Bài thảo luận nhóm pháp luật về hợp đồng và bồi thường ngoài hợp đồng
Có thể hiểu, trong quan hệ dân sự, khi con người không thể thực hiện được một công việc, cần một người thay thế mình thực hiện công việc đó thì người có công việc và người thực hiện công việc thay sẽ phát sinh quan hệ ủy quyền. Và khi một cá nhân thay cá nhân khác thực hiện công việc mà không có sự ủy quyền của người kia thì hai bên sẽ phát sinh vấn đề thực hiện công việc không có ủy quyền. Tài liệu giúp bạn tham khảo và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Trường: Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 46342576 Bộ môn:
BUỔI THẢO LUẬN THỨ NHẤT NGHĨA VỤ lOMoAR cPSD| 46342576 PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG VÀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG Lớp QT47.1 Nhóm 4
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 4 - LỚP QT47.1 lOMoAR cPSD| 46342576 Mục lục
VẤN ĐỀ 1: THỰC HIỆN CÔNG VIỆC KHÔNG CÓ ỦY QUYỀN ................... 1
1. Thế nào là thực hiện công việc không có ủy quyền? ....................................... 1
2. Vì sao thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa vụ? 1
3. Cho biết điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về chế định “thực hiện
công việc không có ủy quyền” ............................................................................. 2
4. Các điều kiện để áp dụng chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền”
theo BLDS 2015? Phân tích từng điều kiện ......................................................... 3
Tóm tắt bản án số 94/2021/DS-PT của TAND tỉnh Sóc Trăng ............................ 4
5. Trong Bản án nêu trên, Tòa án áp dụng quy định về “thực hiện công việc không
có ủy quyền” có thuyết phục không? Vì sao? ...................................................... 4
6. Việc Tòa án tính lãi đối với nghĩa vụ trả tiền như trong Bản án có thuyết phục
không? Vì sao? ..................................................................................................... 5
VẤN ĐỀ 2: THỰC HIỆN NGHĨA VỤ .................................................................... 5
1. Thông tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán như thế nào?
Qua trung gian là tài sản gì? ................................................................................. 5
2. Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô khoản tiền
cụ thể là bao nhiêu? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời ........................................... 7
3. Thông tư trên có điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển
nhượng bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT không? Vì sao?
.............................................................................................................................. 7
4. Đối với tình huống trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT, nếu giá trị nhà đất
được xác định là 1.697.760.000đ như Tòa án cấp sơ thẩm đã làm thì, theo Tòa án
nhân dân cấp cao tại Hà Nội, khoản tiền bà Hường phải thanh toán cho cụ Bảng
cụ thể là bao nhiêu? Vì sao? ................................................................................. 7
5. Hướng như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có tiền lệ chưa? Nêu
một tiền lệ (nếu có)? ............................................................................................. 8
VẤN ĐỀ 3: CHUYỂN GIAO NGHĨA VỤ THEO THỎA THUẬN ..................... 8
giao nghĩa vụ theo thỏa thuận? ............................................................................. 8
Tóm tắt bản án số 148/2007/DSST ngày 26/9/2007 về việc tranh chấp hợp đồng
vay ........................................................................................................................ 9
2. Thông tin nào của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho bà
Tú? ........................................................................................................................ 9 lOMoAR cPSD| 46342576
3. Đoạn nào của bán án cho thất nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được
chuyểnsang cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh? ............................................ 10
4. Suy nghĩ của anh/chị về đánh giá trên của Tòa án? ....................................... 10
5. Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách nhiệm đối với
người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được
chuyển giao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời ........................................................ 11
6. Nhìn từ góc độ quan điểm các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách
nhiệm đối với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện
nghĩa vụ được chuyển giao? Nêu rõ quan điểm của các tác giả mà anh/chị
biết ...................................................................................................................... 11
7. Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án theo hướng người có nghĩa vụ ban đầu
không còn trách nhiệm đối với người có quyền? ............................................... 12
8. Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Tòa án ............................ 12
9. Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp bảo lãnh
của người thứ ba thì, khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo lãnh có chấm
dứt không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời ....................................................... 13
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 13
1. Điểm giống và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển lOMoAR cPSD| 46342576
VẤN ĐỀ 1: THỰC HIỆN CÔNG VIỆC KHÔNG CÓ ỦY QUYỀN
1. Thế nào là thực hiện công việc không có ủy quyền?
- Theo quy định tại Điều 574 Bộ luật Dân sự 2015, việc thực hiện công việc
không có ủy quyền được định nghĩa như sau:
“Điều 574. Thực hiện công việc không có ủy quyền
Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một người không có nghĩa vụ
thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó vì lợi ích của người
có công việc được thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà không phản đối.”
- Có thể hiểu, trong quan hệ dân sự, khi con người không thể thực hiện được
một công việc, cần một người thay thế mình thực hiện công việc đó thì người có công
việc và người thực hiện công việc thay sẽ phát sinh quan hệ ủy quyền. Và khi một cá
nhân thay cá nhân khác thực hiện công việc mà không có sự ủy quyền của người kia
thì hai bên sẽ phát sinh vấn đề thực hiện công việc không có ủy quyền.
Ví dụ: Bà A và bà B là hàng xóm. Khi nói chuyện với nhau bà A đã nói với bà B
là vài ngày nữa sẽ cắt rau bán cho C theo thỏa thuận đã có giữa hai bên trước đó. Tuy
nhiên, khi tới ngày thu hoạch thì bà A do có công việc đột xuất nên không có mặt ở
nhà. Thấy có D đến hỏi mua rau với giá cao hơn của C mua nên bà B đã tự ý cắt rau
bán cho D, mặc dù đã biết A có ý định bán cho C nhưng B lại làm trái với ý chí của A
nên nếu xảy ra thiệt hại B có trách nhiệm bồi thường cho A bởi vì trong quá trình thực
hiện công việc không có ủy quyền, người thực hiện gây ra thiệt hại cho người có công
việc thì phải có trách nhiệm bồi thường cho người có công việc, nếu do lỗi vô ý mà
gây ra thiệt hại căn cứ vào hoàn cảnh đảm nhận công việc người đó có thể giảm mức
bồi thường quy định cụ thể tại Điều 577 Bộ luật dân sự 2015.
2. Vì sao thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa vụ?
- Để phát sinh nghĩa vụ: phát sinh trong thực tế được nhà làm luật dự liệu
- Người tốt luôn có lợi => được trả chi phí thù lao, bảo vệ truyền thốngtương
thân, khuyến khích mọi người giúp đỡ lẫn nhau
- Không có thỏa thuận nên họ có thể thực hiện tùy tiện => ràng buộc pháplý
để đảm bảo lợi ích của người có công việc
- Thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự vì:
+ Dù đây là trường hợp giữa họ không có hợp đồng ủy quyền nào, người thực
hiện công việc không có nghĩa vụ phải làm nhưng đã thực hiện công việc một cách
tự nguyện, hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc.
+ Người thực hiện công việc không có ủy quyền tự ý thức rằng nếu không có ai
thực hiện công việc này thì người có công việc bị thiệt hại một số lợi ích vật chất nhất
định. Lợi ích này có thể là những lợi ích mà người có công việc được thực hiện không
thu được hoặc lợi ích của họ giảm đáng kể. Người thực hiện công việc không có ủy 1 lOMoAR cPSD| 46342576
quyền xem đó là bổn phận của mình và phải thực hiện công việc nhằm mang lại lợi
ích cho người có công việc.
+ Việc thực hiện công việc không có ủy quyền không vi phạm điều cấm của pháp
luật, không trái với đạo đức xã hội.
=> Thực hiện công việc không có ủy quyền là những sự kiện có thể xảy ra trong
thực tế, được pháp luật dự liệu trước và công nhận là có giá trị pháp lý thông qua các
quy phạm pháp luật nhất định.
3. Cho biết điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về chế định “thực
hiện công việc không có ủy quyền”.
- Chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền” của BLDS 2015 có những
điểm mới so với BLDS 2005 như sau: Cspl 574,578,
Thứ nhất là về chủ thể thực hiện công việc không có ủy quyền
- BLDS 2005 quy định: Chủ thể người có công việc được thực hiện chỉ có cánhân
- BLDS 2015 quy định: Chủ thể người có công việc được thực hiện bao gồm
cảcá nhân và pháp nhân (Mở rộng phạm vi chủ thể).
Thứ hai là về mục đích thực hiện công việc không có ủy quyền
- BLDS 2005 quy định: "Hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc được
thựchiện" (không có mục đích khác).
- BLDS 2015 quy định: "Thực hiện công việc đó vì lợi ích của người có
côngviệc được thực hiện" (Bỏ đi hai chữ "hoàn toàn" là vì lợi ích của người có công
việc được thực hiện như ng cũng có thể vì mục đích khác tuy nhiên không được làm
trái với lợi ích của người có công việc được thực hiện và các chủ thể khác. Đồng thời,
đây cũng là cơ sở để Tòa án linh hoạt hơn trong việc xét xử.) - lợi ích người có công
việc không hạn chế lợi ích của người khác ( bỏ đi từ “hoàn toàn”)
Thứ ba là về nghĩa vụ thực hiện công việc không có ủy quyền
- BLDS 2015 quy định các trường hợp người thực hiện công việc không có
ủyquyền không cần phải báo cho người có công việc được thực hiện về quá trình và
kết quả thực hiện công việc bao gồm cả “không biết nơi cư trú” và “không biết trụ
sở” của người có công việc được thực hiện.
Ví dụ : Anh A là chủ sở hữu của một con trâu. Anh B có một mảnh ruộng. Với tư
cách chủ sở hữu anh A phải coi kĩ con trâu của mình nhưng do cọc lỏng nên mém nữa
con trâu của anh A lao vào hủy hoại vườn của anh B nhưng anh C đã ngăn cản kịp
thời => Anh C đã thực hiện nghĩa vụ chăm sóc thay anh A và giữ mảnh vườn giúp
anh C. Thực hiện công việc k có ủy quyền đem lại lợi ích cho cả 2.
=> Hướng sửa đổi theo điều 575 BLDS 2015 ko còn tiêu cực 2 lOMoAR cPSD| 46342576
- BLDS 2005 thì chỉ quy định về “không biết nơi cư trú”. (Sự bổ sung trên
làhoàn toàn hợp lí vì chủ thể của luật dân sự ngoài cá nhân thì còn có pháp nhân.
Theo đó, với một pháp nhân thì lại không tồn tại khái niệm “nơi cư trú” mà lại là khái
niệm “trụ sở”, tức nơi đặt cơ quan điều hành của pháp nhân đó.
Thứ tư là về chấm dứt thực hiện công việc không có ủy quyền
- BLDS 2015 quy định rõ ràng một trong các trường hợp chấm dứt thực
hiệncông việc không có ủy quyền là “Người thực hiện công việc không có ủy quyền
chết, nếu là cá nhân hoặc chấm dứt tồn tại, nếu là pháp nhân”
=> Làm rõ hơn vấn đề về chủ thể, người bao gồm cá nhân và pháp nhân
- BLDS 2005 thì chỉ quy định: “Người thực hiện công việc không có ủy
quyềnchết”. (Sự thay đổi này hoàn toàn hợp lí vì có bổ sung thêm quy định đối với
pháp nhân. Theo đó, đối với một pháp nhân thì không có khái niệm “chết” mà chỉ có
“chấm dứt tồn tại”.)
4. Các điều kiện để áp dụng chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền”
theo BLDS 2015? Phân tích từng điều kiện.
- Căn cứ Điều 574 BLDS 2015 cần phải thỏa mãn 4 điều kiện mới được áp dụng
chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền”:
+ Người thực hiện là người không có nghĩa vụ thực hiện công việc đó: Người
thực hiện công việc không có ủy quyền là người hoàn toàn không có nghĩa vụ phải
thực hiện công việc nhưng đã thực hiện công việc đó. Nghĩa vụ ở đây là nghĩa vụ
pháp lý do luật định hoặc do các bên thỏa thuận. Trong điều kiện này, để thực hiện
công việc không có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự, thì phải có một
người “thực hiện công việc” của người khác. BLDS không có quy định về năng lực
hành vi của người thực hiện công việc không có ủy quyền nên ai cũng có thể là người
thực hiện công việc. Điều kiện “không có nghĩa vụ thực hiện công việc” dường như
chỉ được xem xét trong quan hệ giữa người thực hiện công việc và người có công việc
được thực hiện nhưng trên thực tế nếu công việc này được thực hiện theo yêu cầu của
người thứ ba hay theo thỏa thuận với người thứ ba thì vẫn có thể vận dụng chế định
thực hiện công việc không có ủy quyền.
+ Người thực hiện công việc hoàn toàn tự nguyện khi thực hiện công việc: Việc
thực hiện công việc đó không phải là nghĩa vụ bắt buộc của người thực hiện công
việc, tức là họ muốn thì thực hiện, không muốn có thể không thực hiện, họ có thực
hiện hay không thì cũng không phải chịu bất cứ chế tài nào. Pháp luật cũng không có
bất cứ quy định nào buộc một người phải thực hiện một công việc cho người khác
nếu như không có bất cứ thỏa thuận nào.
+ Thực hiện công việc vì lợi ích của người có công việc được thực hiện: Tại thời
điểm bắt đầu thực hiện công việc, người thực hiện công việc phải thể hiện ý chí thực
hiện công việc nhằm mang lại lợi ích, hoặc ngăn chặn thiệt hại cho người có công
việc. Để xác định việc thực hiện công việc có hoàn toàn vì lợi ích của người có công 3 lOMoAR cPSD| 46342576
việc hay không thì phải xem xét hoạt động thực hiện công việc đó có mang tính chất
chuyên nghiệp hay không. Nếu hoạt động thực hiện công việc cho người khác là một
hoạt động thường xuyên tại một địa điểm nhất định với mong muốn nhận tiền thù lao
thì không được coi là thực hiện công việc hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc.
Nếu việc thực hiện công việc không được thực hiện thường xuyên, tức là việc thực
hiện công việc xảy ra tức thì, thì có thể xác định việc thực hiện công việc hoàn toàn
vì lợi ích của bên có công việc.
+ Người có công việc được thực hiện không biết hoặc biết mà không phản đối:
Tại thời điểm công việc được thực hiện, người có công việc không biết người khác
thực hiện công việc cho mình, hoặc có thể họ biết nhưng không phản đối việc thực
hiện công việc đó. Bản chất của việc thực hiện công việc không có ủy quyền là sự
giúp đỡ người khác vượt qua những khó khăn, tránh những thiệt hại không đáng có.
Do đó, nếu người có công việc có mặt hoặc biết việc người khác thực hiện công việc
cho mình thì họ sẽ không phản đối nếu việc thực hiện công việc đó có lợi cho mình
và bản thân mình không thể thực hiện được công việc đó tại thời điểm phải thực hiện công dviệc.
- Ngoài các điều kiện quan trọng trên, việc áp dụng chế định “thực hiện công việc
không có ủy quyền” còn phải đáp ứng điều kiện khác, giữa người thực hiện công việc
và người có công việc được thực hiện không tồn tại một hợp đồng, không có ủy quyền.
Tóm tắt bản án số 94/2021/DS-PT của TAND tỉnh Sóc Trăng
Nguyên đơn là bà V (chị em ruột với bị đơn), bị đơn là ông H và bà Đ (đã ly hôn
năm 2008). Đây là vụ việc tranh chấp đòi lại tài sản. Cụ thể, năm 2006 bị đơn H và
Đ vay vốn tại Quỹ TDTW Sóc Trăng số tiền 100 triệu đồng và thế chấp căn nhà thờ
cúng cùng mảnh đất. Quá trình vay vốn vợ chồng bị đơn không thanh toán nên Quỹ
đã yêu cầu phát mãi tài sản thế chấp để thu hồi nợ. Nguyên đơn V sợ bị phát mãi tài
sản nên đứng ra trả số tiền 100 triệu đồng gốc và hơn 24 triệu đồng tiền lãi vào năm
2009. Khi nguyên đơn yêu cầu trả nợ thì bị đơn không trả nên đã khởi kiện. TAND
Sóc Trăng áp dụng chế định về thực hiện công việc không có ủy quyền và yêu cầu bị
đơn trả số tiền do nguyên đơn yêu cầu (bao gồm nợ gốc và lãi đối với nghĩa vụ trả tiền).
_________________________________
5. Trong Bản án nêu trên, Tòa án áp dụng quy định về “thực hiện công việc
không có ủy quyền” có thuyết phục không? Vì sao?
Tòa án áp dụng quy định về “thực hiện công việc không có ủy quyền” là không
thuyết phục vì tuy việc thực hiện công việc này thỏa mãn điều kiện “không phải là
nghĩa vụ do các bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định” và điều kiện “người có
công việc được thực hiện không biết hoặc biết mà không phản đối” nhưng không thỏa
mãn “việc thực hiện công việc đó vì lợi ích của người có công việc được thực hiện”.
Bởi nguyên đơn V đứng ra trả nợ thay cho nguyên đơn là vì sợ phát mãi tài sản là căn 4 lOMoAR cPSD| 46342576
nhà thờ cúng tổ tiên, một tài sản có giá trị quá lớn về mặt tinh thần đối với người Việt
trong truyền thống uống nước nhớ nguồn. Tức lợi ích hướng đến ở đây là dành cho
bản thân nguyên đơn và con cháu đời sau, chứ không phải là của bị đơn. Thêm một
chút về lợi ích của bị đơn, tôi cho rằng bị đơn thực sự không trân trọng căn nhà thờ
cúng vì nếu bị đơn thực sự có lòng thì họ đã không thế chấp căn nhà ấy và để chuyện
không thực hiện đầy đủ đối với chủ nợ dẫn tới việc chủ nợ yêu cầu phát mãi tài sản
thế chấp để thu hồi nợ.
6. Việc Tòa án tính lãi đối với nghĩa vụ trả tiền như trong Bản án có thuyết
phục không? Vì sao?
Việc Tòa án tính lãi đối với nghĩa vụ trả tiền như trong Bản án KHÔNG thuyết
phục. Dựa vào bản án, ta thấy Tòa tính lãi căn cứ khoản 1 Điều 576 BLDS 2015 để
áp dụng chế định về “thực hiện công việc không có ủy quyền” thế nhưng, tôi cho rằng
Tòa đã sai khi áp dụng chế định ấy vì không thỏa mãn một trong ba điều kiện áp dụng
ấy. Điều này kéo theo quan điểm rằng Tòa căn cứ Điều 357 và khoản 2 Điều 468
BLDS 2015 quy định về trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền và quy định
về lãi suất cũng không thuyết phục. Bởi hành động trả tiền thay của nguyên đơn V
không là việc hành động thực hiện công việc không có ủy quyền nên ở bị đơn không
làm phát sinh nghĩa vụ và trách nhiệm trả tiền.
VẤN ĐỀ 2: THỰC HIỆN NGHĨA VỤ
(THANH TOÁN MỘT KHOẢN TIỀN )
1. Thông tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán như thế
nào? Qua trung gian là tài sản gì?
- Theo thông tư 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính quy định về trường hợp đối tượng của
nghĩa vụ tài sản là các khoản tiền, vàng thì giá trị được thanh toán được tính như sau:
1. Đối với nghĩa vụ là các khoản tiền bồi thường, tiền hoàn trả, tiền công, tiền
lương, tiền chia tài sản, tiền đền bù công sức, tiền cấp dưỡng, tiền vay không có lãi,
tiền truy thu t//huế, tiền truy thu do thu lợi bất chính:
a) Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ dân sự xảy ra trước ngày 1-7-
1996 và trong thời gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ đến thời
điểm xét xử sơ thẩm mà giá gạo tăng từ 20% trở lên, thì Toà án quy đổi các khoản
tiền đó ra gạo theo giá gạo loại trung bình ở địa phương (từ đây trở đi gọi tắt là "giá
gạo") tại thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ, rồi tính số lượng gạo đó
thành tiền theo giá gạo tại thời điểm xét xử sơ thẩm để buộc bên có nghĩa vụ về tài
sản phải thanh toán và chịu án phí theo số tiền đó. 5 lOMoAR cPSD| 46342576
b) Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ xảy ra sau ngày 1-7-1996hoặc
tuy xảy ra trước ngày 1-7-1996, nhưng trong khoảng thời gian từ thời điểm gây thiệt
hại hoặc phát sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ thẩm mà giá gạo không tăng hay
tuy có tăng nhưng ở mức dưới 20%, thì Tòa án chỉ xác định các khoản tiền đó để
buộc bên có nghĩa vụ phải thanh toán bằng tiền. Trong trường hợp người có nghĩa vụ
có lỗi thì ngoài khoản tiền nói trên còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi
suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chậm trả
tại thời điểm xét xử sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 313 BLDS 2015, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
2. Đối với các khoản tiền tịch thu, tiền phạt, tiền án phí thì khi xét xử Tòa án
chỉquyết định mức tiền cụ thể mà không áp dụng cách tính đã hướng dẫn tại khoản 1 nói trên.
3. Đối với các khoản tiền vay, gửi ở tài sản Ngân hàng, tín dụng, do giá trị củacác
khoản tiền đó đã được bảo đảm thông qua các mức lãi suất do Ngân hàng Nhà nước
quy định, cho nên khi xét xử, trong mọi trường hợp Tòa án đều không phải quy đổi
các khoản tiền đó ra gạo, mà quyết định ràng buộc bên có nghĩa vụ về tài sản phải
thanh toán số tiền thực tế đã vay, gửi cùng với khoản tiền lãi, kể từ ngày khi giao dịch
cho đến khi thi hành án xong, theo mức lãi suất tương ứng do Ngân hàng Nhà nước quy định.
4. Đối với các khoản vay có lãi (kể cả loại có kỳ hạn và loại không có kỳ hạn)
ởngoài tổ chức Ngân hàng, tín dụng, do giá trị của các khoản tiền đó cũng đã được
bảo đảm thông qua việc chịu lãi của bên vay tài sản, cho nên trong mọi trường hợp
toà án đều không phải quy đổi số tiền đó ra gạo, mà chỉ buộc người vay phải trả số
tiền nợ gốc chưa trả cùng với số tiền lãi chưa trả.
5. Trong trường hợp đối tượng hợp đồng vay tài sản là vàng, thì lãi suất chỉđược
chấp nhận khi Ngân hàng Nhà nước có quy định và cách tính lãi suất không phân biệt
như các trường hợp đã nêu tại khoản 4 trên đây, mà chỉ tính bằng mức lãi suất do
Ngân hàng Nhà nước quy định.
- Vậy thông tư trên cho thấy tại khoản 1 phải thanh toán qua trung gian còn
cáckhoản 2,3,4,5 thì được tính thông qua mức tiền cụ thể hoặc được đảm bảo bằng
lãi suất ngân hàng. Và từ đó ta thấy được các khoản 2,3,4,5 của thông tư 01 đã thể
hiện đúng như tinh thần của khoản 2 Điều 280 BLDS 2015: “ Nghĩa vụ trả tiền bao
gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
- Tại khoản 1 của Thông tư 01 thì việc tính lại giá trị khoản tiền được thực
hiệnthông qua trung gian là “gạo”. Nghĩa là khoản tiền đó sẽ được quy đổi ra gạo
theo giá trung bình tại thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ, sau đó tính số
lượng gạo đó thành tiền tại thời điểm xét xử sơ thẩm. 6 lOMoAR cPSD| 46342576
2. Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô khoản
tiền cụ thể là bao nhiêu? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Căn cứ vào thông tư 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính hướng dẫn việc xét xử và
thi hành án về tài sản (đã nêu ở câu trên) thì thời điểm phát sinh nghĩa vụ dân sự của
ông Quới và bà Cô trước ngày 1/7/1997.
- Trong thời gian gây ra thiệt hại và phát sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử
sơthẩm giá gạo đã tăng quá 20% ( từ 137 đồng lên đến 18.000 đồng/1 ký)
- Quy đổi khoản tiền thế chân 50.000 đồng ra gạo với giá trị tại thời điểm
phátsinh nghĩa vụ là: 50.000 : 137 = 365 kg
- Giá gạo trung bình hiện nay là 18 000 đồng /1 kg nên số tiền ông Quới phảitrả
cho bà Cô là: 365 × 18.000 = 6.570.000 đồng
3. Thông tư trên có điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển
nhượng bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT không? Vì sao? -
Thông tư 01/TTLT ngày 19/6/1997 không điều chỉnh việc thanh toán
tiềntrong hợp đồng chuyển nhượng bất động sản như trong Quyết định số
15/2018/DSGĐT vì đối tượng tài sản do thông tư này điều chỉnh là tiền, vàng và
hiện vật chứ không phải là quyền sử dụng đất. -
Cơ sở pháp lý Mục 1, Mục 2 Thông tư 01/TTLT ngày 19/6/1997: -
Mục 1 “Trường hợp đối tượng của nghĩa vụ về tài sản là các khoản tiền, vàng”. -
Mục 2 “Trường hợp đối tượng của nghĩa vụ về tài sản là hiện vật”.
4. Đối với tình huống trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT, nếu giá trị nhà
đất được xác định là 1.697.760.000đ như Tòa án cấp sơ thẩm đã làm thì, theo Tòa
án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, khoản tiền bà Hường phải thanh toán cho cụ
Bảng cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?
- Trong quyết định số 15/2018/DS-GĐT, Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội
cónêu rõ:“Bà Hương phải thanh toán cho cụ Bảng số tiền còn nợ tương ứng 1/5 giá
trị nhà, đất theo định giá tại thời điểm xét xử sơ thẩm mới đúng với hướng dẫn tại
thời điểm b2 tiểu mục 2.1, mục 2, phần II Nghị Quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày
10/08/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao”.
- Nếu giá trị nhà đất được xác định là 1.670.700.000đ như Toà án cấp sơ thẩmđã
làm thì, theo Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, khoản tiền bà Hương phải thanh
toán cho cụ Bảng cụ thể là: 1.670.700.000đ ×1/5 = 339.552.000đ.
- Bà Hương phải thanh toán cho cụ Bảng số tiền cụ thể là 339.552.000đ cùngvới
lãi suất theo quy định pháp luật. 7 lOMoAR cPSD| 46342576
5. Hướng như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có tiền lệ chưa?
Nêu một tiền lệ (nếu có)? -
Hướng như trên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã có tiền lệ. -
Tiền lệ: Quyết định Giám đốc thẩm số: 09/HĐTP-DS ngày 24/02/2005
về “Vụán tranh chấp nhà đất và đòi nợ” và Quyết định 741/2011/DS-GĐT ngày 26-
9-2011 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao Tóm tắt: -
Nguyên đơn: Bà Bùi Thị Lai. -
Bị đơn: Ông Phạm Thanh Xuân. -
Năm 1994, ông Xuân vay bà Lai 11.500.000đ (Giấy nợ không ghi ngày
thángnăm nên hai bên tự thống nhất năm 1994). Ngày 12/02/1996, ông Xuân vay
tiếp 128.954.000đ. Ngày 08/8/1996, hai bên tính nợ và chốt nợ là 188.600.000đ
và thỏa thuận ông Xuân chuyển nhượng nhà số 19 cho bà Lai giá 188.600.000đ.
Do ông Xuân không thanh toán cũng không giao nhà nên vào ngày 05/8/1997,
hai bên lại chốt nợ gốc và lãi số tiền 188.600.000đ lên 250.000.000đ; hai bên
thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất với giá 250.000.000đ. Sau đó, bà
Lai vẫn tính lãi số tiền 250.000.000đ trong 02 tháng thành 6.000.000đ để cộng
vào số tiền 44.000.000đ ông Xuân vay vào ngày 6/11/1997 thành 50.000.000đ.
Quyết định của Tòa án: Hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 199/DSPT ngày
25/12/2001 và Bản án dân sự sơ thẩm số 02 ngày 10/5/2000. Giải quyết lại vụ án từ
sơ thẩm theo đúng quy định pháp luật.
VẤN ĐỀ 3: CHUYỂN GIAO NGHĨA VỤ THEO THỎA THUẬN
1. Điểm giống và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền yêu cầu và
chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận?
Căn cứ theo Điều 356, Điều 368 và Điều 370, Điều 371 BLDS 2015. Điểm giống cơ bản:
- Có ít nhất 3 chủ thể trong quan hệ chuyển giao quyền và chuyển giao nghĩavụ.
- Việc chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận
làmchấm dứt tư cách chủ thể của người chuyển giao và xác lập tư cách chủ thể cho
người được chuyển giao.
- Các quyền và nghĩa vụ gắn với nhân thân của người chuyển giao thì khôngđược chuyển giao. 8 lOMoAR cPSD| 46342576
- Xuất phát từ sự thỏa thuận giữa các bên.
- Đều phải thông báo cho bên có nghĩa vụ/ bên có quyền nếu chuyển giaoquyền, chuyển giao nghĩa vụ.
- Về hình thức chuyển giao thì chuyển giao quyền/ nghĩa vụ đều được thể
hiệnbằng văn bản hay lời nói. Điểm khác nhau:
- Nguyên tắc chuyển giao: Việc chuyển giao quyền yêu cầu không cần có
sựđồng ý của bên có nghĩa vụ, người chuyển giao quyền yêu cầu phải thông báo bằng
văn bản cho bên có nghĩa vụ về việc chuyển giao quyền yêu cầu, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác. Còn việc chuyển giao nghĩa vụ thì bắt buộc phải được bên có quyền đồng ý.
- Đối tượng chuyển giao: Đối với chuyển giao quyền yêu cầu thì bên có quyềnlà
người có quyền chuyển giao. Còn việc chuyển giao nghĩa vụ thì bên có nghĩa vụ là
người thực hiện việc chuyển giao.
- Biện pháp bảo đảm: Trường hợp quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ có biệnpháp
bảo đảm thì việc chuyển giao yêu cầu bao gồm cả biện pháp bảo đảm. Còn đối với
chuyển giao nghĩa vụ thì biện pháp bảo đảm chấm dứt khi nghĩa vụ có biện pháp bảo
đảm được chuyển giao, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
____________________________________
Tóm tắt bản án số 148/2007/DSST ngày 26/9/2007 về việc tranh chấp hợp đồng vay.
Nguyên đơn là bà Trần Thị Cẩm Tú, bị đơn là bà Phùng Thị Bích Phượng và
Phùng Thị Bích Ngọc về việc tranh chấp hợp đồng vay. Bà Phượng làm biên nhận
vay với bà Tú số tiền 615.000.000đ, sau đó, bà Phượng thực hiện chuyển giao nghĩa
vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan, ông Thạnh dưới sự đồng ý của của bà Tú thông qua
việc bà Tú xác lập hợp đồng cho vay mới với bà Ngọc, bà Loan, ông Thạnh. Nay bà
Tú yêu cầu bà Phượng phải có trách nhiệm liên đới cùng bà Ngọc để trả phần vốn
vay. Tại Tòa án nhân dân thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang đã cho rằng nghĩa vụ trả nợ
của bà Phượng đối với bà Tú đã chấm dứt khi bà Tú chấp nhận cho bà Phượng chuyển
giao nghĩa vụ trả nợ đó cho bà Ngọc, bà Loan, ông Thạnh thông qua hợp đồng vay
mới mà bà Tú đã lập với bà Ngọc, bà Loan, ông Thạnh và buộc bà Ngọc trả cho bà
Tú số tiền 651.981.000đ.
___________________________________
2. Thông tin nào của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho bà Tú?
- Tại phần xét thấy của bản án 148/2007/DSST ngày 26/9/2007 của Tòa án
nhândân thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang: “ Theo các biên nhận tiền do phía bà Tú
cung cấp thì chính bà Phượng là người trực tiếp nhận tiền của bà Tú vào năm 2003 9 lOMoAR cPSD| 46342576
với tổng số tiền là 555.000.000 đồng và theo biên nhận ngày 27/4/2004 thì thể hiện
bà Phượng nhận cùng bà Lê Thị Nhan số tiền 615.000.000 đồng. Phía bà Phượng
không cung cấp được chứng cứ xác định bà Ngọc thỏa thuận vay tiền với bà Tú.
Ngoài ra, cũng theo lời khai của bà Phượng thì vào tháng 4 năm 2004, do phía bà
Loan, ông Thạnh và bà Ngọc không có tiền trả cho bà Tú để trả vốn vay Ngân hàng
nên bà đã cùng bà Tú vay nóng bên ngoài để có tiền trả cho Ngân hàng. Xác định bà
Phượng là người xác lập quan hệ vay tiền với bà Tú.”
- Xét thấy chủ thể của hợp đồng vay là bà Tú và bà Phượng. Trong bản ánkhông
có căn cứ xác định bà Phượng đã chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho người khác theo
Điều 370 BLDS 2015 về việc chuyển giao nghĩa vụ. Thế nên trong trường hợp này
bà Phượng là người có nghĩa vụ thanh toán nợ cho bà Tú.
3. Đoạn nào của bán án cho thất nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được
chuyển sang cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh?
- Tại phần xét thấy của bản án 148/2007/DSST ngày 26/9/2007 của Tòa án
nhândân thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang: “Xét hợp đồng vay tiền giùm bà Phượng
với bà Tú, phía bà Phượng đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nợ vay, không trả vốn, lãi
cho bà Tú. Lẽ ra phía bà Phượng phải có trách nhiệm thực hiện. Tuy nhiên, phía bà
Tú đã chấp nhận việc bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan
và ông Thạnh thể hiện qua việc bà Tú đã lập hợp đồng cho bà Ngọc vay số tiền
465.000.000 đồng và hợp đồng cho bà Loan, ông Thạnh vay số tiền 150.000.000 đồng
vào ngày 12/5/2005. Như vậy, kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay với bà
Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay của bà Phượng với bà Tú đã
chấm dứt, làm phát sinh nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh đối với bà Tú
theo hợp đồng vay tiền đã ký.”
- Như vậy, Tòa án xét thấy nghĩa vụ trả nợ đã được chuyển giao cho bà Ngọc,bà
Loan và ông Thạnh kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng với 3 người này đồng
thời nghĩa vụ trả nợ vay của bà Phượng cũng chấm dứt.
4. Suy nghĩ của anh/chị về đánh giá trên của Tòa án?
- Theo quan điểm cá nhân, đánh giá trên của Tòa án là linh hoạt và hợp lý, đúng
theo quy định của Pháp luật hiện hành.
+ Thứ nhất, Tòa án xác định nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được chuyển giao
sang cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh là có căn cứ và phù hợp với quy định của
pháp luật. Vì theo Điều 370 Bộ luật dân sự 2015 thì bên có nghĩa vụ có thể chuyển
giao nghĩa vụ dân sự cho người thế nghĩa vụ nếu được bên có quyền đồng ý và người
thế nghĩa vụ sẽ trở thành bên có nghĩa vụ. Trong trường hợp này, phía bà Tú đã chấp
nhận cho bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh, thông
qua việc bà Tú đã lập hợp đồng cho bà Ngọc vay số tiền 465.000.000đ và hợp đồng
cho bà Loan, ông Thạnh vay số tiền 150.000.000đ vào ngày 12/5/2005. Điều đó 10 lOMoAR cPSD| 46342576
thể hiện người có quyền là bà Tú đã đồng ý với việc chuyển giao này. Ngoài ra, BLDS
2015 cũng không quy định về hình thức thông báo về việc chuyển giao nghĩa vụ do
đó việc bà Tú giao kết hai hợp đồng vay vào ngày 12/05/2005 đã thể hiện và đã được
thông báo và chấp nhận việc chuyển giao nghĩa vụ. Như vậy, khi đã chuyển giao nghĩa
vụ theo thỏa thuận, người có nghĩa vụ trả nợ ban đầu là bà Phượng sẽ được giải phóng
hoàn toàn, không phải chịu trách nhiệm liên đới. Thay vào đó bà Ngọc và bà Loan,
ông Thanh sẽ trở thành người thay thế nghĩa vụ, có trách nhiệm trả số nợ còn thiếu cho bà Tú.
+ Thứ hai, việc Tòa án thừa nhận việc chuyển giao nghĩa vụ trả nợ từ Phượng
sang cho bà Ngọc và bà Loan, ông Thạnh là phù hợp với bản chất của giao dịch giữa
tất cả các bên và cũng đã được các bên thừa nhận. Cụ thể, bà Phượng đóng vai trò
trung gian, vay tiền của bà Tú để cho bà Ngọc và bà Loan, ông Thanh vay lại. Hơn
nữa, theo nội dung bản án thì bà Tú còn nhận thế chấp tài sản bảo đảm của bà Ngọc
là quyền sử dụng đất.
5. Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách nhiệm
đối với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ
được chuyển giao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Cơ sở pháp lý: Điều 370 BLDS 2015, các Điều từ 372 đến Điều 384 BLDS2015.
- Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu vẫn còn trách nhiệm đốivới
người có quyền khi người thế nghĩa vụ không thực hiện được nghĩa vụ được chuyển
giao. Xuất phát trên cơ sở của Bộ Luật dân sự, việc chuyển giao nghĩa vụ nhằm giúp
người có quyền sớm thực hiện được thực hiện quyền của mình.
- Thêm vào đó, chưa có căn cứ để xác định chấm dứt nghĩa vụ theo các nộidung
ở Điều 372 đến Điều 384 BLDS 2015.
6. Nhìn từ góc độ quan điểm các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu có còn
trách nhiệm đối với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực
hiện nghĩa vụ được chuyển giao? Nêu rõ quan điểm của các tác giả mà anh/chị biết. -
Nhìn từ góc độ quan điểm của các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu
không còn trách nhiệm đối với người có quyền khi người thế nghĩa vụ không
thực hiện nghĩa vụ được chuyển giao, trừ trường hợp có thoả thuận khác. -
Theo tác giả Chế Mỹ Phương Đài: 11 lOMoAR cPSD| 46342576
+ “Trên cơ sở sự thỏa thuận với sự đồng ý của bên có quyền, người thứ ba thay
thế người có nghĩa vụ trước đó trở thành người có nghĩa vụ mới hay còn gọi là người
thế nghĩa vụ. Người có nghĩa vụ chấm dứt toàn bộ mối quan hệ nghĩa vụ với bên có
quyền. Sau khi việc chuyển giao nghĩa vụ có hiệu lực, người có quyền chỉ được phép
yêu cầu người thế nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ nên người đã chuyển giao nghĩa vụ
không phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện nghĩa vụ của bên thế nghĩa vụ.”
+ “Đối với việc uỷ quyền, người được uỷ quyền không thể trở thành một bên chủ
thể độc lập trong quan hệ nghĩa vụ chính mà người này chỉ được thực hiện nghĩa vụ
theo sự uỷ quyền của người uỷ quyền, nhân danh người uỷ quyền và vì lợi ích của người uỷ quyền.” -
Theo tác giả Đỗ Văn Đại:
“Nếu cho rằng người có nghĩa vụ ban đầu vẫn có trách nhiệm đối với người có
quyền thì chúng ta không thấy sự khác nhau giữa chuyển giao nghĩa vụ với “thực hiện
nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba”. Do vậy, để chuyển giao nghĩa vụ là một
chế định độc lập với chế định thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba, cần
xác định rõ chuyển giao nghĩa vụ giải phóng người có nghĩa vụ ban đầu, trừ khi có
bên có thoả thuận khác.” Tác giả đã khẳng định “khi có chuyển giao nghĩa vụ theo
thoả thuận thì người có nghĩa vụ ban đầu không còn trách nhiệm với người có quyền
đối với nghĩa vụ hay phần nghĩa vụ được chuyển giao” thông qua hướng giải quyết
của Tòa giám đốc thẩm trong Quyết định số 361/2009/DS-GĐT ngày 13-82009 của
Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao.
7. Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án theo hướng người có nghĩa vụ ban
đầu không còn trách nhiệm đối với người có quyền?
- Đoạn của bản án cho thấy Toà án theo hướng người có nghĩa vụ ban đầu không
còn trách nhiệm đối với người có quyền: “Như vậy, kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp
đồng vay với bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đối
với bà Tú đã chấm dứt, làm phát sinh nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh
đối với bà Tú theo hợp đồng vay tiền đã ký. Việc bà Tú yêu cầu bà Phượng có trách
nhiệm thanh toán nợ cho bà là không có căn cứ chấp nhận”, “Việc bà Tú giữ giấy
chứng minh Hải quan của bà Phượng theo thỏa thuận. Phía bà Phượng không có nghĩa
vụ trả nợ cho bà Tú, buộc bà Tú hoàn trả lại bà Phượng giấy chứng minh Hải quan.”
8. Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.
- Hướng giải quyết của Tòa án là hoàn toàn hợp lý vì khi đồng ý thực hiện chuyển
giao nghĩa vụ dân sự thì nghĩa vụ của bà Phượng không còn nữa mà thay vào đó sẽ
là của bà Ngọc, bà Loan, ông Thạnh. Khi chuyển giao nghĩa vụ thì phải có sự đồng ý
của bên có quyền. Nghĩa là bên có quyền cũng đã xem xét đến khả năng, điều kiện
có thể thực hiện nghĩa vụ của người thế nghĩa vụ để đảm bảo đến quyền lợi hợp pháp
của mình. Vì thế, nếu nói người có nghĩa vụ ban đầu sau khi chuyển nghĩa vụ thì
không còn trách nhiệm với bên có quyền cũng là điều hợp lí. Nếu cho rằng người có 12 lOMoAR cPSD| 46342576
nghĩa vụ ban đầu vẫn còn trách nhiệm với người có quyền thì chế định này sẽ không
tìm thấy sự khác biệt giữa chế định ủy quyền (thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba).
9. Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp
bảo lãnh của người thứ ba thì, khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo
lãnh có chấm dứt không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Biện pháp bảo lãnh là một biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự nên theo Điều
371 BLDS 2015, trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện
pháp bảo lãnh của người thứ ba thì khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo
lãnh sẽ chấm dứt nếu không có thỏa thuận khác: “Trường hợp nghĩa vụ có biện pháp
bảo đảm được chuyển giao thì biện pháp bảo đảm đó chấm dứt, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ luật dân sự 2015
2. Bản án số 94/2021/DS-PT ngày 03/11/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh SócTrăng.
3. Thông tư 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểmsát
nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về
tài sản và các quy định liên quan khác 13 lOMoAR cPSD| 46342576
4. Quyết định số 15/2018/DS-GĐT ngày 15/3/2018 của Tòa án nhân dân cấpcao tại Hà Nội.
5. Bản án số 148/2007/DSST ngày 26/9/2007 của Tòa án nhân dân thị xã ChâuĐốc, tỉnh An Giang.
6. Quyết định giám đốc thẩm số 09/HĐTP-DS ngày 24-02-2005 về vụ án “Tranh
chấp nhà đất và đòi nợ”. 14