




Preview text:
lOMoAR cPSD| 40551442
Đề số 2: Bằng các quy định của pháp luật đất đai, Anh (Chị) hãy làm sáng tỏ nhận
định sau đây: “Quyền sử dụng đất đai của người sử dụng đất vừa mang tính phụ
thuộc vào quyền sở hữu toàn dân về đất đai mà Nhà nước là đại diện chủ sở hữu,
vừa mang tính độc lập trong quá trình khai thác và sử dụng đất” Mở đầu Nội dung 1.
Khái quát về Quyền sử dụng đất đai
1.1. Cơ sở pháp lý
1.2. Ý nghĩa của Quyền sử dụng đất đai
(Đức Nguyên – Deadline 27/03/2025) 2.
Tính phụ thuộc vào quyền sở hữu toàn dân về đất đai
2.1. Sở hữu Nhà nước về đất đai
2.2. Giới hạn quyền cảu người sử dụng đất 3.
Tính độc lập trong quá trình khai thác và sử dụng đất
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện sở hữu và thống nhất
quản lí. Vì vậy, nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với tư cách đại
diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai trên lãnh thổ Việt Nam là chủ thể có quyền
sở hữu đối với đất đai, quyền này mang tính chất duy nhất và tuyệt đối1. Thông
qua, các thành phần cấu thành nên quyền sở hữu bao gồm: quyền chiếm hữu,
quyền sử dụng và quyền định đoạt2. Nhưng đất đai là loại tài sản đặc biệt là nguồn
tài nguyên quý giá của mỗi quốc gia nên việc quy định và thực hiện cơ chế để xây
dựng chế độ sở hữu về đất đai có tính chất đặc thù. Nên quyền sở hữu đất đai
trong pháp luật Việt Nam trong quản lí và sử dụng có tính thống nhất với chủ
trương, đường lối đặt ra mà còn có tính độc lập trong việc khai thác, sử dụng của người sử dụng đất.
3.1. Quyền tự chủ của người sử dụng đất
1 Trần Quang Huy ( 2024), Giáo trình Luật Đất đai,NXB. Tư pháp, Trường Đại học luật Hà Nội, trang 84.
2 Điều 158 Bộ luật dân sự 2015. lOMoAR cPSD| 40551442
Nhà nước là đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai, thực hiện quản lí và
thống nhất đất đai thông qua ba quyền chính : quyền chiếm hữu, quyền sử dụng
và quyền định đoạt mỗi quyền đều thể hiện vai trò quan trọng của Nhà nước.
Nhưng còn thể hiện tính độc lập của người sử dụng trong quá trình khai thác và
sử dụng thông qua ba quyền cấu thành quyền sở hữu :3
Thứ nhất, quyền chiếm hữu đất đai của người sử dụng đất mang tính chất
trực tiếp và cụ thể trong từng diện tích, thời gian và mục đích nhất định. Việc nhà
nước trao quyền chiếm hữu đất cho các cá nhân, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân
sử dụng ổn định lâu dài thông qua các hình thức giao đất, cho thuê đất, cho phép
nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và công nhận QSDĐ thông qua cơ sở
QSDĐ.Cơ sở hình thành quyền chiếm hữu của người sử đụng đất được hình thành
dựa trên cơ sở đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai của nhà nước. Thực chất
không làm mất đi quyền chiếm hữu đất đai của nhà nước trên cương vị đại diện
chủ sở hữu về đất đai. Tự chủ của người sử dụng đất trong quyền chiếm hữu đối
với đất đai là họ trực tiếp chiếm hữu trong khoảng thời gian lâu dài và ổn định
thông qua hình thức pháp lí QSDĐ, đồng thời họ cũng thực hiện theo yêu cầu bắt
buộc của quy định pháp luật.
Thứ hai, quyền sử dụng đất đai của người sử dụng đất là phái sinh của
quyền sử dụng đất đai với tư cách là chủ sở hữu toàn dân về đất đai của Nhà nước.
Nhà nước thực hiện quyền sử dụng đất thông qua nhiều hình thức khác nhau,
nhưng chủ yếu mục đích của nhà nước là đưa ra các đường lối, chủ trương phù
hợp với tài nguyên quốc gia, nhà nước không thể tự mình trực tiếp thực hiện việc
sử dụng, khai thác đất đai. Thông qua, quá trình khai thác và sử dụng của người
sử dụng đất thì các mục tiêu nhà nước đặt ra thành hiện thực và đồng thời thu
khoản lợi ích từ việc trao quyền sử dụng cho người sử dụng đất. Tuy nhiên, quyền
sử dụng đất của người sử dụng đất chỉ là quyền phụ thuộc,phái sinh từ quyền sử
dụng của nhà nước nó mang tính chất tương đối và cụ thể. Thế hiện qua điều kiện
để là người sử dụng đất, chuyển giao, chuyển nhượng, khai thác, mục đích sử dụng,.
Thứ ba, quyền định đoạt của người sử dụng đất đối với số phận thực tế của
đất đai. Nhà nước là đại diện chủ sở hữu về đất đai thực hiện quyền định đoạt đất
3 Trần Quang Huy ( 2024), Giáo trình Luật Đất đai,NXB. Tư pháp, Trường Đại học luật Hà Nội, trang 88 – 96. lOMoAR cPSD| 40551442
đai trên cơ sở hình thức pháp lí như : giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử
dụng đất,…. Còn người sử dụng đất thực hiện quyền định đoạt với đất đai trên cơ
sở thực tế chính là người sử dụng đất trên cơ sở hợp pháp về QSDĐ có quyền cho
thuê, chuyển nhượng, sử dụng đất trong phạm vi pháp luật cho phép thực hiện
quyền của mình đối với mảnh đất.
Thông qua, các nhận xét ở trên ta nhận thấy rằng người sử dụng đất có tính
tự chủ đối với đất đai trong phạm vi pháp luật cho phép để thực hiện quyền của
mình đối với đất đai. Tuy người sử dụng đất không là chủ sở hữu đối với đất đai
nhưng họ vẫn được trao quyền phát sinh từ quyền sở hữu của đại diện chủ sở hữu
nhà nước thực hiện đối với đất đai trong phạm vi nào đó.
3.2. Quyền chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế đối với đất đai
Pháp luật Việt Nam quy định những loại quyền hết sức quan trọng, trả lại
cho người sử dụng đất vai trò làm chủ thực sự, người quyết định chất lượng, hiệu
quả của quá trình khai thác và sử dụng đất thông qua các hình thức: chuyển đổi,
chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế , thế chấp, tặng cho, góp vốn.4Người sử dụng
đất chỉ có thể thực hiện quyền của mình khi đáp ứng điều kiện chung được quy
định chung và điều kiện cụ thể tại Điều 45 Luật Đất đai 2024. Họ có quyền đối
với tài sản là QSDĐ và quyền đối với tài sản gắn liền với đất. Thực chất đất đai
và tài sản gắn liền với đất đai trở thành hàng hóa dưới hình thức QSDĐ, nhưng
không phải tất cả QSDĐ đều có thể trở thành đối tượng để giao dịch. Để QSDĐ
có thể giao dịch trên thị trường như hàng hóa thì cần bảo đảm những điều kiện sau5:
Thứ nhất, những QSDĐ mà pháp luật Việt Nam quy định là được quyền
chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thuê lại, thừa kế, tặng cho QSDĐ, thế chấp,
góp vốn bằng giá trị QSDĐ thuê mà trên đó tài sản được pháp luật cho phép tham
gia vào thị trường bất động sản.
Thứ hai, người có QSDĐ phải thực sự sẵn sàng tự nguyện xác lập và thực
hiện các giao dịch về QSDĐ và phải có :
4 Khoản 5 Điều 23 Luật Đât đai 2024.
5 Trần Quang Huy ( 2024), Giáo trình Luật Đất đai,NXB. Tư pháp, Trường Đại học luật Hà Nội, trang 225. lOMoAR cPSD| 40551442
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và các tài sản gắn liền với đất.
Đất không có tranh chấp
QSDĐ không bị kê biên để đảm bảo thi hành án.
Trong thời hạn sử dụng đất và không bị áp dụng các biện pháp khẩn cấp
tạm thời theo quy định pháp luật.
Ngoài ra, còn phải đáp ứng các điều kiện về hình thức pháp lí về đang kí
tại cơ quan đăng kí đất đai và ghi nhận vào sổ địa chính.
Việc Nhà nước quy định các điều kiện để chuyển đổi, chuyển nhượng, cho
thuê, thừa kế , thế chấp, tặng cho, góp vốn để người sử dụng đất có thể thực hiện
các quyền đối với tài sản của họ. Các quyền này thể hiện phần nào được tính chất
quyền phái sinh từ quyền sở hữu về đại diện chủ sở hữu đất đai của toàn dân. Các
tính chất quyền này đều được phát sinh từ quyền sở hữu gốc bao gồm: quyền
chiếm hữu, sử dụng và định đoạt.
Thứ nhất, người sử dụng đất là người thực sự chiếm hữu đất đai trên thực
tế nhằm khai thác, sử dụng và hưởng lợi ích từ đất. Nhà nước chỉ thực hiện chiếm
đoạt trên danh nghĩa là đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai, có nghĩa là chiếm
hữu gián tiếp, chung chung. Còn việc chiếm hữu thực tế và trực tiếp, cụ thể của
người sử dụng đất thông qua diện tích, thời gian,..
Thứ hai, nhà nước trao quyền sử dụng cho người sử dụng đất thông qua
QSDĐ, thông qua quá trình khai thác, sử dụng đất thì tạo ra những lợi ích vật chất
liên quan thì người sử dụng đất là người được thụ hưởng thành quả đó. Nhà nước
được lợi ích thông qua việc người sử dụng đất bằng hình thức đóng thuế và đạt
được mục tiêu, chính sách nhà nước đặt ra.
Thứ ba, nhà nước có quyền định đoạt số phận pháp lí của đất đai thông qua
tư cách là đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai của mình. Nhưng không thể
định đoạt được số phận thực tế của đất đai, nhà nước sẽ thừa nhận việc chuyển
đổi, chuyển nhượng,… khi đủ các điều kiện mà pháp luật quy định không thể
ngăn cản được quá trình giao dịch trên thị trường bất động sản trên thực tế. lOMoAR cPSD| 40551442
Tuy rằng, người sử dụng đất không là chủ sở hữu chủ đất thông qua QSDĐ
mà chỉ có quyền sử dụng đất . Nhưng thực tế, người sử dụng vẫn khá độc lập
trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến quyền sử dụng đất của mình. Quyết
định trong việc chiếm hữu, sử dụng và khai thác, thực hiện các giao dịch dân sự
liên quan đến đất đai.
3.3. Quyền hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất đai
Theo khoản 2 Điều 26 Luật Đất đai về quyền chung của người sử dụng đất
:“ Hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất sử dụng hợp pháp” là quyền
cơ bản và thiết thực bởi vì:
Người sử dụng đất thực hiện sản xuất, lao động và dành nhiều tâm huyết
vào thửa đất thuộc quyền sử dụng của mình nên việc thu hoạch, đầu tư và thu
được thành quả phải thuộc về họ là điều đương nhiên.
Nhà nước là đại diện chủ sở hữu nhưng họ đã thực hiện trao quyền cho người sử
dụng đất, họ thực hiện biện pháp khác nhau để tạo ra thành quả lao động thì người
sử dụng đất là người xứng đáng được nhận, nhà nước cũng được phần lợi thông
qua việc thu thuế đối với việc sử dụng đất. Các bên đều được thỏa mãn được lợi
ích, lợi ích của mỗi bên độc lập và không ảnh hưởng đến quyền dại diện sở hữu
của nhà nước và quyền sử dụng của người sử dụng đất.