



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 58412604
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI BÀI TẬP NHÓM
MÔN: TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG
Đề bài số 15
: Phân tích mối quan hệ của ý
thức và vô thức trong cuộc sống và trong
lĩnh vực pháp luật, từ đó, đưa ra ý kiến đánh giá của nhóm anh/chị. Nhóm: 02 Lớp: 4824 Hà Nội - 2024 lOMoAR cPSD| 58412604
BIÊN BẢN XÁC NHẬN MỨC ĐỘ THAM GIA VÀ KẾT QUẢ THAM GIA LÀM BÀI TẬP NHÓM
MÔN TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG
Ngày: 14/11/2024 Địa điểm: Trường Đại học Luật Hà Nội
Nhóm số: 02 Lớp: 4824
Khoa: Pháp luật kinh tế Khóa: 48
Tổng số sinh viên của nhóm: 9 + Có mặt: 9
+ Vắng mặt: 0 Có lý do:............... Không lý do: ..................
Đề bài số 15: Phân tích mối quan hệ của ý thức và vô thức trong cuộc sống và trong lĩnh
vực pháp luật, từ đó, đưa ra ý kiến đánh giá của nhóm anh/chị.
Xác định mức độ tham gia và kết quả tham gia của từng sinh viên trong quá trình bài tập nhóm: STT MSSV Họ và tên Đánh giá SV Đánh giá của SV ký tên của giáo viên A B C
Điể m Điể m GV ký tên (số) (chữ ) 1 48241 Bùi Bình x Dươn g 1 Dương 2 48246 Trịnh Thùy x Dươn g 1 Dương 3 48241 Nguyễn Viết x Đạt 2 Thành Đạt lOMoAR cPSD| 58412604 4 48241 Vũ Hữu Đồng x Đồng 3 5 48241 Nguyễn Thu x Hà 4 Hà 6 48241 Nguyễn Thu x Hà 5 Hà 7 48241 Nguyễn Doãn x Hải 6 Hải 8 48241 Lê Thị Thúy x Hằng 7 Hằng 9 48241 Trần Thị x Hoa 9 Quỳnh Hoa
- Kết quả điểm bài viết:
- Điểm kết luận cuối cùng + Giáo viên chấm thứ
Giáo viên đánh giá cuối
nhất:...............................
cùng:.......................... + Giáo viên chấm thứ
Hà Nội, ngày 14 tháng 11 năm
hai:................................. 2024
- Kết quả điểm thuyết Trưởng nhóm
trình:.............................. - Giáo viên cho thuyết
trình:............................. MỤC LỤC lOMoAR cPSD| 58412604
LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................................1 I. Khái
niệm......................................................................................................................1 1. Ý
thức........................................................................................................................1 2. Vô
thức......................................................................................................................2
II. Mối quan hệ giữa ý thức và vô thức trong cuộc sống và trong lĩnh vực pháp luật.
...........................................................................................................................................2 1. Mối quan hệ giữa ý thức và vô thức trong cuộc
sống................................................3 2.
Mối quan hệ của ý thức và vô thức trong lĩnh vực pháp
luật....................................6
III. Đánh giá mối quan hệ ý thức và vô thức trong cuộc sống và trong lĩnh vực pháp
luật...................................................................................................................................12 1.
Đánh giá về sự cần thiết của mối quan hệ giữa ý thức và vô thức trong cuộc sống.
.....................................................................................................................................12 2.
Đánh giá về sự cần thiết của mối quan hệ giữa ý thức và vô thức trong pháp luật.12 3.
Một số giải pháp để phát huy hiệu quả mối quan hệ giữa ý thức và vô thức và nâng cao ý thức pháp
luật.....................................................................................................13 lOMoAR cPSD| 58412604 LỜI
KẾT........................................................................................................................14 lOMoAR cPSD| 58412604 LỜI MỞ ĐẦU
Trong hành trình nhận thức và phát triển của con người, ý thức và vô thức là hai
yếu tố quan trọng, bổ trợ và đôi khi mâu thuẫn, tạo nên những quyết định, hành động và
giá trị trong cuộc sống. Ý thức là hiện thân của sự minh bạch, lý trí, và khả năng tự chủ,
trong khi vô thức chứa đựng những cảm xúc, bản năng và ký ức sâu xa, ảnh hưởng một
cách âm thầm nhưng mạnh mẽ đến hành vi và tư duy. Sự tác động qua lại giữa ý thức và
vô thức không chỉ có ý nghĩa trong việc định hình bản thân con người mà còn là nền tảng
cho nhiều lĩnh vực, trong đó có pháp luật – nơi lý trí và cảm xúc, công lý và bản năng giao
thoa một cách phức tạp. Chính vì vậy, nhóm 02 đã lựa chọn đề bài số 15:
“Phân tích mối quan hệ của ý thức và vô thức trong cuộc sống và trong lĩnh vực pháp
luật, từ đó, đưa ra ý kiến đánh giá của nhóm anh/chị.” để làm rõ mối quan hệ của ý thức
và vô thức trong cuộc sống cũng như trong lĩnh vực pháp luật từ đó đưa ra những đánh
giá, quan điểm chung nhất. NỘI DUNG I. Khái niệm. 1. Ý thức.
* Khái niệm: Ý thức là năng lực hiểu được các tri thức về thế giới khách quan mà con
người tiếp thu được và năng lực hiểu được thế giới chủ quan trọng chính bản thân mình
nhờ đó con người có thể cải tạo thế giới khách quan và hoàn thiện bản thân mình. *Ví dụ:
Ý thức trong học tập và tiếp thu tri thức, khi một học sinh tiếp thu kiến thức về sinh
học, họ ý thức được rằng kiến thức này giúp họ hiểu về cơ thể con người, sinh vật sống
và hệ sinh thái. Qua đó, họ có thể vận dụng kiến thức để chăm sóc sức khỏe hoặc bảo vệ
môi trường, thể hiện việc cải tạo thế giới khách quan. lOMoAR cPSD| 58412604
Ý thức về bản thân và tự kiểm điểm, một người cảm nhận được những nhược điểm
trong cách ứng xử của mình, ví dụ như tính nóng nảy. Họ nhận thức rõ vấn đề này (hiểu
được thế giới chủ quan trong chính mình) và có thể thay đổi, rèn luyện để trở nên điềm
tĩnh hơn, từ đó hoàn thiện bản thân. 2. Vô thức. *
Khái niệm: Vô thức là tập hợp những hiện tượng, những hành vi mà chủ thể
không có nhận thức, không tỏ được thái độ và không thể thực hiện được sự kiểm tra có chủ ý đối với chúng. * Ví dụ:
Người ta kể rằng Niutơn đã phát hiện ra định luật vạn vật hấp dẫn khi nằm dưới gốc
cây táo và tình cờ nhìn thấy một quả táo rụng rơi xuống đất; Galilê khám phá ra quy luật
dao động của con lắc trong một lần đến nhà thờ và nhìn thấy chiếc đèn chùm ở nhà thờ
đung đưa do một người đi trước ông vô tình chạm vào nó. Đó là hiện tượng lóe sáng của vô thức.
Hay việc nhìn dáng vẻ của con người đang ngồi trước mặt, đột nhiên điều tra viên
linh cảm rằng, con người này có liên quan đến vụ án mà ông đang điều tra. đây là hiện
tượng linh cảm của vô thức.
II. Mối quan hệ giữa ý thức và vô thức trong cuộc sống và trong lĩnh vực pháp luật.
Ý thức và vô thức là hai lĩnh vực, hình thức, cấp độ phản ánh trong đời sống. Song,
chúng vẫn có mối quan hệ chặt chẽ và phức tạp: vừa xung đột, kiềm chế, lại vừa bổ sung,
hỗ trợ, chuyển hóa cho nhau. Nhiều nhà nghiên cứu đã có cùng quan niệm rằng phần lớn
tư duy của con người được bắt đầu từ vô thức bởi vì vô thức là nền tảng của ý thức. Trong
đó, biết bao kinh nghiệm, ký ức, tiềm năng đã được chất chứa trong cái kho vô thức. Họ
lý luận rằng vô thức bao giờ cũng có trước vì đó là tiềm năng bẩm sinh mà ai cũng có,
nhưng vấn đề là nó có được đánh thức hay không và đánh thức ở mức độ nào. Vì vậy, ý lOMoAR cPSD| 58412604
thức là cái có sau, được hình thành qua quá trình sống và phụ thuộc vào nhiều hoàn cảnh
môi trường của cuộc sống. Sau cùng, các nhà phân tâm lý học kết luận rằng “Vô thức và
ý thức liên quan mật thiết với nhau, thiếu một trong hai đều dẫn tới tư duy què quặt. Nhưng
quan trọng nhất là vô thức đóng vai trò thiết yếu trong quá trình sáng tạo của con người,
góp phần tạo nên các thiên tài, vĩ nhân, thần đồng trong mọi lĩnh vực từ âm nhạc, hội họa,
kiến trúc, khoa học cho đến tâm linh…”
1. Mối quan hệ giữa ý thức và vô thức trong cuộc sống.
Thứ nhất, ý thức giúp kiểm duyệt, kiềm chế hành vi được thúc đẩy bởi các
động cơ vô thức trong cuộc sống.
Trong mỗi hành vi, hành động của con người, nếu vẫn duy trì được khả năng ý thức
của mình thì họ đồng thời có thể kiềm chế, kiểm duyệt những hành vi đang bị thúc đẩy
bởi vô thức. Chẳng hạn, có lẽ ai cũng từng trải qua cảm giác đói bụng sau giờ học. Khi
trở về nhà, chợt nhìn thấy gói bánh hấp dẫn trên bàn, bản năng sẽ khiến ta muốn cầm lên
và thưởng thức ngay lập tức để xoa dịu cơn đói. Tuy nhiên, ý thức sẽ giúp chúng ta phải
suy nghĩ lại rằng: “Gói bánh này là của ai? Có phải mẹ mua hay không? Có được ăn hay
không hay dùng để đem biếu, tặng, để cúng vào ngày rằm?”. Nhờ có ý thức, ta đã kìm nén
được ham muốn nhất thời và không ăn bánh. Đó chính là lúc ý thức đóng vai trò như một
người bạn đồng hành, giúp ta phân biệt giữa những gì ta muốn và những gì ta nên làm.
Nếu không có ý thức, ta sẽ dễ dàng bị cuốn theo những cái trước mắt mà không suy nghĩ
sâu xa, có thể mắc phải sai lầm đáng tiếc. Như vậy, ý thức đã kiềm chế những hành vi
được thúc đẩy bởi vô thức.
Thứ hai, ý thức có thể được biểu hiện thông qua vô thức trong cuộc sống.
Trong đời sống hằng ngày chúng ta thường nói: "có tật giật mình”. Ở đây, "tật" dùng
để chỉ một điểm yếu, một thông tin bất lợi nào đó mà chủ thể muốn che giấu (tức là có thể
ý thức) thế nhưng nó lại được bộc lộ thông qua "giật mình” - một phản ứng do vô thức
điều khiển. Trong giao tiếp, những phản ứng cảm xúc biểu hiện qua ánh mắt, nét mặt, lOMoAR cPSD| 58412604
giọng nói, cử chỉ, những lời nói bột phát tưởng như vô tình ở người đối thoại có thể ẩn
chứa những thông tin mà chúng ta quan tâm.
Để hiểu rõ hơn về khía cạnh này, chúng ta có thể lấy một ví dụ cụ thể trong đời sống. Anh
A đã có tình cảm với chị B từ lâu nhưng vì tự ti cũng như bản tính nhút nhát nên anh không
dám bày tỏ tình cảm với chị B và cũng không muốn ai biết tình cảm của mình. Tuy nhiên,
trong một lần do uống nhiều rượu trong buổi liên hoan với bạn bè, anh A đã không kiểm
soát được lời nói của mình nên đã vô tình nói ra. Ở đây ý thức thể hiện ở việc anh A thích
chị B và muốn giấu, nhưng ý thức che giấu đó đã được biểu hiện qua những lời nói vô
thức khi say rượu. Ví dụ này đã minh chứng cho luận điểm ý thức được biểu hiện thông
qua vô thức, thể hiện mối quan hệ giữa ý thức và vô thức.
Thứ ba, ý thức và vô thức trong cuộc sống cũng có thể chuyển hóa lẫn nhau.
Một hiện tượng vốn lúc đầu nằm ở lĩnh vực vô thức nhưng dần dần có thể được
chúng ta ý thức. Ngược lại, một hiện tượng vốn ban đầu được ý thức nhưng sau đó có thể
chuyển sang lĩnh vực vô thức. Cũng do sự chuyển hóa từ ý thức sang vô thức mà chúng
ta có thể quên đi những chuyện buồn những kí ức mà gợi lại sẽ gây cảm xúc khó chịu. Có
thể hiểu một cách đơn giản như trẻ em tư duy chủ yếu bằng vô thức rồi khi lớn lên mới bổ
sung dần dần ý thức. Vô thức có từ khi lọt lòng hay có thể từ khi còn ở trong bụng mẹ. Do
vậy các bác sĩ thường khuyên các bà mẹ nghe nhạc cổ điển nhẹ nhàng, những bức tranh
phong thủy vì thai nhi tiếp thu thông tin về thế giới qua người mẹ ngay từ khi đang còn ở
trong bụng, thông qua hoạt động vô thức của não.
Một là, vô thức có thể chuyển hóa thành ý thức. Một ví dụ cụ thể như một đứa trẻ
thích một món quà, món đồ chơi hay đồ ăn nào đó và đòi mẹ mua cho bằng được bằng
cách chỉ tay và khóc nhưng nó không biết được rằng vì sao nó lại thích hay vì sao lại muốn
món quà đó. Nhưng khi lớn lên thì nó mới ý thức được nó cần vật đó không và vì sao nó
lại cần. Như vậy hành động đòi mua của đứa trẻ chỉ là hành vi đòi hỏi vô thức chứ nó
không thể ý thức được hành vi của mình. Nhưng khi nó lớn lên thì nó đã ý thức được vấn lOMoAR cPSD| 58412604
đề, đã có sự đánh giá có nên mua không và có được sự chọn lựa cho riêng mình. Hành vi
có ý thức thể hiện sự đánh giá, chọn lựa của con người đối với đối tượng.
Hai là, ý thức có thể chuyển hoá được thành vô thức. Ta hay xem xét thông qua ví
dụ sau, khi bắt đầu đi học, chúng ta học đọc bảng chữ cái như chữ a, b, c,...ý thức đã dần
hình thành trong con người chúng ta và đã trở thành vô thức thông qua hoạt động học tập
lập đi lặp lại từ lúc nào. Biểu hiện của sự chuyển hóa từ ý thức sang vô thức này là khi
một ai đó hỏi ta chữ “a” đọc là gì thì ta có thể trả lời ngay cách đọc chữ a theo bảng chữ
cái Tiếng Việt mà không cần xem lại hay đắn đo suy nghĩ, lúc này sự tham gia của ý thức
không cần thiết nữa. Việc học bảng chữ cái là một hành vi có ý thức và khi chuyển hóa
sang vô thức đó là sự trả lời những gì mình đã học một cách tự nhiên mà không cần phải
nhớ, tư duy lại. Như vậy, giữa ý thức và vô thức không tồn tại một ranh giới rõ ràng.
Chúng không ngừng giải tỏa, chuyển hóa lẫn nhau.
Thứ tư, tương quan giữa ý thức và vô thức trong cuộc sống biến đổi trong
cuộc đời con người.
Càng lùi về thời thơ ấu, ý thức của chúng ta chỉ ở dạng sơ khai, vì thế hành vi của
chúng ta chủ yếu bị điều khiển bởi các bản năng vô thức. Ví dụ, khi một đứa trẻ cảm thấy
mệt mỏi hoặc khó chịu, chúng sẽ khóc mà không thể tự kiềm chế hay nhận thức được
nguyên nhân sâu xa của cảm giác đó. Lúc này, hành vi chủ yếu xuất phát từ vô thức, không
có sự can thiệp của ý thức.
Theo thời gian, khi con người lớn lên, ý thức bắt đầu phát triển và trở nên mạnh mẽ
hơn. Tuy nhiên, ở giai đoạn thanh thiếu niên, sự phát triển của ý thức chưa hoàn toàn ổn
định, và đôi khi không đủ mạnh để kiểm soát các bản năng vô thức. Chẳng hạn, một học
sinh có thể quyết định đi chơi cả ngày, không nghĩ đến việc mình có thể bị mệt mỏi hay
không có đủ thời gian để hoàn thành bài vở. Khi ý thức chưa đủ trưởng thành, vô thức có
thể dẫn dắt con người theo hướng thiếu kiểm soát. Đó là lý do tại sao việc phát triển kỹ lOMoAR cPSD| 58412604
năng tự nhận thức, kiểm soát cảm xúc, và ra quyết định sáng suốt là rất quan trọng trong quá trình trưởng thành.
Sự phát triển của ý thức sẽ tiếp tục diễn ra mạnh mẽ khi con người bước vào giai
đoạn trưởng thành. Ở giai đoạn này, ý thức đóng vai trò quan trọng trong việc điều hướng
hành vi và cảm xúc. Ví dụ, trong một cuộc tranh cãi, người trưởng thành có thể kiềm chế
sự tức giận, không để bản năng vô thức chi phối, và thay vào đó lựa chọn giải quyết vấn
đề một cách bình tĩnh và lý trí. Tuy nhiên, đôi khi trong những tình huống căng thẳng, các
yếu tố vô thức vẫn có thể trỗi dậy và làm thay đổi hành vi. Một người trưởng thành vẫn
có thể vô thức cáu kỉnh và nổi giận với bạn bè, người thân khi phải đối mặt với những khó
khăn trong cuộc sống, mặc dù họ ý thức được rằng hành động như vậy sẽ làm tổn thương mối quan hệ.
Khi con người tiến dần vào độ tuổi trung niên và cao tuổi, quá trình trưởng thành
tâm lý và sự tích lũy kinh nghiệm sống giúp điều hòa và làm dịu những xung động vô
thức, đưa ý thức trở thành yếu tố chi phối trong các quyết định và hành động. Tuy nhiên,
những suy nghĩ như sự lo âu về cái chết, về sự trôi qua của thời gian có thể được lưu giữ
trong vô thức và bộc lộ thông qua những cảm giác bất an hay sợ hãi không rõ ràng. Một
người lớn tuổi có thể cảm thấy buồn bã và cô đơn khi người bạn đời qua đời, cũng như có
xu hướng tránh xa các hoạt động xã hội hoặc muốn tránh mặt các thành viên trong gia
đình trong vô thức mặc dù họ hiểu rằng việc đó không giúp cải thiện tình trạng của mình.
Như vậy, giữa ý thức và vô thức không tồn tại một ranh giới rõ ràng. Chúng vừa đối
lập, vừa hỗ trợ, thống nhất với nhau, cùng nhau điều chỉnh hành vi, hoạt động của con
người. Mối quan hệ chặt chẽ này chính là cơ chế giúp đời sống tinh thần của chúng ta cân
bằng, không căng thẳng quá tải.
2. Mối quan hệ của ý thức và vô thức trong lĩnh vực pháp luật.
Thứ nhất, ý thức trong lĩnh vực pháp luật giúp kiểm duyệt, kiềm chế hành vi
được thúc đẩy bởi các động cơ vô lOMoAR cPSD| 58412604 thức.
Vô thức chứa đựng các xung đột tâm lý, các cảm xúc bị kìm nén và những động cơ
mà cá nhân không nhận thức được. Những yếu tố vô thức có thể khiến con người hành
động theo những cách không hợp lý hoặc vi phạm pháp luật. Mặt khác, ý thức giúp cá
nhân nhận biết hành vi đúng - sai, từ đó điều chỉnh hành vi để tránh vi phạm pháp luật.
Trong lĩnh vực pháp luật, ý thức đóng vai trò như một cơ chế kiểm duyệt và kiềm chế các
động cơ, hành vi vô thức không phù hợp, tuân thủ các quy tắc và chuẩn mực pháp luật.
Đặc biệt là khi không có sự kiểm duyệt của ý thức, những động cơ vô thức có thể dẫn
đến các hành vi bốc đồng, nguy hiểm, ảnh hưởng tiêu cực đến trật tự xã hội.
Có thể hình dung rõ sự kiểm duyệt, kiềm chế hành vi được thúc đẩy bởi các động
cơ vô thức của ý thức thông qua các ví dụ sau: chẳng hạn khi dừng đèn đỏ, nhiều người
có xu hướng vô thức di chuyển theo đám đông, nhất là khi thấy người khác vượt đèn đỏ.
Nhưng khi kịp nhìn lên đèn tín hiệu, ý thức cảnh báo họ rằng đèn đỏ chưa hết và ngăn
chặn hành vi vi phạm. Ý thức về việc vượt đèn đỏ sẽ vi phạm giao thông góp phần đóng
vai trò như một cơ chế kiểm duyệt, giúp cá nhân tuân thủ pháp luật. Hay khi một người
cảm thấy tức giận, vô thức có thể khiến họ bộc phát hành vi tấn công người khác. Nhưng
ý thức nhắc nhở rằng đó là hành vi vi phạm, nhờ đó giúp họ kiềm chế cơn giận. Trong lĩnh
vực pháp luật nhà nước đã tác động vào ý thức, nhờ ý thức của mỗi con người kiềm chế
lại cái vô thức để pháp luật có thể được thực thi một cách nghiêm chỉnh. Điều này không
chỉ giúp cá nhân tự kiềm chế mà còn tạo ra một xã hội an toàn và tuân thủ luật pháp.
Thứ hai, ý thức trong lĩnh vực pháp luật có thể được biểu hiện thông qua vô thức.
Trước hết, ý thức có thể thể hiện qua vô thức, đó là khi các quy tắc, giá trị pháp
luật đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi cá nhân. Có thể hiểu rằng các hành vi tự động chấp
hành luật giao thông mà không cần suy nghĩ nhiều, ví dụ như tự dừng xe khi nhìn thấy
đèn đỏ, có thể là biểu hiện của những giá trị ý thức về pháp luật đã được vô thức hoá. lOMoAR cPSD| 58412604
Điều này cho thấy rằng một số nguyên tắc và chuẩn mực pháp luật, khi được tiếp thu và
thực hành liên tục, có thể trở thành một phần của vô thức.
Trong lĩnh vực pháp luật, vấn đề vô thức được ứng dụng rộng rãi trong phòng ngừa tội
phạm, được xem như một phương pháp tâm lý. Theo thuyết của Freud, việc xem những
chương trình giải trí mang tính bạo lực được chiếu ở khắp nơi như rạp chiếu phim, sách
báo,... có thể giải toả phần nào bản năng xâm kích ở con người và làm cho họ trở nên
hiền hòa hơn trong đời sống thực. Từ đó ngăn chặn tối đa các hành vi bạo lực ở con
người. Và trong xã hội hiện đại ngày nay, hàng ngày, hàng giờ và bất cứ nơi đâu, chúng ta
cũng có thể bắt gặp những chương trình, những áp phích, những biển quảng cáo hàng
hóa, dịch vụ hay những khẩu hiệu tuyên truyền pháp luật như: "Sống và làm việc theo
hiến pháp và pháp luật”; “Đã uống rượu bia thì không lái xe”...Và chúng ta thường nhìn
chúng một cách bình thản, tựa như những khẩu hiệu hay áp phích đó chẳng ảnh hưởng gì đến chúng ta.
Thực ra thì không phải như vậy, những chương trình quảng cáo trên tivi, những biển
quảng cáo, áp phích trên đường phố vẫn âm thầm "tấn công", "xâm nhập" vào tâm thức
của chúng ta theo cơ chế ám thị. Và mỗi khi làm một việc nào đó, vào một lúc trong đầu
chúng ta tự nhảy lên những dòng chữ trên tivi hay trên biển quảng cáo đó khiến chúng
ta xem xét xem nó có đúng với pháp luật hay không. Từ đó nhà tuyên truyền đã đạt được mục đích của mình.
Ngoài ra, ý thức con người được biểu hiện thông qua cảm xúc vô thức bên trong.
Có nghĩa là cảm xúc vô thức trong mỗi người có thể bị kích thích bởi các yếu tố thuộc về
ý thức. Chẳng hạn, một người có ý thức bảo vệ quyền lợi của bản thân hoặc gia đình thì
khi bị người khác xâm phạm đến quyền lợi đã trở nên bực tức, xúc cảm bên trong chi
phối khiến họ vô thức gây ra các hành vi như tự vệ quá mức hoặc có các hành động bạo
lực không lường trước. Được thúc đẩy bởi ý thức về quyền lợi, mặc dù họ không hề mong lOMoAR cPSD| 58412604
muốn, nhưng vô thức lại là nơi chứa đựng những bất mãn, dẫn đến hành vi trái pháp luật.
Trong khoa học điều tra hình sự, đây chính là cơ sở để các nhà điều tra xây dựng những
phương pháp, những thủ thuật xét hỏi trong trường hợp đối tượng khai báo không thành
khẩn. Tội phạm mặc dù là hiện tượng không bình thường và đã thuộc về quá khứ, nhưng
hoàn toàn có thể nhận thức được tương đối đầy đủ. Hoạt động điều tra hoàn toàn có đủ
khả năng để làm rõ về mọi tội phạm, vì hành vi phạm tội là hoạt động có ý thức của con
người, dù có được che dấu đến đâu cũng vẫn để lại dấu vết phản ánh về chủ thể, đặc
biệt là qua các hành động vô thức như xúc cảm với thái độ sợ sệt, hay các thói quen rung
chân, đảo mắt, bấm tay lúc bối rối,... những hành động vô thức này đều có thể lý giải.
Thứ ba, ý thức và vô thức trong lĩnh vực pháp luật cũng có thể chuyển hóa lẫn nhau.
Một hiện tượng vốn lúc đầu nằm ở lĩnh vực vô thức nhưng dần dần có thể được
chúng ta ý thức. Trong sự xuất hiện và phát triển của nhu cầu thì thường lúc đầu, ở mức
độ ý hướng, chúng ta chưa biết được là chúng ta cần cái gì, thiếu cái gì. Chẳng hạn, lúc
đầu nhiều người có thể không hoàn toàn hiểu biết hoặc ý thức về các quyền và nghĩa vụ
của mình theo pháp luật, chẳng hạn như quyền lợi trong hợp đồng lao động,... và chỉ sau
này, khi nhu cầu chuyển sang mức độ "ý muốn" hoặc cao hơn nữa thì chúng ta mới ý thức
được chúng ta cần cái gì, thiếu cái gì. Có thể hiểu như việc khi quyền lợi bị xâm phạm nhu
cầu muốn đòi lại quyền lợi đó, chúng ta mới bắt đầu ý thức chủ động trong việc bảo vệ
quyền lợi của mình, chủ động tìm hiểu pháp luật.
Ngược lại, một hiện tượng vốn ban đầu được ý thức nhưng sau đó có thể được
chuyển sang lĩnh vực vô thức. Những thói quen vốn ban đầu là hành động được ý thức
(thường là do con người chủ ý tập luyện), nhưng sau đó được lặp đi lặp lại nhiều mà trở
thành tự động hóa, diễn ra mà không cần sự giám sát của ý thức nữa. Có nghĩa là hành
động của chúng ta trở nên dễ dàng, hiệu quả hơn và tiêu hao ít năng lượng thần kinh lOMoAR cPSD| 58412604
hơn. Ví dụ, khi luật pháp quy định bắt buộc phải thắt dây an toàn khi lái xe ô tô, ban đầu
người dân ý thức rõ ràng và tuân thủ vì sợ bị phạt hoặc với những người mới lái ô tô còn
chưa quen với việc thắt dây an toàn thì những lần đầu còn quên, hay phải sử dụng nhiều
năng lượng thần kinh để nhớ việc phải thắt dây an toàn. Tuy nhiên, khi thực hiện điều
này liên tục, việc đeo dây an toàn dần trở thành một hành vi tự động – một phần của vô
thức, khiến họ cảm thấy không thoải mái khi không thực hiện hoặc thậm chí bất an. Đây
là quá trình chuyển từ ý thức sang vô thức, giúp duy trì thói quen an toàn.
Thứ tư, tương quan giữa ý thức và vô thức trong lĩnh vực pháp luật biến đổi
trong cuộc đời con người.
Ở giai đoạn thơ ấu, ý thức của chúng ta chỉ ở dạng sơ khai nên hành vi của chúng
ta chủ yếu được điều khiển bởi các bản năng vô thức, ý thức về luật pháp còn chưa rõ
ràng. Trong giai đoạn này, hành động chủ yếu dựa vào bản năng, nhu cầu và cảm xúc mà
chưa có sự nhận thức rõ ràng về hậu quả pháp lý.
Đến với giai đoạn thanh thiếu niên, đây là giai đoạn có sự xung đột giữa ý thức và
vô thức. Khi trưởng thành hơn, con người bắt đầu phát triển ý thức cá nhân, bao gồm
khả năng phân biệt đúng sai và hiểu biết về các quy định xã hội, trong đó có luật pháp.
Tuy nhiên, ở độ tuổi này, sự phát triển ý thức chưa hoàn toàn ổn định và thường bị chi
phối bởi các yếu tố như bạn bè, nhu cầu thể hiện bản thân, tìm kiếm sự tự do. Do đó họ
thường mang những cảm xúc mạnh mẽ, mong muốn nổi loạn hoặc muốn khám phá giới
hạn bản thân từ đó có thể dẫn đến những hành vi thiếu kiểm soát hoặc vi phạm pháp
luật như sử dụng chất kích thích, đua xe trái phép, sử dụng xe máy khi chưa đủ tuổi,...gây
ra những hậu quả nghiêm trọng. Tuy nhiên, do đặc điểm về tâm sinh lý cũng như ý thức
về pháp luật chưa đầy đủ nên hệ thống pháp luật đã có các quy định đặc biệt đối với trẻ
dưới 18 tuổi, có sự khác biệt với những người từ đủ 18 tuổi trở lên.
Ý thức dần kiểm soát vô thức ở giai đoạn trưởng thành, khi con người có xu hướng
phát triển ý thức rõ ràng và ổn định hơn. Họ đã có sự nhận thức rõ ràng về trách nhiệm lOMoAR cPSD| 58412604
pháp lý và hiểu rõ hậu quả của các hành vi vi phạm, giúp họ tự điều chỉnh hành vi, tránh
xa các hành vi bất hợp pháp. Và lúc này con người có khả năng kiểm soát tốt hơn các
động cơ vô thức, những cảm xúc như giận dữ, ghen tuông hoặc bất mãn có thể được
kiềm chế, giúp họ hành động lý trí và hợp pháp hơn. Tuy nhiên, ở giai đoạn mà họ có đủ
nhận thức và ý thức, con người cũng có thể tìm ra được nhiều cách để “lách luật”. Và ở
một số trường hợp nhất định, như khi chịu áp lực lớn hoặc gặp phải cú sốc tinh thần, các
yếu tố vô thức có thể tạm thời lấn át ý thức và dẫn đến những hành vi vi phạm pháp luật không mong muốn.
Cuối cùng, có thể nhận thấy sự hòa hợp giữa ý thức và vô thức ở giai đoạn trung
niên và cao tuổi. Các xung động vô thức thường không còn mạnh mẽ, ý thức về đạo đức,
trách nhiệm xã hội cũng đã sâu sắc và ổn định hơn theo thời gian. Tuy nhiên, nếu gặp
phải những biến cố lớn như mất người thân, bệnh tật hoặc khó khăn tài chính, một số
yếu tố vô thức có thể trỗi dậy, ảnh hưởng đến hành vi của họ. Do đó đối với những trường
hợp phạm pháp của người lớn tuổi, hệ thống pháp luật cũng có các quy định về các tình
tiết giảm nhẹ đảm bảo tính nhân đạo và sự công bằng trong pháp luật.
Việc hiểu rõ sự biến đổi của ý thức và vô thức qua các giai đoạn khác nhau giúp hệ
thống pháp luật đánh giá chính xác hơn về động cơ và mức độ trách nhiệm pháp lý của
cá nhân đưa ra các mức xử phạt và biện pháp cải tạo phù hợp. Từ đó có thể xây dựng các
chương trình giáo dục pháp lý thích hợp đặc biệt là đối với trẻ tuổi vị thành niên.
Ngoài ra, tương quan giữa ý thức và vô thức trong hành vi ở lĩnh vực pháp luật còn chịu
tác động của nhiều yếu tố mang tính tình huống. Các yếu tố mang tính tình huống như
việc uống rượu bia có thể làm hạn chế ý thức, khiến con người trở nên kém hơn về mặt
lý trí, giảm khả năng kiểm soát hành vi. Do đó, luật cấm lái xe sau khi uống rượu bia nhằm
ngăn chặn tình trạng ý thức bị suy giảm, hạn chế nguy cơ tai nạn giao thông và đảm bảo an toàn xã hội. lOMoAR cPSD| 58412604
III. Đánh giá mối quan hệ ý thức và vô thức trong cuộc sống và trong lĩnh vực pháp luật.
1. Đánh giá về sự cần thiết của mối quan hệ giữa ý thức và vô thức trong cuộc sống.
Mối quan hệ giữa ý thức và vô thức có vai trò quan trọng, tạo nên sự toàn diện và
cân bằng trong đời sống của mỗi cá nhân. Ý thức giúp con người tự kiểm soát hành vi,
đưa ra quyết định và hành động, tạo ra sự ổn định và trật tự cho cuộc sống. Trong khi đó,
vô thức có thể bộc lộ phản xạ tự nhiên, những khía cạnh tiềm ẩn trong suy nghĩ, cảm xúc,
những yếu tố này không phải lúc nào cũng rõ ràng nhưng ảnh hưởng sâu sắc đến thái độ,
quan điểm và hành động của con người.
Khi ý thức và vô thức hòa hợp sẽ giúp con người tự nhận thức những động lực ẩn
sâu bên trong và từ đó có thể hiểu rõ hơn về bản thân, cũng như kiểm soát hành vi phù
hợp với các giá trị và nguyên tắc sống. Dù vô thức có thể giúp ta phản xạ nhanh chóng
trước những tình huống bất ngờ trong cuộc sống, tuy nhiên vô thức cũng có thể mang đến
nhiều yếu tố không thể kiểm soát được, và nếu những yếu tố này không được nhận diện
qua ý thức thì có thể dẫn đến các hành vi và quyết định mà ta không mong muốn.
Như vậy, mối quan hệ giữa ý thức và vô thức trong cuộc sống không chỉ giúp con
người phát triển sự cân bằng cảm xúc và tư duy sáng tạo mà còn nâng cao khả năng đối
mặt với những vấn đề phức tạp trong cuộc sống. Đánh giá đúng mối quan hệ này sẽ giúp
con người có cơ hội phát triển bản thân một cách toàn diện hơn.
2. Đánh giá về sự cần thiết của mối quan hệ giữa ý thức và vô thức trong pháp luật.
Mối liên hệ giữa ý thức và vô thức đóng vai trò quan trọng trong hệ thống pháp luật.
Cụ thể, trong quá trình lập pháp, ý thức là yếu tố quyết định đến việc những quy định pháp
luật được ban hành có phù hợp với thực tế hay có đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của đời
sống hay không. Bên cạnh đó, nhận thức về sự tác động của vô thức đến ý thức sẽ giúp
hiểu rõ hơn về tâm lý con người, nhất là trong những tình huống không thể hiện ý định
phạm tội rõ ràng nhưng vẫn gây ra hậu quả. Điều này giúp các chuyên gia pháp lý hay các lOMoAR cPSD| 58412604
nhà làm luật có thể đánh giá đầy đủ, chính xác hơn về hành vi của người phạm tội, từ đó
đưa ra những quyết định, phán quyết phù hợp, hợp tình hợp lý.
Trong lĩnh vực pháp luật, khi ý thức và vô thức được nhìn nhận cân bằng pháp luật
có thể đưa ra các phán quyết phù hợp, tăng tính khách quan cho hệ thống pháp luật. Mối
quan hệ này cũng ảnh hưởng sâu sắc đến hành vi tuân thủ pháp luật của con người. Ý thức
giúp con người tự kiểm soát, suy xét và nhận thức về hậu quả pháp lý, trong khi vô thức
chứa đựng các thói quen, bản năng và khuynh hướng tâm lý có thể vô tình ảnh hưởng đến
hành vi mà không cần suy xét ý thức. Các yếu tố vô thức như ảnh hưởng từ nhóm, xã hội,
hay môi trường sống cũng có thể thúc đẩy hành vi vi phạm pháp luật nếu cộng đồng xung
quanh không có ý thức tuân thủ cao. Đôi khi, ý thức muốn tuân thủ nhưng các yếu tố vô
thức lại dẫn đến vi phạm, gây ra hành vi không nhất quán dẫn đến tình trạng "nửa vời"
trong việc tuân thủ pháp luật.
Như vậy, mối quan hệ giữa ý thức và vô thức trong lĩnh vực pháp luật là sự cần thiết
để pháp luật không chỉ mang tính nguyên tắc mà còn phù hợp với tâm lý và nhu cầu thực
tế của con người. Mối quan hệ giữa ý thức và vô thức có thể mang lại cái nhìn sâu sắc và
nhân văn hơn, giúp tạo nên một hệ thống pháp luật nhân đạo.
3. Một số giải pháp để phát huy hiệu quả mối quan hệ giữa ý thức và vô thức và
nâng cao ý thức pháp luật.
Để phát huy hiệu quả mối quan hệ giữa ý thức và vô thức trong cuộc sống, đặc biệt
là trong lĩnh vực pháp luật, giúp nâng cao tính tuân thủ pháp luật và ý thức chấp hành
pháp luật, có thể áp dụng một số biện pháp sau:
Trước hết, tăng cường giáo dục pháp luật là một trong những biện pháp quan trọng. Thông
qua việc đưa kiến thức pháp luật vào chương trình giảng dạy, kết hợp sử dụng các phương
tiện thông tin đại chúng hay tổ chức các diễn đàn, hội thảo để chia sẻ quan điểm và nâng
cao hiểu biết về pháp luật, trách nhiệm xã hội để phổ biến các quy định pháp luật, nâng
cao nhận thức cộng đồng. lOMoAR cPSD| 58412604
Thứ hai, xây dựng môi trường sống lành mạnh, tạo ra các cộng đồng tích cực, khuyến
khích các giá trị đạo đức, trách nhiệm xã hội và tổ chức các hoạt động xã hội nhằm nâng
cao ý thức cá nhân về pháp luật và đạo đức.
Thứ ba, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo công bằng, minh bạch, không phân biệt
đối xử, đồng thời triển khai các chính sách hỗ trợ cải tạo và phục hồi tâm lý cho người vi
phạm thay vì chỉ áp dụng hình phạt.
Thứ tư, phát triển ý thức cá nhân thông qua việc rèn luyện kỹ năng tự kiểm soát, như thiền
định, và tự suy ngẫm về các giá trị pháp luật và đạo đức sẽ giúp mỗi cá nhân kiểm soát hành vi tốt hơn.
Cuối cùng, cần xây dựng những hình mẫu tốt, như các nhà lãnh đạo, giáo viên, cha mẹ,
để họ trở thành tấm gương về lối sống đạo đức và tôn trọng pháp luật, đồng thời khuyến
khích sự tham gia của các tổ chức xã hội trong việc giáo dục ý thức và phát triển cộng đồng bền vững. LỜI KẾT
Nhìn chung, ý thức và vô thức là hai yếu tố có mối liên hệ mật thiết, tạo nên sự đa
dạng và phức tạp trong hành vi con người, ảnh hưởng không chỉ trong cuộc sống mà còn
trong các lĩnh vực quan trọng như pháp luật. Ý thức đóng vai trò kiểm soát, điều chỉnh
hành vi theo các tiêu chuẩn xã hội và pháp lý, trong khi vô thức ảnh hưởng mạnh mẽ đến
động lực hành động, đôi khi vượt qua sự kiểm duyệt của ý thức. Trong pháp luật, hiểu rõ
sự khác biệt và mối liên hệ này là cần thiết để đánh giá khách quan động cơ của hành vi
và từ đó áp dụng các điều luật một cách công bằng, phù hợp. Để phát triển hài hòa ý thức
và vô thức, cần xây dựng các biện pháp giáo dục nâng cao nhận thức, cũng như các kỹ
năng tự kiểm soát bản thân. Nhóm đã đánh giá rằng sự kết hợp hài hòa giữa ý thức và vô
thức sẽ giúp cá nhân phát triển một cách toàn diện, đồng thời góp phần làm cho pháp luật
được vận dụng một cách nhân văn và công bằng hơn. lOMoAR cPSD| 58412604
TÀI LIỆU THAM KHẢO * Giáo trình:
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tâm lý học đại cương, Nxb.
Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2022. * Trang báo, tạp chí:
1.https://thuvienhoasen.org/a19552/y-thuc-vo-thuc
2.https://123docz.net/document/2416910-phan-tich-moi-quan-he-giuay-thuc-va-vo-
thuc-trong-hanh-vi-cua-con-nguoi.htm