



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61685031
Bước 1: Xác định vấn đề pháp luật cần so sánh, xây dựng câu hỏi nghiên cứu và giả
thuyết nghiên cứu so sánh -
Sự mở rộng Truyền thống Civil Law - Truyền thống Common Law - Truyền thống PLXHCN
Nguồn gốc pháp luật của từng truyền thống là gì?
Tại sao lại có sự mở rộng của 3 hệ thống pl này
Quy mô của sự mở rộng của 3 hệ thống pl này Tính
chất về pháp điển hóa là gì?
Giả thuyết nghiên cứu: ba truyền thống pháp luật Civil Law, Common Law và XHCN là
các TTPL lớn trên thế giới. 3 TTPL đều xuất phát từ một hoặc một số quốc gia, sau đó lan
ra, ảnh hưởng đến các châu lục khác trên thế giới. Sự mở rộng này có thể xuất phát từ
những cuộc chiến tranh thuộc địa, từ sự giao lưu hàng hóa hoặc tự nguyện học hỏi.
Bước 2: Lựa chọn đối tượng so sánh:
Truyền thống pháp luật xhcn: Liên Xô
Truyền thống civil law: Pháp; Tây Ban Nha
Truyền thống common law: Anh - Mỹ
Mục đích so sánh: nâng cao hiểu biết về hệ thống pháp luật civil law, common law, xhcn.
Việc chọn hệ thống pháp luật Anh -Mỹ cho common law; Pháp-Tây Ban Nha cho civil law
vì đây là hệ thống pháp luật lớn trên thế giới cho nên nguồn thông tin dồi dào, cùng thuộc
dòng họ common law. Việc chọn Việt Nam cho xhcn vì VN thuộc dòng xhcn, gần gũi và
dễ tìm hiểu đối với sinh viên.
Bước 3: Mô tả đối tượng so sánh
Viêc ̣ này có ý nghĩa quan trọng khi tìm ra những điểm tương đồng và khác biêṭ giữa TTPL
civil law và TTPL common law. Các đối tượng ss này phải đc thực hiêṇ lần lượt và riêng
biêt,̣ đảm bảo tính toàn diêṇ và khách quan. Muốn làm đc điều đó, ng nghiên cứu phải tìm
hiểu tất cả các quy định của 2 TTPL, bởi: -
TTPL civil law chủ yếu là kế thừa luâṭ La Mã, ngoài ra chịu ảnh hưởng của tâp ̣ quán
Giéc-manh; tâp ̣ quán địa phương, luâṭ giáo hôi,̣ luâṭ buôn bán quốc tế. TTPL common law
chịu ảnh hưởng của HTPL Anh. lOMoAR cPSD| 61685031 -
Các chế định PL của 2 TTPL khác nhau về khái niêm, ̣ nguồn gốc lịch sử nhưng lại
có thể cùng đc giải quyết vđề nào đó. -
Hê ̣thống nguồn luât,̣ các loại văn bản, hình thức khác nhau nên cần ph phân biêṭ
các qđịnh của văn bản PL. VD: các nc civil law coi trọng pháp điển hoá nên có những các bô ̣
luâṭ lớn (BLDS, BLTM, BL LĐÔNG,̣ BLTTHS, BLTTDS); còn các nc common law lại
coi trọng án lê,̣ các bô ̣luâṭ là sự tâp ̣ hợp của các đạo luâṭ đôc ̣ lâp.̣
Yêu cầu đối với ng nghiên cứu: ko đc đưa ra bất kì bình luâṇ hay nhâṇ xét của bản thân vì
có thể đưa ra những kết luâṇ thiếu chính xác, viêc ̣ mô tả đối tượng phải trung thực, phản
ánh đúng thực trạng; cần ph sdung các thuâṭ ngữ pháp lý.
Viêc ̣ mô tả đối tượng ss cũng k nên theo 1 khuôn mẫu nào, nó sẽ phụ thuôc ̣ vào đăc ̣ điểm
riêng của từng HTPL. VD: khi mô tả về TTPL civil law, ta có thể trình bày về khái niêm;̣
các quy phạm (có sự khác nhau giữa các QPPL ndung, do sự lựa chọn thể chế chính trị và
mđô ̣tâp ̣ trung hoá đối vs luâṭ công, do 1 số nước đã sdung những khái niêṃ pháp lý mà
các nước khác còn chưa biết đến đối với luâṭ tư); các chế định pháp luâṭ (chế định nghĩa
vụ giữa “con nợ” và “chủ nợ”) hay những vđề kte-xh.
Bước 4: So sánh Sự mở rộng của truyền thống Civil Law, Common Law và pháp luật XHCN:
Tiêu chí: con đường mở rộng: • Civil Law: 2 con đường •
Chính: các cường quốc ở châu Âu lục địa thực hiện chính sách thuộc địa hóa làm
cho kỹ thuật pháp điển của họ lan sang các nước thuộc địa •
Phụ: tự nguyện, một số nước có xu hướng thích học hỏi văn minh pháp lý phương Tây. • Common Law: •
Quá trình thuộc địa hóa •
Hoạt động thương mại tới các nước •
Địa vị thống trị của đế chế Anh trong suốt những giai đoạn quan trọng của lịch sử TG. lOMoAR cPSD| 61685031 •
PL XHCN: 1 con đường : tự nguyện học hỏi do một số quốc gia nhìn thấy chế độ
XHCN ở Liên bang Xô-viết tốt đẹp vì không còn tình trạng bóc lột người hay sự phân biệt giai cấp.
Tiêu chí: quy mô mở rộng •
Civil Law: ở hầu hết các châu lục trên thế giới, trừ châu Úc •
Common Law: rộng khắp thế giới •
PL XHCN: khá rộng, lan sang láng giềng Mông Cổ, một số nước Đông Âu, nhiều
quốc gia châu Á và châu Phi
Bước 5: Đưa ra ưu điểm, nhược điểm của 3 hệ thống pháp luật trên. *Civil law Ưu điểm
Một hệ thống toàn diện các quy tắc và nguyên tắc thường được sắp xếp theo quy tắc và dễ
dàng tiếp cận với công dân và luật gia.
Một hệ thống được tổ chức tốt ủng hộ sự hợp tác, trật tự và khả năng dự đoán, dựa trên cơ
sở phân loại logic và năng động được phát triển từ luật La Mã và được phản ánh trong cấu trúc của các mã.
Một hệ thống thích ứng với các quy tắc dân sự tránh chi tiết quá mức và chứa các điều
khoản chung cho phép thích ứng với sự thay đổi. Một hệ thống chủ yếu lập pháp , nhưng
vẫn để lại chỗ cho cơ quan tư pháp điều chỉnh các quy tắc theo sự thay đổi xã hội và nhu
cầu mới, bằng cách giải thích và luật học sáng tạo. Nhược điểm
Còn thiếu sự linh hoạt trong nhiều trường hợp, không bao quát đc hết nên còn nhiều kẽ hở. * Common law Ưu điểm
Vì đã có cơ sở để thông qua phán quyết nên quá trình xét xử thông qua nhanh hơn rất nhiều,
thêm vào đó, những quyết định này dựa trên cơ sở án lệ nên sẽ chắc chắn hơn. Nhược điểm
Trong các trường hợp ko có tiền lệ sẽ gây ra nhiều khó khăn, thẩm phán đôi khi chỉ
xem chứng cứ sẽ đưa ra phán quyết thiếu công bằng lOMoAR cPSD| 61685031
Ngoài ra còn cần phải có một hệ thống lưu trữ cẩn thận để duy trì cơ sở phán quyết * XHCN Ưu điểm
Có nhiều điểm gần gũi và tương đồng với những khía cạnh thực định của hệ thống dân luật. Nhược điểm
là CNXH chỉ là bước đệm trước khi con người tiến đến kiểu xã hội cuối cùng trong lịch
sử (xh cộng sản chủ nghĩa)
là pháp luật là biểu hiện của giai cấp thống trị, nhà nước sẽ dùng pháp luật để bảo vệ lợi
ích của giai cấp mình luật tư bị mất đi tính nổi trội của mình và bị chuyển hoá thành luật công.
Phân tích sự tương đồng và khác biệt trong cấu trúc nguồn luật của HTPL Anh và Mỹ.
Anh và Mỹ là hai quốc gia thuộc dòng họ Common law nên hệ thống pháp luật (HTPL)
của hai nước có những nét tương đồng nhất định. 1.
Những điểm tương đồng và khác biệt trong cấu trúc nguồn luật của hệ thống
pháp luật Anh và Mỹ
1.1. Những điểm tương đồng
- Trong cấu trúc nguồn luật của 2 quốc gia đều có án lệ, các văn bản pháp luật (VBPL) và
các tác phẩm của các học gia pháp lý có uy tín.
- Án lệ là nguồn luật được sử dụng phổ biến nhất. Án lệ của Anh và Mĩ đều có chung
nguyên tắc Stare decisis, đều được ghi chép, xuất bản để sử dụng.
- Cả Anh và Mỹ đều thừa nhận và sử dụng các tác phẩm của các học giả pháp lí giống như
là một nguồn luật. Các tác phẩm này thường được trích dẫn bởi các luật sư và thẩm phán
trong quá trình hành nghề luật.
- Luật thành văn ngày càng được coi trọng trong hệ thống nguồn luật của 2 quốc gia.
1.2. Những nét khác biệt
- Số lượng nguồn luật của HTPL Anh phong phú hơn: Mỹ có 3 loại (Án lệ, Luật thành văn
và các tác phẩm của học gia pháp lý), còn Anh có tới 5 loại (Án lệ, Luật thành văn, Luật
Liên minh Châu Âu, Tập quán pháp địa phương và các tác phẩm có uy tín). lOMoAR cPSD| 61685031
- Điểm khác biệt trong một số loại nguồn cụ thể: * Án lệ •
Ở Anh, án lệ được áp dụng một cách tuyệt đối, còn ở Mỹ chỉ chấp nhận thụ động án
lệ – một thứ cứng nhắc và ra đời từ rất lâu không phù hợp với người Mỹ. Cùng
áp dụng "nguyên tắc stare decisis" trong việc sử dụng án lệ, tuy nhiên ở Anh nguyên
tắc này được thực hiện chặt chẽ, khắt khe hơn. Theo pháp luật Anh, án lệ của cấp
trên có tính bắt buộc đối với cấp dưới và ngay cả chính mình. Vì vậy, các thẩm phán
ở Anh không muốn phủ nhận những phán quyết trước đó của mình hoặc đào sâu
hơn khi xét xử vụ án. •
Ở Mĩ, phán quyết của các tòa án tối cao ở cấp bang và liên bang không chịu sự ràng
buộc của chính mình; tòa án bang không bị bắt buộc tuân thủ án lệ của các tòa án ở
các bang khác, tuy nhiên các phán quyết phù hợp của các tòa án bang khác thường
được viện dẫn, giá trị thuyết phục phụ thuộc vào việc tòa án nào đã đưa ra quyết
định đó. * Luật thành văn •
Anh: không có hiến pháp thành văn còn Mỹ thì ngược lại. Các qui định có bản chất
của hiến pháp Anh có thể tìm thấy trong đặc quyền Hoàng gia, trong một số truyền
thống, án lệ cũng như văn bản pháp luật do Nghị viện ban hành. •
Mỹ: Liên bang và các bang đều có hiến pháp viết. Hiến pháp Mỹ được coi là đạo
luật cơ bản của quốc gia. Do đó, bất kể nguồn luật nào trê nước Mỹ đều không được
trái với nội dung Hiến pháp. Các VBPL ở Anh gồm: VBPL do Nghị viện trực tiếp
ban hành và VBPL Nghị viện ủy quyền ban hành. Luật do Nghị viện ban hành có
hiệu lực cao hơn án lệ do thẩm phán làm ra. Luật thường bổ sung hay thay thế án
lệ. Các VBPL địa phương do chính quyền địa phương ban hành. Ở Mỹ, có rất nhiều
đạo luật cả ở cấp Liên bang và cấp Bang. Ngoài Hiến pháp Mỹ, các đạo luật do
Quốc hội Mỹ thông qua có giá trị pháp lí cao nhất, cao hơn phán quyết của Tòa án
cấp Liên bang và cấp Bang và cao hơn các đạo luật tương ứng của các Bang. Mỗi
Bang của Mỹ đều có quyền ban hành luật riêng áp dụng trong Bang.
2. Nguyên nhân dẫn đến sự tương đồng và khác biệt
Sở dĩ có những điểm giống nhau là do cấu trúc của HTPL Anh và Mỹ đều bắt nguồn từ
dòng họ Common law. Hơn nữa, trước đây Mỹ từng là thuộc địa của Anh nên ít nhiều cấu
trúc pháp luật của Mỹ cũng bị ảnh hưởng bởi pháp luật Anh. Chẳng hạn, hiện nay các tòa
án ở Mỹ vẫn viện dẫn quyết định của tòa án Anh có từ thời tiền cách mạng và coi đó là
những án lệ bắt buộc. Thời hiện đại đã khiến cho pháp luật của Hợp Chủng quốc Hoa Kì
phải có những cải cách và điều này xảy ra giống như với pháp luật Anh, ví dụ: việc xóa bỏ
hệ thống Trát, sự sáp nhập của Common law với luật công bình về mặt thủ tục. Nguyên lOMoAR cPSD| 61685031
nhân của những điểm khác nhau thì có rất nhiều yếu tố tác động: vị trí địa lý, dân cư, lịch
sử, chế độ chính trị,… Tuy nhiên, một cách tổng quát nhất có thể thấy, điểm dẫn tới sự
khác biệt trong cấu trúc nguồn của Anh và Mỹ xuất phát từ nguyên nhân sau:
Thứ nhất, Anh và Mỹ là hai quốc gia độc lập, có bộ máy nhà nước khác nhau, có sự khác
biệt về kinh tế, chính trị nên sẽ ảnh hưởng phần nào đến HTPL của hai quốc gia.
Thứ hai, Anh là nước truyền thống lâu đời, dân cư gần như thuần nhất. Mỹ là nước ra đời
muộn, dân cư chủ yếu là nhập cư, đa sắc tộc, đa tôn giáo nên cách tư duy pháp lí sẽ khác
nhau, dẫn đến khác biệt trong HTPL cũng như cấu trúc nguồn luật của Anh và Mỹ.
Thứ ba, ở Anh không có Hiến pháp thành văn, cái mà Anh gọi là Hiến pháp là tổng thể các
quy phạm có nguồn gốc luật thành văn hoặc nguồn luật án lệ. Có sự khác nhau này là vì
Anh là quốc gia có bề dày truyền thống, hơn nữa nguyên tắc Stare decisis lại là xương sống
của pháp luật Anh (nghĩa là án lệ phải được tôn trọng). Còn ở Mỹ lại có một bản Hiến pháp
Liên bang, Mỹ phải xây dựng bản Hiến pháp thành văn này là vì Mỹ là một nước liên bang
trong đó có sự dung hòa về lợi ích của các tiểu bang.
Thứ tư, luật thành văn ở Mỹ được coi trọng hơn vì cơ quan lập pháp của Mỹ thường xuyên
tiến hành luật hóa các phán quyết của Tòa án, các án lệ điển hình, hoạt động pháp điển hóa
ở Mỹ được tiến hành thường xuyên hơn ở Anh. Luật Công của Civil law Luật Tư của Civil law 1.
- Chỉ phát triển từ thế kỉ 17, 18 trở - Phát triển xuyên suốt trong quá trình Thời đi
phát triển của dòng họ Civil Law (từ gian
thế kỷ I đến hiện nay) phát triển lOMoAR cPSD| 61685031 2.
- Luật gia người La Mã Ulpianus - Giai đoạn pháp luật tập quán
Quá vào thế kỷ 2 đã vạch ra ranh giới (trước thế kỉ XIII): trình
giữa luật công và luật tư. Tuy nhiên phát
Lúc này người La Mã có câu châm triển
ngôn: “Hãy im lặng khi người ta nói + Đã bắt đầu hình thành ngay từ nhà
về vua và nhà thờ”. Nhà nước Rome nước La Mã Cổ đại khi tầng lớp thống
vì giữ vững vị trí thống trị của mình trị cần có công cụ để chi phối tầng lớp
đối với giai cấp bị trị nên chỉ cần tập bị trị. (AD 1-250)
trung vào lĩnh vực tư pháp là mối + Luật tư vẫn còn bị chi phối bởi nhiều
quan hệ giữa dân với dân. Còn bộ yếu tố như: duy tâm, ý chí của thượng
máy nhà nước và giai cấp thống trị đế, may rủi, thiếu sự khách quan,
không thể bị chi phối, được tự => phương pháp giải quyết là đấu
Do đó luật hiến pháp và lOMoAR cPSD| 61685031
luật hành chính không tồn tại.
súng đấu gươm cá cược, thử thách với
lửa với nước… Các tranh chấp được
giải quyết bằng sức mạnh cơ bắp và -
Chỉ tập trung vào tư pháp (và sức mạnh quyền uy của các tộc trưởng.
một số luật khác như divine law,
natural law và human law). Do đó,
bộ máy nhà nước không phát triển. -
Giai đoạn pháp luật thành
Luật áp dụng hỗn độn.
văn (từ XIII đến cuối XVIII): -
Hoạt động buôn bán thương mại
và giao lưu giữa các dân tộc, sự phát -
Mãi đến thế kỉ 17 và 18 khi triển của dân cư thành thị đề ra nhu cầu
trường phái pháp luật tự nhiên phát phân biệt tôn giáo, đạo đức và pháp
triển thì đây cũng là giai đoạn tạo ra luật. Pháp luật cần phải điều chỉnh các
khả năng mới để phát triển công quan hệ xã hội để chấm dứt tình trạng
pháp. Khi các quyền tự nhiên của hỗn mang trong xã hội
con người được tôn trọng, các quyền
công dân, quyền con người được -
từ thế kỉ XIII đến XVIII hình
thiết lập, quyền lực tối cao của nhà thành 05 trường phái pháp luật đóng
nước không còn thuộc về hoàng đế góp cho việc xây dựng hệ thống pháp
mà thuộc về nhân dân thì khoa học luật chung cho Châu âu lục địa.
pháp lý trong lĩnh vực công pháp đã -
Trong khoảng thời gian này,
có điều kiện đẻ phát triển. Để hạn trên cơ sở ảnh hưởng của Corpus Juris
chế và kiểm soát quyền lực nhàn Civillis, hệ thống pháp luật chung của
ước, nhiều tư tưởng pháp luật mới lục địa Châu Âu đã ra đời và được gọi
được hình thành ví dụ như tam là Jus Commune.
quyền phân lập, quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân hoặc bầu cử trực -
Giai đoạn pháp điển hóa pháp
tiếp, thiết chế tòa án hiến pháp, đảng luậtvà phát triển ra ngoài Châu Âu
cầm quyền và đảng đối lập…
(từ cuối XVIII đến nay):
+ Bắt đầu bằng sự ra đời của những văn
bản pháp luật quan trọng. (Nước Pháp -
Đến thế kỉ 19, Bộ máy nhà với Bản tuyên ngôn về nhân quyền và
nước mới thực sự phát triển và các dân quyền; nhiều bộ luật quan trọng
luật và thiết chế liên quan đến hành khác)
chính, hình sự, thuế… và Hiến pháp
chi phối vấn đề luật công của hầu hết + Dòng họ Civil law đã đạt được những
các nhà nước hiện đại.
thành tựu to lớn. Do Pháp có nhiều lOMoAR cPSD| 61685031
thuộc địa nên đã mở rộng ra Bắc Phi, Trung Phi, Tây Phi, Đông lOMoAR cPSD| 61685031
Nam Á, Nam Mỹ (Cuối thể kí XIX, đầu thế kỉ XX)
+ Đức cũng có nhiều thuộc địa.Mở
rộng ra Nhạt Bản, Hàn Quốc, Thái Lan,
Hi Lạp và một phần Trung Quốc
=> Lan rộng ra khắp Châu Âu và ngoài Châu âu.
- Các chế định pháp luật cụ thể như hợp
đòng, thừa kế, sở hữu, pháp nhân…
cũng như các bộ luật, luật có sự thống
nhất giữa các quốc gia theo truyền thống Civil law.
Bình luận điểm tương đồng và khác biệt về trình tự và thủ tục làm luật trong các
HTPL Pháp, Đức, Anh và Mỹ. Từ đó đưa ra đề xuất hoàn thiện pháp luật Việt Nam.
* Ở Pháp, dự thảo luật được xem xét ở cả Hạ Viện và Thượng viện:
- Xem xét dự thảo pháp luật tại Ủy Ban (Điều 43 Hiến pháp):
+ Dự thảo luật phải được xem xét tại một trong các cơ quan thường trực. Tuy nhiên, nếu
Chính phủ yêu cầu thì Nghị viện có thể lập Ủy ban lâm thời để xem xét việc xây dựng luật.
+ Ủy ban phân công một thành viên chịu trách nhiệm chính trong xem xét đề xuất xây dựng luật.
+ Ủy ban thông qua đề xuất xây dựng luật (có thể sửa đổi) hoặc không thông qua đề xuất xây dựng luật.
+ Điều 44 Hiến pháp: Thành viên Nghị viện và Chính phủ có quyền đưa ra các sửa đổi, bổ
sung đối với dự thảo luật trình trước Nghị viện.
+ Nếu Chính phủ có yêu cầu, Hạ Viện hoặc Thượng viện sẽ tiến hành một lần biểu quyết
duy nhất về một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản đưa ra thảo luận trên cơ sở giữ lại
những sửa đổi, bổ sung đã được Chính phủ đề xuất hoặc chấp nhận - Xem xét dự thảo
luật tại phiên họp toàn thể của Hạ viện/Thượng viện lOMoAR cPSD| 61685031
+ Điều 42 HP: dự thảo luật (được Ủy ban thông qua hoặc ko thông qua) được đưa ra xem
xét tại phiên họp toàn thể của Hạ viện/Thượng viện. Tại đây, nghị sĩ thảo luận và biểu quyết
từng điều luật, những sửa đổi trước khi biểu quyết toàn bộ nội dung đề xuất xây dựng luật.
+ Dự thảo luật sau đó sẽ được chuyển sang Viện thứ 2 xem xét với quy trình tương tự. + Điều 45 HP:
++ Nếu 2 Viện cùng quan điểm => Thông qua dự thảo luật.
++ Nếu 2 viện khác quan điểm và sau khi dự thảo luật được xem xét hai lần ở từng viện
(hoặc sau khi dự thảo luật được xem xét một lần ở từng Viện và Chính phủ đề nghị tiến
hành thủ tục thỏa hiệp) => Chính phủ yêu cầu Ủy ban hỗn hợp chung (7 thành viên Hạ
viện, 7 thành viên Thượng viện) đề xuất 1 văn bản chung về những điều khoản của dự thảo
luật được thảo luận => Nếu được chấp nhận bởi hai viện thì dự thảo luật sẽ được thông qua.
++ Nếu Ủy ban chung không đưa ra được dự thảo luật hoặc hai viện không đồng ý thì Hạ
viện sẽ đưa ra quyết định cuối cùng để thông qua dự thảo luật.
- Sau khi thông qua: Tổng thống công bố trong vòng 15 ngày. Trong thời gian đó Thủ
tướng, chủ tịch Hạ Viện, Chủ tịch thượng viện hoặc nhóm 60 nghị sĩ của một trong hai
viện, Hội đồng Hiến pháp xem xét tính hợp hiến. Dự thảo luật sau khi công bố được đăng
tại Công báo và trở thành đạo luật có hiệu lực thi hành. Ở Đức:
Chủ yếu bởi Hạ Viện:
- Thảo luận lần 1 tại phiên họp toàn thể:
+ Thảo luận trên cơ sở yêu cầu của Hội đồng bang hoặc nhóm nghị sĩ. Dự thảo luật được
chuyển cho Ủy ban xem xét. Một Ủy ban sẽ được giao trách nhiệm chính trong khi các Ủy
ban khác cung cấp ý kiến của họ về dự thảo luật.
+ Quá trình xây dựng dự thảo luật diễn ra tại các Ủy ban thường trực sau khi Ủy ban tập
hợp ý kiến, viết báo cáo và trình bày kết quả thảo luận tại phiên họp toàn thể nêu trên.
- Thảo luận lần thứ 2 tại phiên họp toàn thể:
+ Chủ yếu liên quan đến các sửa đổi dự thảo luật lOMoAR cPSD| 61685031
+ Bất kỳ thành viên nào của Hạ Viện đều có quyền đề xuất sửa đổi dự thảo luật. Yêu cầu
này được thảo luận xử lý ngay tại phiên họp.
+ Nếu toàn bộ thành viên thông qua thì phiên bản mới sẽ được chuyển đến các nghị sĩ -
Thảo luận lần thứ 3 tại phiên họp toàn thể:
+ Thảo luận lần cuối và thông qua dự thảo
+ Đề xuất sửa đổi không thể được đệ trình tại phiên họp này, trừ khi được đưa ra bởi một
nhóm nghị sĩ hoặc ít nhất 5% tổng số thành viên của Hạ Viện. Nội dung sửa đổi phải là
chính những sửa đổi nêu ra tại lần thảo luận thứ 2.
+ Sau khi thông qua tại Hạ Viện, Hội đồng liên bang sẽ quyết định số phận của dự thảo
luật đó (Hội đồng liên bang tuy nhiên lại không có quyền thau đổi nội dung của dự thảo luật)
- Trường hợp Hạ viện, Hội đồng liên bang không thống nhất về một dự thảo luật => Hội
đồng liên bang có thể triệu tập Ủy ban hòa giải, có thành phần là các thành viên của Hạ
Viện và Hội đồng liên ban với số lượng ngang nhau. => Đưa ra các đề xuất để giải quyết
bất đồng (Không được sửa đổi dự thảo luật) => Nếu đề xuất được chấp thuận thì dự thảo
luật được thông qua >< Nếu không thỏa thuận được hoặc cả Hạ Viện và Hội đồng Liên
bang không thông qua thì Hội đồng Liên bang sẽ đưa ra quyết định cuối cùng.
- Trong trường hợp đó, một số loại dự thảo sẽ được thông qua nếu được đồng ý, và một số
dự thảo luật sẽ được thông qua nếu không bị bác bỏ.
- Dự thảo luật được chuyển tới Tổng thống để thẩm tra tính hợp hiến. Việc thẩm tra này do
văn phòng tổng thống tiến hành. Sau đó Tổng thống ký phê chuẩn và công bố công khai
trên công báo của pháp luật Liên Bang. Ở Anh:
Quy trình giống nhau ở cả Hạ Viện và Thượng viện, gồm 5 bước:
- Lần đọc đầu tiên (First Reading): Chỉ mang tính chất giới thiệu rằng có dự thảo luật được trình ra Nghị viện.
- Lần đọc thứ hai (Second Reading): Để cho các nghị sĩ thảo luận về những nội dung chính
(các nguyên tắc chung) của dự thảo luật.
- Dự thảo luật được xem xét bởi Ủy ban của Nghị Viện (Committee stage). Ha viện là 16
đến 20 nghị sĩ. Thượng viện thì sẽ là toàn thể. lOMoAR cPSD| 61685031
- Sau đó, dự thảo luật được báo cáo trước Nghị viện (report stage): Xem xét tại phiên họp
toàn thể của Thượng viện/Hạ Viện. Các nghị sĩ thảo luạn và sửa đổi bổ sung.
- Lần đọc thứ ba (Third Reading): Dự thảo luật được rà soát tại Phiên họp toàn thể của
Thượng viện/Hạ viện. Các nghị sĩ thảo luận và biểu quyết dự thảo luật (Đa số phiếu) =>
Chuyển sang Viện thứ hai để thực hiện quy trình xem xét tương tự.
- Dự thảo luận cần có sự đồng thuận của cả hai viện. Nếu hai viện có cùng quan điểm, dự
thảo luật sẽ được thông qua. Nếu hai Viện không có cùng quan điểm, dự thảo luật sẽ được
chuyển xem xét nhiều lần để đạt được sự đồng thuận của Thượng Viện và Hạ Viện. Trong
trường hợp không đạt được đồng thuận, Hạ Viện có thể thông qua dự thảo luật mà không
cần sự chấp thuận của Thượng viện.
- Sau khi được hai viện thông qua, Dự thảo luật được gửi cho Văn Phòng Hoàng Gia và
Nữ Hoàng sẽ chấp thuận (Royal Assent) để trở thành luật quốc gia. Ở Mỹ:
- Sau khi được đệ trình, Dự thảo luạt sẽ được giới thiệu thông qua thủ tục công bố tại phiên
họp toàn thể của Thượng viện/Hạ Viện. Dự thảo luật sau đó sẽ được chuyển cho các Ủy ban chuyên môn xem xét.
- Xem xét tại Ủy ban chuyên môn: Ủy ban xem xét nội dung của dự thảo luật. Những sửa
đổi, bổ sung đối với dự thảo luật được các thành viên ủy ban thảo luận và bỏ phiếu thông qua.
+ Trong quá trình xem xét nội dung, Ủy ban cần phải xem xét ý kiến của: Văn phòng kiểm
toán chính phủ, của Bộ ngành, của Văn phòng quản lý và ngân sách của Nhà Trắng, các
chuyên gia, những người chịu sự tác động của dự thảo luật, những người tán thành và phản
đối, các cá nhân tổ chức có liên quan khác. - Ủy ban sau khi xem xét, Ủy ban đưa ra quyết định:
+ Thông qua dự thảo luật không sửa đổi và chuyển sang Thượng viện/Hạ Viện +
Thông qua dự thảo luật có sửa đổi và chuyển sang Thượng Viện/Hạ viện.
+ Không thông qua dự thảo luật (Thẩm quyền mà các nước theo chính thể đại nghị không có) lOMoAR cPSD| 61685031
- Xem xét tại phiên họp toàn thể của Hạ viện/Thượng viện: Các nghị sĩ thảo luận và biểu
quyết dự thảo luật (đa số phiếu), Dự thảo luật sau khi biểu quyết tại Viện thứ nhất sẽ được
chuyển sang viện thứ hai xem xét tương tự.
- Khi hai Viện không có cùng quan điểm thì Ủy ban hỗn hợp chung sẽ xem xét dự thảo luật
của (Nghị viện thứ 3 – Third House of Congress – mỗi viện cử 7 – 11 thành viên) để giải
quyết bế tắc bất đồng giữa Hạ Viện và Thượng viện trong quá trình xây dựng luật.
- 10 ngày sau mà vẫn chưa đạt được thống nhất thì Ủy ban mới sẽ được thành lập đảm nhận
thay vai trò của Ủy ban cũ. Chỉ khi cả Hạ và Thượng viện đồng ý thì mới chuyển cho
Tổng thống xem xét ban hành.
- 10 ngày sau khi nhận dự thảo luật, Tổng thống quyết định:
+ Thông qua và ký ban hành
+ Phủ quyết: Không thông qua và gửi lại Nghị viện. Nghị viện vẫn có thể thông qua nếu
biểu quyết ở cả hai Viện đạt tỷ lệ 2/3 phiếu thuận.
+ Không hành động. sau 10 ngày và nếu vẫn đang trong kỳ họp của Nghị viện => tự trở thành luật
+ Phủ quyết ngầm: Tổng thống không hành động gì trong 10 ngày và kỳ họp của Nghị viện đã chấm dứt.
Mô hình bảo hiến của Hoa Kỳ
- Mô hình bảo hiến phi tập trung: Không chỉ tòa án liên bang mà tòa án các bang đều có
nghĩa vụ vô hiệu hóa các hành vi vi hiến.
- Tài phán cụ thể: chỉ có thẩm quyền tài phán Hiến pháp đối với các vụ việc cụ thể đã xảy
ra và quyền lợi của các chủ thể trên thực tế phải đã bị xâm hại bởi hành vi vi hiến. Tòa
án liên bang Hoa Kỳ không xem xét các hành vi vi hiến sẽ xảy ra ra hay có thể xảy ra trong tương lai.
- Thời điểm kiểm tra tính vi hiến của một đạo luật: Một đạo luật được ban hành bởi
Nghị viện đã có hiệu lực rồi thì Hoa Kỳ mới tiến hành kiểm tra tính hợp hiến của đạo luật lOMoAR cPSD| 61685031
dựa trên những vụ kiện cụ thể. Tuy nhiên, Tòa án không có thẩm quyền tuyên bố hủy hay
vô hiệu một đạo luật đó dù nó có vi hiến.
- Quyền lựa chọn thụ lý vụ án hiến pháp: Tòa án tối cao Liên Bang Hoa kỳ có quyền lựa
chọn kiểm tra tính hợp hiến đối với một số vụ án và từ chối kiểm tra đối với một số vụ án
khác mà không cần lý do.
- Thủ tục tố tụng chung: Tùy theo quan hệ xã hội gắn liền với thủ tục tố tụng gắn liền với
quan hệ xã hội đó. Các thủ tục này vừa được dùng chung cho trường hợp tố tụng dân sự,
hình sự và cả các trường hợp có hành vi vi hiến.
Mô hình bảo hiến của Đức
- Mô hình bảo hiến tập trung: Tòa án hiến pháp liên bang (xét xử sở thẩm và chung thẩm
các vụ kháng cáo, kháng nghị liên quan đến tính hợp hiến của các đạo luật, xung đột thẩm
quyền giữa các bang và giữa các bang với Liên bang.
- Tài phán cả cụ thể và trừu tượng: Khác với Hoa Kỳ, Đức mở rộng mô hình bảo hiến
có quyền tài phán cả những vi phạm trừu tượng (chưa xảy ra hoặc không có chủ thể có
quyền và lợi ích bị xâm hại)
- Thời điểm kiểm tra tính vi hiến của các văn bản luật : Tòa án hiến pháp Đức về mặt
nguyên tắc chỉ kiểm tra tính hợp hiến của một đạo luật sau khi nó có hiệu lực.
- Quyền lựa chọn thụ lý vụ án hiến pháp: Tòa Hiến pháp Đức có nghĩa vụ thụ lý các vụ
án hiến pháp đã được khởi kiện đúng thủ tục tố tụng.
- Thủ tục tố tụng riêng: các vụ án hiến pháp ở Đức chỉ được xem xét bởi Tòa án Hiến
pháp và theo một thủ tục riêng được quy định tại Đạo luật Tòa án Hiến Pháp.
Mô hình bảo hiến của Việt Nam
Khoản 2 Điều 119 Hiến pháp năm 2013 quy định “Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội,
Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác
của Nhà nước và toàn thể nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp. Cơ chế bảo vệ Hiến
pháp do luật định”.
- Mô hình bảo hiến: Việt Nam chọn mô hình bảo hiến tập trung và được giám sát bởi Quốc hội.
- Lịch sử hình thành: Được quy định trong Hiến Pháp. Đó là những yếu tố, phương tiện,
phương cách, biện pháp nhằm bảo đảm cho hiến pháp được tôn trọng, giữ gìn, chống lại
mọi sự vi phạm hiến pháp có thể xảy ra lOMoAR cPSD| 61685031
- Chủ thể tiến hành bảo hiến: Phân công phân nhiệm từ Quốc hội xuống Chủ tịch nước,
Chính phủ, Tòa án tối cao, Viện kiểm sát tối cao cho đến Hội đồng nhân dân các cấp trong
đó Quốc hội giữ vai trò giám sát chính (có sự phân công, phân nhiệm cho các cơ quan
Quốc hội và các cơ quan nhà nước cấp cao khác).
- Chức năng: Giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước và giám sát tối cao
đối với việc tuân theo Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.
Có thể khẳng định rằng mô hình bảo hiến ở nước ta theo Hiến pháp năm 2013 là mô hình
bảo hiến khá độc đảo, đây là mô hình tất cả các cơ quan nhà nước và toàn thể nhân dân có
trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp. Tư duy về bảo hiến ở nước ta tuy giản dị nhưng cũng thật
sâu sắc vì Hiến pháp của nhà nước cũng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân nên
trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp là trách nhiệm của tất cả các cơ quan nhà nước và của tất cả nhân dân.
Với mô hình bảo hiến hiện nay, việc đảm bảo tính hợp hiến, thống nhất của văn bản
quy phạm pháp luật chủ yếu được thực hiện trong toàn bộ những giai đoạn xây dựng văn
bản quy phạm pháp luật: (i) Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; (ii) Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật; (iii) Kiểm tra giảm sát việc áp dụng văn bản pháp luật vào thực tiễn.
Nhóm cho rằng mô hình bảo hiến của Mỹ sẽ phù hợp hơn với Việt Nam so với mô
hình bảo hiến của Mỹ vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, việc thành lập một cơ quan bảo hiến chuyên biệt có chức năng bảo vệ hiến pháp,
xem xét tính hợp hiến của các văn bản pháp luật và xét xử các hành vi vi hiến cần thiết
phải sửa đổi hiến pháp. Do đó, nếu áp dụng mô hình Đức thì Việt Nam cần thiết phải sửa
đổi Hiến pháp để bổ sung thêm thiết chế mới và các trình tự thủ tục liên quan. Trong khi
đó, nếu áp dụng mô hình các Tòa án có thêm chức năng bảo hiến nữa thì không cần phải
sửa đổi Hiến pháp bởi theo Điều 119 thì các Tòa vẫn có thể có chức năng này. Bởi vậy nên
mô hình Mỹ khi các Tòa đều có thẩm quyền xét xử các trường hợp vi hiến cũng như rà soát
tính vi hiến của các văn bản trái pháp luật phù hợp với hơn với Việt Nam.
Thứ hai, thực tế ở Việt Nam cho thấy số lượng các văn bản pháp luật vi hiến là không
nhiều. Hơn nữa, với mô hình bảo hiến hiện nay, việc đảm bảo tính hợp hiến, thống nhất
của văn bản quy phạm pháp luật chủ yếu được thực hiện trong toàn bộ những giai đoạn
xây dựng văn bản quy phạm pháp luật: (i) Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; (ii) Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật; (iii) Kiểm tra giảm sát việc áp dụng văn bản pháp luật
vào thực tiễn. Do đó, không cần thiết phải tạo thêm một thiết chế bảo hiến chuyên biệt như
Đức mà Việt Nam hoàn toàn vẫn có thể giao công tác kiểm tra tính hợp hiến của các văn
bản pháp luật có hiệu lực cho Tòa án dưới sự giám sát của Quốc hội. lOMoAR cPSD| 61685031
Thứ ba, việc xây dựng thêm một cơ quan chuyên biệt có chức năng bảo hiến sẽ làm cho
vai trò giám sát của Quốc hội bị lu mờ, hơn nữa cũng có thể sẽ khiến cho cơ chế quyền lực
là thống nhất thuộc về Quốc hội hiện nay có sự ảnh hưởng khi tồn tại cơ quan có thể thực
hiện thay một phần chức năng giám sát việc làm và thực hiện theo hiến pháp của Quốc hội.
Thứ tư, việc xây dựng thêm một cơ quan chuyên biệt rất tốn kém và đòi hỏi nhiều thời
gian học hỏi nếu không sẽ dẫn đến tình trạng hỗn loạn trên thực tế. Có rất nhiều vấn đề cần
quan tâm khi thành lập một cơ quan chuyên biệt mới như thẩm quyền và phạm vi của cơ
quan này, trình tự thủ tục tố tụng tài phán Hiến pháp, hệ quả pháp lý của văn bản pháp luật
bị tuyên vi hiến là gì, nhiệm kỳ thẩm phán ra sao như đã nói ở trên có thể sẽ cần phải sửa
đổi Hiến pháp. Với sự rườm rà nêu trên, cộng thêm việc nhà nước ta đã quen với mô hình
bảo hiến Quốc hội, việc áp dụng mô hình của Hoa Kỳ sẽ phù hợp hơn khi đội ngũ thẩm
phán Tòa án vốn vẫn làm công việc xét xử có thể kiêm thêm vai trò kiểm tra tính hợp hiến
của các văn bản và xét xử hành vi vi hiến.
Giai đoạn ban đầu xuất hiện những phương án về cơ chế tài phán Hiến pháp ở nước ta bao gồm:
Phương án thứ nhất: thành lập Ủy ban bảo vệ Hiến pháp trực thuộc Quốc hội. Ủy ban
bảo vệ Hiến pháp sẽ được tổ chức tương tự như các Ủy ban khác của Quốc hội, thực hiện
nhiệm xem xét tính hợp hiến của những văn bản dưới luật của cá cơ quan nhà nước ban
hành. Ủy ban không được xem xét những văn bản pháp lý mà Quốc hội ban hành và thẩm
quyền được trao hoàn toàn mang tính tham vấn khi báo cáo kết quả xem xét tính hợp hiến với Quốc hội.
Phương án thứ hai: trao nhiệm vụ bảo hiến cho cơ quan Tư pháp mà chủ thể xác định là
Tòa án nhân dân tối cao. Tòa án nhân dân tối cao được trực tiếp trao quyền thực hiện nhiệm
vụ bảo hiến, xem xét những văn bản pháp lý của cơ quan quyền lực nhà nước.
Phương án thứ ba: thành lập cơ quan bảo hiến độc lập. Cơ quan bảo hiến độc lập với
Quốc hội, có thẩm quyền, trình tự và thủ tục bảo hiến riêng. Ở phương án này hướng đến
những mô hình bảo hiến hiệu quả ở châu Âu bao gồm: Tòa án Hiến pháp và hội đồng Hiến
pháp. Hai mô hình lớn trên thế giới và đã có hiệu quả khi đưa vào hoạt động thực tiễn.
Việt Nam chọn theo mô hình bảo hiến tập trung vì các lý do sau đây:
Thứ nhất, việc thành lập tổ chức thiết chế bảo vệ hiến pháp phải được quy định công khai tại Hiến pháp; lOMoAR cPSD| 61685031
Thứ hai, tổ chức bảo vệ hiến pháp phải vừa có tính tài phán, vừa mang tính chất chính trị ở tầm quốc gia;
Thứ ba, tổ chức bộ máy phải đảm bảo tính khách quan, độc lập và tính chuyên môn hoá
cao trong hoạt động bảo vệ Hiến pháp;
Thứ tư, tổ chức bảo vệ hiến pháp chỉ được thành lập ở Trung ương, không thành lập ở địa
phương, đảm bảo tính tập trung, hiệu lực, hiệu quả.
Nhược điểm: Hạn chế và làm lu mờ vai trò giám sát tối cao của Quốc hội đồng thời, làm
hạn chế, giảm đi tính tối cao, tính hiệu lực của hoạt động đó do cơ chế giám sát quá nhiều
chủ thể và tầng nấc. Bên cạnh đó, còn có nhược điểm nữa là chưa phân biệt việc giám sát
Hiến pháp với các loại giám sát khác dẫn đến việc giám sát bản thân Quốc hội còn bỏ ngỏ.
Bình luận về ý kiến cho rằng: “Luật so sánh ra đời từ thế kỷ XIX”. (NHÓM 2)
Phân chia thành 2 giai đoạn: Từ trước thể kỉ XIX và từ thế kỉ XIX đến nay
a) Trước khi thế kỉ XIX
1. Ngay từ thời kì cổ đại, nhiều nhà nước cổ đại đã viện dẫn pháp luật nước ngoài để xây
dựng hệ thống pháp luật của mình: Điển hình là nước Hy Lạp và nhà nước La Mã. Các dẫn chứng:
- Hy Lạp thường xuyên bắt chước luật của các thành bang khác
- Những nghiên cứu so sánh trong các nhà khoa học (Plato, Aristotle, Theophrastus)
- Luật La Mã mới hình thành cũng xây dựng trên cơ sở tìm hiểu luật lệ của Hy Lạp, Cicero và Gaius
=> Phát triển rực rõ và có ảnh hưởng lớn đối với nền văn mình La Mã
2. Trong thời kì thịnh vượng của Đế chế La Mã và sau khi đế chế Tây La Mã sụp đổ, luật
so sánh hầu như không có cơ hội để phát triển Các dẫn chứng: lOMoAR cPSD| 61685031 -
Các luật gia La Mã ko nghiên cứu PL nước ngoài vì theo họ Luật La Mã là luật phát
triển nhất xuấy phát từ sự thịnh vượng và hùng mạnh của Đế chế La Mã/ cho rằng PL nước
ngoài là “lộn xộn và ngớ ngẩn” -
Sau khi đế chế Tây La Mã sụp đổ, khu vực Tây Âu tồn tại hai loại luật song song
cùng được áp dụng là Luật La Mã và Luật Germain. Tuy nhiên, sự tồn tại cùng lúc này
cũng ko làm xuất hiện bất kì công trình nghiên cứu so sánh nào giữa hai loại luật lệ này. -
Đến thời Trung cổ, ở Châu âu lục địa hầu như ko có nghiên cứu mặc dù có trường
đại học nghiên cứu. Theo quan điểm của họ: “Luật La Mã và luật giáo hội là những luật
có hiệu lực tuyệt đối và không có gì nghi ngờ”. Cũng có những công trình nghiên cứu so
sánh ở Anh giữa PL Anh và Pháp nhưng “thiếu khách quan” và “chỉ để khẳng định sự tối ưu của PL Anh”. 3.
Từ thế kỉ thứ XVI, ở các quốc gia Châu Âu lục địa tồn tại nhiều loại luật lệ khác
nhau được áp dụng cho các vùng lãnh thổ khác nhau, vì vậy đã xuất hiện một số công trình
so sánh giữa luật La Mã và luật lệ của người Germain (ở Tây Ban Nha, Đức) 4.
Thế kỉ XVII, XVIII hệ thống pháp luật các quốc gia phát triển mạnh mẽ làm cho
luật gia ở Châu Âu lục địa tập trung nghiên cứu hệ thống pháp luật của chính nước mình,
vì vậy, luật so sánh hầu như không được phát triển.
* Chú ý: Duy chỉ có ông Montesquieu trong thời điểm này đã sử dụng phương pháp so sánh
để phát triển các bài giảng của mình về pháp luật => nhiều học giả sau này đã đánh giá
ông như người đi tiên phong trong lĩnh vực luật so sánh
Tóm lại, trước XIX, Luật so sánh hầu như không phát triển, hoặc nhằm những mục đích
vô nghĩa do nhiều lý do khác nhau mà chủ yếu là do chưa có nhu cầu so sánh luật. => so
sánh luật có nhưng Luật so sánh chưa tồn tại ? b) Sau thế kỉ XIX lOMoAR cPSD| 61685031
1*. Từ thế kỉ XIX đến nay, luật so sánh phát triển mạnh mẽ với hai hình thức: luật so sánh
lập pháp và luật so sánh học thuật.
2. Nửa đầu thế kỉ XIX, luật gia các nước chỉ tập trung nghiên cứu hệ thống PL nước mình
vì thế luật so sánh ko có điều kiện để phát triển. Đến những năm 20 của thế kỉ, mới có dấu
hiệu của luật so sánh học thuật:
Dẫn chứng: xuất hiện
- “Tạp chí phân tích” (Kritische Zeitschrift) của Đức (1829),
- “Tạp chí lập pháp nước ngoài” của Pháp (1834),
- “Bình luận về pháp luật thuộc địa và pháp luật nước ngoài” của Anh (1938).
- Sau cuộc chiến giành độc lập ở Mỹ, người Mỹ chán ghét Anh xóa bỏ Anh => cần nghiên
cứu Luật La Mã và pháp luật đương đại của các nước Châu Âu lục địa đặc biệt là pháp
luật của Pháp => tạo điều kiện phát triển luật so sánh ở Mỹ 3.
Đức là người đi đầu trong việc so sánh lập pháp để xây dựng hệ thống pháp luật của
mình. Giữa XIX, phong trào pháp điển hóa và nhất thể hóa PL Đức được thực hiện dựa
vào những so sánh pháp luật (Luật về các phương tiện đàm phán, Bộ luật thương mại
chung, Bộ luật Dân sự… ). Kéo theo các quốc gia khác sau này khi cải tổ HTPL của mình
đều dựa vào các nghiên cứu so sánh PL các nước khác nhau. 4.
Khác với luật so sánh lập pháp, luật so sánh học thuật đến muộn hơn. Sự ra đời của
giải phẫu so sánh, triết học so sánh, tôn giáo so sánh và các ngành khoa học tương tự đã
tạo điều kiện cho việc thừa nhận và phát triển luật so sánh trong khoa học pháp lý
Dẫn chứng: được thừa nhận đưa luật so sánh vào giảng dạy tại các trường luật.
Ở Pháp, 1831, bộ môn lịch sử so sánh pháp luật tại trường đại học Paris
Ở Mỹ, việc giảng dạy luật nước ngoài được chú trọng – Khoa luật Đại học Havard.