu tiên xem xét trước hết các hiện tượng điển hình trong hoàn cảnh điển
hình.
Dĩ nhiên, kết quả của một sự xem xét như vậy chưa thể phản ánh đầy đủ bản
chất của sự vật. Mà đó mới chỉ phản ánh một cấp độ nhất định của nó. Quá trình
đi vào nắm bắt các cấp độ tiếp theo, ngày càng sâu sắc hơn trong bản chất của sự
vật một quá trình hết sức khó khăn, lâu dài, công phu, không điểm dừng.
Cũng chính vì vậy, khi kết luận về bản chất của sự vật, chúng ta cần hết sức thận
trọng.
Phần II : Thực tiễn
Tình huống diễn ra đây là sự chuyển biến, thay đổi của người bố đối
với chính gia đình của mình. cụ thể được phản ánh qua những sviệc
người con gái hỏi mẹ về việc tại sao lại tha thứ cho cha của mình, ông ấy đã
phản bội lại chúng ta. Người mẹ đang đối mặt với sự nhận thức của con gái
theo hướng mang những giá trị tiêu cực.
Việc này có thể giải thích bằng phạm trù bản chất hiện tượng. Bản chất
là phạm trù chỉ tổng thể các mối liên hệ khách quan, tất nhiên, tương đối ổn
định bên trong, quy định sự vận động, phát triển của đối tượng thể hiện
mình qua các hiện tượng tương ứng của đối tượng. Hiện tượng là phạm t
chỉ những biểu hiện của các mặt, mối liên hệ tất nhiên tương đối n định
bên ngoài; là mặt dễ biến đổi hơn hình thức thể hiện của bản chất đối
tượng. Chúng tồn tại thống nhất hữu với nhau nghĩa bản chất bộc lộ
qua hiện tượng, hiện tượng cũng phản ánh bản chất. Trong tình huống này
chúng ta hiểu bản chất nhân cách người bố biểu hiện qua hiện tượng người
bố phản bội lại gia đình của chính mình. Từ đây, qua nhiều hiện tượng để tìm
lOMoARcPSD| 58137911
ra bản chất. Tuy nhiên, nếu chỉ một hay vài hiện tượng, vội kết luận bản chất,
nhân cách của người bố thì sẽ là sai lầm. Kết luận bản chất con người không
phải một điều đơn giản. Hiện tượng đôi khi không phản ánh hoàn toàn bản
chát. Bản chất thì ổn định, hiện tượng thì biến đổi nhanh hơn so với bản chất.
Nếu vội kết luận ông bố một người tồi tệ, nhân phẩm rách nát không thể
tha thứ thì quá vội vàng, như lời bà mẹ đã nói:”Mẹ chọn tha thứ không
phải bởi những điều ông ấy làm sai những điều ông ấy đã làm
đúng trong cuộc hôn nhân này”. Chính điều này gây ra sự tranh cãi, chia làm
2 phe một bên ủng hộ người mẹ một bên ủng hộ người con gái. Người xưa
có quan điểm cho rằng:” Nhân chi sơ tính bản thiện”. Sự thay đổi trong tâm
lí, tính cách của người cha chính hiện tượng của hiện tại. Hoàn cảnh tác
động to lớn đến bản chất. Những gì ông ấy làm sai ở đây có thể là phản bội
về mặt tình cảm, chung thuỷ của mình, cụ thể là ngoại tình. Còn điều ông ấy
làm đúng đây trong cuộc sống ông ấy đã làm tròn trách nhiệm của người
bố, cụ thể là chăm lo trọn vẹn cho gia đình mình, cho gia đình nội ngoại 2
bên một cách trọn vẹn, làm trụ cột gánh vác cho gia đình và cũng đối xử tốt
với hai mẹ con trọn vẹn nghĩa tình. Nhưng tình cảm cũng một cái đó
khó nói, giữa 2 bên tình nghĩa trách nhiệm và tình cảm thì người bố đã chọn
tình cảm. Ông ấy làm thế vừa đúng cũng vừa sai. Sai chỗ ông ấy phản
bội lại những người tin tưởng mình nhất, chỗ dựa tinh thần vững chắc từ
trước đến giờ. Còn đúng đúng ở chỗ ông ấy đã đưa ra được quyết định của
mình, dứt khoát lựa chọn. Khi mà đứng ở giữa 2 thứ không thể chọn lựa thì
kết cục duy nhất chỉ có thể là mất cả 2. Ông ấy đã lựa chọn kết thúc trọn vẹn
để không làm khổ 2 bên thêm.
Khi đã hiểu được các phạm trù và nguyên nhân bản cho sự thay đổi
trong con người của bố, mẹ và con gái lúc này cần có biện pháp ứng xử phù
hợp. từng độ tuổi khác nhau snhận thức về cuộc đời khác nhau, người
mẹ góc nhìn trưởng thành cộng vi nhiều năm chung sống sẽ nhìn nhận
được bản chất của người đã từng chung giường chung chăn với mình nên lựa
chọn tha thứ, còn người con gái non nớt mới bước vào cuộc đời khi thấy
người bố- hình tượng lí tưởng của mình từ nhỏ sụp đổ thì lúc đó chỉ có duy
nhất cảm xúc thất vọng tràn trề hình tượng của người bố hiện tại trong
mắt người con gái theo ấy chính bản chất của người đàn ông này nên
cô ấy lựa chọn không thể tha thứ.
Lời mở đầu cho trường hợp của người bố dưới góc độ Triết học là khẳng
định đúng đắn trong nhận xét của C.Mác:” Trong tính hiện thực của nó, bản
chất con người tổng hoà các mối quan hệ hội”. Sự thay đổi của người
lOMoARcPSD| 58137911
bố tác động lẫn nhau từ các mối quan hệ trong đời sống hội mà người
bố sống trong đó.
sản phẩm của tnhiên hội nên quá trình hình thành phát triển
của con người luôn luôn bị quyết định bởi ba hthống quy luật khác nhau,
nhưng thống nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về
sự phù hợp cơ thể với môi trường, quy luật về sự trao dổi chất, về di truyền,
biến dị, tiến hoá,... quy định phương diện sinh học của con người. Hệ thống
các quy luật tâm lý ý thức hình thành vận động trên nền tảng sinh học của
con người như hình thành tình cảm, nhu cầu thẩm mỹ hưởng thụ các giá
trị tinh thần.
Xã hội do các cá nhân tạo nên. Các cá nhân sống và hoạt động trong các
nhóm, cộng đồng và tập đoàn xã hội khác nhau, mang tính lịch sử xác định.
Yếu tố xã hội đặc trưng căn bản để hình thành nhân. Môi trường xã hội
cũng ảnh hưởng tới sự phát triển con người. Nếu con người ít tiếp xúc, trao
đổi với người xung quanh hoặc sống trong môi trường hội quá đơn điệu
thì sẽ nghèo nàn về tâm lý, kém sự linh động.
Nhân cách là khái niệm chỉ bản sắc độc đáo, riêng biệt của mỗi nhân,
là nội dung và tính chất bên trong của mỗi cá nhân. Bởi vậy, nếu cá nhân
khái niệm chỉ sự khác biệt giữa thể với giống loài thì nhân cách khái
niệm chỉ sự khác biệt giữa các nhân. nhân phương thức biểu hiện
của giống loài còn nhân cách vừa nội dung, vừa cách thức biểu hiện của
mỗi các nhân riêng biệt.
Nhân cách biểu hiện thế giới cái tôi của mỗi nhân, sự tổng hợp của các
yếu tố sinh học, tâm lí, xã hội, tạo nên đặc trưng riêng có của cá nhân, đóng
vai trò chthể tự ý thức, tđánh giá, tự khẳng định tđiều chỉnh mọi
hoạt động của mình.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58137911
BÀI TẬP LỚN – MÔN TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
Đề : Phân tích cặp phạm trù bản chất, hiện tượng. Từ góc độ
quan điểm của Triết học Mác – Leenin về bản chất - hiện
tượng, liên hệ giải quyết vấn đề đối với tình huống được nêu ra. lOMoAR cPSD| 58137911
Bản chất và hiện tượng là một trong sáu cặp phạm trù cơ bản của phép duy
vật biện chứng, nó giúp mỗi chúng ta có cái nhìn vừa tổng quát, vừa cụ thể và sâu
sắc hơn về những sự vật, hiện tượng của thế giới xung quanh. Qua đó, mỗi chúng
ta có thể vận dụng giá trị của phương pháp luận để phân tích, xem xét các vấn đề
trong quá trình nhận thức cũng như ứng dụng trong cuộc sống thực tiễn.
1. Khái niệm bản chất và hiện tượng
- Bản chất là phạm trù chỉ tổng thể các mối liên hệ khách quan, tất
nhiên,tương đối ổn định bên trong, quy định sự vận động, phát triển của đối tượng
và thể hiện mình qua các hiện tượng tương ứng của đối tượng.
- Hiện tượng là phạm trù chỉ những biểu hiện của các mặt, mối liên hệ
tấtnhiên tương đối ổn định ở bên ngoài; là mặt dễ biến đổi hơn và là hình thức thể
hiện của bản chất đối tượng.
Bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan trong mối liên hệ hữu cơ, cái
này khổng thể tồn tại thiếu cái kia. Về cơ bản, bản chất và hiện tượng có xu hướng
phù hợp với nhau, bởi mỗi đối tượng đều là sự thống nhất giữa bản chất với hiện
tượng và sự thống nhất đó được thê hiện ở chỗ, bản chất tồn tại thông qua hiện
tượng còn hiện tượng phải là sự thể hiện của bản chất; bản chất “được ánh lên”
nhờ hiện tượng (Hêghen). 2.
Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cặp phạm trù bản chất
vàhiện tượng
Qua tìm hiểu định nghĩa về cặp phạm trù bản chất và hiện tượng, ta thấy hai
phạm trù này đều tồn tại khách quan. Mối quan hệ giữa chúng là hai mặt vừa thống nhất, vừa đối lập.
- Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng:
Qua ví dụ đã nêu, ta thấy bản chất là cái bên trong chỉ được biểu hiện thông
qua hiện tượng. Hay nói cách khác, hiện tượng luôn thể hiện một bản chất nhất
định. Như vậy, không có bản chất tồn tại thuần túy tách rời hiện tượng, cũng như
không có hiện tượng lại không biểu hiện của một bản chất nào. Lê - nin khẳng
định: “Bản chất hiện ra, hiện tương tường là có tính bản chất”.
Chính vì vậy, bản chất thay đổi thì hiện tượng cũng thay đổi theo. Chúng sẽ
luôn tồn tại cùng nhau, nếu bản chất cũ mất đi thì các hiện tượng do nó sinh ra
cũng mất theo. Ngược lại, khi bản chất mới xuất hiện thì nó lại sản sinh ra các
hiện tượng phù hợp với nó.
- Sự đối lập giữa bản chất và hiện tượng: lOMoAR cPSD| 58137911
Sự đối lập của cặp phạm trù bản chất và hiện tượng được thể hiện thông qua các yếu tố sau:
+ Bản chất là cái chung, cái tất yếu, còn hiện tượng là cái riêng biệt phong phú và đa dạng.
+ Bản chất là cái bên trong, hiện tượng là cái bên ngoài.
+ Bản chất là cái tương đói ổn định, còn hiện tượng là cái thường xuyên biến đổi.
3. Vận dụng thực tiễn cặp phạm trù bản chất và hiện tượng
Vận dụng cặp phạm trù bản chất - hiện tượng để phân tích lối sống của Sinh viên Việt Nam hiện nay.
Trước hết, chúng ta có thể khẳng định một điều rằng sinh viên hiện nay rất
năng động, sáng tạo và nhạy bén với cuộc sống. Nếu như trước đây, khi cuộc sống
đang còn khó khăn, chúng ta chỉ thấy một lớp sinh viên học hành chăm chỉ cốt
sao cho sau này ra trường sẽ xin được một công việc vào biên chế trong Nhà nước,
từ đó cuộc sống cứ thế tiếp diễn.
Nhưng ngày nay cơ chế thị trường mở của, sinh viên đã có điều kiện để phát
triển khả năng sáng tạo do có đầy đủ thông tin, một cuộc sống chất lượng tốt hơn
và chủ động hơn trong việc lựa chọn nghề nghiệp. Tất cả những yếu tố đó làm cho
sinh viên năng động hơn, ngày càng chiếm lĩnh những lĩnh vực mới lạ. Vì thế mà
bốn bạn trẻ: Trịnh Xuân Hảo, Phạm Thị Hoàng lam, Trịnh Minh Khôi và Lê
Nguyễn Vũ Bình (sinh viên ĐH GTVTTPHCM) đã có sự khởi đầu khá ngoạn
mục: Khi đang là sinh viên năm thứ 3, họ đã hoàn thành công trình nghiên cứu
“thiết kế bảng đèn thông tin điện tử” – đã đoạt giải nhất sinh viên nghiên cứu khoa
học cấp trường và đoạt giải ba Eureka 2002 do Sở Khoa học Công nghệ và Môi
trường cùng Trung tâm Khoa học Công nghệ trẻ Thành đoàn TPHCM tổ chức.
4. Ví dụ về cặp phạm trù bản chất và hiện tượng
- Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên tươngđối
ổn định ở bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật đó.
Ví dụ: Bản chất của con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội trong cuộc
sống. Nếu ai đó không có bất cứ mối quan hệ xã hội nào, dù nhỏ nhất, thì người
đó chưa phải là con người theo đúng nghĩa
.
- Hiện tượng là sự biểu hiện của những mặt, những mối liên hệ thuộc bảnchất
của sự vật, hiện tượng ra bên ngoài.
Ví dụ: Màu da cụ thể của một người nào đó là trắng, vàng hay đen… chỉ là hiện
tượng, là vẻ bề ngoài. lOMoAR cPSD| 58137911
- Bản chất chính là mặt bên trong, mặt tương đối ổn định của hiện thựckhách
quan. Nó ẩn giấu đằng sau cái vẻ bề ngoài của hiện tượng và biểu lộ ra qua những
hiện tượng ấy. Còn hiện tượng là mặt bên ngoài, mặt di động và biến đổi hơn của
hiện thực khách quan. Nó là hình thức biểu hiện của bản chất.
- Phạm trù bản chất gắn bó hết sức chặt chẽ với phạm trù cái chung. Cái
tạonên bản chất của một lớp sự vật nhất định cũng đồng thời là cái chung của các
sự vật đó. Nhưng không phải cái chung nào cũng là cái bản chất. Vì bản chất chỉ
là cái chung tất yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật.
- Cái bản chất cũng đồng thời là cái có tính quy luật. Tức là, tổ hợp nhữngquy
luật quyết định sự vật động, phát triển của sự vật chính là bản chất của sự vật ấy.
Lê-nin viết: “Quy luật và bản chất là những khái niệm cùng một loại (cùng một
bậc), hay nói đúng hơn là cùng một trình độ…”
Ví dụ: Quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản.
Quy luật này chi phối toàn bộ quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong của chủ
nghĩa tư bản. Đồng thời, quy luật này cũng là bản chất của chủ nghĩa tư bản. Bản
chất đó cho thấy chủ nghĩa tư bản luôn có mục tiêu sản xuất giá trị thặng dư càng nhiều càng tốt.

- Tuy cùng trình độ, nhưng bản chất và quy luật không hoàn toàn đồngnhất
với nhau. Phạm trù bản chất rộng hơn và phong phú hơn phạm trù quy luật:
+ Quy luật là mối liên hệ tất nhiên, phổ biến, lặp đi lặp lại, ổn định giữa các hiện
tượng hay giữa các mặt của cùng một hiện tượng.
+ Còn bản chất là tổng hợp tất cả những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định
ở bên trong sự vật, tức là ngoài những mối liên hệ chung, nó còn những mối liên
hệ riêng chỉ nó mới có.
5. Ý nghĩa phương pháp luận cặp phạm trù bản chất và hiện tượng
Muốn nhận thức đúng sự thật, hiện tượng thì không dừng lại ở hiện tượng
bên ngoài mà phải đi vào bản chất. Phải thông qua nhiều hiện tượng khác nhau
mới nhận thức đúng và đầy đủ bản chất. Theo V.I.Lênin: “Tư tưởng của người ta
đi sâu một cách vô hạn, từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất cấp một… đến bản chất cấp hai..."
Nhiệm vụ của nhận thức nói chung, của khoa học nhận thức nói riêng là phải
vạch ra được bản chất của sự vật.
Còn trong hoạt động thực tiễn, cần dựa vào bản chất chứ không phải dựa vào hiện tượng. lOMoAR cPSD| 58137911
- Vì bản chất tồn tại khách quan ở ngay trong bản thân sự vật nên chỉ có
thểtìm ra bản chất sự vật ở bên trong sự vật ấy chứ không phải ở bên ngoài nó.
Khi kết luận về bản chất của sự vật, cần tránh những nhận định chủ quan, tùy tiện.
- Vì bản chất không tồn tại dưới dạng thuần túy mà bao giờ cũng bộc lộ rabên
ngoài thông qua các hiện tượng tương ứng của mình nên chỉ có thể tìm ra cái bản
chất trên cơ sở nghiên cứu các hiện tượng.
- Trong quá trình nhận thức bản chất của sự vật phải xem xét rất nhiều
hiệntượng khác nhau từ nhiều góc độ khác nhau.
Sở dĩ như vậy vì hiện tượng bao giờ cũng biểu hiện bản chất dưới dạng đã
cải biến, nhiều khi xuyên tạc bản chất.
Nhưng trong một hoàn cảnh và một phạm vi thời gian nhất định ta không bao
giờ có thể xem xét hết được mọi hiện tượng biểu hiện bản chất của sự vật. Do vậy,
ta phải ưu tiên xem xét trước hết các hiện tượng điển hình trong hoàn cảnh điển hình.
Dĩ nhiên, kết quả của một sự xem xét như vậy chưa thể phản ánh đầy đủ bản
chất của sự vật. Mà đó mới chỉ phản ánh một cấp độ nhất định của nó. Quá trình
đi vào nắm bắt các cấp độ tiếp theo, ngày càng sâu sắc hơn trong bản chất của sự
vật là một quá trình hết sức khó khăn, lâu dài, công phu, không có điểm dừng.
Cũng chính vì vậy, khi kết luận về bản chất của sự vật, chúng ta cần hết sức thận trọng.
Phần II : Thực tiễn
Tình huống diễn ra ở đây là sự chuyển biến, thay đổi của người bố đối
với chính gia đình của mình. Mà cụ thể được phản ánh qua những sự việc
người con gái hỏi mẹ về việc tại sao lại tha thứ cho cha của mình, ông ấy đã
phản bội lại chúng ta. Người mẹ đang đối mặt với sự nhận thức của con gái
theo hướng mang những giá trị tiêu cực.
Việc này có thể giải thích bằng phạm trù bản chất và hiện tượng. Bản chất
là phạm trù chỉ tổng thể các mối liên hệ khách quan, tất nhiên, tương đối ổn
định bên trong, quy định sự vận động, phát triển của đối tượng và thể hiện
mình qua các hiện tượng tương ứng của đối tượng. Hiện tượng là phạm trù
chỉ những biểu hiện của các mặt, mối liên hệ tất nhiên tương đối ổn định ở
bên ngoài; là mặt dễ biến đổi hơn và là hình thức thể hiện của bản chất đối
tượng. Chúng tồn tại thống nhất hữu cơ với nhau nghĩa là bản chất bộc lộ
qua hiện tượng, hiện tượng cũng phản ánh bản chất. Trong tình huống này
chúng ta hiểu bản chất là nhân cách người bố biểu hiện qua hiện tượng người
bố phản bội lại gia đình của chính mình. Từ đây, qua nhiều hiện tượng để tìm lOMoAR cPSD| 58137911
ra bản chất. Tuy nhiên, nếu chỉ một hay vài hiện tượng, vội kết luận bản chất,
nhân cách của người bố thì sẽ là sai lầm. Kết luận bản chất con người không
phải là một điều đơn giản. Hiện tượng đôi khi không phản ánh hoàn toàn bản
chát. Bản chất thì ổn định, hiện tượng thì biến đổi nhanh hơn so với bản chất.
Nếu vội kết luận ông bố là một người tồi tệ, nhân phẩm rách nát không thể
tha thứ thì là quá vội vàng, như lời bà mẹ đã nói:”Mẹ chọn tha thứ không
phải bởi vì những điều ông ấy làm sai mà là vì những điều ông ấy đã làm
đúng trong cuộc hôn nhân này”. Chính điều này gây ra sự tranh cãi, chia làm
2 phe một bên ủng hộ người mẹ một bên ủng hộ người con gái. Người xưa
có quan điểm cho rằng:” Nhân chi sơ tính bản thiện”. Sự thay đổi trong tâm
lí, tính cách của người cha chính là hiện tượng của hiện tại. Hoàn cảnh tác
động to lớn đến bản chất. Những gì ông ấy làm sai ở đây có thể là phản bội
về mặt tình cảm, chung thuỷ của mình, cụ thể là ngoại tình. Còn điều ông ấy
làm đúng ở đây là trong cuộc sống ông ấy đã làm tròn trách nhiệm của người
bố, cụ thể là chăm lo trọn vẹn cho gia đình mình, cho gia đình nội ngoại 2
bên một cách trọn vẹn, làm trụ cột gánh vác cho gia đình và cũng đối xử tốt
với hai mẹ con trọn vẹn nghĩa tình. Nhưng tình cảm cũng là một cái gì đó
khó nói, giữa 2 bên tình nghĩa trách nhiệm và tình cảm thì người bố đã chọn
tình cảm. Ông ấy làm thế vừa đúng cũng vừa sai. Sai ở chỗ ông ấy là phản
bội lại những người tin tưởng mình nhất, là chỗ dựa tinh thần vững chắc từ
trước đến giờ. Còn đúng là đúng ở chỗ ông ấy đã đưa ra được quyết định của
mình, dứt khoát lựa chọn. Khi mà đứng ở giữa 2 thứ không thể chọn lựa thì
kết cục duy nhất chỉ có thể là mất cả 2. Ông ấy đã lựa chọn kết thúc trọn vẹn
để không làm khổ 2 bên thêm.
Khi đã hiểu được các phạm trù và nguyên nhân cơ bản cho sự thay đổi
trong con người của bố, mẹ và con gái lúc này cần có biện pháp ứng xử phù
hợp. Ở từng độ tuổi khác nhau sẽ có nhận thức về cuộc đời khác nhau, người
mẹ ở góc nhìn trưởng thành cộng với nhiều năm chung sống sẽ nhìn nhận
được bản chất của người đã từng chung giường chung chăn với mình nên lựa
chọn tha thứ, còn người con gái non nớt mới bước vào cuộc đời khi thấy
người bố- hình tượng lí tưởng của mình từ nhỏ sụp đổ thì lúc đó chỉ có duy
nhất cảm xúc thất vọng tràn trề và hình tượng của người bố hiện tại trong
mắt người con gái theo cô ấy chính là bản chất của người đàn ông này nên
cô ấy lựa chọn không thể tha thứ.
Lời mở đầu cho trường hợp của người bố dưới góc độ Triết học là khẳng
định đúng đắn trong nhận xét của C.Mác:” Trong tính hiện thực của nó, bản
chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội”. Sự thay đổi của người lOMoAR cPSD| 58137911
bố là tác động lẫn nhau từ các mối quan hệ trong đời sống xã hội mà người bố sống trong đó.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển
của con người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau,
nhưng thống nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về
sự phù hợp cơ thể với môi trường, quy luật về sự trao dổi chất, về di truyền,
biến dị, tiến hoá,... quy định phương diện sinh học của con người. Hệ thống
các quy luật tâm lý ý thức hình thành và vận động trên nền tảng sinh học của
con người như hình thành tình cảm, nhu cầu thẩm mỹ và hưởng thụ các giá trị tinh thần.
Xã hội do các cá nhân tạo nên. Các cá nhân sống và hoạt động trong các
nhóm, cộng đồng và tập đoàn xã hội khác nhau, mang tính lịch sử xác định.
Yếu tố xã hội là đặc trưng căn bản để hình thành cá nhân. Môi trường xã hội
cũng ảnh hưởng tới sự phát triển con người. Nếu con người ít tiếp xúc, trao
đổi với người xung quanh hoặc sống trong môi trường xã hội quá đơn điệu
thì sẽ nghèo nàn về tâm lý, kém sự linh động.
Nhân cách là khái niệm chỉ bản sắc độc đáo, riêng biệt của mỗi cá nhân,
là nội dung và tính chất bên trong của mỗi cá nhân. Bởi vậy, nếu cá nhân là
khái niệm chỉ sự khác biệt giữa cá thể với giống loài thì nhân cách là khái
niệm chỉ sự khác biệt giữa các cá nhân. Cá nhân là phương thức biểu hiện
của giống loài còn nhân cách vừa là nội dung, vừa là cách thức biểu hiện của
mỗi các nhân riêng biệt.
Nhân cách biểu hiện thế giới cái tôi của mỗi cá nhân, sự tổng hợp của các
yếu tố sinh học, tâm lí, xã hội, tạo nên đặc trưng riêng có của cá nhân, đóng
vai trò chủ thể tự ý thức, tự đánh giá, tự khẳng định và tự điều chỉnh mọi hoạt động của mình.