Bài thi môn Triết học mác lênin | Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Từ việc phân tích lý luận về quy luật phù hợp giữa quan hệ sản xuất (QHSX) với  trình độ phát triển của lực lượng sản xuất (LLSX) , hãy vận dụng vào việc thực  hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Thông tin:
6 trang 6 ngày trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Bài thi môn Triết học mác lênin | Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Từ việc phân tích lý luận về quy luật phù hợp giữa quan hệ sản xuất (QHSX) với  trình độ phát triển của lực lượng sản xuất (LLSX) , hãy vận dụng vào việc thực  hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

397 199 lượt tải Tải xuống
BÀI THI MÔN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
HỌ VÀ TÊN : ĐÀO LINH TRANG
MSSV : 2051070043
LỚP : TTQT K40
Đề bài : Từ việc phân tích lý luận về quy luật phù hợp giữa quan hệ sản xuất
(QHSX) với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất (LLSX) , hãy vận dụng vào
việc thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
:BÀI LÀM
- Quy luật về sự sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX:
Quan hệ giữa QHSX và LLSX là mối quan hệ biện chứng, biểu hiện thành
quy luật cơ bản nhất của sự vận động xã hội.
*Các khái niệm:
1. QHSX
- Quan hệ sản xuất phạm trù triết học chỉ quan hệ giữa người với người
trong quá trình sản xuất (sản xuất tái sản xuất hội). QHSX bao gồm
quan hệ sở hữu các liệu sản xuất chủ yếu, quan hệ về tổ chức quản
sản xuất quan hệ về phân phối các sản phẩm làm. QHSX do con người
tạo ra nhưng sự hình thành phát triển một cách khách quan không phụ
thuộc vào ý chí con người.
- Nếu như quan niệm LLSX là mặt tự nhiên của sản xuất thì QHSX lại mặt
xã hội của sản xuất.
- Trong mỗi hình thái kinh tế – xã hội cùng với một quan hệ sản xuất thống
trị, điển hình còn tồn tại những quan hệ sản xuất phụ thuộc, lỗi thời như là
tàn dư của xã hội cũ. Ngay ở cả các nước tư bản chủ nghĩa phát triển nhất
cũng không chỉ có một quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa thuần nhất. Tất cả
các tình hình trên đều bắt nguồn từ phát triển không đều về lực lượng sản
xuất không những giữa các nước khác nhau mà còn giữa các vùng và các
ngành khác nhau của một nước. Việc chuyển từ quan hệ sản xuất lỗi thời lên
cao hơn như C.Mác nhận xét: “Không bao giờ xuất hiện trước khi những
điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi…” phải có
một thời kỳ lịch sử tương đối lâu dài mới có thể tạo ra điều kiện vật chất
trên.
2. LLSX
- Trình độ của LLSX khái niệm dùng để chỉ khả năng của con người thông
qua việc sử dụng công cụ lao động thực hiện quá trình cải biến giới tự nhiên
nhằm đảm bảo cho sự sinh tồn phát triển của mình. Trình độ của LLSX
biểu hiện thông qua: trình độ của công cụ lao động, trình độ tổ chức lao
động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất, kinh nghiệm, kỹ năng
lao động của con người, trình độ phân công lao động
- Mặt khác còn khái niệm tính chất của LLSX. thể hiện tính chất của
TLSX sử dụng lao động thủ công tính chất của lao động lao động
riêng lẻ. Khi LLSX trình độ thủ công, LLSX chủ yếu mang tính nhân.
Khi LLSX đạt trình độ cơ khí hóa, LLSX đòi hỏi phải được vận động trong
sự hợp tác hội rộng rãi trên sở chuyên môn hóa. Khi đó, tính tự cấp tự
túc của nền SX nhỏ phải được thay thế bằng tính xã hội hóa cao.
- Thực tế thì tính chất và trình độ của LLSX không tách biệt nhau, trình độ thủ
công gắn với tính chấtnhân còn trình độ cơ khí hóa, hiện đại hóa gắn với
tính chất xã hội hóa.
- Trong cấu thành của LLSX, một vài ý kiến khác nhau về một số yếu tố
khác của lực lượng sản xuất, song suy cho cùng thì chúng đều vật chất hoá
thành hai phần chủ yếu liệu sản xuất lực lượng con người. Trong đó
tư liệu sản xuất đóng vai trò là khách thể, còn con người là chủ thể.
- TLSX được cấu thành từ hai bộ phận đó là đối tượng lao động và tư liệu lao
động. Thông thường trong quá trình sản xuất phương tiện lao động còn được
gọi là cơ sở hạ tầng của nền kinh tế. Trong bất kỳ một nền sản xuất nào công
cụ sản xuất bao giờ cũng đóng vai trò then chốtchỉ tiêu quan trọng
nhất. Hiện nay công cụ sản xuất của con người không ngừng được cải thiện
dẫn đến hoàn thiện, nhờ thành tựu của khoa học kỹ thuật đã tạo ra công
cụ lao động công nghiệp máy móc hiện đại thay thế dần lao động của con
người. Do đó công cụ lao động luôn độc nhất, cách mạng nhất của lực
lượng sản xuất.
- Bất kỳ một thời đại lịch sử nào, công cụ sản xuất bao giờ cũng là sản phẩm
tổng hợp, đa dạng của toàn bộ những phức hợp kỹ thuật được hình thành
gắn liền với quá trình sản xuất và phát triển của nền kinh tế. Nó là sự kết hợp
của nhiều yếu tố trong đó quan trọng nhất trực tiếp nhất trí tuệ con
người được nhân lên trên cơ sở kế thừa nền văn minh vật chất trước đó.
- Nước ta là một nước giàu tài nguyên thiên nhiên, có nhiều nơi mà con người
chưa từng đặt chân đến nhưng nhờ vào tiến bộ của KHKT và quá trình công
nghệ tiên tiến con người thể tạo ra được sản phẩm mới ý nghĩa quyết
định tới chất lượng cuộc sống giá trị của nền văn minh nhân loại. Chính
việc tìm kiếm ra các đối tượng lao động mới sẽ trở thành động lực cuốn hút
mọi hoạt động của con người.
- TLLĐ tinh sảo hiện đại đến đâu nhưng tách khỏi con người thì
cũng không phát huy tác dụng của chính bản thân. Chính vậy LêNin đã
viết: LLSX hàng đầu của toàn thể nhân loại công nhân, người lao
động “. Người lao động với những kinh nghiệm, thói quen lao động, sử dụng
tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất. TLSX với tư cách là khách thể của
LLSX, chỉ phát huy tác dụng khi được kết hợp với lao động sống
của con người . Đại hội VII của Đảng đã khẳng định: Sự nghiệp phát triển
kinh tế đặt con người lên vị trí hàng đầu, vị trí trung tâm thống nhất tăng
trưởng kinh tế với công bằng khoa học và tiến bộ xã hội”.
- Người lao động với cách một bộ phận của LLSX hội phải người
thể lực, tri thức văn hoá, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao,
kinh nghiệm thói quen tốt, phẩm chất tư cách lành mạnh, lương tâm nghề
nghiệp trách nhiệm cao trong công việc. Trước đây do chưa chú trọng
đúng mức đến vị trí của người lao động, chúng ta chưa biết khai thác phát
huy mọi sức mạnh của nhân tố con người. Đành rằng năng lực kinh
nghiệm sản xuất của con người còn phụ thuộc vào những TLSX hiện
họ đang sử dụng. Nhưng tích cực sáng tạo của họ đã thúc đẩy nền kinh tế
phát triển.
*Mối quan hệ biện chứng giữa QHSX và LLSX
1. Trong mqh biện chứng giữa QHSX LLSX thì LLSX đóng vai trò
quyết định.
- Thứ nhất : Với một trình độ nhất định của LLSX thì sẽ hình thành nên một
QHSX tương ứng, QHSX lệ thuộc vào trình độ của LLSX. Cùng với sự biến
đổi và phát triển của công cụ lao động thì LLSX cũng vận động và mang xu
hướng phát triển hơn, còn QHSX thì khá ổn định và mang khuynh hướng lạc
hậu hơn trình độ phát triển của LLSX. LLSX đóng vai trò quyết định vì nó
là nội dung vật chất của quá trình sản xuất, còn QHSX là hình thức xã hội
của quá trình đó. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì nội dung
quyết định hình thức. Nghĩa là, trình độ của LLSX quy định cách thức con
người quan hệ với nhau trong quá trình sản xuất.
- Thứ hai : khi LLSX thay đổi thì quan hệ sản xuất cũng thay đổi theo.
QHSX hình thành và biến đổi cho phù hợp với trình độ phát triển của LLSX.
Sự tương thích đó động lực để LLSX phát triển mạnh mẽ. Thực tế lịch sử
đã chứng minh, khi lực lượng sản xuất chuyển từ trình độ thủ công đồ sắt
sang trình độ công nghiệp thì đó cũng lúc quan hệ sản xuất phong kiến
mất đi, thay vào đó là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
2. QHSX tính độc lập tương đối, tác động trở lại LLSX : QHSX
không hoàn toàn thụ động, khả năng tác động mạnh mẽ trở lại
LLSX.
- Thứ nhất : QHSX thúc đẩy mạnh mẽ LLSX phát triển nếu thống nhất
với LLSX. Sự phù hợp này một trạng thái đó QHSX “hình thức
phát triển” tất yếu của LLSX, tạo điều kiện sản xuất tối ưu cho việc sử
dụng kết hợp giữa người lao động với TLSX, khi đó LLSX sở để
phát huy, phát triển hết khả năng của nó. Sự phù hợp giữa LLSX QHSX
thường biểu hiện thông qua sự tự giác, năng động, tích cực của người lao
động, liệu sản xuất được khai thác hiệu quả, từ đó năng suất lao động
tăng.
- Thứ hai : QHSX kìm hãm sự phát triển của LLSX nếu mâu thuẫn với
LLSX. Do LLSX luôn phát triển không ngừng, còn QHSX lại mang tính ổn
định, chậm biến đổi. Do vậy, tới một giai đoạn phát triển nào đó của
chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của hội mâu thuẫn với những
QHSX hiện có,… trong đó từ trước đến nay các LLSX vẫn phát triển. Từ
chỗ những hình thức phát triển của LLSX, những quan hệ ấy tr thành
những xiềng xích của các LLSX. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách
mạng xã hội”.
- Tuy nhiên, trong thực tiễn, một số do, thường do mong muốn chủ
quan, người ta tạo ra những QHSX vượt trước trình độ của LLSX, dẫn đến
sự không phù hợp với QHSX. Cả QHSX lạc hậu và QHSX vượt trước trình
độ của LLSX mâu thuẫn với LLSX và có thể gây kìm hãm LLSX.
*Liên hệ với thực tiễn Việt Nam
- Với đặc điểm của nước ta là nước nông nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu, lực
lượng sản xuất thấp kém, con trâu đi trước cái cày đi sau, trình độ quản lý
thấp cùng với nền sản xuất nhỏ tự cấp, tự túc là chủ yếu. Mặt khác, nước ta
là nước thuộc địa nửa phong kiến lại phải trải qua hai cuộc chiến tranh,
nhiều năm bị đế quốc Mỹ bao vây cấm vận nhiều mặt, nhất là về kinh tế.
- Trong thời kỳ trước đổi mới, việc vận dụng quy luật về sự phù hợp của
QHSX với trình độ phát triển của LLSX mắc nhiều sai lầm. Sau chiến tranh,
đất nước còn gặp nhiều khó khăn, điều kiện LLSX còn hạn chế nhưng Đảng
ta chỉ chú trọng thiết lập chế độ công hữu về TLSX, không thực hiện đa
dạng hóa các hình thức sở hữu; tổ chức quản SX theo chế tập trung
quan liêu bao cấp… do vậy LLSX bị kìm hãm.
- Khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được
chính thức sử dụng trong các văn kiện Đại hội IX (tháng 4-2001) của Đảng;
theo đó, “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài
chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đại
hội XII của Đảng (tháng 1-2016) tiếp tục bổ sung, phát triển: “Nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành
đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm
định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất
nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản
lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”. Đây là bước đột phá dũng
cảm nhưng hết sức khoa học về tư duy lý luận của Đảng ta.
- Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã khắc phục những sai lầm và vận dụng quy
luật này nhìn chung đúng đắn. Đảng ta chủ trương CNH, HĐH đất nước,
phát triển nguồn nhân lực, áp dụng KHKT vào SX…
- Việc dứt khoát từ bỏ chế độ kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp để chính
thức đi vào nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa sự lựa
chọn khách quan, sáng tạo, độc lập phù hợp với xu thế vận động chung
của nền kinh tế thế giới hiện đại. Chúng ta thực hiện nền kinh tế thị trường
định hướng hội chủ nghĩa nhằm xây dựng một đất nước tất cả đều con
người . do con người Nền kinh tế, một mặt, tôn trọng và tuân theo các quy
luật khách quan của kinh tế thị trường : nghĩa là sản xuất và kinh doanh phải
thu được lợi nhuận, phải chấp nhận cạnh tranh theo pháp luật để thúc đẩy
sản xuất, kinh doanh phát triển; mặt khác, quan trọng hơn nền kinh tế ấy
phải tạo được một LLSX ngày càng phát triển, trong đó con người vừa phải
là động lực, vừa phải là mục tiêu của sự phát triển Đồng thời, nền kinh tế thị.
trường chúng ta chủ trương xây dựng phải được hướng dẫn bởi các
nguyên tắc thuộc bản chất của CNXH về quyền sở hữu, về cách thức tổ chức
sản xuất và về phương thức phân phối thành quả lao động.
- Đảng Nhà nước ta chủ trương nhất quán vận hành nền kinh tế thị
trường chủ yếu bằng cơ chế thị trường và thông qua chế thị
trường nhưng coi trọng sự quản sự điều tiết của Nhà nước, thực
hiện phân phối công bằng, nhưng không cào bằng thành quả thu được cho
mọi thành viên để không ai, kể cả những người yếu thế, bị bỏ lại phía sau.
Đó chính định hướng cực kỳ quan trọng cho toàn bộ quá trình phát triển
theo định hướng hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, sự kết hợp các mặt này hoàn
toàn không phải sự lắp ghép một cách tùy tiện, chủ quan, duy ý chí như
một số người ngộ nhận hoặc cố tình quy kết. Đây sự lựa chọn dựa trên
sở đúc kết những kinh nghiệm quý báu đã được thực tiễn lịch sử xác nhận;
nắm bắt xu thế khách quan của thời đại, nhằm tiếp thu những đã được coi
tốt nhất của kinh tế thị trường bản chủ nghĩa; tiếp thu một cách chọn
lọc thành tựu của văn minh nhân loại; phát huy vai trò tích cực và các động
lực của kinh tế thị trường trong việc thúc đẩy phát triển sức sản xuất, hội
hóa lao động, áp dụng nhanh nhất các tiến bộ khoa học kỹ thuật công
nghệ mới, đồng thời cũng để từng bước hạn chế dần dần khắc phục
những khiếm khuyết, những bất công nền kinh tế ấy đã không thể làm
được từ khi nó ra đời cho đến nay.
Tóm lại, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa do con
người đóng vai trò động lực không chỉ vì mục tiêu kinh tế mà quan trọng
hơn còn vì các mục tiêu xã hội, vì sự phát triển toàn diện các mặt của con
người, vì cuộc sống hạnh phúc của con người. Trước đây, C. Mác đã từng
nói rằng, trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa mỗi người đều coi
người khác là phương tiện để lợi dụng. Ngày nay, trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đặt con người lên hàng
đầu, coi con người là động lực nhưng cũng là mục tiêu của sự phát triển.
Bởi vậy, Đảng và Nhà nước ta chủ trương không đợi đến khi kinh tế phát
triển cao rồi mới thực hiện các mục tiêu xã hội. Từ rất sớm, Đảng và Nhà
nước đã chủ trương “tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển”. Chủ
trương này xuyên suốt các kỳ đại hội của Đảng và ngày càng được cụ thể
hóa trên tất cả các mặt của đời sống xã hội nhằm phục vụ cho sự phát
triển con người một cách tốt nhất. Đây là sự lựa chọn đúng đắn, khoa
học, táo bạo, sáng tạo và đầy tính nhân văn. Sự lựa chọn tất yếu ấy dựa
trên cơ sở đúc rút kinh nghiệm, kế thừa có chọn lọc những điểm mạnh
trong thực tiễn phát triển của nền kinh tế thị trường đã có trong lịch sử,
đồng thời cũng là xuất phát từ bản chất nhân văn của chủ nghĩa xã hội để
khẳng định đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa lấy con người làm động lực và mục tiêu phát triển, nghĩa là tất
cả là do con người và vì con người.
| 1/6

Preview text:

BÀI THI MÔN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
HỌ VÀ TÊN : ĐÀO LINH TRANG MSSV : 2051070043 LỚP : TTQT K40
Đề bài : Từ việc phân tích lý luận về quy luật phù hợp giữa quan hệ sản xuất
(QHSX) với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất (LLSX) , hãy vận dụng vào
việc thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. BÀI LÀM :
- Quy luật về sự sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX:
Quan hệ giữa QHSX và LLSX là mối quan hệ biện chứng, biểu hiện thành
quy luật cơ bản nhất của sự vận động xã hội. *Các khái niệm: 1. QHSX
- Quan hệ sản xuất là phạm trù triết học chỉ quan hệ giữa người với người
trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội). QHSX bao gồm
quan hệ sở hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu, quan hệ về tổ chức và quản lý
sản xuất và quan hệ về phân phối các sản phẩm làm. QHSX do con người
tạo ra nhưng sự hình thành và phát triển một cách khách quan không phụ
thuộc vào ý chí con người.
- Nếu như quan niệm LLSX là mặt tự nhiên của sản xuất thì QHSX lại là mặt xã hội của sản xuất.
- Trong mỗi hình thái kinh tế – xã hội cùng với một quan hệ sản xuất thống
trị, điển hình còn tồn tại những quan hệ sản xuất phụ thuộc, lỗi thời như là
tàn dư của xã hội cũ. Ngay ở cả các nước tư bản chủ nghĩa phát triển nhất
cũng không chỉ có một quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa thuần nhất. Tất cả
các tình hình trên đều bắt nguồn từ phát triển không đều về lực lượng sản
xuất không những giữa các nước khác nhau mà còn giữa các vùng và các
ngành khác nhau của một nước. Việc chuyển từ quan hệ sản xuất lỗi thời lên
cao hơn như C.Mác nhận xét: “Không bao giờ xuất hiện trước khi những
điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi…” phải có
một thời kỳ lịch sử tương đối lâu dài mới có thể tạo ra điều kiện vật chất trên. 2. LLSX
- Trình độ của LLSX là khái niệm dùng để chỉ khả năng của con người thông
qua việc sử dụng công cụ lao động thực hiện quá trình cải biến giới tự nhiên
nhằm đảm bảo cho sự sinh tồn và phát triển của mình. Trình độ của LLSX
biểu hiện thông qua: trình độ của công cụ lao động, trình độ tổ chức lao
động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất, kinh nghiệm, kỹ năng
lao động của con người, trình độ phân công lao động
- Mặt khác còn có khái niệm tính chất của LLSX. Nó thể hiện tính chất của
TLSX là sử dụng lao động thủ công và tính chất của lao động là lao động
riêng lẻ. Khi LLSX ở trình độ thủ công, LLSX chủ yếu mang tính cá nhân.
Khi LLSX đạt trình độ cơ khí hóa, LLSX đòi hỏi phải được vận động trong
sự hợp tác xã hội rộng rãi trên cơ sở chuyên môn hóa. Khi đó, tính tự cấp tự
túc của nền SX nhỏ phải được thay thế bằng tính xã hội hóa cao.
- Thực tế thì tính chất và trình độ của LLSX không tách biệt nhau, trình độ thủ
công gắn với tính chất cá nhân còn trình độ cơ khí hóa, hiện đại hóa gắn với tính chất xã hội hóa.
- Trong cấu thành của LLSX, có một vài ý kiến khác nhau về một số yếu tố
khác của lực lượng sản xuất, song suy cho cùng thì chúng đều vật chất hoá
thành hai phần chủ yếu là tư liệu sản xuất và lực lượng con người. Trong đó
tư liệu sản xuất đóng vai trò là khách thể, còn con người là chủ thể.
- TLSX được cấu thành từ hai bộ phận đó là đối tượng lao động và tư liệu lao
động. Thông thường trong quá trình sản xuất phương tiện lao động còn được
gọi là cơ sở hạ tầng của nền kinh tế. Trong bất kỳ một nền sản xuất nào công
cụ sản xuất bao giờ cũng đóng vai trò là then chốt và là chỉ tiêu quan trọng
nhất. Hiện nay công cụ sản xuất của con người không ngừng được cải thiện
và dẫn đến hoàn thiện, nhờ thành tựu của khoa học kỹ thuật đã tạo ra công
cụ lao động công nghiệp máy móc hiện đại thay thế dần lao động của con
người. Do đó công cụ lao động luôn là độc nhất, cách mạng nhất của lực lượng sản xuất.
- Bất kỳ một thời đại lịch sử nào, công cụ sản xuất bao giờ cũng là sản phẩm
tổng hợp, đa dạng của toàn bộ những phức hợp kỹ thuật được hình thành và
gắn liền với quá trình sản xuất và phát triển của nền kinh tế. Nó là sự kết hợp
của nhiều yếu tố trong đó quan trọng nhất và trực tiếp nhất là trí tuệ con
người được nhân lên trên cơ sở kế thừa nền văn minh vật chất trước đó.
- Nước ta là một nước giàu tài nguyên thiên nhiên, có nhiều nơi mà con người
chưa từng đặt chân đến nhưng nhờ vào tiến bộ của KHKT và quá trình công
nghệ tiên tiến con người có thể tạo ra được sản phẩm mới có ý nghĩa quyết
định tới chất lượng cuộc sống và giá trị của nền văn minh nhân loại. Chính
việc tìm kiếm ra các đối tượng lao động mới sẽ trở thành động lực cuốn hút
mọi hoạt động của con người.
- TLLĐ dù có tinh sảo và hiện đại đến đâu nhưng tách khỏi con người thì nó
cũng không phát huy tác dụng của chính bản thân. Chính vậy mà LêNin đã
viết: “ LLSX hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao
động “. Người lao động với những kinh nghiệm, thói quen lao động, sử dụng
tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất. TLSX với tư cách là khách thể của
LLSX, và nó chỉ phát huy tác dụng khi nó được kết hợp với lao động sống
của con người . Đại hội VII của Đảng đã khẳng định: “ Sự nghiệp phát triển
kinh tế đặt con người lên vị trí hàng đầu, vị trí trung tâm thống nhất tăng
trưởng kinh tế với công bằng khoa học và tiến bộ xã hội”.
- Người lao động với tư cách là một bộ phận của LLSX xã hội phải là người
có thể lực, có tri thức văn hoá, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có
kinh nghiệm và thói quen tốt, phẩm chất tư cách lành mạnh, lương tâm nghề
nghiệp và trách nhiệm cao trong công việc. Trước đây do chưa chú trọng
đúng mức đến vị trí của người lao động, chúng ta chưa biết khai thác phát
huy mọi sức mạnh của nhân tố con người. Đành rằng năng lực và kinh
nghiệm sản xuất của con người còn phụ thuộc vào những TLSX hiện có mà
họ đang sử dụng. Nhưng tích cực sáng tạo của họ đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
*Mối quan hệ biện chứng giữa QHSX và LLSX
1. Trong mqh biện chứng giữa QHSX và LLSX thì LLSX đóng vai trò quyết định.
- Thứ nhất : Với một trình độ nhất định của LLSX thì sẽ hình thành nên một
QHSX tương ứng, QHSX lệ thuộc vào trình độ của LLSX. Cùng với sự biến
đổi và phát triển của công cụ lao động thì LLSX cũng vận động và mang xu
hướng phát triển hơn, còn QHSX thì khá ổn định và mang khuynh hướng lạc
hậu hơn trình độ phát triển của LLSX. LLSX đóng vai trò quyết định vì nó
là nội dung vật chất của quá trình sản xuất, còn QHSX là hình thức xã hội
của quá trình đó. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì nội dung
quyết định hình thức. Nghĩa là, trình độ của LLSX quy định cách thức con
người quan hệ với nhau trong quá trình sản xuất.
- Thứ hai : khi LLSX thay đổi thì quan hệ sản xuất cũng thay đổi theo.
QHSX hình thành và biến đổi cho phù hợp với trình độ phát triển của LLSX.
Sự tương thích đó là động lực để LLSX phát triển mạnh mẽ. Thực tế lịch sử
đã chứng minh, khi lực lượng sản xuất chuyển từ trình độ thủ công đồ sắt
sang trình độ công nghiệp thì đó cũng là lúc quan hệ sản xuất phong kiến
mất đi, thay vào đó là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
2. QHSX có tính độc lập tương đối, tác động trở lại LLSX : QHSX
không hoàn toàn thụ động, nó có khả năng tác động mạnh mẽ trở lại LLSX.
- Thứ nhất : QHSX thúc đẩy mạnh mẽ LLSX phát triển nếu nó thống nhất
với LLSX. Sự phù hợp này là một trạng thái mà ở đó QHSX là “hình thức
phát triển” tất yếu của LLSX, nó tạo điều kiện sản xuất tối ưu cho việc sử
dụng và kết hợp giữa người lao động với TLSX, khi đó LLSX có cơ sở để
phát huy, phát triển hết khả năng của nó. Sự phù hợp giữa LLSX và QHSX
thường biểu hiện thông qua sự tự giác, năng động, tích cực của người lao
động, tư liệu sản xuất được khai thác hiệu quả, từ đó năng suất lao động tăng.
- Thứ hai : QHSX kìm hãm sự phát triển của LLSX nếu nó mâu thuẫn với
LLSX. Do LLSX luôn phát triển không ngừng, còn QHSX lại mang tính ổn
định, chậm biến đổi. Do vậy, “ tới một giai đoạn phát triển nào đó của
chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những
QHSX hiện có,… trong đó từ trước đến nay các LLSX vẫn phát triển. Từ
chỗ là những hình thức phát triển của LLSX, những quan hệ ấy trở thành
những xiềng xích của các LLSX. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”.
- Tuy nhiên, trong thực tiễn, vì một số lý do, thường là do mong muốn chủ
quan, người ta tạo ra những QHSX vượt trước trình độ của LLSX, dẫn đến
sự không phù hợp với QHSX. Cả QHSX lạc hậu và QHSX vượt trước trình
độ của LLSX mâu thuẫn với LLSX và có thể gây kìm hãm LLSX.
*Liên hệ với thực tiễn Việt Nam
- Với đặc điểm của nước ta là nước nông nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu, lực
lượng sản xuất thấp kém, con trâu đi trước cái cày đi sau, trình độ quản lý
thấp cùng với nền sản xuất nhỏ tự cấp, tự túc là chủ yếu. Mặt khác, nước ta
là nước thuộc địa nửa phong kiến lại phải trải qua hai cuộc chiến tranh,
nhiều năm bị đế quốc Mỹ bao vây cấm vận nhiều mặt, nhất là về kinh tế.
- Trong thời kỳ trước đổi mới, việc vận dụng quy luật về sự phù hợp của
QHSX với trình độ phát triển của LLSX mắc nhiều sai lầm. Sau chiến tranh,
đất nước còn gặp nhiều khó khăn, điều kiện LLSX còn hạn chế nhưng Đảng
ta chỉ chú trọng thiết lập chế độ công hữu về TLSX, không thực hiện đa
dạng hóa các hình thức sở hữu; tổ chức quản lý SX theo cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp… do vậy LLSX bị kìm hãm.
- Khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được
chính thức sử dụng trong các văn kiện Đại hội IX (tháng 4-2001) của Đảng;
theo đó, “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài
chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đại
hội XII của Đảng (tháng 1-2016) tiếp tục bổ sung, phát triển: “Nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành
đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm
định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất
nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản
lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”. Đây là bước đột phá dũng
cảm nhưng hết sức khoa học về tư duy lý luận của Đảng ta.
- Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã khắc phục những sai lầm và vận dụng quy
luật này nhìn chung là đúng đắn. Đảng ta chủ trương CNH, HĐH đất nước,
phát triển nguồn nhân lực, áp dụng KHKT vào SX…
- Việc dứt khoát từ bỏ chế độ kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp để chính
thức đi vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự lựa
chọn khách quan, sáng tạo, độc lập và phù hợp với xu thế vận động chung
của nền kinh tế thế giới hiện đại. Chúng ta thực hiện nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng một đất nước tất cả đều vì con người và
do con người. Nền kinh tế, một mặt, tôn trọng và tuân theo các quy
luật khách quan của kinh tế thị trường : nghĩa là sản xuất và kinh doanh phải
thu được lợi nhuận, phải chấp nhận cạnh tranh theo pháp luật để thúc đẩy
sản xuất, kinh doanh phát triển; mặt khác, quan trọng hơn là nền kinh tế ấy
phải tạo được một LLSX ngày càng phát triển, trong đó con người vừa phải
là động lực, vừa phải là mục tiêu của sự phát triển. Đồng thời, nền kinh tế thị
trường mà chúng ta chủ trương xây dựng phải được hướng dẫn bởi các
nguyên tắc thuộc bản chất của CNXH về quyền sở hữu, về cách thức tổ chức
sản xuất và về phương thức phân phối thành quả lao động.
- Đảng và Nhà nước ta chủ trương và nhất quán vận hành nền kinh tế thị
trường chủ yếu bằng cơ chế thị trường và thông qua cơ chế thị
trường nhưng coi trọng sự quản lý và sự điều tiết của Nhà nước, thực
hiện phân phối công bằng, nhưng không cào bằng thành quả thu được cho
mọi thành viên để không ai, kể cả những người yếu thế, bị bỏ lại phía sau.
Đó chính là định hướng cực kỳ quan trọng cho toàn bộ quá trình phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, sự kết hợp các mặt này hoàn
toàn không phải là sự lắp ghép một cách tùy tiện, chủ quan, duy ý chí như
một số người ngộ nhận hoặc cố tình quy kết. Đây là sự lựa chọn dựa trên cơ
sở đúc kết những kinh nghiệm quý báu đã được thực tiễn lịch sử xác nhận;
nắm bắt xu thế khách quan của thời đại, nhằm tiếp thu những gì đã được coi
là tốt nhất của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa; tiếp thu một cách chọn
lọc thành tựu của văn minh nhân loại; phát huy vai trò tích cực và các động
lực của kinh tế thị trường trong việc thúc đẩy phát triển sức sản xuất, xã hội
hóa lao động, áp dụng nhanh nhất các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công
nghệ mới, đồng thời cũng để từng bước hạn chế và dần dần khắc phục
những khiếm khuyết, những bất công mà nền kinh tế ấy đã không thể làm
được từ khi nó ra đời cho đến nay.
Tóm lại, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa do con
người đóng vai trò động lực không chỉ vì mục tiêu kinh tế mà quan trọng
hơn còn vì các mục tiêu xã hội, vì sự phát triển toàn diện các mặt của con
người, vì cuộc sống hạnh phúc của con người. Trước đây, C. Mác đã từng
nói rằng, trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa mỗi người đều coi
người khác là phương tiện để lợi dụng. Ngày nay, trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đặt con người lên hàng
đầu, coi con người là động lực nhưng cũng là mục tiêu của sự phát triển.
Bởi vậy, Đảng và Nhà nước ta chủ trương không đợi đến khi kinh tế phát
triển cao rồi mới thực hiện các mục tiêu xã hội. Từ rất sớm, Đảng và Nhà
nước đã chủ trương “tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển”. Chủ
trương này xuyên suốt các kỳ đại hội của Đảng và ngày càng được cụ thể
hóa trên tất cả các mặt của đời sống xã hội nhằm phục vụ cho sự phát
triển con người một cách tốt nhất. Đây là sự lựa chọn đúng đắn, khoa
học, táo bạo, sáng tạo và đầy tính nhân văn. Sự lựa chọn tất yếu ấy dựa
trên cơ sở đúc rút kinh nghiệm, kế thừa có chọn lọc những điểm mạnh
trong thực tiễn phát triển của nền kinh tế thị trường đã có trong lịch sử,
đồng thời cũng là xuất phát từ bản chất nhân văn của chủ nghĩa xã hội để
khẳng định đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa lấy con người làm động lực và mục tiêu phát triển, nghĩa là tất
cả là do con người và vì con người.