Bài tập thuyết trình "Quá trình hình thành thơ Haiku và vai trò của Matsuo Basho"
Bài tập thuyết trình "Quá trình hình thành thơ Haiku và vai trò của Matsuo Basho"
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HUẾ
KHOA NGỮ VĂN **
BÀI TẬP THUYẾT TRÌNH
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH THƠ HAIKU
VÀ VAI TRÒ CỦA MATSUO BASHO
Giáo viên giảng dạy: Nguyễn Thị Tịnh Thy Học phần: Văn Học Châu Á
Nhóm sinh viên thực hiện: Trần Thị Ngọc Chi Nguyễn Thanh Bình Lê Bá Khánh Duy Lê Phan Lam Duyên Trần Phương Du Đinh Thị Bim Nguyễn Vân Anh Nguyễn Thanh An Hồ Thị Ngọc Anh Huế, 2023 Mục Lục
CHƯƠNG 1 : THƠ HAIKU – QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN ................... 3
1. Sơ lược về thơ Haiku ................................................................................................................... 3
2. Thơ Haiku cổ điển ....................................................................................................................... 3
2.1. Thơ Haiku trước khi có sự đóng góp của Basho: ....................................................................... 3
2.2. Thơ Haiku vào thời Basho: ........................................................................................................ 4
2.3. Thơ Haiku sau thời Basho: ......................................................................................................... 5
3. Thơ Haiku hiện đại ..................................................................................................................... 5
3.1. Masaoka Shiki: Người cách tân thơ Haiku ................................................................................ 5
3.2. Thơ Haiku sau năm 1945 đến thập niên 1980: .......................................................................... 7
3.3. Thơ Haiku từ cuối thập niên 1980 cho đến nay: ....................................................................... 8
CHƯƠNG 2 : VAI TRÒ CỦA BASHO TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN THƠ HAIKU ......... 10
1. Tác giả Matsuo Basho (松尾芭蕉) (1644 - 1694) .................................................................... 10
1.1. Cuộc đời ................................................................................................................................... 10
1.2. nghiệp sáng tác ......................................................................................................................... 10
1.3. Phong cách sáng tác.................................................................................................................. 10
2. Basho và thơ Haiku .................................................................................................................. 11
2.1. Thời kỳ thứ nhất: Tập tành và xem Haiku như một trò tiêu khiển (1662-1672) ...................... 11
2.2. Thời kỳ thứ hai: Nghiên cứu các khuynh hướng đã có và khám phá kỹ thuật mới.................. 13
2.3. Thời kỳ thứ ba : Đi tìm cho mình một sắc thái riêng ( 1681-1685) ......................................... 14
2.4. Thời kỳ thứ tư : Diễn đạt được cái Sabi ( Cô quạnh) qua thơ ( 1686-1691) ............................ 16
2.5. Thời kỳ thứ năm: Từ thiên nhiên về thế giới con người ( 1692-1694) .................................... 17
CHƯƠNG 3 : TỔNG KẾT .......................................................................................................... 20
NGUỒN TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................ 20 2
CHƯƠNG 1 : THƠ HAIKU – QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 1.
Sơ lược về thơ Haiku
Không thể phủ nhận rằng thi ca là một nghệ thuật thẩm mỹ của ngôn ngữ, thêu dệt nên
những ý tứ, nhịp điệu và cảm xúc của con người. Đối với Nhật Bản – một trong những nền
văn học dân tộc lâu đời và giàu có, khi nói đến nền văn học Nhật Bản thì không thể không
nói đến thơ Haiku. Mang đậm bản sắc văn hóa của Nhật, thơ Haiku được nhận xét “là thể
thơ ngắn nhất của Nhật Bản gồm 17 âm tiết và có thể nói ngắn nhất thế giới.” Đọc theo âm
Hán – Việt là bài cú, là một thể thơ mang những ý tưởng cao siêu và những ẩn dụ thâm
thúy, cô đọng lại trong một tác phẩm có 17 âm tiết và ba dòng: câu đầu 5 âm, câu giữa 7 âm
và câu cuối lại gồm 5 âm, tuy giữa ba câu thơ của Haiku có thể sẽ không phải có vần điệu,
có thể sẽ khôngđúng niêm luật ( các quy tắc tương hợp giữa các vần và âm), nhưng đó là
một sự kết hợp hoàn hảo, tinh tế giữa những yếu tố trong thơ như màu sắc, âm thanh và
tượng hình có chọn lọc. Từ đó cho chúng ta thấy được rằng thể thơ này không chỉ nổi tiếng
vì chính sự ngắn gọn, hàm súc của bản thân nó mà còn là một linh hồn của dân tộc, của xứ
sở “Phù Tang”, đại diện cho văn hóa thơ ca Nhật Bản. => Suy ra:
- Hình thức: ngắn gọn, gồm 17 âm tiết, ngắt thành 3 đoạn, thường theo thứ tự 5-7-5.
- Quý ngữ: là những từ chỉ mùa hoặc những hình ảnh tiêu biểu cho mùa (hoa đào, hoa
mai, chim oanh, chim yến – chim quyên, tiếng ve – trăng, sương, tiếng dế,…).
- Ngôn ngữ: chấm phá, gợi chứ không tả, để nhiều khoảng trống cho độc giả tưởng
tượng, đồng sáng tạo. 2.
Thơ Haiku cổ điển
Thơ Haiku bắt đầu hình thành vào thế kỉ XVI, sau khoảng một thế kỉ thì đạt đến đỉnh
cao với Matsuo Basho và sau đó là Yosa Buson, Kobayashi Issa, Masaoka Shiki,… Trong
đó Matsuo Basho – nhà khai sáng thơ Haiku, khi ra đi đã để lại hơn 1000 bài thơ sau khi
thực hiện nhiều chuyến du hành khắp đất nước. Nhờ sự sáng tạo của ông, thơ Haiku từ một
thể thơ tầm thường cũng trở nên rất tao nhã, mang đầy triết lý sâu sắc về cảm xúc đối với
thiên nhiên hiền hòa và nỗi bi ai, cô đơn của con người.Ông đã tiếp cận và đưa thơ Haiku
lên một tầm cao mới nhưng vẫn luôn giữ những giá trị tao nhã, tinh tế của thơ Waka truyền
thống.Chính vì vậy mà ông là cột mốc quan trọng khi nhắc đến sự phát triển của dòng thơ Haiku trong nghiên cứu. 2.1.
Thơ Haiku trước khi có sự đóng góp của Basho:
Nếu thơ Haiku được dựng lên bởi ba dòng thơ theo thứ tự gồm 5 âm tiết – 7 âm tiết – 5 âm
tiết, trước đó tại Nhật Bản, thể loại thơ Waka ( 和歌 – Hòa ca) cũng có những hình thức
tương tự. Thơ Waka gồm những bài ca dân gian về thần thoại được dùng trong các buổi tụ
họp, tế lễ, cầu mùa hay dâng cúng thần linh,… Người Nhật cổsáng tác Waka để biểu diễn ở
nơi công cộng hay với mục đích giáo dục nhưng cũng có lúc họ sáng tác Waka một cách
ngẫu hứng khi cảm xúc dâng trào. Đặc biệt, về cấu trúc thơ Waka, có thể chia thành bốn loại
đó là: Katauta (Phiến ca với ba dòng thơ với 5-7-5 âm hay 5-7-7 âm), Sedoka (Là cặp thơ
Katauta), Choka (Trường ca, độ dài không ấn định nhưng phải bao gồm các khổ thơ 5-7-7
âm và 5-7-5 âm luân phiên nhau) và cuối cùng là Tanka (Đoản ca bao gồm 5-7-5-7-7 âm).
Ngay từ thuở bình minh của các bộ tộc Nhật Bản, những cội rễ của nền văn học đã có từ
thời tối cổ, và những kiệt tác thành văn đầu tiên có thể được xác định vào thế kỉ VII hoặc
thậm chí là sớm hơn. Vào thời kì Nara (710 – 784), hai bộ sử cổ nhất của Nhật Bản ra đời, 3
Kojiki (Cổ sự kí, 710) và Nihon shoki (Nhật Bản thư ký, 720) đã ghi chép lại rất nhiều bài
thơ Waka. Kể từ khi hệ chữ Kana ra đời, văn học viết Nhật Bản đạt đến đỉnh cao khi hợp
tuyến các thi ca, đầu tiên là phải để cập đến tập thơ Manyoshu (Vạn Diệp Tập, 771):
“Manyoshu gồm 20 quyển với 4500 bài thơ waka, trong đó có khoảng 4207 bài thể loại
tanka, 265 bài choka, 62 bài sedoka. Thơ waka trong Manyoshu là những bài ca trữ tình,
mộc mạc về tình yêu con người, thiên nhiên hùng vĩ.” Các tác giả trong Manyoshu bao gồm
nhiều địa vị khác nhau từ Thiên hoàng đến thị dân, từ quý tộc đến cả nông dân hoặc thậm
chí có cả ăn mày và khuyết danh đã đóng góp không ít trong việc làm giàu Văn học của
nước nhà, giúp cho dòng thơ Waka phát triển mạnh. Đến thời đại Heian (794 – 1192), thơ
Waka vẫn tiếp tục phát triển nhưng chỉ chủ yếu nằm ở thể loại Tanka nhờ vào sự ra đời của
tập thơ mang cả phong cách cổ điển và hiện đại là Kokinshu (Cổ kim tập) bao gồm những
mẩu thơ Tanka viết về vẻ đẹp của thiên nhiên, vay mượn vẻ đẹp của thiên nhiên như cách
“tả cảnh ngụ tình” và về sau, đặc điểm này trở thành đặc trưng tiêu biểu của thi ca Nhật
Bản. Đó cũng là cơ sở để hình thành nên thơ Renga với 31 âm tiết 5-7-5-7-7 ra đời như một
thú vui tao nhã cho giới quý tộc. Thơ Renga là thể thơ liên hoàn bao gồm các bài thơ Tanka
nhưng do nhiều nhà thơ sáng tác nối tiếp nhau mà theo nghiên cứu của TS. Nguyễn Vũ
Quỳnh Như, cấu trúc của một bài thơ Renga gồm hai phần: (1)
Kami no ku 上の句 ( thượng cú ) gồm 17 âm tiết 5-7-5 âm: Yuki nagara Tuyết rơi rơi 雪 なtiら Yama mo to kasumi Chân núi mờ sương 山 も と 霞む Yube kana Ánh chiều tà ユベ ( sogi, 1421 – 1502 ) tiな (宗祇) (2)
Shimmo no ku 下の句 (hạ cú) gồm 14 âm tiết 7-7 âm : 行く 水 遠く Yuku mizu toku Xa xa bên dòng nước 梅匂う里 ume niou sato Hương mơ quê tôi. (Shohaku,1443-1527) (肖柏)
Qua đó, khoảng giữa thế kỉ XIII, ba câu đầu của thơ Renga (thượng cú) – một thể thơ 17
âm tiết được định hình với tên gọi Hokku mà sau này được gọi là thơ Haiku.
Từ lúc vừa hình thành, thơ Haiku có nhiều phong cách khác nhau nhưng ẩn mình dưới nhiều
thể loại thơ ca khác. Đến cuối thế kỉ XVII, với sự xuất hiện của Basho, thơ Haiku lúc đầu là
một thể thơ thiên về tính trào lộng nay đã được thổi thêm tính tao nhã, đánh dấu bước tiến
phát triển mới thành một thể thơ Haiku độc lập. 2.2.
Thơ Haiku vào thời Basho:
Nhà thơ Matsuo Basho với tham vọng trở thành thầy dạy thơ Haiku, ông đã thực hiện
nhiều chuyến du hành khắp đất nước của mình để tìm ra những đề tài, phong cách mới cho
thơ Haiku.“Những dấu ấn của hành trình phiêu lãng, được Basho ghi lại vào những tuyển
tập kỷ hành. Ngay cả khi đối diện với lằn ranh giữa sự sống và cái chết, hồn thơ Basho vẫn
khát khao một chuyến phiêu lưu mới.”
Qua các chuyến du hành của mình, Basho đã để lại cho nền văn học Nhật Bản hàng loạt
tác phẩm ghi lại phong cảnh trên mỗi chặng đường, những trải nghiệm và sự trưởng thành 4
trong phong cách thi ca của mình như các tác phẩm: Fuyu no hi (Ngày đông, 1684), Haru
no hi (Ngày xuân, 1686), Saga nikki (Nhật ký Saga, 1691),…
Trong đó, tuyển tập đầu tiên Fuyu no hi (Ngày đông) được tác giả Makoto Ueda nhận
xét: “Phong cách của Basho đã bớt mô phạm về từ ngữ, nhiều tính trữ tình hơn.” 2.3.
Thơ Haiku sau thời Basho:
Từ giữa giai đoạn trung kì Edo, tức sau thời kì Basho, thơ Haiku vẫn tiếp tục phát triển
rộng rãi. Số người đọc và sáng tác thơ Haiku ngày càng tăng, đặc biệt là sựtham gia của các
thi sĩ nữ như Tagami Kikusha hay Kagano Chiyojo với những vần thơ giản dị, tính khiết,
duyên dáng và nữ tính,… Ngoài ra còn có một số tác giả nổi bật khác như nhà thơ Haiku
duy mĩ Yosa Buson, nhà thơ cảm thương và trào lộng Kobayashi Issa, người cách tân thơ Haiku Masaoka Shiki.
3. Thơ Haiku hiện đại:
3.1. Masaoka Shiki: Người cách tân thơ Haiku
Masaoka Shiki (1867-1902) tên thật là Masaoka Tsunenori ( 正岡常規 ), sinh tại thành
phố Matsuyama tỉnh Iyo (nay là tỉnh Ehime) một năm trước khi Nhật Bản bước vào kỷ
nguyên Minh Trị Duy Tân (1868-1912).
Masaoka Shiki là một trong bốn đại thụ của thơ Haiku Nhật Bản trước thời hiện đại
(Matsuo Basho, Yosa Buson, Kobayashi Issa, Masaoka Shiki). Shiki được xem như lá cờ tiên
phong trong công cuộc cách tân thơ Haiku ở thời cận đại.
Vào nửa đầu thời Duy Tân Minh trị thơ Haiku phổ biến với vai trò như một trò tiêu khiển
phù phiếm, phai mòn về giá trị. Thơ Haiku chịu sự khép kín với thế giới bên ngoài, hạn chế
về đề tài cũng như chất liệu sáng tác.
Khi mới học thơ Haiku ở Tokyo, Shiki chịu nhiều ảnh hưởng của lệ tsukinami (mỗi tháng
họp một lần). Theo Janie Beichman nhận xét: “So sánh những bài thơ Shiki viết trong
khoảng thời gian 1892-1895 - khi phong cách viết thơ của ông phát triển đến độ chín muồi,
với những bài thơ ông sáng tác vào đầu những năm 1880 – là lúc ông chỉ biết đến kiểu viết
thơ haiku theo lệ tsukinami, sẽ thấy rõ điều này.” “ki wo tsumite Cắt tỉa cây yono akeyasuki Ánh hừng đông Komado kana Len vào ô cửa nhỏ.” (Masaoka Shiki)
Đây là một trong những bài thơ đầu tay của Shiki viết vào năm 1885 nhưng sau đó
chính ông lại đả phá nó vì viết theo lối cũ tsukinami, ông cho rằng nó đưa
người đọc theo logic chủ quan.
Sau 10 rồi 20 năm thời kỳ Meiji trôi qua, khi thơ Haiku càng lúc rơi vào thoái trào nặng
nề. Nhận ra thực trạng đó và muốn thoát khỏi lối viết tsukinami, Shiki tìm
kiếm lối viết thơ tao nhã, trau chuốt hơn, bớt sáo mòn theo lối tả thực chủ quan của người
viết. Đến năm 1892, thơ Haiku của Shiki bước sang một thế giới khác. 5
Vì sức khoẻ kém, cũng vào năm 1892, Shiki nghỉ học, dốc sức vào văn chương, viết
truyện và tuyển chọn thơ Haiku, đó cũng là bước chuẩn bị cho Haiku Bunrui (phân loại
tuyền tập Haiku, 1900) ra đời. Đây chính là ngã rẽ đưa Shiki đến với phong trào cách tân,
nâng cao chất lượng thơ Haiku. Sau này, Shiki viết về quãng thời gian này rằng: “Thi cử
chắng có ích gì, chỉ có niềm say mê với thơ ca, chắng có gì có thể cứu vãn được tôi ngoài nữ thần haiku.”
Tháng 2 năm 1893, trong Zatsudan Basho (Chuyện phiếm Basho) đăng trên báo
Nippon, Shiki lên tiếng chuyển tên từ Hokku sang Haiku, kêu gọi nâng cao giá trị của thơ
Haiku, xóa bỏ lối viết thơ Haiku theo kiểu sáo rỗng, và đưa ra yêu cầu nâng cao tính thẩm
mĩ cho thơ Haiku: “Haiku trở thành một bộ phận của văn học.Văn học trở thành một bộ
phận của mỹ thuật. Kết quả là tiểu chuẩn cái đẹp trở thành tiêu chuẩn của văn học. Tiêu
chuẩn của văn học trở thành tiểu chuẩn của haiku.”
Không phải đơn thuần là sự chuyển đổi tên gọi, ông cho rằng khi Haiku trở thành thể
thơ độc lập thì nó cần sự giải phóng và hoàn thiện.
Từ năm 1892, Shiki cùng các đồng môn của mình là Kawahigashi Hekigodo,Takahama,
Kyoshi, Naito Meisetsu - tự gọi là phái Nhật Bản đã lên tiếng nâng cao vị trí văn học của
thơ Haiku. Các tuyển tập thơ Haiku cách tân và các tờ báo kêu gọi cách tân thơ Haiku như
Nippon (Nhật Bản) (1892), báo Sho-Nippon (Tiểu Nhật Bản, thay cho Nippon bị đóng cửa
vào 1894) được ra đời. Năm 1895, nhóm của Shiki thành lập trường dạy thơ Haiku Nippon
(Haiku Nhật Bản), xuất bản nhiều tờ báo, ấn phẩm như nguyệt san Hototogisu (Chim quyên,
1897), Tuyển tập haiku (1897), Tuyển tập Shin-haiku (Thơ haikư mới, 1988) gồm 5000 bài
thơ của hơn 600 nhà thơ do Shiki đồng chủ biên.
Tờ báo do Shiki làm chủ biên có cả hàng trăm tác giả với hàng ngàn bài thơ được gửi
đến và lưu hành ở nhiều địa phương, điều đó cho thấy sự phát triển thơ Haiku mạnh mẽ
trong quần chúng. Không chỉ là số lượng mà chất lượng được nâng cao, lên tiếng chống đối
sự kinh điển, sáo mòn. Đây là thành tựu giá trị nhất của thơ Haiku mà xưa kia chưa từng có. “kaki kueba Ăn quả hồng kane ga naru nari chuông Pháp Long tự Houryuji ngân vang.” (Masaoka Shiki)
Bài thơ này được coi là tác phẩm thành công đầu tiên trong quá trình cách tân thơ Haiku,
thể hiện sự kết nối giữa hiện thực với ký ức, hồi tưởng về tiếng chuông chùa ở Houryuji
(Pháp Long tự). Cho đến ngày nay nó vẫn được đánh giá là bài thơ hay nhất của Shiki và
được trích dẫn trong hầu hết các trường phổ thông trung học Nhật Bản.
Cách tân thơ Haiku theo phương pháp luận shasei của Shiki dựa vào quan sát hiện thực của
tự nhiên hơn là sự chơi chữ hoặc tưởng tượng. Với Shiki, chất liệu làm thơ là chính từ những
gì ở ngay trước mặt. Theo Shiki, Haiku không đơn giản chỉ là bài thơ mang tính tả thực mà
cũng không phải chỉ là không tưởng, mà trên quan điểm “Phi không phi thực” vượt qua cả
ngưỡng tả thực để chạm đến thực tại của vũ trụ.
“Hãy lấy tư liệu từ chính những gì đang ở xung quanh bạn nếu bạn thấy cây bồ công anh, thì
hãy viết về bồ công anh. Nếu đó là sương mù thì cứ viết về sương mù. Tư liệu cho văn
chương là vô số những gì thuộc về bạn. Ngay cả đôi giày cũ (waraji) cũng có thể trở thành tư
liệu cho thơ văn còn hay hơn là viết về đôi giày của phương Tây. Hoặc kimono còn thi vi
hơn là cây dù của phương Tây.”
Để cách tân thơ Haiku, Shiki đã không ngại phê phán sự hạn chế của việc giới hạn âm từ của 6
thơ Haiku, sự hạn định đó ông cho rằng sẽ sớm thoái trào. Bước vào thời kỳ hiện đại cấu trúc
nguyên thuỷ trước đây của Haiku bắt đầu lung lay và tan vỡn khi các nhà cách tân mạnh mẽ
lên tiếng cho luật tự do vần điệu.
Cách tân của Shiki đã góp phần đưa Haiku trở nên theo kịp thời đại, hoà nhập với khu vực và
thế giới. Từ đó mà Shiki khẳng định được vai trò của thơ Haiku trong Văn học, vươn lên
đứng ngang hàng với các thể loại khác như tiểu thuyết hay kịch nghệ. Tuy với chỉ 35 tuổi đời
ngắn ngủi Shiki đã để lại một sự nghiệp văn học đáng kể với Shiki toàn tập gồm 22 quyển.
Và tư tưởng cách tân thơ Haiku của ông còn được hai người bạn là Takahama Kyoshi và
Kawahigashi Hekigodo tiếp bước.
3.2. Thơ Haiku sau năm 1945 đến thập niên 1980:
Sau kết thúc của Chiến tranh thế giới thứ hai, cả thế giới đều phải kinh ngạc về “phép lạ
Đông Á” khi kinh tế Nhật Bản liên tục tăng trưởng (hơn 10%/năm) từ thập niên 1950 đến
thập niên 1980, điều này đã đưa Nhật Bản từ một nước nghèo nàn sau thế chiến trở thành
quốc gia phồn vinh đứng thứ hai trên thế giới.
Văn học Nhật Bản nói chung và thơ Haiku nói riêng cũng không nằm ngoài sự phát triển
thần kỳ này. Ngay ở những năm đầu sau Chiến tranh thế giới thứ hai, các nhà thơ Nhật Bản
quyết tâm vực lại nền thơ Haiku đã bị chôn vùi trong thời chiến.“Với tinh thần một mặt nuôi
dưỡng sự sống bằng tinh truyền thống, một mặt phát triển với những nét cách tân ấy, thơ
haiku được hồi sinh vừa thủy chung với cổ điển, vừa mới mẻ sáng tạo với các độ đậm nhạt khác nhau.”
Sau thế chiến, chỉ từ năm 1945 đến 1946 có đến 300 tờ báo thi ca các loại được xuất bản.
Cũng chỉ một năm sau chiến tranh, vào tháng 5 năm 1946, Liên minh các nhà thơ Haiku mới
ra đời với các thành viên từng tham gia các cuộc vận động cách tân thơ Haiku từ thời kỳ
chiến tranh. Chủ trương, mục đích khi thành lập của Liên minh là trở thành một tổ chức thơ Haiku hiện đại.
Tháng 6 năm 1947, một số nhà thơ, nhà văn trong đó có Ishida Hakkyo (1913- 1969), Saito
Sanki (1900-1962) và các cộng sự đã đứng ra kêu gọi thành lập Hiệp hội thơ Haiku hiện đại
(GendaiHailar Kyokai). Tiêu chí của Hiệp hội là tập hợp các nhà thơ Haiku xuất sắc, tuyển
chọn kỹ lưỡng các thành viên gia nhập. Sáng lập viên của Hiệp hội gồm các nhà thơ đa số
đều có tuổi đời dưới 50 tuổi. Việc gia nhập Hiệp hội cũng là vấn để khó khǎn vì phí tham gia
hội là 20 Yên, một số tiển không hề nhỏ vào thời bấy giờ.
Thành quả này là minh chứng cho thấy trào lưu thơ Haiku đang trỗi dậy nhờ sự xuất hiện của
các thi sĩ thơ Haiku xuất sắc với các tác phẩm đạt đỉnh cao. Mizuhara (1892-1981) đã viết
rằng: “Sau chiến tranh, ta đau cả tâm hồn lẫn thể xác, mỗi ngày trôi qua mà chẳng làm gì
được, nhưng cứ mùa thu đến, ta lại bắt đầu có thể ngâm được câu cú. ”
Sau thế chiến, dòng thơ Haiku trong xã hội phát triển đem lại cái nhìn cá thể hoá, bản
chất của cái tôi được lấy làm cảm hứng sáng tác. Không chỉ có cái “tôi”, mà cái “ta” cũng được nói đến.
Thơ Haiku sau thế chiến là cuộc cách tân mang tính đột phá về thi pháp và nội dung. Dung
nhan mới của thơ Haiku đã khẳng định giá trị tồn tại và sức lôi cuốn của nó đối với giới thơ
ca thời hiện đại. Tất nhiên, thơ Haiku cách tân, không có nghĩa là phải thay đổi, phủi sạch sự
liên hệ với cái cũ, mà luôn thể hiện sự kế thừa, kết hợp nhuần nhuyễn giữa cái truyền thống và cái hiện đại. “kuni no densha Xe điện quê tôi ima mo nishibi ni chiều về hướng tây 7 kashira furu đầu xe rung lắc.” (Hirahata Seito) (1949)
“Không rõ chiếc xe điện đang chạy đến địa phương nào ở miền Tây Nhật Bản, mà đầu xe lại
lắc rung nhiều như vậy. Chắc hẳn đường đi của tuyến xe chưa được hoàn thiện nên còn các
‘ổ gà’ ?” Bài thơ mang nhiều ý nghĩa, một trong đó là ẩn ý về một Nhật Bản đổi mới, còn
nhiều chông gai và những thử thách cho nên: “đầu xe rung lắc”.
Một bài thơ khác cũng nói về bối cảnh thời kỳ hậu chiến và đổi mới của Nhật Bản: “wankyokuku shi Ngoằn nghèo kashou shi bakushinchi no Vết thương cháy xém marason Đường marathon” (Kaneko Tota, 1958)
Đây là một bài thơ nổi tiếng thời hậu chiến, được viết tại Nagasaki. Năm 1950, bài thơ nhận
đuợc giải thưởng Hiệp hội thơ Haiku hiện đại. Con đường thẳng tắp chạy marathon là nơi đã
từng xảy ra thảm họa ném bom nguyên tử kinh hoàng ở Nagasaki. Bài thơ không theo lối
ngắt nhịp cũ, cũng không theo vần 5-7-5 (mà viết theo cấu trúc 5-10-4) truyền thống nhưng
câu cú chắc chắn, trầm buồn như khắc hoạ nỗi đau ấy trong lòng người dân Nhật Bản.
Thật ra, phá vỡ những yếu tố kinh điển của thơ Haiku không phải vào thời kỳ này mới xuất
hiện, mà đã manh nha từ thời kỳ Matsuo Basho. Vào Minh Trị Duy Tân thì thành trào lưu và
sau thế chiến hai thì trở nên quen thuộc và nhuần nhuyễn. Đi từ tiền thế chiến sang hậu thế
chiến, thơ Haiku tự do tự tại đầy sức sống, như sự kết tinh từ truyền thống với hiện đại. Với
ưu điểm thức thời tiếp tục phát triển, không bị phai mờ với thời cuộc như lời nhắc nhở của
Ôno Rinka - Chủ tịch Hiệp hội các nhà thơ Haiku năm 1953: “Chúng ta không được quên
rằng thơ haiku hiện đang tồn tại như chính nó. Hãy góp thêm viên đá vào ngọn núi truyền
thống sẽ làm cho ngọn núi cao hơn.”
Sự quyết tâm cùng với lòng tin vững vàng của các nhà thơ Haiku thời kỳ hậu chiến đã khoác
lên cho thể loại thơ này một tấm áo mới vừa mới lạ lại vừa quen thuộc. Tuy nhiên, dù đổi
mới đến đâu, thơ Haiku vẫn phảng phất từ ngữ về mùa, cô động giàu sức gợi, có khoảng
trống để cho người đọc suy ngẫm...
3.3. Thơ Haiku từ cuối thập niên 1980 cho đến nay:
Kinh tế Nhật Bản bắt đầu sụt giảm và bước vào giai đoạn thoái trào ở cuối những năm
1980 đến cuối thập niên 1980. Sau “thập niên mất mát” đó, Nhật luôn cố gắng để tình trạng
suy thoái không ảnh hưởng nghiêm trọng vào xã hội cho đến ngày nay.
Nhận thấy được giá trị to lớn của thơ Haiku trong nền tảng đời sống văn học, Nhật Bản
đã luôn chú trọng đến việc phổ biến và giáo dục thơ Haiku. Chứng tỏ Nhật Bản một mặt ghi
nhận giá trị của thơ Haiku, mặt khác không giấu đi mà còn thừa nhận rằng: “Thơ haiku là
thế giới của thi ca, của nhà thơ, của người yêu thơ, và quả thật không nhiều người Nhật đọc
thơ haiku, bởi thơ haiku là thành quả của một thế giới khác. ”
Để thơ Haiku càng phổ biến rộng rãi hơn, đài truyền hình còn cho phát sóng chương
trình NHK thơ haiku với nhiều đề tài phong phú từ thiên nhiên hay những thứ quen thuộc
với đời sống như xe điện, gió thu,… Để khuyến khích các nhà thơ sáng tác thơ Haiku. Đồng
thời, các hiệp hội về thể loại thơ này tiếp tục phát triển và hoạt động sôi nổi, còn tổ chức các 8
cuộc thi về sáng tác thơ Haiku hay những ngày lễ kỉ niệm thành lập,…
Hàng năm vào tháng 3, “Hiệp hội thơ haiku hiện đại tổ chức Cuộc thi thơ Haiku
thu hút nhiều người khắp cả nước tham gia dự thi. Trong 3 năm 2009, 2010, 2011 số
người gửi bài sáng tác thơ haiku lần lượt là 15.432, 13.323, 16.668 người. Người gửi
bài phải đóng phí dự thi từ 1000 đến 2000 Yên tùy địa phương.” “Hiroshima e Nón mùa hè atsumatute kiru ào đến natsu boushi Hiroshima.” (Tamura Kazumi)
Trên đây là bài thơ được giải nhất cuộc thi sáng tác thơ Haiku toàn quốc Nhật Bản năm
2010 nhân kỷ niệm 50 năm thành lập Hiệp hội nhà thơ Haiku, mô tả hình ảnh thành phố
nhộn nhịp đông đúc, “nón” tượng trưng cho dòng người đông đúc ào về thành phố để du lịch.
Không những thế, sự phổ biến của thơ Haiku còn được tạo điều kiện hình thành từ
những thế hệ trẻ nhỏ. Hằng năm có những cuộc thi viết thơ Haiku dành cho thiếu nhi. Dưới
những ánh mắt trong trẻo ngây ngô ấy ý nghĩa của thơ được diễn tả lại một cách trong sáng,
tốt đẹp, giản đơn hoặc có thể là cả hình ảnh buồn từ những người vô gia cư, cảnh xung đột
bạn bè,… Tất cả những điều giản đơn ấy đều thân thuộc với cuộc sống sinh hoạt hàng ngày
của các em, và đều có thể trở thành để tài của sáng tác. “jikyu sou Giờ tập chạy tonbo mo issho ni chuồn chuồn hashitteru chạy theo”
(Wakana Ogiso, 9 tuổi, tỉnh Gunma Nhật Bản)
Bài thơ đoạt giải kỳ thi thơ Haiku quốc tế năm 2010 (phần dành cho Nhật Bản )
Phần nhiều những bài thơ được trao giải thưởng là viết về giới sinh vật nhỏ bé và nhiều
nhất là chuồn chuồn. Thơ Haiku góp phần xây dựng nhân cách trẻ thơ, khơi dậy khát vọng
tự do, biết sống trong sáng cao đẹp. Trong đôi mắt trong trẻo của trẻ em, cảm xúc của thơ
Haiku thật đời thường và dung dị biết bao. Viết thơ giúp các em trau dồi thêm vốn từ vựng
và thoả sức sáng tạo. Trong giảng dạy thơ Haiku cho trẻ em, sách tham khảo được đầu tư
công phu và bắt mắt hơn.
Bên cạnh đó một hình thức độc đáo hơn ra đời đó là thơ Haiku Manga, đó là những câu
chuyện dễ thương do chính các em sáng tạo, cùng với nhiều hình ảnh minh hoạ dí dỏm. Phổ
biến và nổi tiếng nhất có lẽ là tập Manga “giờ học thơ Haiku của em Chimibaruko”, với
hình thức Manga hoá thơ Haiku trở nên dễ dàng phổ biến với trẻ em.
Nhật Bản đã rất khéo léo và tinh tế khi mà kết hợp hai hình thức văn học và văn hoá với
hai hình thức là văn hoá truyền thống dân tộc (thơ haiku) và văn hoá đương đại (Manga).
“Con thuyền văn hoá Haiku” chuyên chở những nét đẹp văn hoá Nhật, mang cả một thể loại
văn học vươn ra thế giới. Người tiếp nhận thơ Haiku không còn chỉ là một câu, một bài hay
một tác giả nào mà là đang tiếp thu cả một thể loại văn học truyền thống Nhật Bản. 9
CHƯƠNG 2 : VAI TRÒ CỦA BASHO TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN THƠ HAIKU 1.
Tác giả Matsuo Basho (松尾芭蕉) (1644 - 1694) 1.1. Cuộc đời
Bashô 芭 蕉 sinh năm 1644 (Kan.ei 21) ở Iga Ueno (thị trấn Ueno, tỉnh Mie), con trai
thứ trong gia đình Matsuo 松 尾, một samurai cấp thuộc hạ gọi là musokunin (vô túc nhân),
không bổng lộc tuy có vinh dự được đeo kiếm, thời bình chỉ chuyên việc nông nhưng cũng
có khí phách con nhà võ và một ít chữ nghĩa. 1.2.
nghiệp sáng tác
Basho được xem là đỉnh cao của thơ Haiku Nhật Bản. Ông đã tự nói về mình như sau: Tên tôi trên đời một người lữ khách mưa mùa thu ơi.
Ông chính là “một người lữ khách” cuộc đời ông đã trải qua bao nhiêu mùa gió bụi. Có
người bảo ông đi trong im lặng, “như ngày đi, như đêm đi, như mùa đi”. Cuộc đời thiền sư,
nhà thơ Basho trôi qua như vậy đấy.
- Là một thiền giả thi sĩ lỗi lạc có thể nói là danh tiếng nhất của thời Edo, Nhật Bản.
- Basho được thừa nhận là người phát triển những câu đầu (発句, phát cú) của thể renga
(連歌, liên ca) có tính hài hước gọi là Renga no Haikai thành một thể thơ độc lập mang
âm hưởng sâu thẳm của Thiền đạo.
- Tác phẩm của ông không chỉ nổi tiếng trong phạm vi Nhật Bản mà đã có tầm ảnh hưởng quốc tế.
Những bước đường phiêu lãng, du hành khắp nơi trên đất nước là cảm hứng sáng tác
gắn liền với khối tác phẩm đồ sộ của Basho.
Những trung bút kỉ và những bài thơ huyền bị để lại cho hậu thế là tài sản vô giá. Sau
khi nhà thơ mất, một số đệ tử đã tập hợp các bài thơ của ông thành Basho Shichi Bushu (Ba
tiêu thất bộ tập) tức là bày tác phẩm.
Sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Basho để lại cho đời là: Ngày đông (1684), Cánh đồng
hoang (1689), Áo tới cho khi (1691), Bao đựng than (1694), Du ki Lang thang đồng nội
(1685), Đoàn văn trong đầy (1688), Nẻo đường Đông Bắc (1689)... góp phần đưa Basho
thành bậc vĩ nhân của văn hóa Nhật Bản: “Nước Nhật sinh ra cùng với Basho vào năm
1644. Ông chính là người sáng tạo ra linh hồn của Nhật Bản". 1.3.
Phong cách sáng tác
Basho đã đưa Thiền vào thơ đến mức tuyệt vời, ý thơ thanh thoát, bàng bạc những ảnh
hưởng sâu sắc của đạo phật như thơ của một vị Thiền sư. Đó là những vần thơ cao nhã và
nhàn tản u tịch. Thơ Haiku của Basho thể hiện những cảm thức thẩm mỹ khác nhau như: ➢ Sabi ➢ Wabi ➢ Aware 10 ➢ Karumi
Từ những cảm thức này Basho đã hình thành phong cách riêng gọi là Shofu (tiêu phong)
Cảm thức Sabi
Đây là cảm thức nổi trội và thể hiện tập trung nhất tư tưởng thiền tông, nó là linh hồn
của tịch liêu là cảm thức về sự tĩnh mịch sâu xa của sự vật. Lại có hai phạm trù phụ thuộc
cảm hứng này là “vô tận” và “tự nhiên”. Cánh quạ ô Trên cây héo hắt Chiều thu
Trên thực tế Sabi đã trở thành khái niệm căn bản trong thơ Basho
Cảm thức Wabi
Có nghĩa là cái đẹp cao nhất nằm trong vẻ đơn sơ và thanh tịnh. Đó chính là tư tưởng
“vạn vật hữu linh” – thái độ trân trọng cuộc sống thực tại
Thơ Hai-cư không rực rỡ, khoa trương, đạo của nó là trái tim bình thường Mái lều êm một con chim gõ kiến gõ ngoài trụ hiên.
Cảm thức Aware
Cảm thức Aware đây là một khái niệm thuộc phạm trù mỹ học là nỗi buồn của sự vật, là bi
cảm, một cảm thức xao xuyến trước mọi cái đẹp của sự vật nó không nghiêng về bi lụy mà là bi cảm thâm trầm. Trăng rụng rồi bốn góc bàn quen thuộc còn lại mà thôi.
2. Basho và thơ Haiku
Theo bản dịch Matsuo Basho - Bậc đại sư Haiku của Nguyễn Nam Trân, thì nhà nghiên
cứu Ueda Makoto đã chia đời thơ của Basho thành năm chặng đường để có thể đánh giá sự
trưởng thành của ông, đồng thời qua đó cũng cho thấy được những đóng góp của Basho đối với thơ Haiku 2.1.
Thời kỳ thứ nhất: Tập tành và xem Haiku như một trò tiêu khiển (1662- 1672)
Ở giai đoạn này, Basho chỉ mới làm quen với thơ Haiku, lúc đó ông chỉ đang ở lứa tuổi
đôi mươi và Haiku chỉ là trò mua vui không hơn không kém. Năm 18 tuổi, với bút hiệu
Sobo 宗房 (Tông phòng, là tên Basho đọc theo âm Hán – Nhật), Basho bắt đầu viết những
vần thơ đầu tay theo phong cách sáo mòn của phái Teimon (Trinh Môn) - một trường phái
Haiku đặt nặng vấn đề về kĩ thuật. Ta có thể đặc điểm đó qua bài thơ Haiku đầu tiên mà
Basho sáng tác năm ông mười tám tuổi: “Haru ya koshi Có phải mùa xuân đến Toshi ya yukiken Hay năm cũ ra đi, Kotsugomori
Nhằm hai ngày trước Tết.” 11
Bài Haiku nói về sự ngỡ ngàng của tác giả trước một hiếm có trong thời tiết, khi tiết Lập
xuân năm ấy đáng lý ra nhằm ngày mùng một tháng giêng lại rơi đúng vào ngày cuối năm,
báo hiệu mùa xuân đã đến sớm hơn so với dự kiến trên lịch. Nhưng ở đây, ta sẽ không thấy
sự sáng tạo nào cả vì nhiều thi nhân đời trước đã sử dụng motif này rồi.
Ở giai đoạn này, Basho làm ra Haiku vì mục đích mua vui cho người đọc, vì thế không có
quá nhiều sáng tạo trong Haiku ở giai đoạn này. Nếu muốn làm sống lại một đề tài thường
sáo, ông sẽ vay mượn một câu trong bài thơ đã có sẵn nhưng áp dụng nó vào tình huống
khác, hay ở một bài Haiku khác, ông sẽ sử dụng bút pháp chơi chữ. Thời kỳ này, Basho sử
dụng vào thơ đa phần là bút pháp chơi chữ. Như ở bài thơ sau: “Akikaze no Gió thu đâm thốc vào, Yarido no kuchi ya Kẽ hở khung cửa kéo, Togarigoe
Nghe như tiếng thét gào.” (Hori 12, thu)
Trong bài thơ này, tác giả sử dụng hai lối chơi chữ. Một “yarido” (cửa kéo) hàm chứa chữ
đồng âm “yari” (ngọn giáo) và động từ “yaru” (phá vỡ) cho ta thấy sức mạnh của ngọn gió
luồn qua. Thứ đến chữ “kuchi” (kẻ hở) còn có nghĩa là cái miệng, làm cho ta liên tưởng đến
tiếng ai đang thét gào. Nhưng ngoài trò chơi chữ này, bài thơ không còn điểm đặc biệt nào
khác. Nhiều bài Haiku do Basho viết đầu đời không mang quá nhiều cảm xúc của chính nhà
thơ, nếu có đặc biệt cũng chỉ ở nghệ thuật chơi chữ. Nhận xét về kĩ thuật chơi chữ, Ueda
Makoto đã viết: “kỹ thuật chơi chữ này có cái hay là kết hợp hai trình độ ngữ nghĩa với
nhau và tạo ra một sự mơ hồ cần có của một bài thơ. Khổ thay, nó cũng có cái dở: sự dàn
dựng phức tạp và dụng công của nó đã làm mất đi chất trữ tình.” (Nguyễn Nam Trân, 2018: 59).
Nhưng sau đó, có lẽ với trường phái Teimon, Basho đã cảm thấy không thoả mãn, vì thế ông
đã xa rời trường phái ấy, khi đọc một bài thơ trong thi tập Kaioi được viết năm 1672 đã chứng minh điều đó: “Kite mo miyo Đến đây mà xem nào Jinbe ga haori Người ta khoác áo chẽn Hanagoromo Làm áo hội anh đào” (Hori 38, xuân)
Ở đây, sẽ thấy được màu sắc dân dã trong bài thơ, khác hẳn với những bài thơ thời kì đầu
khi ông mới làm quen với Haiku. Ta vẫn thấy được bút pháp chơi chữ vì “kite” trong Nhật
ngữ nghĩa là “hãy đến” mà cũng có nghĩa là “hãy mặc”. “Kite mo miyo” nghĩa là “đến
xem nào, xem nào!” là một lối nói thông tục, hay xuất hiện trong những bài hát rao lúc bấy
giờ. Hình ảnh cái áo khoác haori kiểu chàng Jinbe là thứ áo vải thường, bình dân, không có
gì cao sang. Mặc dù ngắm hoa anh đào nở là một thú vui tao nhã thời trước nhưng trong bài
thơ này, người ngắm hoa cũng chẳng phải ăn mặc cầu kì gì vẫn có thể ngắm hoa, tham gia
hội anh đào. Câu chữ không nhiều nhưng đã thể hiện được vẻ dung dị, hài hước nhẹ nhàng,
không tả cảnh nhiều lời, vẫn đủ để người đọc liên tưởng đến tâm trạng háo hức, chờ đợi
ngày đi xem hoa anh đào khai sắc. Dù trong bài thơ vẫn còn lối chơi chữ nhưng ta nhận thấy 12
được có một sự thay đổi trong hướng đi của ông. Ban đầu, thơ Haiku của Basho chỉ xoay
quanh trong những cái đẹp thanh tao, móc nối với những bài thơ cung đình hay thú vui của
tầng lớp quý tộc và những trỏ chơi chữ đầy cơ trí. Nhưng ở thi tập Kaioi (Trò chơi bốc vỏ
sò), ông đã sử dụng nhiều tư liệu dân gian hơn như cách nói chuyện của người bình dân hay
từ ngữ mang tính đại chúng. Makoto Ueda đã nhận xét về tác phẩm Kaioi: “Giá trị của
cuốn sách Kaioi là những lời bình luận, phê phán của Basho về thơ haikai cho thấy sự sắc
sảo, trí tưởng tượng phong phú, hiểu biết sâu rộng của Basho về thi ca bình dân, lối diễn
đạt hợp thời, là những con đường mới của thế giới nói chung.” 2.2.
Thời kỳ thứ hai: Nghiên cứu các khuynh hướng đã có và khám phá kỹ
thuật mới (1673-1680):
Lúc này, ông chịu ảnh hưởng của thi phái Danrin, một trường phái sinh ra như phản ứng
chống lại Teimon. Trường phái mới này có đặc điểm là nới rộng khuôn khổ thơ haikai về
mặt chủ đề cũng như cách diễn đạt. Những chủ đề thanh tao và lối diễn đạt bay bướm của
các thi sĩ cổ điển cung đình đều bị họ nhại và đem ra làm trò cười. Kỹ thuật ẩn dụ và chơi
chữ thì vẫn được dùng nhưng không phải để khoa trương cái cơ trí của người tỉnh thành mà
chỉ nhằm bộc lộ tính cách hài hước do sự tương phản nằm trong những chủ đề thế tục thường nhật.
Một trong những bài thơ Bashô làm khi vừa đến Edo mà chúng tôi trích dẫn . Thực ra
bài này vẫn lấy nguồn hứng từ một đề tài cổ điển được các nhà thơ cung đình yêu chuộng:
người đàn bà đập áo trong cảnh chiều thu.
Cũng là một bài thơ tình ý nhẹ nhàng và có nhiều tính đột xuất là một bài làm trong một
đêm đi chơi trăng. Người ta tưởng tượng thi sĩ và chúng bạn đang ở trên một chiếc thuyền
chờ trăng rằm tháng 8. Để dùng vào dịp này, họ có mang theo ít rượu sake và một chén son
lớn đã rửa trong một cái bồn. Tình cờ, trăng rằm ló dạng trên mặt biển, Bashô bèn tức hứng: Sôkai no Kìa trên mặt biển xanh, Nami sake-kusashi
Sóng cũng nồng men rượu. Kyô no tsuki
Giống vầng trăng đêm nay. (Hori 105, thu)
Đặc điểm của bài haiku này nằm ở lối so sánh của nó: Cái chén son uống rượu được
đem so sánh với vầng trăng mới mọc, còn mặt biển với bồn nước dùng để tráng chén cho
sạch (theo phong cách Nhật, trong vòng thân tình, một chén có thể cho nhiều người dùng).
Nếu trong những bài thơ đầu tay, Bashô thường dựa vào hình thức chơi chữ thì ở đây, sự so
sánh dựa vào tính cách đồng âm dị nghĩa của ngôn từ thấy như không còn cần thiết nữa.
Bashô cũng đã dùng thủ pháp so sánh đột ngột không phải chỉ với dụng ý đùa cợt
nhưng còn để tạo nên một không khí đặc biệt đầy chất thơ. Cũng là một bài thơ nói về tiết trung thu: Ki wo kirite Vừa đốn xong thân cây, Motokuchi miru ya
Nhìn vết chém vầng trăng trên gốc Kyô no tsuki Giống đêm nay. (Hori 81, thu) 13
Ở đây, đem so sánh vết chém trên gốc gây với con trăng đầy, quả là đột ngột và hài
hước. Thế nhưng hai hình ảnh ấy chồng lên nhau còn tạo nên một bầu không khí nên thơ
độc đáo, kết hợp bởi vầng trăng đầy vừa mới ló dạng nơi chân trời và vết cắt tròn ở gốc cây
hãy còn ướt sương và thoảng thơm mùi nhựa.
Cùng với năm tháng, thơ Bashô trở thành nghiêm trang hơn. Ông tự giải thoát mình
khỏi khuynh hướng hài hước, cơ trí của thi phái Danrin. Một số bài thơ viết vào trước thời
điểm năm 1680 không lâu đã, nói lên một cách hùng hồn sự chuyển mình trong phong cách.
Ví dụ như một bài tả nhện: Kumo nan to Nhện ơi cho biết với, Ne wo nani to naku Nhện đã thốt lời gì? Aki no kaze Trước trận gió mùa thu (Hori 114, thu)
Tính hài hước nằm trong hai câu đầu khi nhà thơ viết như văn nói và đến từ một chuyện
không ai đặt ra bao giờ là con nhện có biết nói, biết hót, biết rúc, biết ngâm ... như các động
vật và côn trùng khác hay không? Thế nhưng mùa thu đã làm cho tác giả đâm ra thương
cảm với nỗi cô đơn của một con nhện lẻ loi, không hề lên tiếng than thở mà chỉ âm thầm
một mình giăng tơ. Nó gợi cho ta hình ảnh một nhà thơ đơn độc, đứng lặng lẽ trước trận gió
thu, đợi chờ một người có thể đến mà có thể không đến.
* Một trong những thí nghiệm thành công nhất của Bashô có lẽ là bài thơ con quạ, mà
Bashô xem như đã đạt được phong cách của mình: Kareeda ni
Chiếc quạ về đậu lại, Karasu no tomarikeri Trên cành cây khô trụi, Aki no kure
Chiều thu, ôi, chiều thu! (Horie 118, thu)
Một lần nữa, bài thơ này xem ra rất gần gũi với thi ca và hội họa Trung Quốc. Hình thức
của nó cũng tự do hơn. Trong bản thử nghiệm, Bashô dùng đến 20 âm tiết (5-10-5), bản
quyết định ông mới giữ lại 19 (5-9-5).
Bài haiku này có thể coi như đạt hơn hai bài đi trước vì nó không có dụng tâm gây nên
sự đột ngột không ngờ cũng như không vẽ ra phong cảnh. Nó chỉ trình bày một cảnh vật mà
chúng ta có thể thấy ở bất cứ nơi đâu. Nó làm cho người đọc thấy cái không khí tiêu sơ của
buổi chiều thu ấy không có gì áp đặt đối với mình. Bài thơ con quạ đã được các nhà nghiên
cứu về sau ca tụng không ngớt vì nó cho thấy sự quan trọng của tính khách quan trong
haiku. Thế nhưng điều không thể chối cãi được là bài ấy có thể xem như một cái mốc quan
trọng trong sự phát triển thơ haiku của Basho. 2.3.
Thời kỳ thứ ba : Đi tìm cho mình một sắc thái riêng ( 1681-1685)
Giai đoạn này ông viết Dọc đường mưa gió (Nozarashi no kikô, 野ざらし紀行, 1685,
còn gọi là Ghi chép xương trắng dọc đường). Đối với ông, nó đánh dấu một cuộc hành trình
về miền Tây rất có ý nghĩa vì là giai đoạn chuyển tiếp khi ông làm lung lay cấu trúc thi ca
có sẵn để hướng về một sắc thái riêng biệt cho thơ của mình. Như chúng ta có thể hình
dung, ông dã thí nghiệm nhiều bút pháp khác nhau, phần lớn bắt nguồn từ trong những bài
thơ ông làm ra lúc trước. 14
Có lẽ chúng ta có thể chia thơ làm trong giai đoạn chuyển tiếp này ra làm 3 loại: 1)
Những bài lấy cảm hứng hay đồng hoá thơ cổ điển Trung Quốc mà đỉnh cao của
nó là Hạt dẻ rỗng (Minashiguri 虚栗, 1683); 2)
Những bài áp dụng kỹ thuật đối chiếu đột ngột (từ hai hình ảnh vốn được coi như
không liên quan gì với nhau), và từ đó ông đã có vài giai tác. 3)
Những bài miêu tả một cách khách quan sự vật. Đôi bài trong Dọc đường mưa gió
chứng minh được bút pháp này.
Đầu tiên, ông lấy cảm hứng từ những bài thơ cổ điển Trung Quốc. Điều này ta cũng đã
thấy được ở một số bài thơ giai đoạn trước của ông. Ở giai đoạn này, ta có thể xét bài thơ sau: Ro no koe nami wo utte
Tiếng chèo ai khuấy nước, Harawata kôru Băng giá cả lòng ta, Yo ya namida
Đêm khuya đầm giọt lệ. (Hori 124, đông)
Hình thức của nó là 22 âm tiết (10-7-5). “Tiếng mái chèo khua đến lạnh lòng” là hình
ảnh thấy trong thi ca Trung Quốc (ro no koe = lỗ thanh 櫓声)). Câu thơ tả sự cô đơn này đến
từ Đường thi và trong lời giải thích về bài haiku nói trên, Bashô cho biết ông đã vay mượn
Đỗ Phủ. Ngoài ra lời ấy còn cho biết là Bashô muốn hiện thực hoá cái lạnh mùa đông ở Edo
mà ông cảm thấy trong căn lều khiêm tốn, chỗ ở gần bên bờ sông. Nó làm ông lạnh cóng cả
ruột gan. Bài thơ này được Bashô viết ra nhằm thể hiện cái lạnh lẽo của khí trời, không gian
và lòng người. Khi trời vào thu đã lạnh, không gian xung quanh lại vắng vẻ, hình ảnh con
người cũng chỉ xuất hiện gián tiếp thông qua tiếng “ mái chèo ”. Tất cả yếu tố của bài thơ
đều được hợp nhất để làm nổi bật cái lạnh lẽo ấy. Những yếu tố của vần thơ Trung Quốc
được dùng để bày tỏ mục đích duy nhất của ông nghĩa là nói lên cảm xúc của mình.
Sau đó ông chuyển sang sử dụng kĩ thuật đối chiếu đột ngột. Kĩ thuật đối chiếu đột ngột
chính là đối chiếu hai sự vật vốn dĩ chẳng có liên hệ với nhau. Nhờ vào kĩ thuật này ông đã
có những bài thơ đạt được sự đánh giá nhất định, có thể kể đến: "Akenobo ya
Trong tia nắng hừng đông Shirouo shiroki Cá ngân ngư vụt trắng, Kôt isshun
Một tấc màu sáng bạc." (Hori 198, đông)
Nhiều nhà nghiên cứu đã cho rằng các bài thơ mà Basho sử dụng thể so sánh đột ngột là
những bài thơ đẹp nhất, bởi nhờ vào kĩ thuật này Basho thể hiện được sự sáng tạo của mình.
Nghệ thuật so sánh đột ngột cũng đã được thể hiện qua bài thơ trên. Bài thơ lấy hình ảnh cá
ngân mà cụ thể là màu ánh bạc trên thân cá ngân để làm hình ảnh chính trong thơ. Ánh bạc
trên thân cá đã được ông so sánh với "tia nắng hùng đông ". Cái hình ảnh ấy thật lung linh,
giờ đây không phải ta đang đọc một bài thơ nữa mà như đang ngắm nhìn một bức tranh.
Cuối cùng, ông tập trung miêu tả một cách khách quan thật sự. Điều này, có thể thấy trong bài thơ sau: "Yamaji kite Đi đến con đường núi Nani yara yukashi Lòng sao thấy vui vui, 15 Sumiregusa Kìa một cành lan tím." (Hori 235, xuân)
Bài thơ trên không ẩn chứa những yếu tố từ thơ cổ Trung Quốc cũng không dùng lối so
sánh đột ngột mà bài thơ trên đi theo hướng giản dị, miêu tả những gì gần nhất, đơn sơ nhất
mà cụ thể ở đây là hình ảnh "cành lan tím" trên "con đường núi". Cả bài thơ chỉ là một niềm
vui nho nhỏ với cành lan tím. Basho chỉ chia sẻ cảm xúc đến đấy mà thôi, ông không nói
thêm vì sao mình lại vui. Ông muốn tác giả tự mình hóa thân và cảm nhận vì sao ông lại
thấy vui. Ông mở kết bài thơ cho độc giả tự suy tưởng.
Ở giai đoạn này, thơ Basho mở rộng được nhiều kĩ thuật khác nhau, thoát ra khỏi qui
phạm của các thi nhân đương thời. Giờ đây với Basho thơ không phải làm ra để tiêu khiển
mà là để truy nguyên cái ý nghĩa chân thật ở đời. 2.4.
Thời kỳ thứ tư : Diễn đạt được cái Sabi ( Cô quạnh) qua thơ ( 1686-1691)
Giai đoạn này ông đang sống gần gũi với thiên nhiên và đây cũng là giai đoạn đỉnh cao
trong sáng tác của ông. Lúc này, ông đã tìm được phong cách cho riêng mình. Và đặc điểm
quan trọng nhất ở giai đoạn này chính là ông đã sử dụng thuần thục và linh động Sabi trong thơ mình.
Như đã được đề cập đến, chữ Sabi nguyên thủy đến từ tính từ sabishii, có nghĩa là cô
đơn, hiu quạnh thường được sử dụng trong các trường hợp mà ta đang chờ đợi một ai đó, cái
Sabi gắn liền với hình ảnh con người, dùng hình ảnh con người để thể hiện cái bản chất thật
sự của từ cô quạnh, đó là nỗi cô đơn vô tận trong một tâm trạng ngóng trông ai đó.
"Nguyên lí thi ca trung tâm của Basho được xây dựng xung quanh cái đẹp cô đơn được
gọi là sabi" (S. Choichi). Haiku của Basho thấm nhuần nỗi cô đơn huyền diệu của thiên
nhiên, tịch liêu của muôn đời. Đó là niềm cô đơn sâu thẳm của mỗi con người trước bao la
vũ trụ, của người nghệ sĩ. Trong niềm lặng lẽ đó, nhà thơ nhìn thấy cõi lòng mình, cảm nhận
được vẻ đẹp của sự tĩnh tại, an nhiên, lắng nghe được tâm hồn đang vận động cùng vũ trụ,
cùng cuộc sống. Sabi được thể hiện trong thơ Basho qua nhiều dạng thức khác nhau:
Đầu tiên, Sabi là những cảm thức xao xuyến, rung động trước sinh tử, mất còn của đời
người. Đón nhận và cảm nghiệm buồn đau là một cách để đánh thức được sức mạnh bên
trong và thăng hoa, để sống trọn vẹn, vĩnh cửu trong từng khoảnh khắc. Bản chất của Thiền
cũng chính là như vậy. Như nỗi niềm trong một mùa hoa nở: "Samazama no koto “Nhiều Omoidasu chuyện nhớ lại Sakura kan” hoa anh đào."
Hoa anh đào là biểu tượng của mùa xuân Nhật Bản, là biểu tượng của hồn nước nên
người ta thường gọi đây là “xứ sở hoa anh đào". Trong bài thơ này, hình ảnh hoa anh đào
giản dị là hình ảnh của thời gian, của sự giác ngộ về sự vô thường vô ngã trước cuộc đời.
Mọi điều rồi sẽ đi qua, chuyện cũ sẽ là dĩ vãng, chỉ còn hoa anh đào vẫn nở như mùa xuân,
như hiện tại, như khoảnh khắc mà ta đang được sống.
Đặc biệt thơ của ông có nhiều bài tập trung vào sự hòa nhập của cái ngắn hạn vào cái
trường cửu, của cái biến đổi vào cái bất hoại, của cái nhỏ bé hữu hơ vào cái bao la vô hạn.
Thế rồi từ đó sẽ làm toát ra một tình cảm cô quạnh nguyên sơ chia chung bởi mọi sinh vật trên thế gian này. 16 “Furuike ya Từ bờ vũng ao xưa, Kawadzu tobikomi Một chú ếch nhảy bõm, Mizu no oto
Còn chăng, tiếng nước xao!” (Hori 267, xuân)
Nhà thơ đẩy cảm thức sabi đạt đến đỉnh điểm trong một bài haiku nổi tiếng: Kare eda ni Trên cành cây trụi lá Karasu no tomaritaru ya
Một con quạ đậu lại nơi đó Aki no kure Buổi chiều Thu dần qua
( Bài thơ hokku – “ Trên cành khô”)
Bằng những nét phác thảo, thi sĩ Basho đã vẽ nên một bức tranh mùa thu mang tính điển
hình cao độ: tiêu điều, xơ xác, buồn tẻ... Sự im lìm của cánh quạ đen, sự héo hắt của cành
cây khô và sự tĩnh mịch của chiều thu là hiện thực tạo thành cái sâu thẳm, vô hạn của cảm
thức sabi. Ở đây tác giả diễn tả quang cảnh một đêm thu thật đơn sơ, giản dị và cô tịch bằng
một thi pháp mà nhà nghiên cứu Henderson gọi là “nguyên lý tương quan nội tại”. Trong đó
sự tương phản tương đồng được nhà thơ sử dụng hợp lý. Cả ba sự vật: con quạ, cành cây
khô và đêm thu có sự đối lập nhau tạo thành một khung cảnh thật ảm đạm cô tịch. Nếu con
quạ, cành cây khô là cái hữu hạn thì đối lập với nó là cái vô hạn “đêm thu”. Ở đây, sự vật
tự bộc lộ đến mức trở thành chính tâm trạng. Có một bức tranh do chính Bashô vẽ trình
bày một con quạ đậu trên cây mùa thu xơ xác tiêu điều. Bài thơ tạo nên một nỗi buồn
quạnh hiu của một mảng thiên nhiên và biết đâu, đó cũng chính là sự xót xa buồn tủi của
chính Basho trước thế thái nhân tình đầy rẫy những chết chóc, bi thương của xã hội đương
thời? Cảm nhận về bài thơ này, Henderson cho rằng: “Ở đây không chỉ đơn giản là phong
cảnh héo úa đậu xuống một chiều thu giống như hình bóng một con quạ, nó còn là sự tương
phản của thân hình đen muội, nhỏ xíu của con quạ với bóng tối bao la vô định của buổi
chiều hôm và với nhiều điều khác nữa tuỳ người đọc”.
Bài thơ được xem như là kiệt tác của Haiku. Với nó, Bashô được xem như là đã
“sáng tạo” ra Haiku. Nghĩa là nói đến Haiku, người ta hình dung nó theo dáng dấp tinh
thần của bài thơ này, theo cảm thức sabi (sabishisa) của nó. 2.5.
Thời kỳ thứ năm: Từ thiên nhiên về thế giới con người ( 1692-1694)
Trong ba năm cuối cùng cuộc đời nhà thơ, người ta thấy Bashô di chuyển từ thế giới của
thiên nhiên về thế giới của con người. Trên thực tế, ông đã quay lại Edo vào mùa đông 1691
và bắt đầu sống gần gũi với mọi người hơn. Ngoài ra, lúc ấy ông còn phải chăm sóc một số
thân nhân nữa. Những năm ẩn cư an nhàn ở Huyễn Trú Am và Lạc Thị Xá nay trở thành xa
vời. Sự cảm thông với thiên nhiên ngày xưa ở hai nơi đó từng giúp ông giải quyết vấn đề
“cô quạnh” nay không có nghĩa gì trước cái ồn ào náo nhiệt của đời sống đô thị.
Cho nên không ai ngạc nhiên khi thấy những vần haiku mà Bashô làm ra trong giai
đoạn cuối đời này nhuộm màu uất ức, cay đắng và cả tuyệt vọng đến mức không ngờ.
Bài đầu tiên, làm ra lúc ông đóng cửa tạ khách: 17 Mono ieba Có nói điều chi nữa Kuchibiru samushi Thì bờ môi cũng lạnh Aki no kaze Trong trận gió mùa thu (Hori 966, thu)
Nội dung bài thơ trình bày sự uất ức vì sự thiếu cảm thông giữa người với người. Có thể
là Bashô đã nói chuyện gì với ai đó nhưng họ không hiểu ông hoặc đã hiểu lầm ông. Ông
nhớ lại điều đó khi đi một mình trên con đường có gió thu giá lạnh và tiếc rằng mình đã phải
mở miệng nói ra để làm chi.
Sau đây là bài thơ ông viết khoảng hai tuần trước khi mất: Aki fukaki Mùa thu đã vào sâu, Tonari wa nani wo
Không hiểu nhà hàng xóm, Suru hito zo
Kiếm sống, biết làm sao? (Hori 907, thu)
Một lần nữa, Bashô than thở cho sự “cô quạnh” của người đời. Nhà hàng xóm cạnh cửa
ông mà họ chẳng biết gì về nhau, cuộc sống của hai bên hoàn toàn xa lạ. Thử hỏi nếu một
con người không hiểu anh hàng xóm của mình sinh sống cách nào thì sao có thể đi khám
phá nội tâm của những người khác được?
Thờ ơ, lãnh đạm hay khốc liệt không chỉ thấy ở thế giới con người. Nó còn thấy ở trong
thiên nhiên. Một số haiku cuối cùng của Bashô đã chứng minh thiên nhiên rõ ràng là không
có một chút gì bình an, đáng yêu và ấm áp.
Chúng ta đã tập trung tìm hiểu những bài thơ lúc cuối đời, chúng phản ánh nỗi tuyệt
vọng trong những tháng ngày xế bóng. Tuy nhiên Bashô cũng đã tìm cách vượt qua nổi
tuyệt vọng và xua đuổi ám ảnh về cái chết. Như chúng ta có thể tưởng tượng ra, những cố
gắng đó đã hướng ông đến khái niệm “nhẹ lâng” (karumi, lightness) tức là sự chấp nhận mọi
vật như nó là. Ông đã hiểu mình không thể thoát ra được cõi người vì mình cũng chỉ là một
con người. Chỉ còn có cách chịu đựng những điều bất toàn trong bản chất con người và cười
tha thứ chúng. Thái độ đó đã được bày tỏ qua bài haiku rất đáng lưu ý như sau: Nusubito ni Cũng có đêm kẻ trộm, Ôta yo mo ari Đến viếng cả nhà ta, Toshi no kure Lúc năm cùng tháng tận. (Hori 826, đông)
Thi nhân khi đó hồi tưởng lại sự việc một năm đã trôi qua và không cay đắng đối với kẻ
trộm đã đến viếng nhà mình. Họa chăng, ông chỉ nở một nụ cười tha thứ, như chữ “viếng”
đã cho ta thấy. Ta có cảm tưởng Bashô lúc đó đi đến chỗ chấp nhận một thế giới con người
mà trộm cướp cũng là một thành phần.
Dưới đây lại là một khoảnh khắc khác khi Bashô chấp nhận sự không đồng nhất của thế giới con người: Mononofu no Mấy ông nhà võ họp, Daikon nigaki
Chuyện vãn cũng cay nồng, 18 Hanashi kana Như vị củ cải sống. (Hori 816, đông)
Bashô vốn đã quen phong cách bình dân của người đô thị trong cách chuyện trò nên khi
có dịp nhập vào đám samurai, giai cấp cầm quyền, đã nhận ra lời đối thoại của họ dù là
trong cuộc tụ họp bình thường vẫn phản ánh giáo dục tân Khổng giáo họ được thừa hưởng
nên rạch ròi và nghiêm trang. Thế nhưng Bashô không muốn làm mặt lạ với họ. Thái độ đó
chỉ làm ông thú vị nên đã đem so sánh với vị cay nồng của daikon (củ cải trắng).
Trong những năm cuối cuộc đời mình, Bashô đã cố gắng sửa chữa khái niệm “cô
quạnh” (sabi) nếu không nói là thay đổi nó. Nay thì Bashô thử sửa lại rằng con người có thể
sống trong cõi nhân gian tục lụy mà vẫn tìm ra sự bình an cho tâm hồn. Giải pháp của ông là
“nhẹ lâng” (karumi) nghĩa là thái độ của một con người sẵn sàng chấp nhận mọi sự xảy đến
cho mình. Nhưng thử hỏi cố gắng đó của Bashô có đạt được mục đích hay không? Ông đã
có thể vượt qua niềm thất vọng và yếm thế bàng bạc trong những tác phẩm trước đó của ông chưa?
Chúng ta khó lòng có được một câu trả lời chắc nịch.Tất cả những điều có thể làm được
là thử đọc những bài thơ ông là lúc cuối đời để phân tích tâm trạng của nhà thơ tiềm ẩn trong đó. Shiragiku no Một cành hoa cúc trắng, Me ni tatete miru
Dù nhướng mắt nhìn kỹ, Chiri mo nashi
Cũng không thấy bụi trần. (Hori 905, thu)
Đây là một bài thơ đáng yêu. Bashô đã nhìn thấy đoá cúc trắng này nơi nhà người bạn
vào một buổi họp mặt.Tuy nhiên, qua bài thơ, ta có cảm tưởng như đối với Bashô lúc đó,
không có ai hiện diện ngoài màu trắng tinh khôi của đóa cúc. Nếu không có một tấm lòng
thanh thản hồn nhiên thì tác giả khó có thể hạ vần như vậy.
Trong mười ba ngày cuối, Bashô còn có thêm hai bài haiku nữa. Bài trước có lẽ viết sau
bài nói về chồn cáo một ít lâu, trong đó ông tự hỏi người hàng xóm của mình lấy gì làm sinh
kế. Nó hàm chứa nỗi buồn “cô quạnh” vô hạn của kiếp nhân sinh và sự bi quan về khả năng
thông cảm giữa con người với nhau.
Thế rồi, bài sau và cũng là bài thơ cuối cùng, viết 4 ngày trước khi nhắm mắt: Tabi ni yande
Lữ thứ thân nằm bệnh, Yume wa kareno
Mộng hồn còn luẩn quẩn, Kakemeguru Trên cánh đồng hoang vu. (Hori 908, đông)
Bài thơ này đã mở ra một chiều hướng khác. Nó không còn giống bài thơ nói về cúc
trắng hay nói về con đường trăng sáng nữa. Bashô đã hiểu cõi thế gian này chẳng là gì khác
hơn những cánh đồng mùa đông cằn cỗi (kareno) nhưng ông cố quanh quẩn đi tìm cho được
một chỗ nghỉ ngơi. Cả “cô quạnh” (sabi) lẫn “nhẹ lâng” (karumi) đều không đủ đem đến cho
thi nhân sự thanh thản hoàn toàn. Dù sao, ông vẫn bôn ba, đánh vòng vòng, không hề chịu
ngừng trên bước đường đi tìm một phong cách, sáng tác những vần haiku đánh dấu cả thành
công cũng như thất bại trong quá trình tìm tòi đó. 19
CHƯƠNG 3 : TỔNG KẾT
Thể thơ Haiku là sự dung hợp, kết tinh của nhiều giá trị văn hóa của phương Đông. Có
thể thấy, dù là một thể thơ ngắn gọn, giản dị nhưng nó lại mang đến một không gian nghệ
thuật lớn, với hình ảnh đẹp, xúc cảm dạt dào. Đọc và cảm nhận thơ Haiku làm cho con
người có thể nhìn nhận cuộc sống trở nên tích cực hơn, tận hưởng cuộc sống, yêu đời, sống
giản dị, nhiều niềm vui, có sự gắn bó, hòa hợp với thiên nhiên, với vạn vật xung quanh. Thơ
Haiku cũng nối kết cái nhỏ bé với cái lớn lao, đọc thơ, ta như đọc tâm hồn phương Đông,
đọc tâm hồn chính mình. Từ đó, đời sống tinh thần cũng trở nên phong phú, thú vị hơn.
M.Basho - một con người gắn chặt với những chuyến chu du khắp nơi để tìm ra những
cảm hứng sáng tác, để quan sát trực quan cuộc sống đưa vào trong thi ca, làm phong phú
hơn nguồn thi liệu, đã trở thành một nhà thơ xuất sắc trong việc sáng tạo và phát triển thể
thơ truyền thống của Nhật Bản. Có thể nói, ở thời ông, thơ Haiku đạt được thời kì phát triển
rực rỡ, với những sự biến đổi về sắc thái thơ, làm cho thể thơ trở nên mang nhiều màu sắc
và nhiều ý nghĩa. Nhắc đến thơ Haiku Nhật Bản, M.Basho sẽ là cái tên luôn được nhớ đến và khen ngợi
NGUỒN TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Thơ Matsuo Basho - 松尾笆焦, Tùng Vĩ Ba Tiêu (66 bài thơ). “ Trang Thi Viện ”
[2] TS. Nguyễn Vũ Quỳnh Như. 2013. Thơ Haiku Nhật Bản: Lịch sử phát triển và
đặc điểm thể loại (Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân
văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh).
[3] Ueda Makoto. 1970. Matsuo Bashô – Bậc đại sư thơ Haiku. Nguyễn Nam Trân dịch. Nxb Hồng Đức.
[4] Hà Thanh Vân. 2019. Thơ Haiku ở Việt Nam: Sự tiếp nhận và đặc điểm.
[5] MATSUO BASHO: NHÀ KHAI SÁNG THƠ HAIKU - Trung Tâm Nghiên Cứu
Nhật Bản. http://www.cjs.inas.gov.vn/index.php?newsid=1344. 20