Bài tập triết học mác - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng

Theo Lênin : “ Ý thức là một trong hai phạm trù thuộc vấn đề cơ bản của triết học. Nó là hình thức cao của sự phản ánh của thực tại khách quan, hình thức mà riêng con người mới có. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Đề bài : Bằng lý luận và thực tiễn hãy chứng minh rằng, ý thức con người không
chỉ phản ảnh thế giới mà còn góp phần sáng tạo ra thế giới.
Bài làm
Theo Lênin : “ Ý thức là một trong hai phạm trù thuộc vấn đề cơ bản của triết học.
Nó là hình thức cao của sự phản ánh của thực tại khách quan, hình thức mà riêng
con người mới có. Ý thức của con người là cơ năng của cái khối vật chất đặc biệt
phức tạp mà người ta gọi là bộ óc con người”
Tất cả những hoạt động tinh thần diễn ra trong đầu óc của mỗi con người khi phản
ánh với thế giới vật chất xung quanh. Ý thức được hình thành và phát triển nhờ quá
trình lao động , từ đó được củng cố, định hình thể hiện thành ngôn ngữ. Rất
nhiều yếu tố đã kết cấu tạo nên định nghĩa về ý thức. Theo lát cắt của chiều ngang,
ý thức bao gồm: tình cảm, ý chí, tri thức. Trong kết cấu của ý thức, tình cảm
đóng vai trò quan trọng nhất, đó sự rung động của con người với thế giới xung
quanh một cách ổn định. Ý chí sự cố gắng nlực, khả năng huy động mọi tiềm
năng trong mỗi con người vào hoạt động để vượt qua khó khăn, đạt được mục đích
đề ra. Cuối cùng là tri thức cũng chính là yếu tố cốt lõi của ý thức khi tri thức là kết
quả của quá trình con người nhận thức thế giới, là sự phản ánh thế giới khách quan.
Thứ đóng vai trò quan trọng nhất tình cảm cùng với giá trị cốt lõi của ý thức
tri thức sẽ thống nhất và chuyển hoá lẫn nhau, cũng chính nhờ sự thống nhất này sẽ
là động lực thúc đẩy con người phát triển và trở thành chủ thể sáng tạo ra thế giới .
Ý thức chính là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Nói về nguồn gốc của ý thức, ý thức có nguồn gốc từ tự nhiên và nguồn gốc từ xã
hội. Dựa trên những thành tựu của khoa học, hay cụ thể chủ nghĩa duy vật biện
chứng khẳng định rằng bộ óc của con người ý thức chính một dạng thuộc tính
của một vật chất sống tổ chức cao. thể biết rằng, khối óc của con người
chính sản phẩm của một quá trình tiến hoá phát triển về mặt sinh vật
hội. Ý thức được diễn ra trên sở hoạt động sinh thần kinh của bộ óc người,
đây cũng chính một trong những chức nay của bộ não con người, chính hình
ảnh tinh thần phản ánh thế giới khách quan. Trong suốt giai đoạn phát triển dọc
theo chiều dài lịch sử, nếu chỉ bộ óc người mà không sự tác động của khách
quan thế giới bên ngoài, bộ óc chẳng thể phản ánh lại những tác động hình
thành nên ý thức. Trái đất hình thành trải qua quá trình tiến hoá lâu dài dẫn đến sự
xuất hiện của con người, đây cũng chính là lịch sử phát triển năng lực phản ảnh của
thế giới vật chất từ thấp đến cao và cao nhất chính là trình độ phản ánh - ý thức. Sự
phản ánh ý thức gắn liền với quá trình chuyển hoá và phát triển của con người đi từ
loài vượn thành loài người hiện đại. Đây là một loại hình thức phản ánh mới
đặc trưng của bộ óc con người dạng vật chất tổ chức cao nhất. thế, ý thức
xuất phát từ nguồn gốc tự nhiên là những phản ánh về thế giới khách quan và là bộ
óc của con người.
Về nguồn gốc xã hội, bên cạnh nguồn gốc tự nhiên, xã hội chính là điều kiện quyết
định cho sự ra đời của ý thức nhờ vào các vai trò của “Trước hết lao động; sau
lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ; đó là hai sự kích thích chủ yếu đã
ảnh hưởng đến bộ óc của con người, làm bộ óc đó dần dần biến chuyển thành bộ
óc người.” – Ph. Ăngghen Về lao động, lao động góp phần cho con người từ dáng
đi khom của loài vượn người được dáng đi thẳng đứng, giải phóng cho hai tay.
Ăngghen đã khẳng định : “Nhưng cùng với sự phát triển của bàn tay thì từng bước
một đầu óc cũng phát triển, ý thức xuất hiện, trước hết về những điều kiện của các
kết quả ích thực tiễn về sau,… vễ những quy luật tự nhiên, chi phối các
hiệu quả ích đó.” Chế độ ăn uống cũng thay đổi chế độ ăn uống, từ ăn sống
thành ăn chín uống sôi và có thịt trong bữa ăn, điều này cũng có ý nghĩa quyết định
cho quá trình chuyển hoá từ vượn thành loài người, chuyển đổi từ tâmcủa động
vật để hình thành ý thức. Mục đích của hoạt động biến đổi thế giới ngày càng thể
hiện được nhận thức rệt hơn khi con người biết đến chế tạo ra công cụ lao
động. Trong suốt quá trình lao động, việc con người tác động lên các đối tượng
hiện thực đã làm bộc lộ được những đặc tính quy luật vận động của mình qua
những hiện tượng nhất định. Cũng chính các hiện tượng mang tính đặc trưng đã tác
động ngược lại vào bộ óc con người gây nên những cảm giác, tri giác, biểu
tượng. Thế nhưng, trong quá trình hình thành ý thức không phải do tác động thuần
tuý tự nhiên của thế giới khách quan lên bộ óc con người chính nhờ hoạt động
lao động chủ động là chủ yếu mà đã cải tạo thế giới khách quan nên ý thức bao giờ
cũng ý thức của con người hoạt động hội. Chính nhờ quá trình lao động của
con người khi tác động vào tế giới con người đã làm cho ý thức không ngừng phát
triển và mở rộng hơn hiểu biết của con người về những thuộc tính mới của sự vật.
Cũng từ đó, khả năng về duy trừu tuọng của con người dẫn xuất hiện ngày
càng phát triển. Mối liên hệ giữa con người với nhau ngày càng phát triển không
ngừng và được củng cố đến mức làm nảy sinh một nhu cầu cần thiết về ngôn ngữ,
một phương tiện vật chất để biểu đạt sự vật và các quan hệ của chúng. Ngôn ngữ là
hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. “Ngôn ngữ cái vỏ vật chất của
tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng; không có ngôn ngữ thì con người không
thể có ý thức” – theo Mác. Chính vì thế, lao động và ngôn ngữ là hai sức kích thích
chủ yếu để nào bộ vượn thành não bộ người, phản ánh tâm lý động vật thành phản
ánh ý thức. Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người
thông qua lao động, ngôn ngữ các quan hệ xã hội chính đây cũngmột sản
phẩm của xã hội, một hiện tượng xã hội.
“Bản chất ý thức hình ảnh chủ quan của của thế giới khách quan quá trình
phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của óc người.” Nghĩa là nội dung
của ý thức là do thế giới khách quan quy định, nhưng khi được phản ánh thì nó lại
dấu ấn chủ quan của con người. Thế nhưng không phải mọi lúc thế giới khách
quan tác động vào bộ óc người thể tự động chuyển hoá thành ý thức. Ngược
lại, ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo về thế giới, do nhu cầu của việc con
người cải biến giới tự nhiên quyết định và được thực hiện thông qua hoạt động lao
động. vậy, ý thức ... cái vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con
người và được cải biến đi trong đó”. Dựa trênsở những cái sẵn có, ý thức
thể tạo ra tri thức mới về sự vật, thể tưởng tượng ra những cái không trong
thực tế, chính vì thếtính sáng tạo của ý thức được thể hiện một cách rất phong
phú. Những khả năng ấy càng nói lên tính chất phức tạp phong phú của đời
sống tâm– ý thức ở con ngườikhoa học còn phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu
để làm sáng tỏ bản chất của những hiện tượng ấy.Tuy nhiên, sáng tạo của ý thức là
sáng tạo của phản ánh, bởi ý thức bao giờ cũng chỉ sự phản ánh tồn tại. Sáng
tạo và phản ánhhai mặt thuộc bản chất của ý thức, ý thức là phản ánh nhưng
sự phản ánh sáng tạo. Ý thức ra đời trong quá trình con người hoạt động cải tạo thế
giới, cho nên quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người là quá trình
năng động sáng tạo, thống nhất ba mặt. Đầu tiên sự trao đổi giữa chủ thế đối
tượng phản ánh với điều kiện mang tính hai chiều, định hướng chọn lọc
các thông tin cần thiết. Tiếp theo, sự mô hình hoá đối tượng trong tư duy dưới dạng
tinh thần. Thực tế đây quá trình “sáng tạo lại” hiện thực của ý thức theo nghĩa :
hoá các đối tượng vật chất thành các ý tưởng tinh thần phi vật chất. Cuối cùng
chuyển hình từ duy ra hiện thực khách quan, tức quá trình hiện thực hoá
tư tưởng, thông qua hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm thành cái thực tại, biến
các ý tưởng phi vật chất trong duy thành các dạng vật chất ngoài hiện thực.
Trong giai đoạn này, con người lựa chọn những phương pháp, phương tiện, công
cụ để tác động vào hiện thực khách quan nhằm thực hiện mục đích của mình. Khi
nói ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, cũng có nghĩa là ý thức là
sự phản ánh năng động sáng tạo về thế giới. Chính thế giới vật chất không bao
giờ chủ động bộc lộ hết bản chất, nhưng chính nhờ nhu cầu khám phá chinh
phục giới tự nhiên để phục vụ nhu cầu cuộc sống, con người đã đề xuất ra được các
hình, các giả thuyết hay đề án tiên đoán về sự vật hiện tượng. Nhằm mục đích
khẳng định lại các chân lý, con người sử dụng những thực tiễn để buộc sự vật
hiện tượng phải bộc lộ bản chất nhằm kiểm tra độ chính xác của các hình
giả thuyết của chính họ. Trong các hoạt động thực tiễn phải tôn trọng và hành động
theo các quy luật khách quan. Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh về việc không được
sử dụng ý muốn chủ quan của mình làm chínhch, áp đặt cho thực tế như
vậy sẽ dễ mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí. Thế nhưng , chủ nghĩa duy vật đồng
thời sẽ vạch sự tác động ngược lại cùng lớn của ý thức đối với vật chất nhờ
hoạt thực tiễn của con người. Vì quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ hai
chiều. Nếu không nhận thức điều đó sẽ dễ rơi vào quan niệm duy vật tầm thường
và bảo thủ, trì trệ trong nhận thức lẫn hành động.
Dựa vào vai trò của ý thức, ý thức càng tỏ rõ sức sáng tạo khi ý thức xâm nhập vào
hiện thực cuộc sống, ý thức càng xâm nhập vào nhiều lớp thì tạo ra sức mạnh
sức sáng tạo càng lớn. Tác động của ý thức xã hội đối với con người là vô cùng to
lớn. không những kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn còn động lực
thực tiễn. Nhưng khi nói đến vai trò cả ý thức thì phải nói đến vai trò của con
người, tự ý thức chẳng thể trực tiếp thay đổi điều trong hiện thực. Nhưng
thiếu đi ý thức thì chẳng con người nào phát triển và nhận thức vận dụng một cách
đúng đắn. Vai trò của ý thức chính chỉ đạo những hoạt động thực tiễn của con
người, quyết định đúng và sai, thành công và thất bại mà biểu hiện rõ nhất ra là vai
trò của khoa học, văn học tưởng. Cả giới tự nhiên thứ hai hay đời sống
hội của con người sự thể hiện vai trò tác dụng của các nhân tố ý thức. Khi con
người càng phản ánh một cách đầy đủ, chính xác về thế giới khách quan thì việc
cải tạo phát triển những sáng tạo trên thế giới ngày càng hiệu quả chứng minh
cho điều : Ý thức con người không chỉ phản ánh thế giới còn góp phần sáng
tạo thế giới.” Bên cạnh đó, khả năng tận dụng của ý thức phụ thuộc vào mức độ
xâm nhập của các nhân tố ý thức vào lượng vật chất và ngược lại nếu các nhân tố ý
thức không xâm nhập vào được thì chúng không đem lại hiệu quả gì. Chính vì thế
ý thức chỉ đem đến vai trò sáng tạo khi có thể xâm nhập vào hiện thực của vật chất.
Sự thể hiện vai trò tác dụng của các nhân tố ý thức được thể hiện qua trật tự xã hội,
chế độ hộigiới tự nhiên thứ hai với những công trình, những thành tựu khoa
học công nghệ, những thành tựu trong các lĩnh vực văn hóa hội..., hay đời sống
hội của con người. Nếu trong nhận thức hoạt động thực tiễn , chúng ta tuyệt
đối hoá hay quá đề cao vai trò của nhân tố chủ quan thì sảnh hưởng không nhỏ
đến sự phát triển của xã hội, dễ rơi vào các căn bệnh như bảo thủ và trì trệ. Khi bảo
thủ sẽ dễ dẫn đến tình trạng lại, không chịu đổi mới, ngại thay đổi chỉ dựa
dẫm chờ đợi thì sẽ cản trở cái mới, chỉ dậm chân tại chỗ chấp nhận thoả mãn
với cái đã có.
thể nhìn nhận, nền kinh tế nước ta từ một xuất phát điểm tầm thấp, tiềm lực
kinh tế - kỹ thuật yếu kém nhưng trong điều kiện biến đổi nhanh chóng về khoa
học – kỹ thuật trên thế giới, liệu nước ta có thể nắm bắt kịp xu hướng thời đại trong
nền khoa học – kỹ thuật nước nhà? Câu hỏi này đặt ra cho chúng ta một vấn đề đó
sự lựa chọn bước đi trật tự ưu tiên phát triển khoa học công nghệ trong
quan hệ với phát triển kinh tế trong các giai đoạn tới. Như vậy nghĩa ta cần
phải có tri thức tri thức khoa học. Chúng ta phải không ngừng nâng cao khả
năng nhận thức cho mỗi người. Chỉ mỗi tri thức không vẫn chưa đủ, tri thức cần
biến thành niềm tin ý chí để thực hiện được vai trò với cuộc sống hiện thực.
Công tác văn hoá tưởng cũng một thế mạnh của truyền thồng dân tộc. Các
chức năng của giá trị văn hoá đã đem lại chủ nghĩa nhân đạo, tính đạo đức. Tất cả
các giá trị về lẫn tinh thần vật chất sẽ mất đi mọi ý nghĩa nếu không bao gồm
tính đạo đức trong đó. Cùng với cách mạng tưởng đã làm thay đổi đời sống
trong cả tinh thần hội, xây dựng được mối quan hệ giữa tưởng tình cảm
với cách một chủ thể xây dựng đời sống tinh thần để tạo ra được những điều
kiện tự do phát triển của con người. Khi có tự do, mỗi con người mới có khả năng
đóng góp phát triển xây dựng đất nước.
Ngày nay loài người được sức sáng tạo to lớn đạt được những thành công,
sáng tạo ra các phát minh đại nhờ sự phát huy tối đa của sức mạnh tinh
thần, đây chính nền kinh tế tri thức. Khi mỗi sản phẩm làm ra đều mang một
phần chất xám thì đó sự đúc kết của tri thức con người đã cấu tạo nên tạo ra
sản phẩm. Hay như tưởng hướng dẫn quần chúng nhân dân để cải cách thay
đổi chế độ lỗi thời. Đa phần, các cuộc cách mạng đa phần đều được hướng dẫn
bởi tư tưởng cách mạng và dùng nó làm kim chỉ nam cho hành động. Khi tư tưởng
đã xâm nhập được vào quần chúng được ủng hộ, đây sẽ tạo ra động lực to lớn
thúc đẩy quần chúng đào thải hội để thay bằng hội mới. Một cách cụ thể
là khi tư tưởng tư sản đã hướng dẫn quần chúng xoá bỏ xã hội phong kiến, sáng tạo
và dây dựng nên chủ nghĩa tư bản, rồi dần thay đổiđến bây giờ là chủ nghĩa xã
hội. nhờ sự vận dụng đúng đắn các quy luật , thông qua các chủ trương
chính sách của Đảng Nhà nước, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân đã
từng bước được củng cố nâng cao, đất nước đã thoát khỏi được cuộc khủng
hoảng kinh tế hội, dần những chuyển biến tích cực trong mọi mặt đất
nước.
Kết lại, ý thức con người phản ánh các vấn đề bản trong đời sống hội như
khoa học, văn hoá tưởng cùng quan trọng. Chính từ những vấn đề
bản của hội khi được phản ánh bởi ý thức tiền đề điều kiện cho sự sáng
tạo, phát triển thế giới ngày càng toàn diện.
| 1/6

Preview text:

Đề bài : Bằng lý luận và thực tiễn hãy chứng minh rằng, ý thức con người không
chỉ phản ảnh thế giới mà còn góp phần sáng tạo ra thế giới. Bài làm
Theo Lênin : “ Ý thức là một trong hai phạm trù thuộc vấn đề cơ bản của triết học.
Nó là hình thức cao của sự phản ánh của thực tại khách quan, hình thức mà riêng
con người mới có. Ý thức của con người là cơ năng của cái khối vật chất đặc biệt
phức tạp mà người ta gọi là bộ óc con người”
Tất cả những hoạt động tinh thần diễn ra trong đầu óc của mỗi con người khi phản
ánh với thế giới vật chất xung quanh. Ý thức được hình thành và phát triển nhờ quá
trình lao động , từ đó được củng cố, định hình và thể hiện thành ngôn ngữ. Rất
nhiều yếu tố đã kết cấu tạo nên định nghĩa về ý thức. Theo lát cắt của chiều ngang,
ý thức bao gồm: tình cảm, ý chí, và tri thức. Trong kết cấu của ý thức, tình cảm
đóng vai trò quan trọng nhất, đó là sự rung động của con người với thế giới xung
quanh một cách ổn định. Ý chí là sự cố gắng nỗ lực, khả năng huy động mọi tiềm
năng trong mỗi con người vào hoạt động để vượt qua khó khăn, đạt được mục đích
đề ra. Cuối cùng là tri thức cũng chính là yếu tố cốt lõi của ý thức khi tri thức là kết
quả của quá trình con người nhận thức thế giới, là sự phản ánh thế giới khách quan.
Thứ đóng vai trò quan trọng nhất là tình cảm cùng với giá trị cốt lõi của ý thức là
tri thức sẽ thống nhất và chuyển hoá lẫn nhau, cũng chính nhờ sự thống nhất này sẽ
là động lực thúc đẩy con người phát triển và trở thành chủ thể sáng tạo ra thế giới .
Ý thức chính là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Nói về nguồn gốc của ý thức, ý thức có nguồn gốc từ tự nhiên và nguồn gốc từ xã
hội. Dựa trên những thành tựu của khoa học, hay cụ thể là chủ nghĩa duy vật biện
chứng khẳng định rằng bộ óc của con người ý thức chính là một dạng thuộc tính
của một vật chất sống có tổ chức cao. Có thể biết rằng, khối óc của con người
chính là sản phẩm của một quá trình tiến hoá và phát triển về mặt sinh vật và xã
hội. Ý thức được diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người,
đây cũng chính là một trong những chức nay của bộ não con người, chính là hình
ảnh tinh thần phản ánh thế giới khách quan. Trong suốt giai đoạn phát triển dọc
theo chiều dài lịch sử, nếu chỉ có bộ óc người mà không có sự tác động của khách
quan thế giới bên ngoài, bộ óc chẳng thể phản ánh lại những tác động và hình
thành nên ý thức. Trái đất hình thành trải qua quá trình tiến hoá lâu dài dẫn đến sự
xuất hiện của con người, đây cũng chính là lịch sử phát triển năng lực phản ảnh của
thế giới vật chất từ thấp đến cao và cao nhất chính là trình độ phản ánh - ý thức. Sự
phản ánh ý thức gắn liền với quá trình chuyển hoá và phát triển của con người đi từ
loài vượn thành loài người hiện đại. Đây là một loại hình thức phản ánh mới và là
đặc trưng của bộ óc con người – dạng vật chất có tổ chức cao nhất. Vì thế, ý thức
xuất phát từ nguồn gốc tự nhiên là những phản ánh về thế giới khách quan và là bộ óc của con người.
Về nguồn gốc xã hội, bên cạnh nguồn gốc tự nhiên, xã hội chính là điều kiện quyết
định cho sự ra đời của ý thức nhờ vào các vai trò của “Trước hết là lao động; sau
lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ; đó là hai sự kích thích chủ yếu đã
ảnh hưởng đến bộ óc của con người, làm bộ óc đó dần dần biến chuyển thành bộ
óc người.” – Ph. Ăngghen Về lao động, lao động góp phần cho con người từ dáng
đi khom của loài vượn người có được dáng đi thẳng đứng, giải phóng cho hai tay.
Ăngghen đã khẳng định : “Nhưng cùng với sự phát triển của bàn tay thì từng bước
một đầu óc cũng phát triển, ý thức xuất hiện, trước hết về những điều kiện của các
kết quả có ích thực tiễn và về sau,… là vễ những quy luật tự nhiên, chi phối các
hiệu quả có ích đó.” Chế độ ăn uống cũng thay đổi chế độ ăn uống, từ ăn sống
thành ăn chín uống sôi và có thịt trong bữa ăn, điều này cũng có ý nghĩa quyết định
cho quá trình chuyển hoá từ vượn thành loài người, chuyển đổi từ tâm lý của động
vật để hình thành ý thức. Mục đích của hoạt động biến đổi thế giới ngày càng thể
hiện và được nhận thức rõ rệt hơn khi con người biết đến chế tạo ra công cụ lao
động. Trong suốt quá trình lao động, việc con người tác động lên các đối tượng
hiện thực đã làm bộc lộ được những đặc tính và quy luật vận động của mình qua
những hiện tượng nhất định. Cũng chính các hiện tượng mang tính đặc trưng đã tác
động ngược lại vào bộ óc con người và gây nên những cảm giác, tri giác, biểu
tượng. Thế nhưng, trong quá trình hình thành ý thức không phải do tác động thuần
tuý tự nhiên của thế giới khách quan lên bộ óc con người mà chính nhờ hoạt động
lao động chủ động là chủ yếu mà đã cải tạo thế giới khách quan nên ý thức bao giờ
cũng là ý thức của con người hoạt động xã hội. Chính nhờ quá trình lao động của
con người khi tác động vào tế giới con người đã làm cho ý thức không ngừng phát
triển và mở rộng hơn hiểu biết của con người về những thuộc tính mới của sự vật.
Cũng từ đó, khả năng về tư duy trừu tuọng của con người dẫn xuất hiện và ngày
càng phát triển. Mối liên hệ giữa con người với nhau ngày càng phát triển không
ngừng và được củng cố đến mức làm nảy sinh một nhu cầu cần thiết về ngôn ngữ,
một phương tiện vật chất để biểu đạt sự vật và các quan hệ của chúng. Ngôn ngữ là
hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. “Ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của
tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng; không có ngôn ngữ thì con người không
thể có ý thức” – theo Mác. Chính vì thế, lao động và ngôn ngữ là hai sức kích thích
chủ yếu để nào bộ vượn thành não bộ người, phản ánh tâm lý động vật thành phản
ánh ý thức. Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người
thông qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội và chính đây cũng là một sản
phẩm của xã hội, một hiện tượng xã hội.
“Bản chất ý thức là hình ảnh chủ quan của của thế giới khách quan là quá trình
phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của óc người.” Nghĩa là nội dung
của ý thức là do thế giới khách quan quy định, nhưng khi được phản ánh thì nó lại
là dấu ấn chủ quan của con người. Thế nhưng không phải mọi lúc thế giới khách
quan tác động vào bộ óc người là có thể tự động chuyển hoá thành ý thức. Ngược
lại, ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo về thế giới, do nhu cầu của việc con
người cải biến giới tự nhiên quyết định và được thực hiện thông qua hoạt động lao
động. Vì vậy, ý thức ... là cái vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con
người và được cải biến đi ở trong đó”. Dựa trên cơ sở những cái sẵn có, ý thức có
thể tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra những cái không có trong
thực tế, chính vì thế mà tính sáng tạo của ý thức được thể hiện một cách rất phong
phú. Những khả năng ấy càng nói lên tính chất phức tạp và phong phú của đời
sống tâm lý – ý thức ở con người mà khoa học còn phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu
để làm sáng tỏ bản chất của những hiện tượng ấy.Tuy nhiên, sáng tạo của ý thức là
sáng tạo của phản ánh, bởi vì ý thức bao giờ cũng chỉ là sự phản ánh tồn tại. Sáng
tạo và phản ánh là hai mặt thuộc bản chất của ý thức, ý thức là phản ánh nhưng là
sự phản ánh sáng tạo. Ý thức ra đời trong quá trình con người hoạt động cải tạo thế
giới, cho nên quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người là quá trình
năng động sáng tạo, thống nhất ba mặt. Đầu tiên là sự trao đổi giữa chủ thế và đối
tượng phản ánh với điều kiện nó mang tính hai chiều, có định hướng và chọn lọc
các thông tin cần thiết. Tiếp theo, sự mô hình hoá đối tượng trong tư duy dưới dạng
tinh thần. Thực tế đây là quá trình “sáng tạo lại” hiện thực của ý thức theo nghĩa :
mã hoá các đối tượng vật chất thành các ý tưởng tinh thần phi vật chất. Cuối cùng
chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức quá trình hiện thực hoá
tư tưởng, thông qua hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm thành cái thực tại, biến
các ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài hiện thực.
Trong giai đoạn này, con người lựa chọn những phương pháp, phương tiện, công
cụ để tác động vào hiện thực khách quan nhằm thực hiện mục đích của mình. Khi
nói ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, cũng có nghĩa là ý thức là
sự phản ánh năng động sáng tạo về thế giới. Chính vì thế giới vật chất không bao
giờ chủ động bộc lộ hết bản chất, nhưng chính nhờ nhu cầu khám phá và chinh
phục giới tự nhiên để phục vụ nhu cầu cuộc sống, con người đã đề xuất ra được các
mô hình, các giả thuyết hay đề án tiên đoán về sự vật hiện tượng. Nhằm mục đích
khẳng định lại các chân lý, con người sử dụng những thực tiễn để buộc sự vật và
hiện tượng phải bộc lộ bản chất nhằm kiểm tra độ chính xác của các mô hình và
giả thuyết của chính họ. Trong các hoạt động thực tiễn phải tôn trọng và hành động
theo các quy luật khách quan. Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh về việc không được
sử dụng ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, áp đặt nó cho thực tế vì như
vậy sẽ dễ mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí. Thế nhưng , chủ nghĩa duy vật đồng
thời sẽ vạch rõ sự tác động ngược lại vô cùng lớn của ý thức đối với vật chất nhờ
hoạt thực tiễn của con người. Vì quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ hai
chiều. Nếu không nhận thức điều đó sẽ dễ rơi vào quan niệm duy vật tầm thường
và bảo thủ, trì trệ trong nhận thức lẫn hành động.
Dựa vào vai trò của ý thức, ý thức càng tỏ rõ sức sáng tạo khi ý thức xâm nhập vào
hiện thực cuộc sống, ý thức càng xâm nhập vào nhiều lớp thì tạo ra sức mạnh và
sức sáng tạo càng lớn. Tác động của ý thức xã hội đối với con người là vô cùng to
lớn. Nó không những là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn mà còn là động lực
thực tiễn. Nhưng khi nói đến vai trò cả ý thức thì phải nói đến vai trò của con
người, vì tự ý thức chẳng thể trực tiếp thay đổi điều gì trong hiện thực. Nhưng
thiếu đi ý thức thì chẳng con người nào phát triển và nhận thức vận dụng một cách
đúng đắn. Vai trò của ý thức chính là chỉ đạo những hoạt động thực tiễn của con
người, quyết định đúng và sai, thành công và thất bại mà biểu hiện rõ nhất ra là vai
trò của khoa học, văn học và tư tưởng. Cả giới tự nhiên thứ hai hay đời sống xã
hội của con người là sự thể hiện vai trò tác dụng của các nhân tố ý thức. Khi con
người càng phản ánh một cách đầy đủ, chính xác về thế giới khách quan thì việc
cải tạo và phát triển những sáng tạo trên thế giới ngày càng hiệu quả chứng minh
cho điều : “ Ý thức con người không chỉ phản ánh thế giới mà còn góp phần sáng
tạo thế giới.” Bên cạnh đó, khả năng tận dụng của ý thức phụ thuộc vào mức độ
xâm nhập của các nhân tố ý thức vào lượng vật chất và ngược lại nếu các nhân tố ý
thức không xâm nhập vào được thì chúng không đem lại hiệu quả gì. Chính vì thế
ý thức chỉ đem đến vai trò sáng tạo khi có thể xâm nhập vào hiện thực của vật chất.
Sự thể hiện vai trò tác dụng của các nhân tố ý thức được thể hiện qua trật tự xã hội,
chế độ xã hội là giới tự nhiên thứ hai với những công trình, những thành tựu khoa
học công nghệ, những thành tựu trong các lĩnh vực văn hóa xã hội..., hay đời sống
xã hội của con người. Nếu trong nhận thức và hoạt động thực tiễn , chúng ta tuyệt
đối hoá hay quá đề cao vai trò của nhân tố chủ quan thì sẽ ảnh hưởng không nhỏ
đến sự phát triển của xã hội, dễ rơi vào các căn bệnh như bảo thủ và trì trệ. Khi bảo
thủ sẽ dễ dẫn đến tình trạng ỷ lại, không chịu đổi mới, ngại thay đổi mà chỉ dựa
dẫm và chờ đợi thì sẽ cản trở cái mới, chỉ dậm chân tại chỗ chấp nhận thoả mãn với cái đã có.
Có thể nhìn nhận, nền kinh tế nước ta từ một xuất phát điểm tầm thấp, tiềm lực
kinh tế - kỹ thuật yếu kém nhưng trong điều kiện biến đổi nhanh chóng về khoa
học – kỹ thuật trên thế giới, liệu nước ta có thể nắm bắt kịp xu hướng thời đại trong
nền khoa học – kỹ thuật nước nhà? Câu hỏi này đặt ra cho chúng ta một vấn đề đó
là sự lựa chọn bước đi và trật tự ưu tiên phát triển khoa học – công nghệ trong
quan hệ với phát triển kinh tế trong các giai đoạn tới. Như vậy có nghĩa là ta cần
phải có tri thức vì tri thức là khoa học. Chúng ta phải không ngừng nâng cao khả
năng nhận thức cho mỗi người. Chỉ mỗi tri thức không vẫn chưa đủ, tri thức cần
biến thành niềm tin và ý chí để thực hiện được vai trò với cuộc sống hiện thực.
Công tác văn hoá – tư tưởng cũng là một thế mạnh của truyền thồng dân tộc. Các
chức năng của giá trị văn hoá đã đem lại chủ nghĩa nhân đạo, tính đạo đức. Tất cả
các giá trị về lẫn tinh thần và vật chất sẽ mất đi mọi ý nghĩa nếu không bao gồm
tính đạo đức trong đó. Cùng với cách mạng tư tưởng đã làm thay đổi đời sống
trong cả tinh thần và xã hội, xây dựng được mối quan hệ giữa tư tưởng tình cảm
với tư cách là một chủ thể xây dựng đời sống tinh thần để tạo ra được những điều
kiện tự do phát triển của con người. Khi có tự do, mỗi con người mới có khả năng
đóng góp phát triển xây dựng đất nước.
Ngày nay loài người có được sức sáng tạo to lớn và đạt được những thành công,
sáng tạo ra các phát minh vĩ đại là nhờ có sự phát huy tối đa của sức mạnh tinh
thần, đây chính là nền kinh tế tri thức. Khi mỗi sản phẩm làm ra đều mang một
phần chất xám thì đó là sự đúc kết của tri thức con người đã cấu tạo nên và tạo ra
sản phẩm. Hay như tư tưởng hướng dẫn quần chúng nhân dân để cải cách và thay
đổi chế độ cũ lỗi thời. Đa phần, các cuộc cách mạng đa phần đều được hướng dẫn
bởi tư tưởng cách mạng và dùng nó làm kim chỉ nam cho hành động. Khi tư tưởng
đã xâm nhập được vào quần chúng và được ủng hộ, đây sẽ tạo ra động lực to lớn
thúc đẩy quần chúng đào thải xã hội cũ để thay bằng xã hội mới. Một cách cụ thể
là khi tư tưởng tư sản đã hướng dẫn quần chúng xoá bỏ xã hội phong kiến, sáng tạo
và dây dựng nên chủ nghĩa tư bản, rồi dần thay đổi và đến bây giờ là chủ nghĩa xã
hội. Và nhờ có sự vận dụng đúng đắn các quy luật , thông qua các chủ trương
chính sách của Đảng và Nhà nước, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân đã
từng bước được củng cố và nâng cao, đất nước đã thoát khỏi được cuộc khủng
hoảng kinh tế và xã hội, dần có những chuyển biến tích cực trong mọi mặt đất nước.
Kết lại, ý thức con người phản ánh các vấn đề cơ bản trong đời sống xã hội như
khoa học, văn hoá và tư tưởng là vô cùng quan trọng. Chính từ những vấn đề cơ
bản của xã hội khi được phản ánh bởi ý thức là tiền đề và điều kiện cho sự sáng
tạo, phát triển thế giới ngày càng toàn diện.