








Preview text:
lOMoAR cPSD| 58412604 BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI ---------
BÀI THI KẾT THÚC HỌC PHẦN
MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Lý luận về hàng hóa sức lao động của Mác. Giải pháp làm tăng thu nhập,
nâng cao đời sống của người công nhân lao động ở nước ta hiện nay. Họ và tên: MSSV: Lớp: HÀ NỘI – 2022 lOMoAR cPSD| 58412604 MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ........................................................................................................... 1
NỘI DUNG BÀI LÀM .............................................................................................. 2
1. Lý luận về hàng hóa sức lao động của Mác ...................................................... 2
1.1. Công thức chung của tư bản và mâu thuẫn của công thức chung ............... 2
1.2. Khái niệm sức lao động ................................................................................ 3
1.3. Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hoá ............................................ 3
1.4. Hai thuộc tính của hàng hoá sức lao động................................................... 5
2. Giải pháp làm tăng thu nhập, nâng cao đời sống của người công nhân lao
động ở nước ta hiện nay .......................................................................................... 6
KẾT LUẬN................................................................................................................ 6 lOMoAR cPSD| 58412604 LỜI NÓI ĐẦU
Nguồn lực con người luôn là vấn đề quan trọng, quyết định đến sức mệnh
đất nước, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay. Nguồn tài nguyên
thiên nhiên ngày càng cạn kiệt, đất nước muốn giàu mạnh thì phải dựa vào
bản thân, sức lao động sáng tạo của con người.
Lý luận về hàng hoá sức lao động của C.Mác đã có những luận điểm khoa
học, toàn diện và biện chứng. Trên cơ sở đó, tạo tiền đề vững chắc cho việc lý
giải và áp dụng vào thực tiễn xã hội những giải pháp nhằm tăng thu nhập nâng
cao đời sống của người lao động Việt Nam. Chính vì vậy, trong bài tiểu luận
kết thúc học phần Kinh tế chính trị Mác-Lênin, em đã chọn đề tài “Lý luận về
hàng hóa sức lao động của Mác. Giải pháp làm tăng thu nhập, nâng cao đời
sống của người công nhân lao động ở nước ta hiện nay.” lOMoAR cPSD| 58412604 NỘI DUNG BÀI LÀM
1. Lý luận về hàng hóa sức lao động của Mác
1.1. Công thức chung của tư bản và mâu thuẫn của công thức chung
1.1.1. Công thức chung của tư bản
Tiền tệ là sản vật cuối cùng của lưu thông hàng hóa và là hình thái biểu hiện đầu tiên
của tư bản. Mọi tư bản mới đầu đều biểu hiện dưới một số tiền nhất định, nhưng tiền
chỉ biến thành tư bản khi chúng được sử dụng để bóc lột người khác.
Trong lưu thông hàng hóa giản đơn, tiền được vận động theo công thức hàng - tiền
- hàng (H-T-H). Mục đích của lưu thông hàng hóa giản đơn là giá trị sử dụng, vì vậy,
sự vận động sẽ kết thúc khi những người trao đổi có được giá trị sử dụng mà anh ta cần đến.
Trong lưu thông hàng hóa tư bản thì tiền vận động theo công thức tiền - hàng - tiền
(T-H-T). Mục đích của sự vận động của tư bản không phải là giá trị sử dụng mà là
giá trị, hơn nữa phải là giá trị tăng thêm, vì vậy, nếu số tiền thu về bằng với số tiền
ứng ra thì sự vận động đó trở nên vô nghĩa. Vậy nên, số tiền thu về phải lớn hơn số
tiền ứng ra. Do đó, công thức vận động đầy đủ của tư bản là T-H-T’ trong đó T’ lớn
hơn T ban đầu một khoảng bằng t. Hay viết lại: T’ = T + ∆t. C.Mác gọi ∆t đó chính
là giá trị thặng dư, kí hiệu là (m).
Khi so sánh giữa hai công thức lưu thông hàng hóa giản đơn H-T-H và công thức
lưu thông của tư bản T-H-T, ta thấy những điểm giống nhau: Cả hai sự vận động đều
do hai giai đoạn đối lập nhau là mua và bán hợp thành, trong mỗi giai đoạn đều có
hai nhân tố đối diện nhau là người mua và người bán.
Nhưng đó chỉ là những điểm giống nhau về hình thức. Giữa hai công thức còn có
điểm khác nhau về chất: Lưu thông hàng hóa giản đơn bắt đầu bằng việc bán (H-T)
và kết thúc bằng việc mua (T-H). Điểm xuất phát và điểm kết thúc của quá trình đều
là hàng hóa, tiền chỉ đóng vai trò trung gian. Ngược lại, lưu thông trong tư bản bắt
đầu từ việc mua (T H) và kết thúc bằng việc bán (H-T). Tiền vừa là điểm xuất phát
vừa là điểm kết thúc của quá trình, còn hàng hóa chỉ đóng vai trò trung gian, tiền ở
đây không phải là chi ra dứt khoát mà chỉ là ứng ra rồi thu hồi về. lOMoAR cPSD| 58412604
Sự lớn lên của giá trị là không có giới hạn, vì vậy sự vận động của tư bản cũng không
có giới hạn. Mọi công thức T-H-T’ là công thức chung của mọi tư bản vì mọi tư bản
đều được biểu hiện trong lưu thông dưới dạng tổng quát đó.
1.1.2. Mâu thuẫn của công thức chung
Nhìn vào công thức chung tư bản (T-H-T’), ta thấy hình như giá trị thặng dư ∆t được
sinh ra trong lưu thông. Nhưng học thuyết giá trị đã khẳng định giá trị ∆t do lao động
tạo ra, lưu thông không tạo ra giá trị thặng dư. Cụ thể: Xét trong lưu thông:
- Nếu trao đổi ngang giá thì giá trị chỉ thay đổi hình thái từ tiền sang hàng và từ
hàng sang tiền chứ không được tăng lên để tạo giá trị thặng dư.
- Nếu trao đổi không ngang giá, tức là hàng hóa có thể bán cao hoặc thấp hơn
giá trị thì vẫn không làm tăng thêm giá trị bởi trong nền sản xuất hàng hóa,
mỗi người sản xuất vừa là người bán, vừa là người mua.
Như vậy, lưu thông không tạo ra giá trị thặng dư.
Xét ngoài lưu thông: tiền để trong tủ, hàng hóa để trong kho thì bản thân chúng
không thể tự làm tăng giá trị cũ mình lên để có giá trị thặng dư.
Vậy, lưu thông T-H-T’ không tạo ra giá trị thặng dư, nhưng nếu không có lưu thông
thì không có giá trị thặng dư. Do đó, “giá trị thặng dư không thể xuất hiện trong lưu
thông và không thể xuất hiện ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông
đồng thời không phải trong lưu thông”. Đó là mâu thuẫn của công thức chung tư bản.
1.2. Khái niệm sức lao động
Theo C.Mác: “Sức lao động là năng lực lao động của con người. Nó bao hàm toàn
bộ thể lực và trí lực tồn tại trong cơ thể con người có thể sử dụng để tiến hành quá
trình sản xuất.” Trong xã hội, sức lao động cùng với tư liệu sản xuất là hai yếu tố cơ
bản trong quá trình sản xuất. Để trở thành hàng hoá sức lao động, sức lao động cần
thoả mãn những điều kiện sau.
1.3. Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hoá
Sức lao động chỉ biến thành hàng hoá khi có hai điều kiện sau: lOMoAR cPSD| 58412604
- Người lao động phải được tự do về thân thể, do đó có khả năng chi phối sức
lao động của mình. Sức lao động chỉ xuất hiện trên thị trường với tư cách là
hàng hoá, nếu nó do bản thân người có sức lao động đưa ra bán. Muốn vậy,
người có sức lao động phải có quyền sở hữu năng lực của mình. Trong chế độ
chiếm hữu nô lệ, người nô lệ là tài sản của chủ nô, họ không thể tự thoả thuận
mua bán sức lao động của mình mà phải làm việc theo yêu cầu của chủ nô,
tương tự đối với người nông dân trong chế độ phong kiến. Vì vậy, việc biến
sức lao động thành hàng hoá đòi hỏi phải thủ tiêu chế độ chiếm hữu nô và chế độ phong kiến.
- Người lao động không có tư liệu sản xuất và không có của cải, muốn sống anh
ta phải bán sức lao động. Ví dụ, một người thợ may không có đủ tiền để mua
những tư liệu sản xuất như máy may và những nguyên vật liệu may mặc để tự
mở cửa hàng may nên anh ta phải đi làm thuê cho công ty may mặc. Bản chất
của việc bán sức lao động là người lao động chỉ bản quyền sử dụng sức lao
động của anh ta mà thôi, còn anh ta vẫn sở hữu sức lao động.
Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên tất yếu đẫn đến chỗ sức lao động biến thành hàng hoá.
Dưới chủ nghĩa tư bản, đã xuất hiện đầy đủ hai điều kiện đó. Một mặt, cách mạng
tư sản đã giải phóng người lao động khỏi sự lệ thuộc về thân thể vào chủ nô và địa
chủ phong kiến, điều kiện thứ nhất xuất hiện. Mặt khác, do tác động của quy luật giá
trị và các biện pháp tích luỹ nguyên thuỷ của tư bản đã làm phá sản những người
sản xuất nhỏ, biến họ trở thành vô sản và tập trung tư liệu sản xuất vào trong tay một
số ít người, điều kiện thứ hai được hình thành.
Việc mua bán sức lao động được thực hiện dưới hình thức thuê mướn. Quan hệ làm
thuê đã tồn tại khá lâu trước chủ nghĩa tư bản, nhưng không phổ biến và chủ yếu
được sử dụng trong việc phục vụ nhà nước và quốc phòng. Chỉ đến chủ nghĩa tư bản
nó mới trở nên phổ biến, thành hệ thống tổ chức cơ bản của toàn bộ nền sản xuất xã hội.
Sự cưỡng bức phi kinh tế như chiếm hữu nô lệ, nay được thay thế bằng hợp đồng
của những người chủ sở hữu hàng hoá, bình đẳng với nhau trên cơ sở “thuận mua,
vừa bán”. Điều đó đã tạo ra khả năng khách quan cho sự phát triển tự do cá nhân
của các công dân và đánh dấu một trình độ mới trong sự phát triển của văn minh lOMoAR cPSD| 58412604
nhân loại. Sức lao động biến thành hàng hoá là điều kiện chủ yếu quyết định sự
chuyển hoá tiền thành tư bản.
1.4. Hai thuộc tính của hàng hoá sức lao động
1.4.1. Giá trị hàng hoá sức lao động
Cũng giống như các hàng hoá khác, giá trị hàng hoá sức lao động được quy định bởi
số lượng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao
động. Tuy nhiên, sức lao động chỉ tồn tại trong cơ thể sống của con người. Để sản
xuất và tái sản xuất ra năng lực đó, người công nhân phải tiêu dùng một số lượng tư
liệu sinh hoạt nhất định như quần áo, thức ăn, y tế, giáo dục, giải trí,…
Như vậy, có thể xác định giá trị hàng hoá sức lao động do những bộ phận sau đây
hợp thành: giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì sức lao động của bản
thân người công nhân; phí tổn đào tạo công nhân; giá trị những tư liệu sinh hoạt cần
thiết cho gia đình người công nhân. Khác với hàng hoá thông thường, giá trị hàng
hoá sức lao động bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử. Điều đó thể hiện ở chỗ: nhu
cầu tư liệu sinh hoạt của của công nhân khác nhau theo từng giai đoạn và từng khu
vực, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của từng nước, từng thời kỳ, trình độ văn minh
đã đạt được của mỗi nước, tập quán, điều kiện địa lý và khí hậu, điều kiện hình thành giai cấp công nhân.
1.4.2. Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động là công dụng của sức lao động có thể thỏa
mãn nhu cầu của người mua vào quá trình sản xuất. Ví dụ, chủ tư bản thuê công
nhân dệt vải, giá trị sử dụng sức lao động của người công nhân dệt là kỹ năng, năng
suất lao động của người công nhân khi lao động dệt vải. Trong quá trình làm việc,
người lao động sử dụng tư liệu sản xuất của nhà tư bản cung cấp để tạo ra hàng hóa cho nhà tư bản.
Khác với giá trị sử dụng của các hàng hoá khác, khi tiêu dùng hàng hoá sức lao động,
nó tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân giá trị sức lao động. Phần lớn
hơn đó chính là giá trị thặng dư. Như vậy, hàng hoá sức lao động có thuộc tính là
nguồn gốc sinh ra giá trị. Nó chính là chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn của công
thức chung của tư bản. Như vậy, tiền chỉ thành tư bản khi sức lao động trở thành hàng hoá. lOMoAR cPSD| 58412604
Khi chủ tư bản trả tiền công cho người công nhân, giá trị sức lao động được biểu
hiện bằng tiền. Bản chất của tiền công chính là là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức
lao động hoặc gọi là giá cả của sức lao động.
2. Giải pháp làm tăng thu nhập, nâng cao đời sống của người công nhân lao
động ở nước ta hiện nay
Thứ nhất, cần vận dụng sáng tạo có hiệu quả lí luận hàng hóa sức lao động của
C.Mác vào thực tiễn Việt Nam. Bởi đây là những kinh nghiệm quý báu đã được đúc
rút qua nhiều thời kì, được hình thành và phát triển trên cơ sở kế thừa những giá trị
tư tưởng của nhân loại và tổng kết thực tiễn thời đại.
Thứ hai, người lao động cần có ý thức tự học hỏi, đúc rút kinh nghiệm, nâng cao tay
nghề, năng suất lao động, phát huy sáng kiến kỹ thuật trong sản xuất,... Đây là những
việc cần làm thường xuyên, liên tục đối với mỗi công nhân sản xuất bởi khoa học
kỹ thuật ngày càng hiện đại, sự nhanh nhạy đối với công việc của mỗi công nhân
ngày càng đòi hỏi cao, nếu không muốn tụt hậu, người lao động phải biết cách tự
trang bị kinh nghiệm, kiến thức cho mình.
Thứ ba, những công ty, doanh nghiệp cần nhận thức được tầm quan trọng của thu
nhập đối với người lao động, chú trọng, quan tâm đến các chế độ phúc lợi cho người
lao động, nhờ đó, người lao động có tinh thần trách nhiệm hơn, hăng hái hơn trong
sản xuất, năng suất lao động của doanh nghiệp được tăng lên, hiệu quả sản xuất kinh
doanh cao, đưa doanh nghiệp ngày càng đi lên.
Thứ tư, nhà nước cần cố gắng giảm lạm phát, duy trì mức lạm phát ở mức độ thấp
để ổn định giá cả, đặc biệt là giá cả của những mặt hàng thiết yếu. Từ đó, ổn định
tiền công cho người lao động bởi tiền công của người lao động tỷ lệ nghịch với giá cả tư liệu sinh hoạt. KẾT LUẬN
Kinh tế chính trị Mác-Lênin là môn học giúp sinh viên hiểu về việc sản
xuất và trao đổi hàng hóa đặt trong mối quan hệ với chính trị. Từ đó, áp dụng
vào thực tế để cải thiện đời sống của người lao động Việt Nam, từ đó tăng sức
cạnh tranh của nguồn nhân lực Việt Nam trong thời đại toàn cầu hóa. lOMoAR cPSD| 58412604
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Ngô Tuấn Nghĩa, Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin, Hà Nội: Nxb.
Chính trị Quốc gia Sự thật, 2021.