



















Preview text:
BÀI TẬP TÌNH HUỐNG MÔN CÔNG PHÁP QUỐC TẾ (KÈM ĐÁP ÁN)
VẤN ĐỀ LÃNH THỔ VÀ BIỂN Tình huống 1
Quốc gia A và quốc gia B tranh chấp đảo X. Năm 2000, nguyên thủ quốc gia A và quốc gia B
đã họp và đưa ra thỏa thuận miệng như sau:
“Chọn quốc gia C là bên thứ 3 trung gian hòa giải
Nếu như hòa giải không thành, thì sẽ chọn Tòa án công lý quốc tế là cơ quan giải quyết tranh chấp”
Năm 2005, nguyên thủ quốc gia A đã gửi “thư” cho nguyên thủ quốc gia B, trong đó nêu lại
toàn bộ thỏa thuận năm 2000
Năm 2010, nguyên thủ quốc gia B đã đồng ý “thư” năm 2005 tại Biên bản hội các quốc gia trong khu vực
Hỏi A, B đã xác lập điều ước hay chưa? Gợi ý trả lời:
- Xét theo định nghĩa ĐƯQT: Kết hợp các định nghĩa về ĐƯQT theo Công ước 1969 và Luật
ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT của VN năm 2005, có thể kết luận ĐƯQT chính là các
thỏa thuận bằng văn bản được ký kết giữa các chủ thể của LQT (chủ yếu là các quốc gia) trên
cơ sở tự nguyện và bình đẳng nhằm thiết lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ
pháp lý của các chủ thể LQT với nhau
- Về tên gọi, ngôn ngữ và cấu trúc của ĐƯQT: Các bên ký kết có thể thỏa thuận đặt tên cho các
ĐƯ mà họ ký kết là hiến chương, công ước,…
- Về ngôn ngữ, ĐƯQT được soạn thảo = ngôn ngữ nào sẽ do các bên tham gia ký kết thỏa thuận
- Câu trúc 1 ĐƯQT thường được xây dựng với 3 phần gồm: lời nói đầu, phần chính và phần cuối
- Về quy trình ký kết: Thỏa thuận quốc tế sẽ trở thành ĐƯQT và có giá trị ràng buộc khi nó
đảm bảo các trình tự tạo nên 1 ĐƯQT, phải đảm bảo 2 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: Hình thành các VB ĐƯ: Trong giai đoạn này, các bên sẽ thực hiện các
hành vi như: đàm phán, soạn thảo và thông qua VB ĐƯ. Thực hiện xong các hành vi này,
ĐƯQT vẫn chưa phát sinh hiệu lực, tuy nhiên nếu thiếu thì 1 ĐƯQT cũng không thể hình thành
+ Giai đoạn 2: Giai đoạn thực hiện cac hành vi nhằm thể hiện sự ràng buộc của các bên
với ĐƯQT và sẽ có giá trị tạo ra hiệu lực thi hành của ĐƯ đó. Giai đọa này có 4 hành vi được
thực hiện là: hành vi ký, phê chuẩn, phê duyệt, gia nhập ĐƯQT - Nhận thấy:
+ Vào năm 2000, việc quốc gia A và quốc gia B đã họp và đưa ra thỏa thuận miệng không được
xem là xác lập ĐƯ. Bởi tuy được ký kết giữa các chủ thể của LQT trên cở sở tự nguyện và bình
đằng nhũng trong đó không phải là thỏa thuận bằng văn bản được ký kết theo quy định tại Điểm
a Khoản 1 Điều 2 Công ước 1969
+ Tương tự, việc năm 2010, nguyên thủ quốc gia B đã đồng ý “thư” năm 2005 tại Biên bản hội
nghị các quốc gia trong khu vực cũng không được coi là hành động xác lập ĐƯ. Bởi Biên bản
hội nghị các quốc gia trong khu vực là 1 loại văn bản ghi chép lại những sự việc đã xảy ra. Biên
bản không có hiệu lực pháp lý để thi hành mà chủ yếu được dùng làm chứng cứ minh chứng cac
sự kiện đã thực tế xảy ra. Vì vậy, căn cứ theo Điểm a Khoản 1 Điều 2 Công ước 1969 về thuật
ngữ “ĐƯ” Biên bản này cũng không được xem là văn bản được ký kết giữa các chủ thể của
LQT trên cở sở tự nguyện và bình đằng nhằm thiết lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và
nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể của LQT với nhau. Hơn nữa, Biên bản cũng không đáp ứng
yếu cầu về tên gọi và cấu trúc của 1 ĐƯQT
+ Thỏa thuận miệng năm 2000 của nguyên thủ quốc gia A và quốc gia B cùng với việc nguyên
thủ quốc gia B đã đồng ý “thư” năm 2005 tại Biên bản hội nghị các quốc gia trong khu vực đều
không có các giai đoạn của quy trình ký kết để tạo nên 1 ĐƯQT
- Kết luận: Xác định được giữa A và B chưa xác lập được ĐƯQT về vấn đề tranh chấp đảo X Tình huống 2
Tháng 9/2010. Tàu quân sự AB mang quốc tịch A đi ngang qua vùng lãnh hải 1 cách liên tục và
đúng lịch trình tại vùng lãnh hải của quốc gia C. Phía C đã cho đội tàu quân sự bất ngờ bắt giữ
tàu quân sự AB cùng thủy thủ đoàn của A với lý do tàu này đã vi phạm về chế độ đi lại trong
vùng lãnh hải của C. Sau đó, A đã yêu cầu C trả tự do cho tàu AB cùng thủy thủ đoàn với lý do
tàu AB đã thực hiện đúng quyền đi qua không gây hại trong vùng lãnh hải bên phía C Hỏi:
a. Cơ sở pháp lý giải quyết
b. Việc đi lại của tàu AB có vi phạm quyền đi qua không gây hại trong vùng lãnh hải hay không? Vì sao?
c. C có thẩm quyền tài phán với tàu AB không? Vì sao? Gợi ý trả lời
Điều 17, 18 và 19 Công ước Luật biển 1982 ghi nhận quyền đi qua không gây hại của tàu
thuyền nước ngoài tại vùng lãnh hải của quốc gia ven biển. Theo đó, việc đi qua không gây hại
của tàu quân sự AB tại vùng lãnh hải C là phủ hợp với quy định tại Công ước Luật biển 1982.
Nếu C chứng minh được việc đi qua của tàu AB là không đúng cách thức và gây hại hoặc pháp
luật của C có những quy định cụ thể về hạn chế quyền đi qua không gây hại của tàu quân sự
nước ngoài tại 1 số khu vực nhất định thì việc đi qua của tàu AB là bất hợp pháp Tình huống 3
Tàu đánh cá Lotus, treo cờ Brazil, được thuê chở chuối nhập khẩu từ Brazil đến Ấn Độ. Ngày
5/12/2007 trong tuyến hành trình tới cảng Picau (Ấn Độ), tàu Oval đã va chạm với 1 tàu chở
dầu, treo cờ Ả Rập đang thả neo tại vũng đậu tàu ngoài khơi cảng Picau (thuộc lãnh hải Ấn Độ).
Vụ đâm và làm tàu chở dầu vỡ làm đôi và tràn toàn bộ dầu ra biển. Để hạn chế hậu quả về ô
nhiễm môi trường một mặt Chính phủ Ấn Độ tiến hành ban hành các biện pháp khẩn cấp, ngăn
không cho dầu lan trên diện rộng, mặt khác, ra quyết định tạm đình chỉ việc tàu thuyền có quốc
tịch Brazil và Ả Rập vào lãnh hải của Ấn Độ trong thời gian 15 ngày. Trong thời gian đó, tàu
thuyền của các quốc gia khác vẫn đi qua không gây hại trong những khu vực nhất định thuộc lãnh hải của Ấn Độ Hỏi:
a. Quốc gia nào có thẩm quyền tài phán với vụ đâm va trên?
b. Quyết định tạm đình chỉ quyền ra vào lãnh hải của Chính phủ Ấn Độ có phù hợp với Công
ước Luật biển 1982 không? Vì sao? Gợi ý trả lời:
a. Theo Điều 27 Công ước Luật biển năm 1982, Ấn Độ có thẩm quyền tài phán đối với vụ đâm trên vì:
- Vụ đâm va xảy ra trên lãnh hải (lãnh thổ thuộc chủ quyền) của Ấn Độ
- Hậu quả của vụ đâm và mở rộng ảnh hưởng đến Ấn Độ: Tràn toàn bộ dầu ra biển, gây ô nhiễm môi trường
b. Theo Điều 2 Công ước Luật biển 1982 quyết định tạm đình chỉ của Ấn Độ về việc tàu thuyền
của Brazil và Ả Rập ra vào lãnh hải là không phù hợp với quy định của Công ước vì:
+ Phân biệt đối xử với tàu thuyền nước ngoài: Việc thuyền Brazil và Ả Rập, trong khi tàu
thuyền của các quốc gia khác vẫn được đi qua không gây hại trong khu vực nhất định của lãnh hải Ấn Độ
+ Việc tạm đình chỉ được áp dụng đới với các khu vực nhất định trong lãnh hải chứ không phải toàn bộ lãnh hải Tình huống 4
Tàu thương mại X, treo cờ của quốc gia A, chuyên chở các phương tiện quân sự theo yêu cầu
của quốc gia A. Ngày 25/6/2009, quốc gia C cứ tàu quân sự Marina tiến hành khám xét và bắt
giữ tàu X khi tàu X đang ở vị trí cách đường cơ sở của quốc gia C là 35 ki-lô-mét.
Hỏi: Hãy cho biết, theo quy định của Công tước Luật Biển năm 1982, quốc gia C có quyền
khám xét và bắt giữ tàu X không? Tại sao? Gợi ý trả lời:
Hành vi của quốc gia C khám xét và bắt giữ tàu X là không phù hợp với quy định của Công ước Luật Biển năm 1982, vì:
- Tàu X đang ở cách bờ biển quốc gia C (tính từ đường cơ sở) là 35km (khoảng 19 hảil ý). Điều
này có nghĩa là tài X đang ở vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia C.
- Theo khoản 1, Điều 58 Công ước Luật Biển năm 1982: trong vùng đặc quyền kinh tế, tàu
thuyền tất cả các quốc gia được hưởng quyền tự do hàng hải. - Khoản 2, Điều 58 Công ước
Luật Biển năm 1982 dẫn chiếu đến việc áp dụng các điều từ Điều 88 đến Điều 115 đối với vùng đặc quyền kinh tế
- Theo dữ kiện trong tình huống trên, quốc gia C tiến hành khám xét và bắt giữ tàu X. khi tàu
này đang thực hiện quyền tự do hàng hải trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia C; không
có những lý do đúng đắn để nghi ngờ chiếc tàu đó tiến hành cướp biển; chuyên chở nô lệ; phát
sóng trái phép; không có quốc tịch và có cùng quốc tịch với tàu quân sự (Điều 110 Công ước Luật Biển năm 1982) Tình huống 5
Ngày 4/8/1976, xảy ra 1 sự cố đâm va giữa tàu LOTUS mang quốc tịch Pháp và tàu BOZ-
KOUR của Thổ Nhĩ Kỳ ngoài khơi Địa Trung Hải làm tàu Thổ Nhĩ Kỳ bị đắm và 8 thuyền viên
mất tích. Khi tàu LOTUS cập cảng Thổ Nhĩ Kỳ, các cơ quan chức năng của Thổ Nhĩ Kỳ tiến
hành bắt giữ một thuyền viên của tàu LOTUS, thuyền viên nay sau đó bị Thổ Nhĩ Kỳ truy tố về
tội vô ý làm chết người với lý do thuyền viên này đảm nhiệm việc quan sát hoa tiêu trên tàu
LOTUS, do lơ đãng nên đã gây ra vụ đâm va. Tòa án của Thổ Nhĩ Kỳ đã tuyên phạt thuyền viên
tàu LOTUS 100.000 USD và 4 tháng tù giam.
Hỏi: Hãy cho biết, theo quy định của Công ước Luật Biển năm 1982:
a. Thổ Nhĩ Kỳ có quyền bắt giữ tàu LOTUS không? Tại sao?
b. Thổ Nhĩ Kỳ có quyền khởi tố và tuyên phạt thuyền viên tàu LOTUS 100.000 USD và 4 tháng tù giam không? Tại sao? Gợi ý trả lời:
a. Thổ Nhĩ Kỳ có quyền bắt giữ tàu LOTUS. Bởi vì:
- Theo quy định tại Điều 56 Công ước Luật Biển năm 1982, quốc gia ven biển có quyền chủ
quyền đối với nguồn tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế.
- Để đảm bảo thực hiện quyền này, quốc gia ven biển được quyền kiểm tra, bắt giữ và xét xử
theo quy định của pháp luật đối với tàu nước ngoài khi tàu này thực hiện hành vi đánh cá bất
hợp pháp (Điều 73, khoản 1 Công ước Luật Biển năm 1982).
b. Thổ Nhĩ Kỳ có quyền khởi tố và tuyên phạt thuyền viên tàu LOTUS 100.000 USD nhưng
không được tuyên hình phạt 4 tháng tù giam đối với thuyền viên tàu LOTUS. Bởi vì:
- Theo quy định tại Điều 56 và Điều 73 Công ước Luật Biển năm 1982 quốc gia ven biển được
thực hiện việc kiểm tra, bắt giữ và xét xử theo quy định của pháp luật lợp pháp trong vùng đặc
quyền kinh tế của quốc gia. đối với hành vi đánh cá bất hợp pháp.
- Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 3, Điều 73, quốc gia ven không được áp dụng hình phạt tù
giam, trừ trường hợp các quốc gia có thỏa thuận khác. Vì vậy, theo dữ kiện trong tình huống,
khi hai quốc gia Hoa Kỳ và Thổ Nhĩ Kỳ không có thỏa thuận khác, không được áp dụng hình
phạt tù giam đối với thuyền trưởng tàu LOTUS. Tình huống 6
Tàu thương mại Phoenix, treo cờ của Iran, thường xuyên thực hiện hành trình hàng hải giữa
châu Á và châu Âu. Trong một lần xuất phát từ cảng của Iran đến cảng của ngoài khơi hòn đảo
Lampedusa của nước Ý, tàu Phoenix đã mang theo nhiều người châu Phi với mục đích nhập cư
vào Ý – một trong những chuyến đi tìm “miền đất hứa”. Khi đến vùng tiếp giáp lãnh hải của
nước này, tàu Phoenix dừng lại để sang mạn tàu những người muốn nhập cư vào Ý (chuyển
những người này từ tàu Phoenix sang những con tàu khác để tiến vài bờ). Lực lượng bảo vệ bờ
biển của Ý phát hiện hành vicủa tàu Phoenix nên đã phát tín hiệu và cử tàu quân sự truy đuổi.
Sau một thời gian rượt đuổi liên tục trên biển, tàu của lực lượng bảo vệ bờ biển Ý đã bắt giữ
được tàu Phoenix tại lãnh hải của Bosina nhưng ngay lập tức cơ quan có thẩm quyền của Bosina
lên tiếng phản đối hành vi bắt giữ tàu Phoenix của lực lượng chức năng Ý.
Hỏi: Hãy cho biết, theo quy định của Công ước Luật Biển năm 1982 hành vi của Ý truy đuổi và
bắt giữ tàu Phoenix có hợp pháp không? Tại sao? Gợi ý trả lời:
Hành vi của Ý truy đuổi tàu Phoenix là hợp pháp Bởi vì:
- Hành vi tàu Phoenix thực hiện tại vùng tiếp giáp lãnh hải của Ý là hành vi vi phạm pháp luật
(nhập cư bất hợp pháp) (Điều 33, khoản 1 Công ước Luật 1982).
- Lực lượng bảo vệ bờ biển của Ý đã phát tín hiệu yêu cầu dừng lại.
- Việc truy đuổi liên tục, bằng phương tiện quân sự. Bởi vì:
- Theo quy định tại khoản 3, Điều 111 Công ước Luật Biển năm 1982, quyền truy
Tự đuổi chấm dứt khi chiếc tàu bị truy đuổi đi vào lãnh hải của một quốc gia khác.
- Việc bắt giữ tàu Phoenix trong vùng lãnh hải của quốc gia Bosina là bất hợp pháp
vì Bosina thực hiện chủ quyền đối với lãnh hải (Điều 2 Công ước Luật Biển năm 1982) Tình huống 7
Đảo Palmas là một hòn đảo năm giữa Indonesia và Philippines, và xét về khoảng cách địa lý thì
nằm gần Philippines hơn Indonesia. Năm 1989, Tây Ban Nha ký Hiệpđịnh nhượng lại
Philippines cho Hoa Kỳ, bao gồm cả đảo Palmas. Năm 1906, Hà Lan(lúc đó là quốc gia thực
dân cai trị Indonesia) đã khẳng định chủ quyền đối với đảo Palmas. Cuối cùng, Hoa Kỳ nhất trí
đồng ý giải quyết tranh chấp tại Tòa trọng tàinăm 1928.
Hoa Kỳ đòi chủ quyền bằng lập luận về quyền khám phá và sở hữu liền kề. Lậpluận của Hà Lan:
Hà Lan là quốc gia nắm giữ quyền sở hữu thực tế trong hòa bình, kéo dài liên tục suốt hơn hai
thế kỷ mà không gặp phải sự phản đối nào của Nhà nước Tây Ban Nha, đồng thời Hà Lan đã ký
hàng loạt các hiệp định với nhà cầmquyền địa phương, từ đó lập nên thuộc địa Hà Lan trên đảo
Palmas, kèm theo các hoạt động kinh tế, nghĩa vụ khi có chiến tranh, đối ngoại v.v… Hỏi:
a. Chỉ ra cơ sở pháp lý giải quyết
b. Những hành vi của các quốc gia đối với đảo Palmas có đủ căn cứ để xác lập chủ quyền quốc gia hay không? Vì sao? Gợi ý trả lời:
a. Cơ sở pháp lý để giải quyết
+ Định ước Berlin ký ngày 26 tháng 6 năm 1885.
+ Công ước Saint Germain ngày 10 tháng 9 năm 1919.
b. Tây Ban Nha không thể chuyển nhượng hợp pháp cái mà họ không sở hữu. Bởi quả nhiên họ
nắm giữ sở hữu ban đầu khi khám phá đảo, nhưng sau đó không thựcthi quyền lực thực sự với
đảo nên đòi hỏi của Hoa Kỳ là yếu ớt, mờ nhạt và khôngđược chấp nhận. Ngược lại các hoạt
động của Hà Lan đối với đảo Palmas là đặc trưng quyền lực của nhà nước, nó diễn ra trong hòa
bình bởi không có xung đột nàovgiữa các quốc gia, nó liên tục trong suốt thời gian dài, mặc dù
cũng có những khoảng trống nhất định cụ thể từ năm 1726 đến năm 1825. Như vậy, Palmas là
lãnh thổ thuộc sở hữu của Hà Lan. Tình huống 8
Tháng 9/1945, Minotta trao trả nền độc lập cho nhân dân cho nhân dân các vùng lãnh thổ thuộc
địa của Minotta là X,Y,Z, Bê- ta và Gamma. Tháng 12/1945, ba nước X,Y,Z quyết định hợp
nhất và ký Hiệp định thành lập Liên bang Anpha gồm 3 bang là X,Y,Z nhằm mục đích tăng
cường sức mạnh chính trị và phát triển kinh tế. Điều 2 Hiệp định thành lập Liên bang khẳng
định Anpha với tư cách là Nhà nước liên bang là chủ thể trong mọi quan hệ pháp luật quốc tế của Anpha.
Tháng 9/1980, bang X ký Hiệp định về phân định vùng đánh bắt cá và khai thác hoạt động du
lịch trên sông biên giới Maiki với quốc gia Bê-ta. Quốc hội X đã thông qua Hiệp định và quốc
hội Bê ta đã phê duyệt Hiệp định. Theo quy định của Hiệp định, Hiệp định có hiệu lực từ 15/2/1981.
Tháng 2/1981,Anpha gửi Công hàm cho Bê ta khẳng định Hiệp định ký kết không đúng thẩm
quyền theo pháp luật Anpha và vì vậy, Hiệp định vô hiệu theo quy định của Luật quốc tế. Tuy
nhiên, Bê ta khẳng định X kí hiệp định với tư cách một bang của Anpha. X cũng khẳng định, X
có đủ thẩm quyền ký kết Hiệp định vì theo quy định của Hiến pháp liên bang Anpha : Các bang
thuộc Liên bang có thẩm quyền kí kết các thỏa thuận quốc tế trong lĩnh vực nông nghiệp, giao thông, du lịch.
Hỏi: Hãy xác đinh hiệu lực của Hiệp định phân định vùng đánh bắt cá và khai thác du lịch trên
sông biên giới Maiki? Cho biết các cơ sở pháp lí để xác định hiệu lực đó và giải thích?
Hiệp định về phân tích vùng đánh bắt cá và khai thác hoạt động du lịch trên sông biên giới
Maiki giữa tiểu bang X và quốc gia Bê- ta không có hiệu lực pháp luật và bị vô hiệu tuyệt đối theo pháp luật quốc tế. Gợi ý trả lời Cơ sở pháp lí:
- Hiến pháp Liên bang Anpha và Công ước Viên năm 1969 về điều ước quốc tế.
+ Hiến pháp liên bang Anpha khi thành lập liên bang khẳng định: “ Chỉ có Anpha với tư cách là
Nhà nước liên bang là chủ thể trong mọi quan hệ pháp luật quốc tế của Anpha”. Như vậy, Hiến
pháp đã khẳng định chỉ tồn tại một quốc gia Anpha có dân cư,lãnh thổ, có Chính phủ liên bang
thành lập hợp hiến và đủ khả năng điều hành đất nước, để từ đó phát sinh thuộc tính chính trị
pháp lí là chủ quyền quốc gia, và chí có Anpha được tham gia quan hệ quốc tế với tư cách quốc
gia Anpha. Nghĩa là trong mọi quan hệ quốc tế liên quan đến lợi ích quốc gia liên bang như:
lãnh thổ, biên giới, luật biển, luật hàng không, nhân quyền…thì chỉ có Anpha được thừa nhận là chủ thể hợp pháp.
Đồng thời Hiến pháp khẳng định: “ Các bang của liên bang có thẩm quyền kí kết các thỏa thuận
quốc tế trong lĩnh vực nông nghiệp, giao thông, du lịch”. Các bang cũng có thể tham gia trong
quan hệ quốc tế về giao thông, du lịch, nông nghiệp của tiểu bang, chứ không có thẩm quyền kí
kết những điều ước quốc tế liên quan đến chủ quyền và lợi ích quốc gia. Tuy nhiên, những điều
ước đó phải phù hợp với Hiến pháp của tiểu bang và liên bang.
Ta thấy: 9/1945, X,Y,Z trở thành 3 quốc gia độc lập do được Minotta trao trả độc lập và trở
thành 3 quốc gia độc lập có chủ quyền, là một chủ thể của luật quốc tế. Nhưng đến tháng
9/1945, 3 quốc gia này đã tự nguyện tham gia thành lập Liên bang Anpha để tăng cường quan
hệ kinh tế và chính trị. Liên bang Anpha được thành lập hợp pháp trên một hiệp định thành lập
Liên bang và có Hiến pháp liên bang. Nhà nước liên bang ra đời là chủ thể của luật quốc tế, là
quốc gia kế thừa của X,Y,Z do sự hợp nhất lãnh thổ. Còn X,Y,Z tồn tại trong liên bang Anpha
có lãnh thổ xác định, có dân cư riêng, có Chính phủ nhưng lại không là một quốc gia do chủ
quyền của nó bị hạn chế bởi Liên bang mà X tham gia, đặc biệt trong quan hệ đối ngoại. Nhưng
do Hiến pháp liên bang cho phép tham gia một số quan hệ nhất định như giao thông, du lịch,
nông nghiệp, tức là X vẫn có thẩm quyền kí kết hiệp định quốc tế với các chủ thể khác của Luật
quốc tế về 3 lĩnh vực trên
+ Hiệp định kí kết giữa X và Bê-ta có nội dung phân định vùng đánh bắt cá và du lịch trên sông
biên giới Maiki, có nội dung là để phân định sông biên giới cũng như quyết định quy chế pháp
lí biên giới quốc gia. Sông biên giới là để phân định lãnh thổ cho quốc gia, đảm bảo yếu tố chủ
quyền của quốc gia trong quan hệ quốc tế. Đây là lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của tiểu
bang X, chỉ có thỏa ước liên quan đến biên giới chỉ là trong việc xác định biên giới giữa các
tiểu bang thì X có thẩm quyền tham gia. Sông Maiki là sông biên giới phân định khu vực giữa
X và quốc gia Bê-ta, như vậy, các vấn đề liên quan đến sông Maiki như chế độ pháp lí của sông
chỉ có Anpha với tư cách nhà nước liên bang, là chủ thể của luật quốc tế, có thể tham gia kí kết
với Bê-ta. Bởi Anpha là quốc gia kế thừa về dân cư, lãnh thổ của X. Hơn nữa, sông biên giới
còn có chế độ pháp lí của sông quốc tế, là lãnh thổ thuộc chủ quyền quốc gia sử dụng quốc tế,
có ảnh hưởng đến nhiều khu vực khác của Anpha hoặc nhiều quốc gia khác trong khu vực. Tiểu
bang X không có thẩm quyền để quyết định quy chế pháp lí cho sông biên giới, đồng thời
không thể coi vấn đề du lịch trên sông biên giới là thẩm quyền kí kết của mình như Hiến pháp
đã quy định. Mọi vấn đề liên quan đến biên giới quốc gia chỉ có thể do Nhà nước Liên bang
quyết định, trong trường hợp này là Anpha
+ Hiệp định phân định vùng đánh bắt cá và du lịch trên sông Maiki vi phạm Công ước Viên
năm 1969 về điều ước quốc tế do vi phạm về thẩm quyền kí kết của luật quốc gia theo Điều 46,
do đó bị vô hiệu tuyệt đối, không thể áp dụng nguyên tắc Pacta sunt sevanda để đảm bảo nghĩa
vụ phát sinh hiệu lực của Hiệp định. Bên cạnh đó, dù đã được Quốc hội X và Bê- ta thông qua
nhưng hiệp ước không thể phát sinh hiệu lực theo khu vực lãnh thổ của X như Bê-ta khẳng định.
Bởi sự sai lầm của Hiệp định về thẩm quyền kí kết và về đối tượng điều chỉnh nên nó vô hiệu
ngay từ đầu. Việc phát sinh hiệu lực của một điều ước quốc tế theo một không gian lãnh thổ
nhất định của quốc gia không được áp dụng trong trường hợp này, bởi thẩm quyền tham gia của
tiểu bang chỉ là trong lĩnh vực thương mại, tư pháp quốc tế.Như vậy, việc tuyên bố của Anpha
là hợp lí với quy định của pháp luật quốc tế. Tình huống 9
Tàu thương mại X thuộc quyền sở hữu của công ty Golden mang quốc tịch Java. Ngày
15/2/2011, lực lượng cảnh sát biển của Kata phát hiện tàu X đang khai thác một số lượng lớn cá
hồi tại vùng tiếp giáp lãnh hải của Kata mà không có giấy phép khai thác. Cảnh sát biển của
Kata đã bắt giữ con tàu cùng thuyền trưởng và toàn bộ đoàn thủy thủ để giải quyết vụ việc.
Nhận được thông báo từ phía công ty Golden, Java đã nộp một khoản tiền là 200.000 USD để
bảo lãnh cho các thuyền viên trên tàu. Tuy nhiên, Kata vẫn tiến hành tạm giữ và 2 tháng
sau,thuyền trưởng cùng các thủy thủ bị đưa ra xét xử và bị tuyên phạt 6 tháng tù giam, đồng
thời phải bồi thường thiệt hại tổng cộng 50.000USD do hành vi khai thác trái phép vào mùa
sinh sản, gây hậu quả nghiêm trọng đối với nguồn lợi cá hồi tại quốc gia này. Ngay lập tức Java
đã lên tiếng phản đối vì cho rằng Kata không có thẩm quyền xét xử và phạt tù với các thành
viên của thuyền X, đồng thời Kata đã vi phạm Công ước Quốc tế về luật biển năm 1982 khi đã
tạm giữ các thành viên của tàu X sau khi Java đã nộp tiền bảo lãnh. Hỏi: Hãy cho biết:
- Hành vi bắt giữ con tàu cùng thuyền trưởng và toàn bộ đoàn thủy thủ của Kata có phù hợp với
Công ước luật biển năm 1982 hay không?Tại sao?
- Quan điểm cá nhân về lập luận của Java trên cơ sở các quy định của Công ước luật biển năm 1982? Gợi ý trả lời
a. Hành vi bắt giữ con tàu và thuyền trưởng, thuyền viên tàu X của Kata là phù hợp với Công
ước luật biển quốc tế 1982 vì:
+ Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng được Công ước luật biển 1982 quy định tại Điều 33 là vùng
rộng không quá 24 hải lí tính từ đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải và đây là vùng có quy
chế pháp lí đặc biệt,quốc gia ven biển có thẩm quyền riêng biệt và hạn chế. Bởi đây không phải
là vùng biển mà quốc gia ven biển có đầy đủ thẩm quyền tài phán cũng không phải là vùng biển
có quy chế tự do biển cả. Công ước 1958 và Công ước 1982 đã ghi nhận những thẩm quyền tài
phán của quốc gia ven biển,tập trung vào hai nội dung: ngăn ngừa những vi phạm đối với các
luật và quy định thuế quan, thuế khóa, y tế, nhập cư trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của nước
ven biển và trừng trị những vụ vi phạm pháp luật trong lãnh thổ hay trong lãnh hải của quốc gia
ven biển.Vùng tiếp giáp lãnh hải đồng thời nằm trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế nên
ngoài các quyền do quy chế pháp lí của vùng tiếp giáp lãnh hải quy định còn được hưởng quyền
theo quy chế của vùng đặc quyền kinh tế.
+ Thẩm quyền tài phán của quốc gia ven biển với vùng tiếp giáp lãnh hải được luật quốc tế quy
định đó là: thẩm quyền này nhằm mục đích ngăn ngừa và trừng trị những vi phạm xảy ra trong
các vùng biển khác - nội thủy và lãnh hải chứ không phải ở vùng tiếp giáp.
+ Thẩm quyền của quốc gia ven biển trong vùng tiếp giáp lãnh hải là thẩm quyền cảnh sát và
không phụ thuộc vào việc khai thác kinh tế có nghĩa là các quốc gia khi đến khai thác tại đặc
quyền kinh tế cần tuân thủ tuyệt đối quy định của quốc gia ven biển, tuy nhiên thực tế cho thấy
các quốc gia ven biển đều hạn chế tối đa việc khai thác kinh tế tại vùng tiếp giáp lãnh hải do vị trí đặc biệt của nó
+ Trong vụ việc này ta thấy: phía tàu cá của Java đã vi phạm Công ước quốc tế 1982 khi khai
thác cá hồi trái phép vùng tiếp giáp lãnh hải của Kata và làm ảnh hưởng đến nguồn lợi cá hồi.
Kata có quyền bắt giữ tàu đã vi phạm để đảm bảo quyền lợi của quốc gia, bởi thẩm quyền tài
phán của quốc gia ven biển tại vùng đặc quyền kinh tế được tôn trọng đầy đủ tại vùng tiếp giáp lãnh hải
b. Quan điểm cá nhân về lập luận của Java trong vụ án trên?
Theo em, lập luận của Java trong vụ án trên là hoàn toàn phù hợp với quy định của Công ước luật biển năm 1982 vì:
- Hành vi bắt giữ của Kata khi phát hiện tàu vi phạm trong vùng tiếp giáp lãnh hải là hành vi
hợp pháp, nhưng hành vi tạm giữ đến hai tháng khi đã nhận tiền bảo lãnh là hành vi vi phạm
quy định của Công ước Luật biển năm 1982 theo Điều 72: khi đã nhận tiền bảo lãnh thì quốc
gia tam giữ nhanh chóng trả tự do cho tàu và thủy thủ đoàn. Hoặc theo quy đinh tại Điều 292:
khi nhận tiền bảo lãnh mà quốc gia tạm giữ tàu vi phạm không có ý định hay động thái để trả tự
do cho tàu và đoàn thủy thủ vi phạm thì cần đưa vụ việc ra Tòa án quốc tế có thẩm quyền theo Điều 287.
- Tòa án quốc gia Kata không có thẩm quyền xét xử tàu X vi phạm và các thủy thủ. Bởi thẩm
quyền xét xử vụ án khi Kata đã nhận được tiền bảo lãnh của Java thuộc về Tòa án quốc tế có
thẩm quyền mà hai bên đã thỏa thuận để đưa ra xét xử.
- Hình phạt mà Tòa án Kata đưa ra là không có hiệu lực do vi phạm thẩm quyền xét xử Tình huống 10
Ngày 25/11/2007, tàu thương mại X mang quốc tịch của quốc gia A tự ý đánh bắt cả trong vùng
đặc quyền kinh tế của quốc gia B. Phát hiện hành vi trên, tàu quân sự của quốc gia B đã phát tín
hiệu và tiến hành truy đuổi. Sau một thời gian rượt đuổi liên tục, qua vùng biển quốc tế, tàu
quân sự của quốc gia B bắt giữ được tàu X tại vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia C. Tàu X
cho rằng, tàu đang ở trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia C nên quốc gia B không có quyền bắt giữ.
Hãy cho biết, theo quy định của Công ước Luật Biển năm 1982, quốc gia B có quyền truy đuổi
và bắt giữ tàu X không? Tại sao? Gợi ý trả lời:
Theo quy định của Công ước Luật Biển năm 1982, quốc gia B có quyền truy đuổi và bắt giữ tàu X, vì:
- Hành vi của tàu X là vi phạm quyền của quốc gia B trong vùng đặc quyền kinh tế (Điều 56,
khoản 1 a; Điều 73, khoản 1).
- Tàu quân sự của quốc gia B tiến hành truy đuổi sau khi đã phát tín hiệu và khi tàu X vẫn đang
ở trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia B; việc truy đuổi được diễn ra liên tục, không gián
đoạn (Điều 111, khoản 1,2).
- Tàu X chưa đi vào lãnh hải của quốc gia khác (Điều 111, khoản 3). Tàu X vẫn ở vùng đặc
quyền kinh tế của quốc gia C Tình huống 11
Năm 1999, quốc gia Alpha gửi cho quốc gia Bêta một văn kiện ngoại giao trong đó đưa ra đề
nghị hoạch định biên giới giữa lãnh thổ của Alpha với vùng lãnh thổ Grama mà Bêta đang giữ
vai trò đại diện trong quan hệ quốc tế (Grama là thuộc địa của Bêta). Trong văn kiện đó, Alpha
nêu rõ nguyên tắc, cách thức hoạch định và có bản đồ hoạch định đính kèm. Trong văn kiện trả
lời, Bêta bày tỏ quan điểm đồng ý với đề nghị của Alpha. Hai quốc gia cũng đã tổ chức họp báo
để thông báo chính thức về nội dung thỏa thuận. Năm 2002, Grama tách ra khỏi Bêta và tuyên
bố trở thành một quốc gia độc lập, có chủ quyền. Grama cho rằng thỏa thuận qua các văn kiện
ngoại giao giữa Alpha và Bêta không phải là điều ước quốc tế có giá trị ràng buộc giữa các bên.
Hơn nữa, nếu thỏa thuận năm 1999 là điều ước quốc tế thì với tư cách là quốc gia mới giành
được độc lập, Grama không phải thực hiện các điều ước quốc tế mà Bêta đã đại diện ký kết trước đó. Hỏi: Hãy cho biết:
– Thỏa thuận giữa Alpha và Bêta trong tình huống nêu trên có phải là điều ước quốc tế hay không? Vì sao?
– Sau khi trở thành một quốc gia độc lập, có chủ quyền, Grama có phải thực hiện thỏa thuận mà
Bêta đã ký với Alpha hay không? Vì sao? Gợi ý trả lời
a. Thỏa thuận giữa Alpha và Bêta trong tình huống nêu trên có phải là điều ước quốc tế hay không? Vì sao?
Theo điểm a, khoản 1, điều 2 Công ước Viên về luật điều ước quốc tế (1969) thì “thuật ngữ
“điều ước” dùng để chỉ một hiệp định quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các quốc gia và
được pháp luật quốc tế điều chỉnh, dù được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất hoặc trong
hai hay nhiều văn kiện có quan hệ với nhau và bất kể tên gọi riêng của nó là gì”.
Đồng thời, điều 11 Công ước Viên 1969 cũng quy định: “Việc một quốc gia đồng ý chịu sự
ràng buộc của một điều ước có thể biểu thị bằng việc ký, trao đổi các văn kiện của điều ước phê
chuẩn, chấp thuận, phê duyệt hoặc gia nhập hoặc bằng mọi cách khác được thỏa thuận”.
Để xác định thỏa thuận giữa quốc gia Alpha và quốc gia Bêta có phải là điều ước hay không, ta
có thể xét đến đặc trưng về mặt hình thức của điều ước quốc tế. Ta có thể khẳng định rằng, điều
ước quốc tế tồn tại chủ yếu dưới hình thức văn bản, nhưng bên cạnh đó còn có điều ước quân tử
tồn tại dưới dạng bất thành văn. Như vậy, theo như điều ước quân tử thì điều ước quốc tế
không nhất thiết phải tồn tại dưới dạng văn bản. Cũng theo định nghĩa về thuật ngữ “điều ước”
quy định tại điểm a, khoản 1, điều 2 Công ước viên 1969 thì điều ước quốc tế không phụ thuộc
vào tên gọi của văn bản thỏa thuận này.
Hơn nữa, vùng lãnh thổ Grama đã được quốc gia Alpha khai thác và đại diện trong quan hệ
quốc tế, ta có thể hiểu là từ trước năm 1999, Grama đã và đang là “thuộc địa” của quốc gia
Alpha và Alpha là quốc gia “bảo hộ”, vì vậy vùng lãnh thổ Grama phải tuân thủ theo những
cam kết mà Alpha đã ký. Như vậy, thỏa thuận giữa quốc gia Alpha với quốc gia Bêta về việc
hoạch định biên giới giữa lãnh thổ của quốc gia Bêta với vùng lãnh thổ Grama mà quốc gia
Alpha đang khai thác và đại diện trong quan hệ quốc tế hoàn toàn có thể là điều ước quốc tế.
b. Sau khi trở thành một quốc gia độc lập, có chủ quyền, Grama có phải thực hiện thỏa thuận
mà Bêta đã ký với Alpha hay không? Vì sao?
Theo tiến sĩ Kaikobad (1983): “Quy tắc chung của luật quốc tế tập quán về vấn đề này là, về
nguyên tắc, khi kế thừa từ người tiền nhiệm: quốc gia hưởng không hơn và không kém lãnh thổ đó”.
Hội nghị lần thứ 53 năm 1968 của Hội Luật gia quốc tế đã thông qua nghị quyết về sự kế thừa
của các quốc gia mới: “Khi một hiệp định quy định việc phân định biên giới quốc gia giữa hai
quốc gia đã được thực hiên, theo đó đường biên giới đã được hình thành thì không cần phải làm
gì thêm nữa … và phạm vi lãnh thổ quốc gia cũng đã được xác lập”.
Điều 11 Công ước Viên về kế thừa nhà nước 1978 quy định:
Sự kế thừa quốc gia không ảnh hưởng tới:
a) một đường biên giới đã được xác định bởi một hiệp định; hay
b) các nghĩa vụ và quyền được xác định bởi một hiệp định liên quan tới thể chế biên giới.
Những quy định này là sự khẳng định chính thức nguyên tắc duy trì biên giới ổn định khi xuất
hiện sự kế thừa nhà nước.
Như vậy, sau khi vùng lãnh thổ Grama trở thành một quốc gia độc lập, có chủ quyền thì Grama
vẫn phải thực hiện đầy đủ các điều ước quốc tế về biên giới lãnh thổ mà Alpha đã ký kết thay
Grama, trong đó có điều ước với Bêta. Quốc gia Grama không có quyền chọn lựa có thừa kế
hay không mà buộc phải thừa kế, vì những điều ước về biên giới lãnh thổ thường có giá trị rất
bền vững mang tính ổn định cho dù 1 trong 2 bên có mất tư cách chủ thể thì quốc gia mới vẫn buộc Tình huống 12
Năm 1960, quốc gia A gửi cho quốc gia B thư đề nghị hoạch định biên giới giữa lãnh thổ của
quốc gia B với vùng lãnh thổ C mà quốc gia A đang khai thác và đại diện trong quan hệ quốc tế.
Trong thư đó, quốc gia A nêu rõ nguyên tắc, cách thức hoạch định và có bản đồ hoạch định
đính kèm. Trong thư trả lời, quốc gia B bày tỏ quan điểm đồng ý với đề nghị của quốc gia A.
Hai quốc gia cũng đã tổ chức họp báo để thông báo chính thức về nội dung thỏa thuận.
Tranh chấp lãnh thổ bắt đầu nảy sinh sau khi vùng lãnh thổ C trở thành một quốc gia độc lập, có
chủ quyền. Quốc gia C cho rằng thỏa thuận qua thư giữa quốc gia A và quốc gia B không phải
là điều ước quốc tế có giá trị ràng buộc giữa các bên. Hơn nữa, nếu thỏa thuận năm 1960 là điều
ước quốc tế thì với tư cách là quốc gia mới ra đời, quốc gia C không phải kế thừa tất cả các điều
ước quốc tế mà quốc gia A đã đại diện ký kết. Hỏi: Hãy cho biết:
– Theo quy định của Công ước Viên năm 1969 về luật điều ước quốc tế, thỏa thuận giữa hai
quốc gia A và B trong tình huống nêu trên có là điều ước quốc tế hay không? Giải thích tại sao?
– Sau khi độc lập, quốc gia C có phải thực hiện thỏa thuận về biên giới lãnh thổ mà quốc gia A
đã ký kết với quốc gia B hay không? Giải thích tại sao? Gợi ý trả lời:
a. Theo quy định của Công ước Viên năm 1969 về luật điều ước quốc tế, thỏa thuận giữa hai
quốc gia A và B trong tình huống nêu trên có là điều ước quốc tế hay không? Giải thích tại sao?
Có thể khẳng định: thỏa thuận giữa hai quốc gia A và B trong tình huống nêu trên là điều ước quốc tế.
Theo Công ước Viên về luật điều ước quốc tế (1969) thì “thuật ngữ “điều ước” dùng để chỉ một
hiệp định quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các quốc gia và được pháp luật quốc tế điều
chỉnh, dù được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất hoặc trong hai hay nhiều văn kiện có quan
hệ với nhau và bất kể tên gọi riêng của nó là gì”.
Về bản chất, điều ước quốc tế là sự thỏa thuận dựa trên ý chí tự nguyện của các bên liên quan.
Chủ thể của điều ước quốc tế là các quốc gia. Điều ước quốc tế tồn tại dưới hình thức văn bản
đã được kí kết. Điều ước quốc tế gồm có 3 loại: điều ước quốc tế được kí kết với danh nghĩa
Nhà nước, điều ước quốc tế được kí kết với danh nghĩa Chính phủ và điều ước quốc tế được kí
kết với danh nghĩa Bộ, ngành. Các điều ước quốc tế được kí kết với danh nghĩa Nhà nước là các
điều ước về hoà bình, an ninh, biên giới, lãnh thổ, chủ quyền quốc gia; về quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân, về tương trợ tư pháp và về các tổ chức quốc tế phổ cập và tổ chức khu vực quan trọng.
Căn cứ theo đề bài, thỏa thuận giữa hai quốc gia A và B trong tình huống nêu trên hoàn toàn có
đủ căn cứ để trở thành một điều ước quốc tế. Đây là điều ước quốc tế nhằm hoạch định biên
giới lãnh thổ. Việc phân định biên giới lãnh thổ này đã được hai quốc gia thỏa thuận và đi đến
kí kết. Điều ước quốc tế này được ghi nhận dưới hình thức văn bản.
b. Sau khi độc lập, quốc gia C có phải thực hiện thỏa thuận về biên giới lãnh thổ mà quốc gia A
đã ký kết với quốc gia B hay không? Giải thích tại sao?
Căn cứ vào đề bài, ta có thể thấy đây là trường hợp hình thành quốc gia mới bằng đấu tranh giải
phóng dân tộc hoặc qua cách mạng xã hội. Về nguyên tắc, quốc gia C không phải kế thừa toàn
bộ các điều ước do quốc gia A kí kết với quốc gia B. Tuy nhiên, nhằm mục đích không làm xáo
trộn trật tự pháp lý quốc tế, và nếu điều ước đã kí không đi ngược lại quyền lợi của quốc gia C
thì quốc gia C vẫn có thể tuyên bố kế thừa trong lĩnh vực biên giới lãnh thổ.
Cơ sở pháp lý cần thiết đảm bảo tính hợp pháp của nghị quyết do hội đồng bảo an thông qua Tình huống 13
Năm 2012, tại quốc gia A xảy ra nội chiến. Hàng ngàn người nổi dậy đã tiến hành đập phá các
cửa hàng, nhà kho sân bãi nhằm tăng sức ép đề nghị chính phủ đương nhiệm phải từ chức. Cuộc
giao tranh giữa Chính phủ đương nhiên và phe nổi dậy ngày càng căng thẳng, ảnh hưởng
nghiêm trọng đến hòa bình và an ninh trong khu vực cũng như đe dọa sự an toàn của những
người nước ngoài đang có mặt trên lãnh thổ quốc gia A. Trước tình hình nguy cấp này, Hội
động bảo an Liên hợp quốc, với tư cách là cơ quan thực hiện chức năng duy trì hòa bình và an
ninh thế giới, đã có những cuộc họp nhằm xem xét vấn đề của quốc gia. Dự thảo Nghị quyết
của hội đồng bảo an trong đó đề cập đến việc áp dụng các biện pháp cần thiết, kể cả các biện
pháp về quân sự, đối với quốc gia A cũng đã được soản thảo. Trong thời gian chờ đợi nghị
quyết được thông qua, với tư cách là Ủy viên thường trực Hội đồng bảo an quốc gia X đã cho
một số tàu quân sự của mình tiến sâu vào neo đậu trong lãnh hải của quốc gia A để sẵn sang
thực hiện Nghị quyết của Hội đồng bảo an. Hỏi: Hãy cho biết:
– Hành vi của quốc gia X có phù hợp với quy định của Công ước luật biển 1982 hay không? Tại sao?
– Các cơ sở pháp lý cần thiết đảm bảo tính hợp pháp của Nghị quyết do Hội đồng bảo an thông qua? Danh mục viết tắt LHQ: Liên hợp quốc HĐBA: Hội đồng bảo an Gợi ý trả lời:
a. Hành vi của quốc gia X có phù hợp với quy định của Công ước luật biển 1982 hay không? Tại sao?
Trả lời: Hành vi của quốc gia X không phù hợp với quy định của Công ước luật biển 1982. Vì:
Quốc gia X cho neo đậu tàu tại lãnh hải của quốc gia A là trái với quy định của khoản 2 Điều 18
Công ước luật biển 1982 khi thực hiện quyền qua lại lãnh hải đó là đi qua phải liên tục và
nhanh chóng. Tuy nhiên, việc đi qua bao gồm cả việc dừng lại và thả neo, nhưng chỉ trong
trường hợp gặp phải những sự cố thông thường về hàng hải hoặc vì một trường hợp bất khả
kháng hay mắc nạn hoặc vì mục đích cứu giúp người, thuyền hay phương tiện bay đang lâm
nguy hoặc mắc cạn”. Trong tình huống này, quốc gia X đã neo đậu tại vùng lãnh hải của quốc
gia A mà không phải vì gặp những sự cố thông thường về hàng hải hoặc vì một trường hợp bất
khả kháng hay mắc nạn hoặc vì mục đích cứu giúp người, thuyền hay phương tiện bay đang lâm
nguy hoặc mắc cạn mà vì để chuẩn bị sẵn sàng thực hiện Nghị quyết của Hội đồng bảo an.
Bên cạnh đó, quốc gia X đã vi phạm quy định của công ước Luật biển 1982 việc đi qua của tàu
thuyền nước ngoài bị coi là phương hại đến hòa bình, trật tự hay an ninh của quốc gia ven biển,
nếu như trong lãnh hải, tàu thuyền này tiến hành các họat động quy định tại khoản 2 Điều 19
Công ước Luật hiển 1982. Cụ thể việc đưa quân sự vào khu vực lãnh hại của quốc gia A là hành
vi đe dọa hoặc dùng vũ lực chống lại chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, điều này càng vi phạm
nghiêm trọng nguyên tắc của Luật quốc tế – nguyên tắc cấm dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ
lực trong quan hệ luật quốc tế. Việc quốc gia X đưa tàu quân sự vào khu vực lãnh hải của quốc
gia A để sẵn sàng thực hiện nghị quyết của Hội đồng bảo an là không có căn cứ vì Nghị Quyết
của hội đồng bảo an chưa được thông qua, Nghị quyết của HĐBA được thông qua khi có 9 ủy
viên của Hội dồng bảo an, trong đó có tất cả các ủy viên thường trực bỏ phiếu thuận (Điều 27
Hiến chương liên hợp quốc).
Như vậy, hành vi của quốc gia X không phù hợp với Công ước Luật biển 1982.
b. Các cơ sở pháp lý cần thiết đảm bảo tính hợp pháp của Nghị quyết do Hội đồng bảo an thông qua?
Dẫn chiếu theo chương 7 Hiến chương liên hợp quốc (từ Điều 39 đến Điều 51) về hành động
trong trường hợp hòa bình bị đe dọa, phá hoại hoặc có hành vi xâm lược. Theo đó, Nghị quyết
của hội đồng bảo an trong đó đề cập đến việc áp dụng các biện pháp cần thiết, kể cả các biện
pháp về quân sự, đối với quốc gia A là hoàn toàn phù hợp. Cụ thể, theo quy định tại Điều 39,
Điều 41 Hội đồng có thẩm quyền quyết định những biện pháp áp dụng không liên quan tới việc
sử dụng vũ lực để thực hiện nghị quyết của Hội đồng, và yêu cầu các thành viên Liên hợp quốc
áp dụng biện pháp đó. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 42 Hiến chương thì nếu những biện
pháp được nói tại Điều 41 mà không thích hợp hoặc mất hiệu lực thì Hội đồng bảo an có thẩm
quyền áp dụng mọi hành động của hải, lục, không quân nếu Hội đồng bảo an cho rằng đó là cần
thiết. Những hành động này có thể là những cuộc biểu dương lực lượng, phong tỏa và những
cuộc hành quân khác, do các lực lượng hải, lục, không quân của các nước thành viên Liên hợp
quốc thực hiện. Mặt khác, theo quy định tại Điều 51 Hiến chương nêu quốc gia thành viên của
LHQ bị tấn công vũ trang mà cho tới khi HĐBA chưa áp dụng được các biện pháp cần thiết để
duy trì hòa bình, an ninh quốc tế thì những biện pháp mà quốc gia thành viên của LHQ áp dụng
để thực hiện quyền tự vệ chính đáng phải được báo ngay cho HĐBA, do đó, có thể dùng biện
pháp quân sự tương xứng nếu trong trường hợp bị tấn công vũ trang.
Hội đồng bảo an xác định tình hình nội chiến trên lãnh thổ quốc gia A không còn là công việc
nội bộ của quốc gia A bởi tình hình nội chiến tại quốc gia A có ảnh hưởng nghiêm trọng đến
hòa bình và an ninh trong khu vực cũng như đe dọa sự an toàn của những người nước ngoài
đang có mặt trên lãnh thổ quốc gia A. Do đó, sự can thiệp của HĐBA LHQ trong trường hợp
này không được coi là vi phạm nguyên tắc của luật quốc tế về “Không can thiệp vào công việc
nội bộ của các quốc gia khác”.
Để nghị quyết của HĐBA được thông qua thì cần 9 ủy viên của HĐBA, trong đó có tất cả các
ủy viên thường trực bỏ phiếu thuận (Điều 27 Hiến chương Liên hợp quốc). Tình huống 14
Năm 1970, quốc gia A gửi cho quốc gia B văn bản đề nghị xác định biên giới trên biển giữa
quốc gia B và vùng lãnh thổ thuộc địa C mà quốc gia A đang khai thác và đại diện trong quan
hệ quốc tế. Trong thư đó, quốc gia A có nêu rõ nguyên tắc, cách thức phân định và có bản đồ
phân định đính kèm. Trong thư trả lời, quốc gia B bày tỏ quan điểm đồng ý với đề nghị của quốc gia A.
Tuy nhiên, tranh chấp đến biên giới trên biển lại nảy sinh khi C trở thành quốc gia độc lập, có
chủ quyền. Quốc gia C cho rằng: thỏa thuận qua hình thức trao đổi văn bản giữa quốc gia A và
quốc gia B không phải là điều ước quốc tế có giá trị ràng buộc giữa các bên. Hơn nữa, với tư
cách quốc gia mới ra đời sau cách mạng giải phóng, quốc gia C không phải kế thừa tất cả các
điều ước quốc tế mà A đã đại diện ký kết. Hỏi: Hãy cho biết:
– Thỏa thuận qua hình thức trao đổi văn bản giữa quốc gia A và B có phải điều ước quốc tế có
giá trị ràng buộc giữa các bên hay không? Tại sao?
– Quốc gia C có nghĩa vụ phải kế thừa tất cả các thỏa thuận quốc tế mà quốc gia A đã đại diện
ký kết, trong đó có thỏa thuận xác định biên giới trên biển hay không? Tại sao? Gợi ý trả lời:
1. Thoả thuận qua hình thức trao đổi văn bản giữa quốc gia A và B có phải điều ước quốc tế có
giá trị ràng buộc giữa các bên hay không? Tại sao.
Thỏa thuận qua hình thức trao đổi văn bản giữa quốc gia A và B về vấn đề xác định biên giới
trên biển giữa quốc gia B và vùng lãnh thổ thuộc địa C mà A đang khai thác và đại diện trong
quan hệ quốc tế có thể xem là điều ước quốc tế và có giá trị ràng buộc ở thời điểm C vẫn là
vùng lãnh thổ thuộc địa của A.
Theo điểm a khoản 1 Luật công ước Viên năm 1969, Điều ước quốc tế dùng để chỉ“một hiệp
định quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các quốc gia và được pháp luật quốc tế điều chỉnh,
dù được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất hoặc trong hai hay nhiều văn kiện có quan hệ với
nhau và bất kể tên gọi riêng của nó là gì”. Thoả thuận quốc tế sẽ trở thành điều ước quốc tế và
có giá trị ràng buộc khi nó đảm bảo các trình tự tạo nên một điều ước quốc tế, cụ thể như phải
đảm bảo các giai đoạn:
Giai đoạn 1: Giai đoạn hình thành các văn bản điều ước: Trong giai đoạn này, các bên sẽ thực
hiện các hành vi như: đàm phán, soạn thảo và thông qua văn bản điều ước. Thực hiện xong các
hành vi này, điều ước quốc tế vẫn chưa phát sinh hiệu lực, tuy nhiên nếu thiếu các hành vi này
thì một điều ước quốc tế không thể được hình thành.
Giai đoạn 2: giai đoạn thực hiện các hành vi nhằm thể hiện sự ràng buộc của quốc gia với điều
ước quốc tế và có giá trị tạo ra hiệu lực thi hành của điều ước đó. Giai đoạn này có 4 hành vi
được thực hiện đó là: hành vi ký, phê chuẩn, phê duyệt, gia nhập điều ước quốc tế.[ Theo “Luật
Quốc tế” Ts. Ngô Hữu Phước]
Các thoả thuận giữa các quốc gia chưa thể trở thành một điều ước quốc tế khi thiếu các trình tự trên.
Tuy nhiên, các quy định tại công ước Viên năm 1969 chỉ bắt đầu có hiệu lực từ năm 1980.
Trước khi công ước Viên năm 1969 có hiệu lực, trong quan hệ quốc tế, điều ước quốc tế là sự
thỏa thuận giữa các quốc gia – có thể bằng hình thức văn bản hoặc là sự thỏa thuận bằng miệng
– thỏa thuận này được gọi là “điều ước quân tử”
Thứ hai, xét đến yếu tố chủ thể tham gia trong thỏa thuận này là quốc gia A và quốc gia B – đều
là chủ thể của luật quốc tế. Thỏa thuận này được hình thành dựa trên sự đồng ý của 2 quốc gia
(Quốc gia A gửi đề nghị và quốc gia B ngỏ ý đồng ý).
Như vậy, căn cứ theo phân tích trên, thỏa thuận qua hình thức trao đổi văn bản giữa quốc gia A
và B có thể xem là điều ước quốc tế và có giá trị ràng buộc giữa A và B.
2. Quốc gia C có nghĩa vụ kế thừa tất cả các thoả thuận quốc tế mà quốc gia A đã đại diện ký
kết, trong đó có thỏa thuận xác định biên giới trên biển hay không? Tại sao?
Với thỏa thuận quốc tế, quốc gia C không có nghĩa vụ kế thừa tất cả các thỏa thuận quốc tế mà
quốc gia A đã đại diện ký kết (nghĩa là quốc gia A có thể tiếp tục thực hiện các ngĩa vụ đó hoặc
không) những với thỏa thuận xác định biên giới trên biển, C vẫn phải tiếp tục tôn trong và thực
hiện thỏa thuận quốc tế này. Vì các lý do như sau:
Thứ nhất: Theo luật quốc tế hiện hành, các quốc gia mới thành lập không có nghĩa vụ phải tiếp
tục thực hiện các điều ước quốc tế do quốc gia để lại thừa kế ký kết. Căn cứ vào cơ sở pháp lý
tại điều 16 và điều 28 công ước Viên năm 1978:
Điều 16: Đối với những điều ước của các quốc gia tiền nhiệm, Quốc gia mới độc lập không bị
ràng buộc việc duy trì hiệu lực hoặc phải trở thành thành viên của bất ký điều ước nào với lý do
điều ước vẫn còn hiệu lực đối với lãnh thổ được ký kết vào thời điểm kế thừa.
Điều 28: Điều ước song phương: Điều ước song phương vẫn đang còn hiệu ước hoặc tạm thời
áp dụng đối với lãnh thổ được thừa kế vào thời điểm thừa kế sẽ vẫn còn hiệu lực giữa hai bên
quốc gia độc lập mới hình thành hoặc quốc gia kia khi:
+ Hai bên khẳng định rõ ràng sự chấp thuận
+ Hai bên bằng hành vi thể hiện sự chấp thuận
Như vậy, đối với các điều ước quốc tế các quốc gia để lại kế thừa, có hai trường hợp:
– Trường hợp 1: Quốc gia mới giành được độc lập không phải tiếp tục thực hiện các điều ước
quốc tế trước đây vẫn thi hành tại lãnh thổ quốc gia mới đó.
– Trường hợp 2: Đối với các điều ước mà trước đây quốc gia A đã kí kết, quốc gia C có thể
thỏa thuận các điều kiện áp dụng điều ước với quốc gia A. Hoặc C sẽ kí kết với A các điều ước
đặc biệt, trong những điều ước lại này có ghi nhận việc C sẽ kế thừa tất cả các điều ước còn
hiều lực thi hành do A đã kí kết với B về lãnh thổ vốn là thuộc địa của A trước đây.
Thứ hai: trong trường hợp này C vẫn phải kế thừa điều ước quốc tế xác định biên giới trên biển
giữa A và B bởi: những điều ước biên giới về lãnh thổ thường có giá trị rất bền vững và mang
tính ổn định dù hai bên có mất tư cách chủ thể thì quốc gia mới vẫn buộc phải thừa kế. Căn cứ
theo quy định tại điều 11, 15 và 30 của Công ước Viên năm 1969:
Điều 11: Sự kế thừa quốc gia không ảnh hương đến tới:
Một đường biên giới đã được xác định bởi một hiệp định, hay
Các quyền và nghĩa vụ đã được xác định bởi một hiệp định liên quan đến thể chế biên giới.
Điều 15: Khi một phần lãnh thổ nhà nước hoặc khi bất cứ phần lãnh thổ nào mà không còn là
lãnh thổ của quốc gia đó hoặc trở thành một phần lãnh thổ của quốc gia khác thì:
a, Điều ước của quốc gia để lại sẽ ngừng có hiệu lực với phần lãnh thổ mà quốc gia thừa kế có
liên quan, kể từ ngày quốc gia thừa kế ra đời.
Như vậy, với các điều ước quốc tế khác, Quốc gia C không có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện các
điều ước này và có thể hiện nó hay không nhưng với thỏa thuận quốc tế về biên giới, quốc A
buộc phải tôn trọng thực hiện. Tình huống 15
Quốc gia Hudu xúc tiến việc lắp đặt các dây cáp ngầm dưới đáy biển ở vị trí cách đường cơ sở
của quốc gia Tara 150 hải lý.Trong quá trình lắp đặt, các kỹ sư thi công của Hudu nhận thấy
rằng cần phải cố định các đường dây cáp bằng cách khoan 10 mũi vào đáy biển và họ gửi đề
xuất này tới Chính phủ Hudu. Chính phủ Hudu đồng ý với đề xuất trên, đồng thời cho phép các
kỹ sư thi công thăm dó và thực hiện việc khoan cố định 10 mũi vào lòng đất dưới đáy biển nơi
đặt dây cáp ngầm. Khi phát hiện ra hành vi nói trên, Tara đã yêu cầu Hudu dừng ngay hành vi
lắp đặt dây cáp cũng như việc khoan vào lòng đất dưới đáy biển trong vùng biển của Tara. Hỏi: Hãy cho biết:
– Tara yêu cầu Hudu dừng ngay hành vi lắp đặt dây cáp ngầm cũng như việc khoan vào lòng
đất dưới đáy biển có phù hợp với luật quốc tế không ? Tại sao ?
– Hudu có thể thực hiện những quyền gì trong vùng biển trên của Tara? Tại sao? Gợi ý trả lời:
1. Tara yêu cầu Hudu dừng ngay hành vi lắp đặt dây cáp ngầm cũng như khoan vào lòng đất
dưới đáy biển của Tara hoàn toàn phù hợp với quy định của luật quốc tế.
Tại vì hành vi “lắp đặt dây cáp ngầm dưới đáy biển” cũng như “khoan vào đáy biển” của Hudu
đã vi phạm quy định của luật quốc tế đồng thời xâm phạm đến quyền của Tara tại vùng thềm
lục địa, mà không có sự đồng ý của quốc gia này.
Trước hết, phải khẳng định vị trí mà Hudu thực hiện các hành vi nêu trên thuộc vùng thềm lục
địa của Tara. Thềm lục địa quốc gia ven biển theo Điều 76 Công ước 1982 được xác định:
“Thềm lục địa của một quốc gia ven biển bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên ngoài
lãnh hải của quốc gia đó, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia
đó cho đến bờ ngoài của rìa lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh
hải 200 hải lý, khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia đó ở khoảng cách gần hơn”. (khoản 1
Điều 76 Công ước luật biển năm 1982)
Nếu bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia ven biển cách đường cơ sở chưa tới 200 hải lý thì
thềm lục địa của nước đó được tính đến 200 hải lý, tức là đến ranh giới phía ngoài của vùng đặc
quyền kinh tế. Nói cách khác, khi bờ ngoài của rìa lục địa gần hơn, hoặc chỉ cách đường cơ sở
dùng để tính chiều rộng lãnh hải một khoảng cách là 200 hải lý (370,4 km) thì ranh giới ngoài
của thềm lục địa pháp lý nước này sẽ bằng hoặc mở rộng đến khoảng cách không quá 200 hải lý
kể từ đường cơ sở. Khi bờ ngoài của rìa lục địa của một quốc gia ven biển kéo dài tự nhiên vượt
quá khoảng cách 200 hải lý tính từ đường cơ sở và dao động ở khoảng cách từ ngoài giới hạn
200 hải lý ra đến các khoảng cách 250 hải lý; 300 hải lý; 350 hải lý hoặc rộng hơn thế. Thì theo
khoản 5 Điều 76 Công ước luật biển 1982 thì thềm lục địa pháp lý mở rộng ngoài giới hạn 200
hải lý kể từ đường cơ sở được tính từ đường ranh giới phía ngoài lãnh hải cho đến bờ ngoài của
rìa lục địa, nhưng không được vượt quá 350 hải lý (648,2 km) tính từ đường cơ sở hoặc cách
đường thẳng sâu 2500m một khoảng cách không vượt quá 100 hải lý (185,2 km).
Như vậy, vị trí mà Hudu lắp đặt dây cáp ngầm cũng như khoan vào đáy biển cách đường cơ sở
của Tara 150 hải lý hoàn toàn thuộc vùng thềm lục địa của Tara.
Theo quy định tại Điều 79, Công ước 1982 tất cả các quốc gia có quyền lắp đặt dây cáp và ống
dẫn ngầm ở thềm lục địa, tuy nhiên phải tuân theo điều kiện của quốc gia ven biển khi thực hiện
quyền lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm ở thềm lục địa của quốc gia ven biển. Quốc gia ven
biển có thể không đồng ý cho quốc gia khác lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm ở thềm lục địa
của mình khi việc lắp đặt ấy cản trở việc quốc gia ven biển thực hiện quyền của mình tiến hành
những biện pháp hợp lý để thăm dò thềm lục địa và để ngăn ngừa hạn chế và chế ngự ô nhiễm
do dây cáp và ống dẫn ngầm gây ra (khoản 2 Điều 79). Việc lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm
theo tuyến phải được sự thỏa thuận của quốc gia ven biển ( khoản 3 Điều 79). Điều đó cho thấy,
quyền của tất cả các quốc gia lắp đặt dây cáp và ống dẫn ở thềm lục địa của quốc gia ven biển
không phải là quyền tự do vô điều kiện.
Trong trường hợp này, việc Hudu lắp đặt dây cáp ngầm dưới đáy biển thuộc vùng thềm lục địa
của Tara mà không thỏa thuận cũng như không có sự đồng ý của Tara tức là đã xâm phạm đến
quyền của Tara tại vùng thềm lục địa; Hành vi lắp đặt dây cáp của Hudu khi không thỏa thuận
với Tara là vi phạm quy định của pháp luật quốc tế ( khoản 3 Điều 79 Công ước Luật Biển
1982); Hành vi lắp đạt dây cáp ngầm của Hudu có thể cản trở Tara thực hiện quyền của mình
khi tiến hành thăm dò thềm lục địa; đồng thời hành vi này cũng có thể gây ô nhiễm môi trường
cho vùng biển của Tara và Tara có quyền bảo vệ môi trường biển ở thềm lục địa của mình (theo
quy định tại Điểu 208 Công ước 1982). Vì những lý lẽ trên, quốc gia Tara hoàn toàn có quyền
yêu cầu dừng ngay hành vi lắp đặt trái phép của Hudu trên vùng thềm lục địa của Tara.
Quốc gia Tara có đặc quyền cho phép và quy định việc khoan ở thềm lục địa bất cứ vào mục
đích gì theo Điều 81 Công ước Luật Biển 1982: “Quốc gia ven biển có đặc quyền cho phép và
quy định việc khoan ở thềm lục địa bất kỳ vào mục đích gì.” Như vậy, Hudu tiến hành việc
khoan 10 mũi khoan lên vùng thềm lục địa của Tara khi không có sự đồng ý của Tara là hành vi
trái với quy định của pháp luật quốc tế, đồng thời vi phạm đến đặc quyền của Tara ( Điều 81);
Hành vi này cũng có thể gây ô nhiễm cho vùng biển của Tara. Vì vậy, quốc gia Tara có quyền
yêu cầu Hudu chấm dứt các hành vi vi phạm của mình.
2. Những quyền Hudu có thể thực hiện trên vùng biển trên của Tara
Hudu cũng như các quốc gia khác hoàn toàn có quyền đối với vùng nước và vùng trời phía trên
thềm lục địa của Tara. Việc quy định và thực hiện quyền tài phán của các quốc gia ven biển
không làm ảnh hưởng đến quyền tự do của Hudu.
– Hudu có quyền lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm ở thềm lục địa của Tara theo quy định tại
Điều 79, Công ước 1982. Tuy nhiên, cũng theo Điều 79 thì Hudu phải tuân theo một số điều
kiện mà quốc gia Tara đưa ra khi thực hiện quyền lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm ở thềm lục
địa của quốc gia ven biển. Trước hết, Tara có thể không đồng ý cho Hudu cũng như các quốc
gia khác lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm ở thềm lục địa của mình khi việc lắp đặt ấy cản trở
việc quốc gia ven biển thực hiện quyền của mình tiến hành những biện pháp hợp lý để thăm dò