
















Preview text:
lOMoAR cPSD| 57855709 BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜN G ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI BÀI TẬP NHÓM MÔN: LUẬT DÂN SỰ ĐỀ BÀI 8:
Hãy sưu tầm một bản án sơ thẩm của Tòa án liên quan đến việc giải quyết tranh
chấp về xác định các tài sản là di sản thừa kế mà theo quan điểm của nhóm bản
án đó chưa phù hợp với quy định của pháp luật. LỚP: 4827 NHÓM: 03 Hà Nội, 2024 1 1 lOMoAR cPSD| 57855709
BIÊN BẢN XÁC ĐỊNH MỨC ĐỘ THAM GIA VÀ KẾT QUẢ THAM GIA LÀM BÀI TẬP NHÓM Ngày: 08 / 05 / 2024
Địa điểm: Trường Đại học Luật Hà Nội Nhóm: 03
Lớp: 4827 Khoa: Luật Thương mại Quốc tế
Tổng số sinh viên của nhóm: 16 + Có mặt: + Vắng mặt:
Nội dung: Xác định mức độ tham gia và kết quả tham gia làm bài tập nhóm Tên
đề bài: Hãy sưu tầm một bản án sơ thẩm của Tòa án liên quan đến việc giải
quyết tranh chấp về xác định các tài sản là di sản thừa kế mà theo quan điểm của
nhóm bản án đó chưa phù hợp với quy định của pháp luật. Môn học: Luật Dân Sự
Xác định mức độ tham gia và kết quả tham gia của từng sinh viên trong việc thực
hiện bài tập nhóm 3 Kết quả như sau: lOMoAR cPSD| 57855709 Mã Họ và tên Đánh giá Sinh
Đánh giá của giảng sinh
sinh viên viên kí viên viên A B C tên
Điểm Điểm Giảng
(số) (chữ) viên kí tên 482734 Nguyễn Khánh Linh 2 482738 Trần Thị Hà Linh 3 482739 Trương Thùy Linh 4 482740 Lương Phương Ly 1 1 5 482741 Nguyễn Thị Mai 6 482742 Trần Hoàng Mai 7 482743 Bùi Trần Huyền My 8 482744 Nguyễn Hà My 9 482745 Nguyễn Hữu Hải Nam 10 482746 Phan Khánh Nam 11 482747 Lương Kiều Ngân 12 482748 Nguyễn Hải Ngọc 13 482749 Nguyễn Thị Thảo Nguyên
14 482751 Nguyễn Thị Phương Nhi 15 482752 Đặng Thị Phi Nhung 16 482753 Trương Đức Phúc
- Kết quả điểm bài viết:....................... Hà Nội, ngày 08 tháng 05 năm 2024 lOMoAR cPSD| 57855709
+ Giáo viên chấm thứ nhất:.................. TRƯỞNG NHÓM
+ Giáo viên chấm thứ hai:....................
- Kết quả điếm thuyết trình..................
- Giáo viên cho thuyết trình:................
Nguyễn Thị Thảo Nguyên -
Điểm kết luận cuối cùng:...................
- Giáo viên đánh giá cuối cùng:........... MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................................4
NỘI DUNG.......................................................................................................................5 I.
TÓM TẮT NỘI DUNG BẢN ÁN VÀ GIẢI QUYẾT CỦA TÒA ÁN..............5 1.
Các đương sự............................................................................................5 2.
Tóm tắt bản án..........................................................................................5 3.
Quá trình giải quyết của Tòa án................................................................6 II.
NHỮNG CÁCH GIẢI QUYẾT CHƯA PHÙ HỢP CỦA TOÀ ÁN..........6 1.
Không ghi nhận, xem xét lời khai của ông Hiệt........................................6 2.
Xác định sai di sản thừa kế.......................................................................7 3.
Không rõ ràng trong việc xác định công sức của người quản lý di sản
thừa kế..................................................................................................................8 4.
Áp dụng sai Án lệ để giải quyết tranh chấp..............................................9 III.
PHƯƠNG HƯỚNG GIẢI QUYẾT THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT HIỆN HÀNH................................................................................................11 1.
Ghi nhận và xem xét tính đúng đắn và hợp lý của các bên.....................11 2.
Xác định các sự kiện mấu chốt xảy ra xung quanh thửa đất xảy ra tranh chấp
................................................................................................................11 3.
Xác định những người được hưởng di sản..............................................12 IV.
KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH..13 1.
Kiến nghị hoàn thiện bổ sung về quy trình xác định di sản thừa kế........13 lOMoAR cPSD| 57855709 2.
Hoàn thiện, bổ sung về thỏa thuận tỷ lệ phân chia di sản thừa kế là bất động
sản trong trường hợp người có đóng góp công sức quản lý, duy trì, tôn tạo
di sản ................................................................................................................14 3.
Kiến nghị hoàn thiện bổ sung vấn đề áp dụng án lệ................................14
KẾT LUẬN.....................................................................................................................16 MỞ ĐẦU
Không hẳn đến ngày nay khi mà các giao dịch về đất đai ngày càng phát triển, giá
trị và lợi ích về đất đai ngày càng tăng lên thì mới xuất hiện những tranh chấp gay
gắt, phức tạp về đất đai. Từ lâu, cha ông ta đã có câu “Hôn nhân, điền thổ, vạn cổ
chi thù”, ý nói là trong xã hội có hai chuyện thường xảy ra khúc mắc, mâu thuẫn
dẫn đến dễ thù oán nhất đó là tranh chấp về tình ái và ruộng đất.
Xét ở góc độ pháp lý, di sản thừa kế là tổng hợp những quy định của Nhà nước
về hình thức để đảm bảo cho việc phân chia tài sản của người đã khuất cho các chủ
thể có liên quan trong mối quan hệ được pháp luật dân sự điều chỉnh. Đã có không
ít những vụ án vì mâu thuẫn tranh giành đất đai thừa kế khiến anh em ruột xảy ra
mâu thuẫn mà sát hại nhau, để lại hậu quả đau lòng và gây hoang mang cho dư
luận xã hội. Tranh chấp di sản thừa kế ẩn chứa những mâu thuẫn, xích mích, hệ lụy
phức tạp. Do đó, điều này đòi hỏi các thẩm phán cần đưa ra những phán quyết thật
sáng suốt, công bằng và phù hợp với quy định của pháp luật. Tuy nhiên, hiện nay
trong quá trình giải quyết những tranh chấp này, nhiều vụ việc được tòa án cấp sơ
thẩm xét xử vẫn chưa được thấu tình đạt lý. Những quá trình giải quyết và quyết
định chưa thực sự thuyết phục, vấp phải những sai sót nhất định, dẫn đến những
hậu quả đáng tiếc cho các đương sự và ảnh hưởng tiêu cực đến niềm tin vào hệ thống pháp luật.
Chính vì vậy, hôm nay nhóm chúng em sưu tầm bản án dân sự sơ thẩm số
16/2022/DS-ST ngày 24/9/2022 về việc tranh chấp tài sản thừa kế liên quan đến
xác định tài sản thừa kế của Tòa án nhân dân huyện An Lão, thành phố Hải Phòng.
Qua bản án này, chúng em muốn đưa ra những ý kiến, quan điểm của mình về lOMoAR cPSD| 57855709
những sai sót để từ đó tìm ra những phương án giải quyết, những kiến nghị phù hợp. NỘI DUNG
I. TÓM TẮT NỘI DUNG BẢN ÁN VÀ GIẢI QUYẾT CỦA TÒA ÁN 1. Các đương sự
Nguyên đơn: Nguyễn Văn Hiệt, nơi sống: Xã Mỹ Đức, huyện An Lão, Hải Phòng
Bị đơn: Nguyễn Văn Thiếp, nơi sống: Xã Mỹ Đức, huyện An Lão, Hải Phòng
2. Tóm tắt bản án
Cụ Nguyễn Văn Ập chết vào năm 2002 và cụ Phạm Thị Khuông chết vào năm
2012 có 5 con đẻ là: ông Nguyễn Văn Hiệt, ông Nguyễn Văn Thiếp cùng 3
người con gái và 1 con nuôi là bà Ninh. Sau khi các cụ chết không để lại di chúc.
Về phía nguyên đơn khai:
Thửa đất số 41 do UBND huyện An Lão cấp cho cụ Ập có diện tích là
360m2, theo bản đồ 1996 là 700m2, theo chứng thư thẩm định giá là 830,45m2 .
Thời điểm được cấp đất, vợ chồng cụ Ập có đào ao lấy đất đóng gạch, không
xây tường bao ranh giới, trên đất có 02 nhà cấp 4 và công trình phụ, không có
cây lâu năm. Điều này được các con cụ Ập, cụ Khuông thừa nhận và phù hợp
với những người làm chứng là cụ Phạm Văn Nhạnh, ông Bùi Đăng Trí. Năm
2010, ông Thiếp phá bỏ công trình phụ, lấp ao và xây 01 căn nhà diện tích
khoảng 100m2. Ông và các anh em chưa thỏa thuận chia di sản của các cụ.
Vì vậy ông Hiệt đề nghị toà án chia thừa kế với thửa đất số 41 trên diện tích
là 830,45m2, ông Thiết phải tháo dỡ công trình để chia thừa kế. Về phía bị đơn:
Ông Thiếp không đồng ý yêu cầu của nguyên đơn và mong muốn giữ nguyên
hiện trạng là căn nhà 100m2. Ông cho rằng thửa đất số 41 là ông được xã Mỹ lOMoAR cPSD| 57855709
Đức giao cho từ khoảng 1981-1982, sinh sống ổn định từ đó cho đến nay. Sinh
thời, bố mẹ ông sống cùng người anh trai trên một thửa đất khác.
3. Quá trình giải quyết của Tòa án
Xác định thửa đất số 41 là thuộc quyền sở hữu của ông Thiếp, không còn là di sản thừa kế.
Bác bỏ toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Hiệt về việc yêu cầu
chia thừa kế đối với thửa đất số 41 diện tích 830,45m2.
Huỷ bỏ nội dung thông báo yêu cầu giữ nguyên hiện trạng tài sản số 52/TB-
TA ngày 04/4/2022 của Tòa án nhân dân huyện An Lão, thành phố Hải Phòng
về việc yêu cầu ông Nguyễn Văn Thiếp tạm dừng thi công trên thửa đất số 41. II.
NHỮNG CÁCH GIẢI QUYẾT CHƯA PHÙ HỢP CỦA TOÀ ÁN
1. Không ghi nhận, xem xét lời khai của ông Hiệt 1.1. Căn cứ pháp lý
• Khoản 2 Điều 8. Luật Tố tụng Dân sự: Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong
tố tụng dân sự: “Tòa án có trách nhiệm bảo đảm nguyên tắc bình đẳng trong
việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân.”
• Điều 3 BLDS 2015: “Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được
lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử; được pháp luật bảo hộ như nhau về
các quyền nhân thân và tài sản.”
• Khoản 1 Điều 623 Bộ luật dân sự năm 2015 “Thời hiệu để người thừa kế yêu
cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể
từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế
đang quản lý di sản đó.” 1.2. Giải thích lOMoAR cPSD| 57855709
Theo lời khai của ông Thiếp, mảnh đất số 41 được UBND trao cho ông từ
năm 1981-1982 nên ông mới có quyền sử dụng nó. Tuy nhiên, ông không đưa
ra được bằng chứng hay bất cứ tài liệu gì để chứng minh cho lời khai của mình.
Đến hiện tại, ông Thiếp vẫn chưa nhận được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Có thể thấy ông Thiếp không có chứng minh để cho Tòa thấy rằng
thửa đất này thuộc sở hữu của ông nên theo Khoản 1 Điều 623 BLDS 2015 thì
ông Hiệt có quyền đâm đơn kiện ông Thiếp và nên được Tòa án xem xét thỏa
đáng. Nhưng Tòa án đã chưa cân nhắc và kiểm chứng kỹ lưỡng lời khai của ông
Hiệt ở khoản này mà đã hủy bỏ toàn bộ đơn kiện.
2. Xác định sai di sản thừa kế 2.1. Căn cứ pháp lý
Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao về việc: “Hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải
quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình.” Tại Mục 1 Khoản 1 Phần II:
“Đối với đất do người chết để lại (không phân biệt có tài sản hay không có
tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất) mà người đó đã có giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm
1993, Luật Đất đai năm 2003 thì quyền sử dụng đất đó là di sản.” 2.2. Giải thích
UBND huyện Kiến An đã giao cho ông Nguyễn Văn Ấp và vợ là cụ Phạm Thị
Khuông một lô đất, cụ thể là thửa đất số 41 tại thôn Lang Thượng, xã Mỹ Đức,
huyện An Lão. Việc giao đất này được thực hiện theo Quyết định giao đất số
351/GP-CD ngày 07/06/1990, có tổng diện tích khu đất là 360m2. Căn cứ vào
Mục 1 Khoản 1 Phần II của nghị quyết trên thì quyền sử dụng đất thuộc về hai
vợ chồng ông Ập. Trái ngược với tình huống của ông Thiếp, ông cho rằng thửa
đất là thuộc quyền sở hữu của mình do UBND xã cấp vào khoảng 19811982
nhưng không có bất kỳ giấy tờ gì chứng minh cho lời khai trên. Như vậy căn cứ lOMoAR cPSD| 57855709
pháp lý trên chỉ hiệu lực để chứng minh quyền sử dụng đất thuộc về hai vợ chồng ông Ập.
Điều này cho thấy thửa đất số 41 là tài sản của 2 cụ Ập và cụ Khuông để lại
chưa chia, cho nên tòa án đã xác định thửa đất số 41 không còn là di sản thừa kế là sai.
3. Không rõ ràng trong việc xác định công sức của người quản lý di sản thừa kế 3.1. Căn cứ pháp lý
• Khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân gia đình 2014: “Tài sản chung của vợ
chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản
xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp
pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1
Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được
tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.”
• Khoản 1 Điều 650 BLDS 2015: “Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong
những trường hợp sau đây: a) Không có di chúc”
• Án lệ số 05/2016/AL 1 được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định
220/QĐ-CA về vụ án “Tranh chấp di sản thừa kế” 3.2. Giải thích
Năm 1990, cụ Nguyễn Văn Ập và cụ Phạm Thị Khuông được UBND huyện
Kiến An cấp cho thửa đất số 41 với diện tích đất là 360 m2. Theo như bản đồ địa
chính và sổ mục kê, thửa đất trên được xác định là 700 m2. Kết quả thẩm định
tại chỗ của chứng thư thẩm định giá cho thấy diện tích thửa đất trên tăng 470,45
m2 so với diện tích được cấp năm 1990 với diện tích mới là 830,45 m2. Trong
1 https://thuvienphapluat.vn/chinh-sach-phap-luat-moi/vn/an-le/13197/an-le-so-05-2016-al-ve-vu-an-tranh-chap-disan- thua-ke lOMoAR cPSD| 57855709
quá trình sử dụng, cụ Ập và cụ Khuông có đào ao, xây nhà cấp 4, công trình
phụ, khai hoang mở ruộng đất. Điều này được các con cụ Ập, cụ Khuông thừa
nhận và phù hợp với những người làm chứng là cụ Phạm Văn Nhạnh, ông Bùi
Đăng Trí. Như vậy theo tờ bản đồ 1996 diện tích thửa đất số 41 này rất có thể
diện tích đất phát sinh là công sức của hai ông bà và các con tại thời điểm cụ
Ập chết là năm 2002 và cụ Khuông chết vào năm 2012. Căn cứ vào Khoản 1
Điều 33 Luật Hôn nhân gia đình 2014 thì tài sản chung của vợ chồng ông Ập
chính là diện tích đất đã được khai hoang mở rộng thêm. Nhưng khi xử lý vụ
án, Tòa án cấp sơ thẩm huyện An Lão, thành phố Hải Phòng vẫn còn một số
những thiếu sót trong việc không xác định rõ ràng thời điểm cũng như diện tích
đất cụ Ập, cụ Khuông đã khai hoang, mở rộng.
Theo án lệ số 05/2016/AL thì rất có thể ông Thiếp sẽ được hưởng một phần
tài sản riêng trên mảnh đất mình đã có công sức quản lý, tôn tạo. Nhưng Tòa án
cũng chưa làm rõ thời điểm ông Thiếp quản lý, sử dụng đất để chia thừa kế là thiếu sót.
4. Áp dụng sai Án lệ để giải quyết tranh chấp 4.1. Căn cứ pháp lý
• Án lệ số 24/AL-2018 được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2018 và được công bố theo Quyết định số
269/QĐ-CA ngày 06 tháng 11 năm 2018 của Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao về di sản thừa kế chuyển thành tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử
dụng hợp pháp của cá nhân. 4.2. Giải thích lOMoAR cPSD| 57855709
Theo Án lệ số 24/AL-2018 2được thông qua ngày 17/10/2018 thì mục đích án
lệ này là giải quyết những tranh chấp khi vụ xảy ra tình huống tương tự như sau:
• Nhà, đất là tài sản chung của vợ chồng mà một người chết trước. Người còn
lại và các thừa kế của người chết trước đã thống nhất phân chia nhà, đất.
Thỏa thuận phân chia không vi phạm quyền lợi của bất cứ thừa kế nào.
• Việc phân chia nhà, đất đã được thực hiện trên thực tế và đã được điều chỉnh
trên sổ sách giấy tờ về đất đai. Sau khi người còn lại chết mới phát sinh tranh chấp.
Khác biệt với vụ việc của bản án sơ thẩm nói trên. Thửa đất số 41 của bản án
sơ thẩm là di sản thừa kế của cụ Ập và cụ Khuông để lại, không có di chúc. Di
sản chưa được thống nhất phân chia nhưng ông Thiếp (bị đơn) đã xây dựng
công trình nhà ở khoảng 100m2 trên thửa đất số 41. Nguyên đơn là ông Hiệt
đâm đơn ra tòa yêu cầu ông Thiếp gỡ bỏ công trình xây dựng để thực hiện việc
phân chia di sản thừa kế.
Vậy nên, một bên là bản án về di sản tranh chấp thừa kế, một bên là án lệ về
khởi kiện đòi lại đất thuộc sử dụng hợp pháp (do di sản đã được chia, trở thành
quyền sử dụng của cá nhân) nên việc áp dụng án lệ 24/AL 2018 là không hợp lý
vì tính chất của nội dung tranh chấp là không giống nhau.
III. PHƯƠNG HƯỚNG GIẢI QUYẾT THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
1. Ghi nhận và xem xét tính đúng đắn và hợp lý của các bên
Theo lời khai của ông Thiếp, mảnh đất do UBND trao cho ông nên ông có
quyền sử dụng nhưng ông không đưa ra được bằng chứng xác minh cho lời khai
và hiện tại ông cũng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
2 https://thuvienphapluat.vn/chinh-sach-phap-luat-moi/vn/an-le/21708/an-le-so-24-2018-al-ve-di-san-thua-kechuyen-
thanh-tai-san-thuoc-quyen-so-huu-quyen-su-dung-hop-phap-cua-ca-nhan lOMoAR cPSD| 57855709
Thêm vào đó, tại Khoản 1 Điều 623 BLDS 2015 thì khoảng thời gian chiếm
hữu ngay tình của ông Thiếp trên mảnh đất số 41 chưa quá khoảng thời hạn và
thời hiệu yêu cầu chia di sản của các đồng thừa kế khác nên các đồng thừa kế
khác hoàn toàn có quyền yêu cầu chia tài sản theo pháp luật.
Như vậy Tòa án cần xem xét, cân nhắc kỹ lưỡng đơn kiện của ông Hiệt để từ
đó có những cách giải quyết đảm bảo tính khách quan, nguyên tắc bình đẳng
trong tố tụng dân sự nói riêng và việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của cá nhân nói chung.
2. Xác định các sự kiện mấu chốt xảy ra xung quanh thửa đất xảy ra tranh chấp
UBND huyện Kiến An đã giao cho ông Nguyễn Văn Ấp và vợ là cụ Phạm
Thị Khuông thửa đất số 41 tại thôn Lang Thượng, xã Mỹ Đức, huyện An
Lão. Việc giao đất này được thực hiện theo Quyết định giao đất số
351/GP-CD ngày 07/06/1990, có tổng diện tích khu đất là 360m2. Trong
quá trình sử dụng, cụ Ập và cụ Khuông có đào ao, xây nhà cấp 4, công
trình phụ, khai hoang mở ruộng đất. Điều này được các con cụ Ập, cụ
Khuông thừa nhận và phù hợp với những người làm chứng là cụ Phạm
Văn Nhạnh, ông Bùi Đăng Trí. Căn cứ vào mục 1 khoản 1 phần II nghị
quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 thì thửa đất số 41 là tài sản của
2 cụ Ập và cụ Khuông để lại chưa chia hay nói cách khác là di sản thừa kế của hai vợ chồng.
• Sau khi hai cụ chết không có để lại di chúc chia tài sản thừa kế nên dựa
theo khoản 1 Điều 650 BLDS 2015 thì sự kiện này thuộc trường hợp phân
chia di sản thừa kế theo pháp luật.
• Năm 2010, ông Thiếp có phá bỏ công trình phụ, lấp ao và xây 01 căn nhà
diện tích khoảng 100m2, tại thời điểm đó bà Khuông còn sống và không lOMoAR cPSD| 57855709
có sự phản đối nên có thể xử lý phân chia di sản cho ông Thiếp theo Án lệ số 24/AL-2018.
3. Xác định những người được hưởng di sản 3.1. Căn cứ pháp lý
Khoản 1 Điều 651 BLDS 2015. Người thừa kế theo pháp luật:” Những người
thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: a) Hàng thừa kế
thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi
của người chết” 3.2. Giải quyết
Thửa đất số 41 phải được chia đều cho hàng thừa kế thứ nhất, gồm 5 người
con ruột. Trong trường hợp bà Nguyễn Thị Ninh là con nuôi hợp pháp, có giấy
tờ xác nhận đầy đủ do cụ Ập và cụ Khuông nhận nuôi thì bà Ninh cũng nằm
trong hàng thừa kế thứ nhất, tức là thửa đất nêu trên sẽ chia đều cho 6 người
con sau khi 2 cụ qua đời. Thứ hai, thửa đất này theo bản đồ địa chính năm 1996
là 700m2 nhưng khi chứng thực thẩm định giá đo được là 830,45m2, tức là thừa
ra 130,45m2 chưa rõ nguyên nhân, tòa án phải xác thực lại phần đất này. Nếu đó
là đất lấn chiếm của 4 nhà phía xung quanh thì nhà nước có quyền thu hồi lại,
nhưng nếu là đất khai hoang hợp pháp thì anh chị em phải thống nhất để đi làm
hợp pháp hóa phần đất có diện tích khoảng 130m2 thừa ra rồi mới tiếp tục chia thừa kế.
Tuy nhiên, phần thừa kế này vẫn có thể thay đổi trong trường hợp Tòa án xác
định được rõ ràng thời điểm ông Thiết có công sức quản lý, duy trì, tôn tạo di
sản. Trong trường hợp đó, phần thừa kế ông Thiết nhận được có thể sẽ nhiều hơn 5 người còn lại. lOMoAR cPSD| 57855709 IV.
KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
1. Kiến nghị hoàn thiện bổ sung về quy trình xác định di sản thừa kế
Trong quá trình giải quyết những vụ án liên quan đến tranh chấp, phân chia
di sản thừa kế việc xác định rõ di sản là vô cùng quan trọng. Tuy nhiên cũng
không tránh khỏi trường hợp diện tích đất đai, khối lượng di sản thừa kế có
những sai số nhất định (khác với hồ sơ pháp lý của những tài sản đó) vì trong
thời gian sử dụng người mất có thể đã khai hoang mở rộng thêm đất đai. Qua
đây có thể kết luận tòa án đóng vai trò thiết yếu trong việc xác định đúng di sản
thừa kế vì chỉ cần sai lệch nhỏ cũng có thể gây ảnh hưởng đến quyền lợi của
những đương sự trong vụ án . Kiến nghị hoàn thiện:
Nếu trong quá trình giải quyết thỏa thuận phân chia di sản tại Tòa mà phát
sinh việc phát hiện số liệu đo đạc hiện trạng có chênh lệch qua nhiều lần đo do
lỗi từ phía chủ thể quyền bất động sản liền kề thì cơ quan xét xử có thể đến diện
tích bất động sản để thẩm định tại chỗ lấy số đo làm mốc xác định song lập biên
bản ghi nhận cho các đồng thừa kế và chủ sở hữu bất động sản liền kề cùng
nhau ký tên, điểm chỉ xác nhận để làm cơ sở giải quyết cho các tranh chấp
quyền sử dụng đất về sau.
2. Hoàn thiện, bổ sung về thỏa thuận tỷ lệ phân chia di sản thừa kế là bất
động sản trong trường hợp người có đóng góp công sức quản lý, duy trì, tôn tạo di sản
Hiện nay, Tòa án mới chỉ công nhận Án lệ 05/2016/AL 3để bảo vệ quyền lợi
chính đáng cho người có công sức quản lý, duy trì, tôn tạo di sản. Tuy nhiên,
Án lệ 05/2016/AL chỉ áp dụng trong vụ án tranh chấp chia thừa kế, đối với vụ
3 https://thuvienphapluat.vn/chinh-sach-phap-luat-moi/vn/an-le/13197/an-le-so-05-2016-al-ve-vu-an-tranh-chap-disan- thua-ke lOMoAR cPSD| 57855709
tranh chấp phân chia tài sản chung của những người thừa kế sẽ không thuộc
phạm vi áp dụng Án lệ 05/2016/AL. Nếu xét theo trường hợp phân chia di sản
ngay tại thời điểm cụ Ập chết thì sẽ không tránh được những trường hợp tỷ lệ
phân chia di sản chưa hợp lý. Kiến nghị hoàn thiện:
Như vậy, trong việc xác định trách nhiệm, quyền lợi để giao cho người quản
lý khối tài sản chung cần rõ ràng để tránh những tranh chấp trong việc quản lý,
phân chia di sản trong tương lai; những người thừa kế cần họp bàn để xác định
rõ khối di sản thừa kế và việc quản lý và lập thành văn bản để mối quan hệ
trong gia đình, dòng họ càng thêm gắn kết và chia sẻ. Toà án cũng cần ghi nhận,
bổ sung thêm các án lệ phù hợp để bảo vệ quyền lợi của người quản lý, tôn tạo
di sản, tạo dựng tiền lệ tốt cho các vụ việc tương tự sau này.
3. Kiến nghị hoàn thiện bổ sung vấn đề áp dụng án lệ
Trong quá trình xét xử vụ án, Tòa án đã viện dẫn và áp dụng án lệ số
24/AL2018, tuy nhiên tình huống pháp lý trong hai vụ việc là hoàn toàn khác
nhau nhưng lại bị hội đồng xét xử nhầm lẫn. Hiện nay, hầu hết các quan niệm
về án lệ ở nước ta đều chỉ công nhận án lệ hình thành trong quá trình giải thích
pháp luật, là những bản án chưa đựng các lập luận, phân tích để giải thích các
quy định của pháp luật còn nhiều cách hiểu chưa thống nhất mà không thừa
nhận vai trò sáng tạo pháp luật của thẩm phán. Bên cạnh đó, chúng ta cũng
chưa có sự nhận thức rõ ràng khi tìm hiểu về án lệ và đặt nó trong mối quan hệ
với các khái niệm tương đồng, vẫn còn có sự nhầm lẫn một số khái niệm. Kiến nghị hoàn thiện:
• Tòa án cần tiếp tục tăng cường hơn nữa việc nâng cao chất lượng xét xử, có
chương trình đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu cho các Thẩm phán, người giữ
chức danh tư pháp khác về kỹ năng nghiên cứu án lệ. lOMoAR cPSD| 57855709
• Ban hành các văn bản hướng dẫn, áp dụng án lệ để thống nhất nhận thức
chung của án lệ nhằm trang bị cho các đối tượng này các kiến thức về kỹ
năng nghiên cứu, áp dụng và viện dẫn án lệ nhằm hạn chế tối đa sai sót trong
việc đưa ra phán quyết.
• Cần sửa đổi quy định về thẩm quyền giải thích pháp luật trong Hiến pháp
năm 2013. Theo đó Điều 102 Hiến pháp năm 2013 cần sửa đổi theo hướng
ghi nhận thẩm quyền giải thích pháp luật cho Tòa án nhân dân tối cao. Có
như vậy mới đảm bảo vai trò của Tòa án trong việc tạo lập án lệ, vì án lệ
luôn hàm chứa việc giải thích pháp luật. Đồng thời, việc quy định thẩm
quyền này cho Tòa án nhân dân tối cao sẽ giúp tăng thêm tính độc lập và
nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án. KẾT LUẬN
Vấn đề áp dụng pháp luật về thừa kế không thống nhất, trong đó thể hiện rõ ràng
nhất là vấn đề xác định không đúng di sản thừa kế sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến
việc định đoạt tài sản của người được hưởng di sản thừa kế. Không chỉ vậy, xác
định không đúng di sản thừa kế còn là một trong những nguyên nhân khiến cho các
tranh chấp thừa kế kéo dài, không dứt điểm, làm phát sinh nhiều chi phí của các cơ
quan, tổ chức, cá nhân; dẫn đến hủy, sửa án, kéo dài thời gian giải quyết vụ án.
Qua việc phân tích bản án trên, việc áp dụng các quy định nước ta còn bộc lộ
nhiều hạn chế, thiếu sót và sơ suất. Vì vậy, pháp luật dân sự cần xây dựng các quy
định về thừa kế một cách hoàn thiện. Thông qua đó, nâng cao hiệu quả quản lí Nhà
Nước về pháp luật dân sự của nước ta, ngoài ra việc xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật dân sự nói chung nhằm tạo hành lang pháp lý khi hội nhập kinh tế - xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Viết Giang đăng ngày 07/08/2023 trên Tạp chí Tòa án nhân dân về
“Một số vấn đề về áp dụng và viện dẫn án lệ trong thực tiễn xét xử tại Tòa án hiện lOMoAR cPSD| 57855709
nay” tại Mục 2. Thực trạng áp dụng và viện dẫn án lệ trong công tác xét xử của các Tòa án hiện nay.
2. Phí Thị Thanh Tuyền đăng ngày 27/09/2017 trên Tạp chí dân chủ và Pháp luật
về “Hoàn thiện quy trình xây dựng án lệ ở Việt Nam hiện nay” tại Mục 3. Một số
giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động xây dựng án lệ ở Việt Nam hiện nay.
3. Báo điện tử Chính phủ đăng ngày 5/4/2024 về “Xác định ranh giới đất theo
bản đồ địa chính hay sổ đỏ?”