lOMoARcPSD| 61630936
DANH MỤC BÀI TẬP NHÓM
MÔN LUẬT SO SÁNH
1. Phân tích điểm tương đồng khác biệt giữa các truyền thống pháp luật
lớn trên thế giới hiện nay. Lý do để xác định các truyền thống pháp luật đó
là truyền thống pháp luật lớn trên thế giới hiện nay.
2. So sánh sự mở rộng của truyền thống Civil Law, truyền thống Common
Law và TTPL XHCN.
3. Phân tích sự tương đồng và khác biệt trong cấu trúc nguồn luật của HTPL
Anh và Pháp.
4. Phân tích sự tương đồng và khác biệt trong cấu trúc nguồn luật của HTPL
Anh và Mỹ.
5. Bình luận vai tvtrí của án ltrong hthống nguồn luật của truyền
thống Civil Law Common Law, từ đó rút ra một số điểm đặc thù trong
việc áp dụng án lệ tại Việt Nam.
6. So sánh tổ chức, hoạt động của quan bảo hiến của Pháp và Đức - Kinh
nghiệm cho Việt Nam.
7. Phân tích những điểm tương đồng và khác biệt điển hình trong đào tạo luật
của Đức và Mỹ.
8. Hành nghề luật ở Pháp và Anh dưới góc độ so sánh.
DANH MỤC CÂU HỎI THẢO LUẬN
MÔN LUẬT SO SÁNH
1. Mô tả các bước thực hiện một công trình so sánh luật thông qua một ví
dụ minh hoạ.
Gồm 6 bước:
- B1: đưa ra câu hỏi để xây dựng giả thuyết nghiên cứu
Xác định vấn đề dự kiện nghiên cứu: đưa ra câu hỏi
Xây dựng giả thuyết nghiên cứu: định hướng chương trình
- B2: Lựa chọn đối tượng nghiên cứu: xác định cụ thể, ràng đối tượng
nghiên cứu phải thuộc tính pháp tương ứng để so sánh. ( Đối tượng
– ít nhất có 2 đối tượng để so sánh? Thuộc hệ thống pháp luật nào?)
lOMoARcPSD| 61630936
(Chú ý đến chức năng của đối tượng so sánh)
- B3: Thu thập tài liệu tham khảo o Mục đích của thu thập tài liệu tham
khảo: để xem các học giả khác đã giải quyết vấn đmình đặt ra như thế
nào, đánh giá, đưa ra những điểm đng tình, không đồng tình nhằm đưa ra
quan điểm, cách giải quyết của mình
o Các học giả đã giải quyết tới đâu, còn những phần nào các học giả
chưa giải quyết, nhằm tập trung vào những phần chưa được giải
quyết.
Xác định được hướng đi cụ thể của công trình nghiên cứu.
Lưu ý: đánh giá độ tin cậy, tính chính thống và nguồn cung cấp tài liệu như
tác giả, đơn vị chủ quản website, nhà xuất bản,...
- B4: xây dựng hệ thống tiêu chí so sánh: (xây dựng hệ thống các khái niệm
các đối tượng chưa chắc tên gọi tương tự nhau, vậy phải đưa ra
khái niệm thể hiện rõ các đối tượng so sánh)
Mục đích: để so sánh được trọn vẹn, rõ ràng hơn
Lưu ý: tránh sử dụng thuật ngữ pháp lý không tương đồng giữa các hệ thống
pháp luật so sánh
- B5: viết báo cáo so sánh
Chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt giữa các đối tượng so sánh
Lưu ý trung thực, khách quan. Không thể dùng từ cảm tính như “cảm
thấy”, “có thể”, ... không quáng quan điểm mà tuân theo ý kiến
của học giá khác dù họ có uy tín hay nổi tiếng như thế nào.
- B6: đánh giá phê phán kết quả SS (hoàn toàn thể đưa ra ý kiến chủ
quan)
Giải thích nguồn gốc những điểm tương đồng hay khác biệt
Phân tích, đánh giá những ưu điểm, hạn chế của các giải pháp pháp
lOMoARcPSD| 61630936
2. Chứng minh rằng luật so sánh không chỉ có ý nghĩa đối với hoạt động
xây dựng và áp dụng pháp luật quốc gia mà còn được khai thác mạnh
trong xây dựng và áp dụng luật quốc tế.
Luật so sánh được khai thác mạnh trong xây dựng và áp dụng luật quốc tế? LSS
góp phần như thế nào? (hai mảng – xây dựng và áp dụng) Nền tảng hiểu biết từ
Luật quốc gia.
Xây dựng – nội luật hóa LQT ( so sánh giữa LQG với LQT xem phải chỉnh
sửa ntn để phù hợp )
3. So sánh vị trí của Luật so sánh các nước TBCN các nước XHCN
trước đây.
Vị trí của LSS các nước thể hiện mức độ coi trọng, khả năng khai thác trên
lĩnh vực lập pháp và nghiên cứu khoa học pháp lý Điểm chung: đều có một vị trí
nhất định.
Ở các nước TBCN:
- LSS được coi trọng trong lĩnh vực lập pháp
Vd: ở châu Âu vào cuối thế kỉ 18, trong công cuộc đại pháp điển hóa, điển
hình bộ luật dân sự Đức năm 1896 được hoàn thành dựa trên kết quả của
việc so sánh luật của các nước vùng lãnh thổ như luật Giéc manh, luật
Prusia, bộ luật dân sự Pháp, luật của Áo, Thụy Sỹ; ...
- Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học pháp lý, luật so sánh không được khai
thác mạng như lĩnh vực lập pháp chỉ được coi một phương pháp
trong lĩnh vực nghiên cứu pháp lí
Vd: Anh, “Bình luận về pháp luật luật thuộc địa pháp luật nước ngoài”
được xuất bản năm 1938; Mỹ, loạt sách về LSS được xuất bản năm 1937.
Đến năm 1916, Viện so sánh đầu tiên đã được thành lập tại Đại học Munich
tđó trong suốt thế kỷ XX, rất nhiều viện LSS đã được thành lập như
viện so sánh ở Đại học Lyons ca Pháp năm 1920; học viện quốc tế về luật
so sánh tại La Haye (1924),...
Ở các nước XHCN: không có điều kiện, khả năng, nhu cầu
lOMoARcPSD| 61630936
- Thời gian trước đây chưa được coi trọng do pháp luật nước XHCN chịu
ảnh hưởng chung, khá phổ biến và sâu sắc các quan điểm Mác – Lênin về
nhà nước và pháp luật của hệ thống pháp luật Xô Viết. Những năm 50 của
thế kỉ 20, nước Nga Xô Viết nằm trong sự bủa vây của thế giới bản, sự
giao lưu về kinh tế, chính trị bị hạn chế do chính sách cấm vận của thế giới
bản. Việc so sánh pháp luật để phục vụ cho lập pháp cũng được khai thác
nhưng không triệt để rộng rãi như các nước TBCN. Một số nước như
Việt Nam, Trung Quốc,... dùng việc nghiên cứu pháp luật của Liên Xô cũ
để xây dựng pháp luật nước mình. Chính điều này đã dẫn đến có nhiều sự
tương đồng trong hệ thống pháp luật các nước XHCN, khiến cho việc
nghiên cứu pháp còn mờ nhạt, không gây được sự trong việc tìm
hiểu. Việc giao lưu tiếp cận pháp luật TBCN bị ảnh hưởng bởi sự đối
đầu thù địch trong quan hệ giữa các QG TBCN và XHCN. Ở các nước
XHCN Đông Âu, luật so sánh cũng những bước phát triển nhất định
điển hình là Hungary. Viện sĩ Viện hàn lâm khoa học....
4. Bình luận về ý kiến cho rằng: “Luật so sánh ra đời từ thế kỷ XIX”.
Trước thế kỷ thứ XIX, Luật so sánh hầu như không được phát triển nhưng
đã dần xuất hiện ngay từ thời kỳ cổ đại. Mặc dù đã có sự ứng dụng so sánh
với mức độ hiệu qukhác nhau với mục đích khác biệt, luật so sánh chưa
thể hiện được nét đặc điểm của một ngành khoa học pháp lý. Thời kỳ
này, họ sử dụng luật so sánh dựa theo bản năng để xây dựng pháp luật, hay
nghiên cứu để khẳng định một
Từ thế kỷ thứ XIX đến nay, luật so sánh phát triển mạnh mẽ với hai hình thức
luật so sánh lập pháp và luật so sánh học thuật. Luật so sánh lập pháp là quá trình
theo đó pháp luật của nước ngoài được viện dẫn để soạn thảo các văn bản pháp
luật của quốc gia; còn luật so sánh học thuật việc so sánh các hệ thống pháp
luật khác nhau đơn giản là nhằm nâng cao hiểu biết về pháp luật. (Bình luận: phải
nêu đúng / sai nêu ra quan điểm để chứng minh; hoặc tại sao nhận định
này)
lOMoARcPSD| 61630936
5. Bình luận về vị trí của Luật So sánh ở Việt Nam.
lOMoARcPSD| 61630936
6. Thế nào là cấy ghép pháp luật? Đưa ra quan điểm nên hay không nên
cấy ghép pháp luật trong hoạt động lập pháp hiện nay?
Cấy ghép pháp luật là một trong những vấn đtrọng tâm của luật so sánh thế giới
trong việc hiểu mối quan hệ giữa luật hội. Tuy nhiên, tại Việt Nam, thuyết
này vẫn chưa được quan tâm nghiên cứu đủ nhiều trong bối cảnh một quốc gia
với nền khoa học pháp lý non tr đã, đang và sẽ học hỏi rất nhiều từ các quốc gia
phát triển trên thế giới. Một số tác giả đề cập đến thuật ngữ này nhưng với một
cái tên khác “tiếp nhận pháp luật” hay “chuyển hoá pháp luật”. Thuật ngữ “legal
transplant” thường được các học giả cho rằng xuất hiện lần đầu trong hai nghiên
cứu của Alan Watson Kahn Freund. Theo đó, cấy ghép pháp luật việc đưa
quy định pháp luật của một quốc gia này sang áp dụng tại một quốc gia khác, hoặc
lOMoARcPSD| 61630936
cũng thể sử dụng một tập hợp các quy phạm nguyên tắc vay mượn từ một
quốc gia này tại một quốc gia khác.
Đánh giá lý thuyết cấy ghép pháp luật qua thực tin Việt Nam
Có thể thấy từ khung lý thuyết về cấy ghép pháp luật, đây thực chất là cuộc luận
bàn giữa các học giả về bản chất triết học của pháp luật hay mối quan hệ của
pháp luật khi đặt trong tương quan với văn hoá, kinh tế, chính trị, xã hội cũng
như kết cấu pháp lý hạ tầng. Các yếu tố này liên quan đến khả năng tiếp nhận
trong cấy ghép pháp luật .
Trường hợp của Việt Nam cần phải được nhìn nhận đa chiều. Có thể khẳng định
thời kỳ cấy ghép pháp luật theo hướng áp đặt cưng bức có những thành công
nhất định. Điều này có thể lý giải đến từ việc hệ thống pháp luật của Việt Nam
trong thời kỳ phong kiến chưa có độ rõ nét mà vẫn tồn tại dưới dạng luật tục với
nguồn bản địa [66] nên khi có sự xuất hiện của luật viết sẽ d dàng được tiếp
nhận. Tuy nhiên, có hai điều đáng lưu ý ở đây. Một là, với cùng cách thức cấy
ghép pháp luật nhưng nền tảng Nho giáo từ Trung Quốc tỏ ra mạnh mẽ hơn và
lấn át tư duy phương Tây trong pháp luật của Pháp khi áp dụng tại Việt Nam
[67]. Điều này có thể do các yếu tố như văn hoá, kinh tế, chính trị của Việt Nam
và Trung Quốc có sự tương đồng và từ đó có sự tương thích cao hơn so với
Pháp. Hai là, sau khi Việt Nam tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và học tập mô
hình của Liên Xô thì dấu ấn của luật Pháp trở nên nhạt nhoà. Điều này chứng tỏ
cấy ghép pháp luật theo con đường áp đặt cưng bức khó có thể có sức sống lâu
bền như con đường tự nguyện.
Cấy ghép pháp luật với sự tự nguyện thông qua sự tham khảo pháp luật của các
quốc gia khác ở Việt Nam có v không được thành công như cách thức còn lại.
Trên thực tế, nhiều chuyên gia vẫn nhận định pháp luật của Việt Nam còn thiếu
đồng bộ, thiếu tính khả thi, thiếu minh bạch hay “luật trên trời, cuộc đời dưới
đất” khiến chúng ta phải nhìn lại về lý thuyết của Watson [68]. Cấy ghép pháp
luật không đơn giản như vậy. Nói cách khác, không thể nhìn nhận tính khả thi
lOMoARcPSD| 61630936
của việc cấy ghép pháp luật một cách vội vàng như Watson khi chỉ chú trọng
quốc gia tiếp nhận mà bỏ quên ý tưởng pháp lý đó đang vận hành như thế nào ở
quốc gia gốc (ví dụ như trường hợp của Đế chế La Mã cho đến nay vẫn chưa xác
nhận được thực tin áp dụng pháp luật của họ)
Việc chúng ta quá vội vã khi chưa xem xét tính tương thích giữa quốc gia
Việt Nam đã khiến cho việc cấy ghép pháp luật không đạt được thành công như
mong đợi (ví dụ như việc xem xét nền tảng triết học và nguyên tắc cơ bản n sau
ngôn từ - thành quả của lịch sử tiến hóa của một chế định luật mà Việt Nam
muốn cấy ghép. Giáo sư Andrew Harding, khi nghiên cứu cấy ghép pháp luật ở
các quốc gia Đông Nam Á (cụ thể là Thái Lan, Malaysia, Indonesia), cho rằng
việc cấy ghép pháp luật không còn mới, đã din ra hàng trăm năm nay và bám
r, tìm được mảnh đất màu m [71]. Tuy nhiên, mục đích và hiệu quả của cấy
ghép pháp luật không hoàn toàn như dự tính bởi học thuyết toàn cầu đã bao trùm
lên tri thức bản địa cũng như luật được cấy ghép đều không thoát khỏi việc được
sử dụng cho các mục đích bản địa hóa hoặc bị sửa đổi trong thực tin áp dụng.
Có thể nhìn nhận việc ban hành luật mới là một hiện tượng pháp lý phức tạp.
quá trình này liên quan đến toàn bộ môi trường pháp lý, chính trị, thể thể, văn
hóa và kinh tế “trong đó một luật mới được tranh luận, soạn thảo và có hiệu
lực”. Do đó, cấy ghép pháp luật phải được đặt trong hệ hình của văn hoá pháp
luật mới có thể có được cái nhìn tổng quan.
7. Chứng minh rằng việc phân nhóm các hệ thống pháp luật trên thế giới
chỉ mang tính tương đối. Trong các cách phân nhóm các hệ thống pháp luật
hiện nay, nhóm ủng hộ cách phân nhóm nào nhất? sao? thể thấy việc
sử dụng những tiêu chí nào phân chia thành bao nhiêu dòng hpháp luật là tùy
thuộc vào quan điểm, mục đích của các học giả so sánh. Một tiêu chí có thể căn
cứ để phân biệt các hệ thống pháp luật thuộc một hoặc một số nhóm này nhưng
lại không thể phân biệt được các hệ thống pháp luật thuộc một hoặc số nhóm khác.
Do đó, khó thể khẳng định sự phân chia nào việc dựa vào những tiêu chí
lOMoARcPSD| 61630936
nào để phân nhóm các hệ thống pháp luật chính xác. thế, ng không thể
khẳng định được rằng sử dụng bao nhiêu tiêu chí và phân chia các hệ thống pháp
luật trên thế giới thành bao nhiêu dòng họ pháp luật là chính xác. Các tiêu chí đã
được các học giả sdụng để phân chia các hthống pháp luật trên thế giới
những giá trị nhất định đối với việc phân nhóm các hệ thống pháp luật. Như vậy
thể thấy, việc phân nhóm các hệ thống pháp luật trên thế giới chỉ mang tính
tương đối.
- Sử dụng những tiêu chí phân nhóm khác nhau, cho ra kết quả phân nhóm
khác nhau
- Mặc dù sử dụng những tiêu chí phân nhóm giống nhau nhưng tiến hành tại
thời điểm khác nhau sẽ cho ra kết quả phân nhóm khác nhua
- Trong nhiều cách phân hóa HTPL phổ biến, có một số HTPL khó xếp vào
bất cứ nhóm nào trong số các nhóm được phân chia. VD: HTPL
Quebec, Louisiana, Nam Phi…
->Hệ quả: Không thể khẳng định cách phân nhóm của học giả nào chính xác
nhất và cách phân nhóm nào là không chính xác
8. Phân tích điểm tương đồng khác biệt điển hình giữa truyền thống
Civil Law và Common Law.
lOMoARcPSD| 61630936
lOMoARcPSD| 61630936
lOMoARcPSD| 61630936
9. giải quan điểm cho rằng TTPL XHXN chỉ một phân nnh của
truyền thống Civil Law.
10.So sánh sự phát triển của luật công luật của truyền thống Civil
law.
lOMoARcPSD| 61630936
11.Phân tích các dạng cấu trúc của HTPL Anh. Theo anh/chị dạng cấu
trúc nào thể hiện được đầy đủ nhất các bộ phận cấu thành của HTPL
Anh.
Khác với Civil law, Pháp luật Anh không phân chia thành Luật công (Công
pháp) và luật (Tư pháp) sự phân biệt này ít ý nghĩa trong thời phong
kiến Anh, giai đoạn đầu của sự phát triển Thông luật các quyền công
được xác định thông qua quyền lợi về tài sản, nhưng không sự phân biệt giữa
sở hữu tài sản và các sơ quan công theo kiểu Civil law.
Cấu trúc của HTPL Anh được chia thành 2 nhóm phổ biến nhất ở Anh
phân biệt giữa: Luật hình sự với Luật dân sự; common law với equity và với
pháp luật thành văn.
lOMoARcPSD| 61630936
a.Luật hình sự và luật dân sự
Trong tác phm “Learning the Law”, Glanville Williams - nhà cải cách
pháp luật, nhà khoa học pháp “không có đối thủ” giáo luật của Anh, đã
dành chương đầu tiên viết vphân chia giáo pháp luật (The Divisions of the Law).
Theo ông, luật của Anh được chia thành hai ngành luật lớn: luật hình sự luật
dân sự, trong đó ngành luật thứ hai đồ sộ hơn rất nhiều so với ngành luật thứ nhất.
Luật hình sự xác định ranh giới của những hành vi hội thể hoặc không
thể chấp nhận; quy định về quyền và nghĩa vụ của cơ quan công quyền; quy định
kiểm soát những hành vi sai trái, đi ngược lại lợi ích của cộng đồng... Một
người vi phạm luật hình sự bị coi tội phạm, chống lại toàn hội, sẽ bị Nhà
truy tố. Phạm vi rộng lớn của luật hình sự của Anh không chỉ được khẳng định
bởi Williams cũng được Glendon, Gordon và Carozza thừa nhận trong tác
phm của mình. Các tác giả này, khi bàn về cấu trúc pháp luật của Anh đã khẳng
định luật hình sự bao trùm lên đại bộ phận luật công, gồm cả luật hiến pháp, luật
nh chính và luật tố tụng.
Ngành luật lớn thứ hai của Anh, theo Williams, luật dân sự, như đã đề
cập, phạm vi điều chỉnh rộng hơn nhiều so với luật hình sự, bao quát từ quan
hệ hợp đồng và trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng, tới những quan hệ trong lĩnh
vực gia đình kể cả những vấn đề vdi chúc, rồi vươn tới cả những quan hệ về lao
động về đất đai... Luật dân sự quy định về quyền nghĩa vụ của cá nhân,
vậy vi phạm luật dân sự chỉ là những hành vi sai trái giữa các bên hay gọi là hành
vi phạm lỗi dân sự (civil wrong), không bị coi là đi ngược lợi ích của cộng đồng.
Luật dân sự của Anh phân biệt bốn loại lỗi dân sự: (1) lỗi do vi phạm hợp đồng,
hình thành khi một trong các bên chủ thể hợp đồng không thực hiện những cam
kết trong hợp đồng; (2) lỗi ngoài hợp đồng (tort), hình thành ngay cả khi hai bên
không hthỏa thuận trước về hành vi nào đó nhưng nếu hành vi gây thiệt hại
din ra sẽ làm phát sinh quyền khởi kiện đòi bồi thường của bên bị thiệt hại (bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng); (3) lỗi bội tín (breach of trust): đánh mất niềm
tin và làm trái sự ủy thác của người khác; (4) lỗi do vi phạm “nghĩa vụ hợp đồng
không chính thức” hay “nghĩa vụ bản hợp đồng” (quasicontractual obligation).
lOMoARcPSD| 61630936
Luật dân scung cấp giải pháp để giải quyết các tranh chấp giữa các nhân công
dân hoặc tổ chức (ví dụ: giữa người tiêu dùng nhà cung cấp; giữa người sử
dụng lao động và người lao động...) khi một bên phạm lỗi dân sgây thiệt hại cho
bên kia. Bên bị thiệt hại hoặc thành viên gia đình của họ quyền kiện ra toàn,
đòi bồi thường thiệt hại (tài sản, sức kho, tính mạng). Như vậy, phạm vi điều
chỉnh của luật dân sự ở Anh hết sức rộng, bao quát hầu như toàn bộ các quan hệ
xã hộiở các nước civil law thuộc phạm vi điều chỉnh của luật tư thậm chí
bao quát cả những quan hệ xã hội mà ở các nước civil law không hẳn đã được coi
là thuộc phạm vi điều chỉnh của luật tư (quan hệ lao động, quan hệ đất đai...).
Giữa luật hình sự và luật dân sự của Anh có bốn điểm khác biệt lớn, về: (1)
mối quan tâm của mỗi loại luật; (2) bên có quyền đưa vụ việc ra tòa án; (3) nghĩa
vụ chứng minh; và (4) mục đích điều chỉnh của từng loại luật. Bất kể những khác
biệt lớn này, trong thực tin, cả hai loại luật rất có thể cùng được áp dụng để xử
cùng một nh vi sai trái nếu hành vi đó đồng thời phạm tội hình sự và phạm
tội dân sự (thậm chí, phạm nhiều lối dân sự). Để phân biệt giữa hành vi phạm tội
hình sự phạm lỗi dân sự không thể đơn thuần dựa vào bản thân hành vi đã thực
hiện mà phải dựa vào hệ quả pháp lý của hành vi đó. Những hành vi sai trái bị xử
bằng thủ tục TTHS thì bị coi là hành vi phạm tội, bị xử bằng thủ tục TTDS thì bị
coi là hành vi phạm lỗi dân sự. Theo Williams, cần căn cứ vào hệ quả pháp lý của
các hành vi thay căn cứ vào bản thân hành vi đã thực hiện để phân biệt giữa
hành phạm tội hình sự và phạm lỗi dân sự.
Cách phân chia pháp luật thành hai bộ phận: luật hình sự và luật dân sự
cách phân chia phổ biến ở Anh, tuy nhiên lại thường làm những luật gia nước
ngoài không thỏa mãn bởi lẽ trong duy của họ cách phân chia này dường như
không bao quát hết cả QPPL trong HTPL Anh. Tuy nhiên, nhìn vào định nghĩa hết
sứ rộng của luật hình sự luật dân sự Anh tmối “quan ngại” có lẽ sẽ phần
nào được giải toả.
b. Common law, equity và pháp luật thành văn
Williams cũng chỉ ra rằng luật của Anh được hợp thành bởi bộ phận lớn:
common law, equity và pháp luật thành văn. Các phân chia pháp luật này có lẽ ít
lOMoARcPSD| 61630936
gây tranh cãi bởi ba bộ phận cổ thành nên pháp luật Anh đã phủ kín hệ thống
QPPL của Anh tập quán pháp, theo thời gian, đã dần được chuyển hoá vào
common law; riêng các tập quán thương mại thì đã được hấp thụ một phần bởi
common law, mt phần bởi pháp luật thành văn. Williams không phải tác giả
duy nhất nói tới common law equity khi phân nhóm pháp luật của Anh
nhiều tác giả khác cũng đề cập tới hai bộ phận này của pháp luật Anh, trong đó
David. Tuy nhiên, khác với Williams, David không nói tới bộ phận cấu thành thứ
ba ca pháp luật Anh (pháp luật thành văn), vì vậy cách phân chia của David tiềm
n nguy cơ gây tranh cãi.
Bộ phận thứ ba của pháp luật của Anh - pháp luật thành văn - gồm những
QPPL do các quan nhà nước thm quyền ban hành. Loại pháp luật thành
văn quan trọng nhất là luật do Nghị viện ban hành, mặc dù ngày nay các văn bản
pháp luật ủy quyền quyo do Chính phủ ban hành, còn được gọi công cụ pháp
luật (Statutory Instruments) cũng trở nên hết sức quan trọng.
12.Phân ch sự tương đồng khác biệt trong cấu trúc nguồn luật của các
HTPL thuộc truyền thống Civil Law và Common Law.
lOMoARcPSD| 61630936
lOMoARcPSD| 61630936
lOMoARcPSD| 61630936
13.Phân tích sự khác biệt vvị trí của ĐƯQT trên lý thuyết trong thực
tiễn ở các nước Civil Law và Common Law.
14.Bình luận sự khác biệt giữa vị trí của án lệ theo thuyết và trên thực
tế trong HTPL Anh.
15.Đặc điểm của Bộ luật Dân sự Pháp và Bộ luật Dân sự Đức dưới góc độ
so sánh.
lOMoARcPSD| 61630936
16.Phân tích điểm tương đồng và khác biệt về chủ thể có thm quyền làm
luật và việc đề xuất xây dựng luật trong các HTPL Pháp, Đức, Anh và
Mỹ.
17.Bình luận điểm tương đồng khác biệt về trình tự thủ tục làm luật
trong các HTPL Pháp, Đức, Anh Mỹ. Từ đó đưa ra đề xuất hoàn
thiện pháp luật Việt Nam.
18.Phân tích điểm tương đồng khác biệt về khái niệm chủ thể giải
thích pháp luật thành n giữa c hệ thng pháp luật Pháp, Đức, Anh
và Mỹ.
19.So sánh quy tắc giải thích pháp luật thành văn tại Đức và Pp.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61630936 DANH MỤC BÀI TẬP NHÓM MÔN LUẬT SO SÁNH
1. Phân tích điểm tương đồng và khác biệt giữa các truyền thống pháp luật
lớn trên thế giới hiện nay. Lý do để xác định các truyền thống pháp luật đó
là truyền thống pháp luật lớn trên thế giới hiện nay.
2. So sánh sự mở rộng của truyền thống Civil Law, truyền thống Common Law và TTPL XHCN.
3. Phân tích sự tương đồng và khác biệt trong cấu trúc nguồn luật của HTPL Anh và Pháp.
4. Phân tích sự tương đồng và khác biệt trong cấu trúc nguồn luật của HTPL Anh và Mỹ.
5. Bình luận vai trò và vị trí của án lệ trong hệ thống nguồn luật của truyền
thống Civil Law và Common Law, từ đó rút ra một số điểm đặc thù trong
việc áp dụng án lệ tại Việt Nam.
6. So sánh tổ chức, hoạt động của cơ quan bảo hiến của Pháp và Đức - Kinh nghiệm cho Việt Nam.
7. Phân tích những điểm tương đồng và khác biệt điển hình trong đào tạo luật của Đức và Mỹ.
8. Hành nghề luật ở Pháp và Anh dưới góc độ so sánh.
DANH MỤC CÂU HỎI THẢO LUẬN MÔN LUẬT SO SÁNH
1. Mô tả các bước thực hiện một công trình so sánh luật thông qua một ví dụ minh hoạ. Gồm 6 bước:
- B1: đưa ra câu hỏi để xây dựng giả thuyết nghiên cứu
 Xác định vấn đề dự kiện nghiên cứu: đưa ra câu hỏi
 Xây dựng giả thuyết nghiên cứu: định hướng chương trình
- B2: Lựa chọn đối tượng nghiên cứu: xác định cụ thể, rõ ràng đối tượng
nghiên cứu phải có thuộc tính pháp lý tương ứng để so sánh. ( Đối tượng gì
– ít nhất có 2 đối tượng để so sánh? Thuộc hệ thống pháp luật nào?) lOMoAR cPSD| 61630936
(Chú ý đến chức năng của đối tượng so sánh)
- B3: Thu thập tài liệu tham khảo o Mục đích của thu thập tài liệu tham
khảo: để xem các học giả khác đã giải quyết vấn đề mình đặt ra như thế
nào, đánh giá, đưa ra những điểm đồng tình, không đồng tình nhằm đưa ra
quan điểm, cách giải quyết của mình
o Các học giả đã giải quyết tới đâu, còn có những phần nào các học giả
chưa giải quyết, nhằm tập trung vào những phần chưa được giải quyết.
 Xác định được hướng đi cụ thể của công trình nghiên cứu.
 Lưu ý: đánh giá độ tin cậy, tính chính thống và nguồn cung cấp tài liệu như
tác giả, đơn vị chủ quản website, nhà xuất bản,...
- B4: xây dựng hệ thống tiêu chí so sánh: (xây dựng hệ thống các khái niệm
– vì các đối tượng chưa chắc có tên gọi tương tự nhau, vì vậy phải đưa ra
khái niệm thể hiện rõ các đối tượng so sánh)
 Mục đích: để so sánh được trọn vẹn, rõ ràng hơn
 Lưu ý: tránh sử dụng thuật ngữ pháp lý không tương đồng giữa các hệ thống pháp luật so sánh
- B5: viết báo cáo so sánh
• Chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt giữa các đối tượng so sánh
• Lưu ý trung thực, khách quan. Không thể dùng từ cảm tính như “cảm
thấy”, “có thể”, ... không mù quáng quan điểm mà tuân theo ý kiến
của học giá khác dù họ có uy tín hay nổi tiếng như thế nào.
- B6: đánh giá có phê phán kết quả SS (hoàn toàn có thể đưa ra ý kiến chủ quan)
• Giải thích nguồn gốc những điểm tương đồng hay khác biệt
• Phân tích, đánh giá những ưu điểm, hạn chế của các giải pháp pháp lý lOMoAR cPSD| 61630936
2. Chứng minh rằng luật so sánh không chỉ có ý nghĩa đối với hoạt động
xây dựng và áp dụng pháp luật quốc gia mà còn được khai thác mạnh
trong xây dựng và áp dụng luật quốc tế.
Luật so sánh được khai thác mạnh trong xây dựng và áp dụng luật quốc tế? LSS
góp phần như thế nào? (hai mảng – xây dựng và áp dụng)  Nền tảng hiểu biết từ Luật quốc gia.
 Xây dựng – nội luật hóa LQT ( so sánh giữa LQG với LQT xem phải chỉnh sửa ntn để phù hợp )
3. So sánh vị trí của Luật so sánh ở các nước TBCN và các nước XHCN trước đây.
Vị trí của LSS ở các nước thể hiện ở mức độ coi trọng, khả năng khai thác trên
lĩnh vực lập pháp và nghiên cứu khoa học pháp lý Điểm chung: đều có một vị trí nhất định.  Ở các nước TBCN:
- LSS được coi trọng trong lĩnh vực lập pháp
Vd: ở châu Âu vào cuối thế kỉ 18, trong công cuộc đại pháp điển hóa, điển
hình là bộ luật dân sự Đức năm 1896 được hoàn thành dựa trên kết quả của
việc so sánh luật tư của các nước và vùng lãnh thổ như luật Giéc manh, luật
Prusia, bộ luật dân sự Pháp, luật của Áo, Thụy Sỹ; ...
- Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học pháp lý, luật so sánh không được khai
thác mạng như ở lĩnh vực lập pháp và chỉ được coi là một phương pháp
trong lĩnh vực nghiên cứu pháp lí
Vd: Ở Anh, “Bình luận về pháp luật luật thuộc địa và pháp luật nước ngoài”
được xuất bản năm 1938; Ở Mỹ, loạt sách về LSS được xuất bản năm 1937.
Đến năm 1916, Viện so sánh đầu tiên đã được thành lập tại Đại học Munich
và từ đó trong suốt thế kỷ XX, rất nhiều viện LSS đã được thành lập như
viện so sánh ở Đại học Lyons của Pháp năm 1920; học viện quốc tế về luật
so sánh tại La Haye (1924),...
 Ở các nước XHCN: không có điều kiện, khả năng, nhu cầu lOMoAR cPSD| 61630936
- Thời gian trước đây chưa được coi trọng do pháp luật nước XHCN chịu
ảnh hưởng chung, khá phổ biến và sâu sắc các quan điểm Mác – Lênin về
nhà nước và pháp luật của hệ thống pháp luật Xô Viết. Những năm 50 của
thế kỉ 20, nước Nga Xô Viết nằm trong sự bủa vây của thế giới tư bản, sự
giao lưu về kinh tế, chính trị bị hạn chế do chính sách cấm vận của thế giới
tư bản. Việc so sánh pháp luật để phục vụ cho lập pháp cũng được khai thác
nhưng không triệt để và rộng rãi như các nước TBCN. Một số nước như
Việt Nam, Trung Quốc,... dùng việc nghiên cứu pháp luật của Liên Xô cũ
để xây dựng pháp luật nước mình. Chính điều này đã dẫn đến có nhiều sự
tương đồng trong hệ thống pháp luật các nước XHCN, khiến cho việc
nghiên cứu pháp lí còn mờ nhạt, không gây được sự tò mò trong việc tìm
hiểu. Việc giao lưu và tiếp cận pháp luật TBCN bị ảnh hưởng bởi sự đối
đầu và thù địch trong quan hệ giữa các QG TBCN và XHCN. Ở các nước
XHCN Đông Âu, luật so sánh cũng có những bước phát triển nhất định mà
điển hình là Hungary. Viện sĩ Viện hàn lâm khoa học....
4. Bình luận về ý kiến cho rằng: “Luật so sánh ra đời từ thế kỷ XIX”.
Trước thế kỷ thứ XIX, Luật so sánh hầu như không được phát triển nhưng
đã dần xuất hiện ngay từ thời kỳ cổ đại. Mặc dù đã có sự ứng dụng so sánh
với mức độ hiệu quả khác nhau và với mục đích khác biệt, luật so sánh chưa
thể hiện được rõ nét đặc điểm của một ngành khoa học pháp lý. Thời kỳ
này, họ sử dụng luật so sánh dựa theo bản năng để xây dựng pháp luật, hay
nghiên cứu để khẳng định một
Từ thế kỷ thứ XIX đến nay, luật so sánh phát triển mạnh mẽ với hai hình thức là
luật so sánh lập pháp và luật so sánh học thuật. Luật so sánh lập pháp là quá trình
theo đó pháp luật của nước ngoài được viện dẫn để soạn thảo các văn bản pháp
luật của quốc gia; còn luật so sánh học thuật là việc so sánh các hệ thống pháp
luật khác nhau đơn giản là nhằm nâng cao hiểu biết về pháp luật. (Bình luận: phải
nêu rõ đúng / sai và nêu ra quan điểm để chứng minh; hoặc tại sao có nhận định này) lOMoAR cPSD| 61630936
5. Bình luận về vị trí của Luật So sánh ở Việt Nam. lOMoAR cPSD| 61630936
6. Thế nào là cấy ghép pháp luật? Đưa ra quan điểm nên hay không nên
cấy ghép pháp luật trong hoạt động lập pháp hiện nay?
Cấy ghép pháp luật là một trong những vấn đề trọng tâm của luật so sánh thế giới
trong việc hiểu mối quan hệ giữa luật và xã hội. Tuy nhiên, tại Việt Nam, lý thuyết
này vẫn chưa được quan tâm nghiên cứu đủ nhiều trong bối cảnh một quốc gia
với nền khoa học pháp lý non trẻ đã, đang và sẽ học hỏi rất nhiều từ các quốc gia
phát triển trên thế giới. Một số tác giả có đề cập đến thuật ngữ này nhưng với một
cái tên khác là “tiếp nhận pháp luật” hay “chuyển hoá pháp luật”. Thuật ngữ “legal
transplant” thường được các học giả cho rằng xuất hiện lần đầu trong hai nghiên
cứu của Alan Watson và Kahn Freund. Theo đó, cấy ghép pháp luật là việc đưa
quy định pháp luật của một quốc gia này sang áp dụng tại một quốc gia khác, hoặc lOMoAR cPSD| 61630936
cũng có thể là sử dụng một tập hợp các quy phạm và nguyên tắc vay mượn từ một
quốc gia này tại một quốc gia khác.
• Đánh giá lý thuyết cấy ghép pháp luật qua thực tiễn Việt Nam
Có thể thấy từ khung lý thuyết về cấy ghép pháp luật, đây thực chất là cuộc luận
bàn giữa các học giả về bản chất triết học của pháp luật hay mối quan hệ của
pháp luật khi đặt trong tương quan với văn hoá, kinh tế, chính trị, xã hội cũng
như kết cấu pháp lý hạ tầng. Các yếu tố này liên quan đến khả năng tiếp nhận
trong cấy ghép pháp luật .
Trường hợp của Việt Nam cần phải được nhìn nhận đa chiều. Có thể khẳng định
thời kỳ cấy ghép pháp luật theo hướng áp đặt cưỡng bức có những thành công
nhất định. Điều này có thể lý giải đến từ việc hệ thống pháp luật của Việt Nam
trong thời kỳ phong kiến chưa có độ rõ nét mà vẫn tồn tại dưới dạng luật tục với
nguồn bản địa [66] nên khi có sự xuất hiện của luật viết sẽ dễ dàng được tiếp
nhận. Tuy nhiên, có hai điều đáng lưu ý ở đây. Một là, với cùng cách thức cấy
ghép pháp luật nhưng nền tảng Nho giáo từ Trung Quốc tỏ ra mạnh mẽ hơn và
lấn át tư duy phương Tây trong pháp luật của Pháp khi áp dụng tại Việt Nam
[67]. Điều này có thể do các yếu tố như văn hoá, kinh tế, chính trị của Việt Nam
và Trung Quốc có sự tương đồng và từ đó có sự tương thích cao hơn so với
Pháp. Hai là, sau khi Việt Nam tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và học tập mô
hình của Liên Xô thì dấu ấn của luật Pháp trở nên nhạt nhoà. Điều này chứng tỏ
cấy ghép pháp luật theo con đường áp đặt cưỡng bức khó có thể có sức sống lâu
bền như con đường tự nguyện.
Cấy ghép pháp luật với sự tự nguyện thông qua sự tham khảo pháp luật của các
quốc gia khác ở Việt Nam có vẻ không được thành công như cách thức còn lại.
Trên thực tế, nhiều chuyên gia vẫn nhận định pháp luật của Việt Nam còn thiếu
đồng bộ, thiếu tính khả thi, thiếu minh bạch hay “luật trên trời, cuộc đời dưới
đất” khiến chúng ta phải nhìn lại về lý thuyết của Watson [68]. Cấy ghép pháp
luật không đơn giản như vậy. Nói cách khác, không thể nhìn nhận tính khả thi lOMoAR cPSD| 61630936
của việc cấy ghép pháp luật một cách vội vàng như Watson khi chỉ chú trọng
quốc gia tiếp nhận mà bỏ quên ý tưởng pháp lý đó đang vận hành như thế nào ở
quốc gia gốc (ví dụ như trường hợp của Đế chế La Mã cho đến nay vẫn chưa xác
nhận được thực tiễn áp dụng pháp luật của họ)
Việc chúng ta quá vội vã khi chưa xem xét tính tương thích giữa quốc gia và
Việt Nam đã khiến cho việc cấy ghép pháp luật không đạt được thành công như
mong đợi (ví dụ như việc xem xét nền tảng triết học và nguyên tắc cơ bản ẩn sau
ngôn từ - thành quả của lịch sử tiến hóa của một chế định luật mà Việt Nam
muốn cấy ghép. Giáo sư Andrew Harding, khi nghiên cứu cấy ghép pháp luật ở
các quốc gia Đông Nam Á (cụ thể là Thái Lan, Malaysia, Indonesia), cho rằng
việc cấy ghép pháp luật không còn mới, đã diễn ra hàng trăm năm nay và bám
rễ, tìm được mảnh đất màu mỡ [71]. Tuy nhiên, mục đích và hiệu quả của cấy
ghép pháp luật không hoàn toàn như dự tính bởi học thuyết toàn cầu đã bao trùm
lên tri thức bản địa cũng như luật được cấy ghép đều không thoát khỏi việc được
sử dụng cho các mục đích bản địa hóa hoặc bị sửa đổi trong thực tiễn áp dụng.
Có thể nhìn nhận việc ban hành luật mới là một hiện tượng pháp lý phức tạp. Vì
quá trình này liên quan đến toàn bộ môi trường pháp lý, chính trị, thể thể, văn
hóa và kinh tế “trong đó một luật mới được tranh luận, soạn thảo và có hiệu
lực”. Do đó, cấy ghép pháp luật phải được đặt trong hệ hình của văn hoá pháp
luật mới có thể có được cái nhìn tổng quan.
7. Chứng minh rằng việc phân nhóm các hệ thống pháp luật trên thế giới
chỉ mang tính tương đối. Trong các cách phân nhóm các hệ thống pháp luật
hiện nay, nhóm ủng hộ cách phân nhóm nào nhất? Vì sao? Có thể thấy việc
sử dụng những tiêu chí nào và phân chia thành bao nhiêu dòng họ pháp luật là tùy
thuộc vào quan điểm, mục đích của các học giả so sánh. Một tiêu chí có thể là căn
cứ để phân biệt các hệ thống pháp luật thuộc một hoặc một số nhóm này nhưng
lại không thể phân biệt được các hệ thống pháp luật thuộc một hoặc số nhóm khác.
Do đó, khó có thể khẳng định sự phân chia nào và việc dựa vào những tiêu chí lOMoAR cPSD| 61630936
nào để phân nhóm các hệ thống pháp luật là chính xác. Vì thế, cũng không thể
khẳng định được rằng sử dụng bao nhiêu tiêu chí và phân chia các hệ thống pháp
luật trên thế giới thành bao nhiêu dòng họ pháp luật là chính xác. Các tiêu chí đã
được các học giả sử dụng để phân chia các hệ thống pháp luật trên thế giới có
những giá trị nhất định đối với việc phân nhóm các hệ thống pháp luật. Như vậy
có thể thấy, việc phân nhóm các hệ thống pháp luật trên thế giới chỉ mang tính tương đối.
- Sử dụng những tiêu chí phân nhóm khác nhau, cho ra kết quả phân nhóm khác nhau
- Mặc dù sử dụng những tiêu chí phân nhóm giống nhau nhưng tiến hành tại
thời điểm khác nhau sẽ cho ra kết quả phân nhóm khác nhua
- Trong nhiều cách phân hóa HTPL phổ biến, có một số HTPL khó xếp vào
bất cứ nhóm nào trong số các nhóm được phân chia. VD: HTPL ở Quebec, Louisiana, Nam Phi…
->Hệ quả: Không thể khẳng định cách phân nhóm của học giả nào là chính xác
nhất và cách phân nhóm nào là không chính xác
8. Phân tích điểm tương đồng và khác biệt điển hình giữa truyền thống
Civil Law và Common Law. lOMoAR cPSD| 61630936 lOMoAR cPSD| 61630936 lOMoAR cPSD| 61630936
9. Lý giải quan điểm cho rằng TTPL XHXN chỉ là một phân nhánh của
truyền thống Civil Law.
10.So sánh sự phát triển của luật công và luật tư của truyền thống Civil law. lOMoAR cPSD| 61630936
11.Phân tích các dạng cấu trúc của HTPL Anh. Theo anh/chị dạng cấu
trúc nào thể hiện được đầy đủ nhất các bộ phận cấu thành của HTPL Anh.
Khác với Civil law, Pháp luật Anh không phân chia thành Luật công (Công
pháp) và luật tư (Tư pháp) vì sự phân biệt này ít có ý nghĩa trong thời kì phong
kiến ở Anh, giai đoạn đầu của sự phát triển Thông luật vì các quyền công và tư
được xác định thông qua quyền lợi về tài sản, nhưng không có sự phân biệt giữa
sở hữu tài sản và các sơ quan công theo kiểu Civil law.
Cấu trúc của HTPL Anh được chia thành 2 nhóm phổ biến nhất ở Anh là
phân biệt giữa: Luật hình sự với Luật dân sự; và common law với equity và với pháp luật thành văn. lOMoAR cPSD| 61630936
a.Luật hình sự và luật dân sự
Trong tác phẩm “Learning the Law”, Glanville Williams - nhà cải cách
pháp luật, nhà khoa học pháp lý “không có đối thủ” và giáo sư luật của Anh, đã
dành chương đầu tiên viết về phân chia giáo pháp luật (The Divisions of the Law).
Theo ông, luật của Anh được chia thành hai ngành luật lớn: luật hình sự và luật
dân sự, trong đó ngành luật thứ hai đồ sộ hơn rất nhiều so với ngành luật thứ nhất.
Luật hình sự xác định ranh giới của những hành vi mà xã hội có thể hoặc không
thể chấp nhận; quy định về quyền và nghĩa vụ của cơ quan công quyền; quy định
và kiểm soát những hành vi sai trái, đi ngược lại lợi ích của cộng đồng... Một
người vi phạm luật hình sự bị coi là tội phạm, chống lại toàn xã hội, sẽ bị Nhà
truy tố. Phạm vi rộng lớn của luật hình sự của Anh không chỉ được khẳng định
bởi Williams mà cũng được Glendon, Gordon và Carozza thừa nhận trong tác
phẩm của mình. Các tác giả này, khi bàn về cấu trúc pháp luật của Anh đã khẳng
định luật hình sự bao trùm lên đại bộ phận luật công, gồm cả luật hiến pháp, luật
hành chính và luật tố tụng.
Ngành luật lớn thứ hai của Anh, theo Williams, là luật dân sự, như đã đề
cập, có phạm vi điều chỉnh rộng hơn nhiều so với luật hình sự, bao quát từ quan
hệ hợp đồng và trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng, tới những quan hệ trong lĩnh
vực gia đình kể cả những vấn đề về di chúc, rồi vươn tới cả những quan hệ về lao
động và về đất đai... Luật dân sự quy định về quyền và nghĩa vụ của cá nhân, vì
vậy vi phạm luật dân sự chỉ là những hành vi sai trái giữa các bên hay gọi là hành
vi phạm lỗi dân sự (civil wrong), không bị coi là đi ngược lợi ích của cộng đồng.
Luật dân sự của Anh phân biệt bốn loại lỗi dân sự: (1) lỗi do vi phạm hợp đồng,
hình thành khi một trong các bên chủ thể hợp đồng không thực hiện những cam
kết trong hợp đồng; (2) lỗi ngoài hợp đồng (tort), hình thành ngay cả khi hai bên
không hề có thỏa thuận trước về hành vi nào đó nhưng nếu hành vi gây thiệt hại
diễn ra sẽ làm phát sinh quyền khởi kiện đòi bồi thường của bên bị thiệt hại (bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng); (3) lỗi bội tín (breach of trust): đánh mất niềm
tin và làm trái sự ủy thác của người khác; (4) lỗi do vi phạm “nghĩa vụ hợp đồng
không chính thức” hay “nghĩa vụ bản hợp đồng” (quasicontractual obligation). lOMoAR cPSD| 61630936
Luật dân sự cung cấp giải pháp để giải quyết các tranh chấp giữa các cá nhân công
dân hoặc tổ chức (ví dụ: giữa người tiêu dùng và nhà cung cấp; giữa người sử
dụng lao động và người lao động...) khi một bên phạm lỗi dân sự gây thiệt hại cho
bên kia. Bên bị thiệt hại hoặc thành viên gia đình của họ có quyền kiện ra toàn,
đòi bồi thường thiệt hại (tài sản, sức khoẻ, tính mạng). Như vậy, phạm vi điều
chỉnh của luật dân sự ở Anh hết sức rộng, bao quát hầu như toàn bộ các quan hệ
xã hội mà ở các nước civil law thuộc phạm vi điều chỉnh của luật tư và thậm chí
bao quát cả những quan hệ xã hội mà ở các nước civil law không hẳn đã được coi
là thuộc phạm vi điều chỉnh của luật tư (quan hệ lao động, quan hệ đất đai...).
Giữa luật hình sự và luật dân sự của Anh có bốn điểm khác biệt lớn, về: (1)
mối quan tâm của mỗi loại luật; (2) bên có quyền đưa vụ việc ra tòa án; (3) nghĩa
vụ chứng minh; và (4) mục đích điều chỉnh của từng loại luật. Bất kể những khác
biệt lớn này, trong thực tiễn, cả hai loại luật rất có thể cùng được áp dụng để xử
lý cùng một hành vi sai trái nếu hành vi đó đồng thời phạm tội hình sự và phạm
tội dân sự (thậm chí, phạm nhiều lối dân sự). Để phân biệt giữa hành vi phạm tội
hình sự và phạm lỗi dân sự không thể đơn thuần dựa vào bản thân hành vi đã thực
hiện mà phải dựa vào hệ quả pháp lý của hành vi đó. Những hành vi sai trái bị xử
bằng thủ tục TTHS thì bị coi là hành vi phạm tội, bị xử bằng thủ tục TTDS thì bị
coi là hành vi phạm lỗi dân sự. Theo Williams, cần căn cứ vào hệ quả pháp lý của
các hành vi thay vì căn cứ vào bản thân hành vi đã thực hiện để phân biệt giữa
hành phạm tội hình sự và phạm lỗi dân sự.
Cách phân chia pháp luật thành hai bộ phận: luật hình sự và luật dân sự là
cách phân chia phổ biến ở Anh, tuy nhiên lại thường làm những luật gia nước
ngoài không thỏa mãn bởi lẽ trong tư duy của họ cách phân chia này dường như
không bao quát hết cả QPPL trong HTPL Anh. Tuy nhiên, nhìn vào định nghĩa hết
sứ rộng của luật hình sự và luật dân sự ở Anh thì mối “quan ngại” có lẽ sẽ phần nào được giải toả.
b. Common law, equity và pháp luật thành văn
Williams cũng chỉ ra rằng luật của Anh được hợp thành bởi bộ phận lớn:
common law, equity và pháp luật thành văn. Các phân chia pháp luật này có lẽ ít lOMoAR cPSD| 61630936
gây tranh cãi bởi ba bộ phận cổ thành nên pháp luật Anh đã phủ kín hệ thống
QPPL của Anh ở tập quán pháp, theo thời gian, đã dần được chuyển hoá vào
common law; riêng các tập quán thương mại thì đã được hấp thụ một phần bởi
common law, một phần bởi pháp luật thành văn. Williams không phải là tác giả
duy nhất nói tới common law và equity khi phân nhóm pháp luật của Anh mà
nhiều tác giả khác cũng đề cập tới hai bộ phận này của pháp luật Anh, trong đó có
David. Tuy nhiên, khác với Williams, David không nói tới bộ phận cấu thành thứ
ba của pháp luật Anh (pháp luật thành văn), vì vậy cách phân chia của David tiềm
ẩn nguy cơ gây tranh cãi.
Bộ phận thứ ba của pháp luật của Anh - pháp luật thành văn - gồm những
QPPL do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Loại pháp luật thành
văn quan trọng nhất là luật do Nghị viện ban hành, mặc dù ngày nay các văn bản
pháp luật ủy quyền quyo do Chính phủ ban hành, còn được gọi là công cụ pháp
luật (Statutory Instruments) cũng trở nên hết sức quan trọng.
12.Phân tích sự tương đồng và khác biệt trong cấu trúc nguồn luật của các
HTPL thuộc truyền thống Civil Law và Common Law. lOMoAR cPSD| 61630936 lOMoAR cPSD| 61630936 lOMoAR cPSD| 61630936
13.Phân tích sự khác biệt về vị trí của ĐƯQT trên lý thuyết và trong thực
tiễn ở các nước Civil Law và Common Law.
14.Bình luận sự khác biệt giữa vị trí của án lệ theo lý thuyết và trên thực tế trong HTPL Anh.
15.Đặc điểm của Bộ luật Dân sự Pháp và Bộ luật Dân sự Đức dưới góc độ so sánh. lOMoAR cPSD| 61630936
16.Phân tích điểm tương đồng và khác biệt về chủ thể có thẩm quyền làm
luật và việc đề xuất xây dựng luật trong các HTPL Pháp, Đức, Anh và Mỹ.
17.Bình luận điểm tương đồng và khác biệt về trình tự và thủ tục làm luật
trong các HTPL Pháp, Đức, Anh và Mỹ. Từ đó đưa ra đề xuất hoàn
thiện pháp luật Việt Nam.
18.Phân tích điểm tương đồng và khác biệt về khái niệm và chủ thể giải
thích pháp luật thành văn giữa các hệ thống pháp luật Pháp, Đức, Anh và Mỹ.
19.So sánh quy tắc giải thích pháp luật thành văn tại Đức và Pháp.