Bài thơ "Hai chữ Nước Nhà" của Trần Tuấn Khải, sáng tác năm 1924, một tác phẩm tiêu biểu
thể hiện tinh thần yêu nước lòng tự hào dân tộc trong bối cảnh đất nước bị giặc Minh xâm
lược. Tác phẩm được xây dựng dưới hình thức tâm sự của một người cha - nhà yêu nước, nhà
chí tài giỏi - gửi đến con trai trước khi ông phải rời xa quê hương. Qua thể t song thất lục
bát, tác phẩm vừa mang tính tự sự, vừa lời dạy bảo sâu sắc, gói trọn tinh yêu nước sự kêu
gọi trách nhiệm của thế h sau đối với Tổ quốc.
Khung cảnh chia ly giữa người cha người con diễn ra trong không khí buồn bã, m đạm,
gợi lên nỗi đau sâu sắc. Nơi vùng biên giới, hình ảnh hàng vạn chiến yêu nước chỉ kịp nói lời
vĩnh biệt tổ quốc đã thể hiện sự tàn khốc của chiến tranh. Tác giả miêu tả cuộc chia ly này bằng
những hình nh đầy sức nặng:
“Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm,
Cõi giời Nam gió thảm đìu hiu.
Bốn bề hổ thét chim kêu,
Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình.
Những dòng thơ trên không chỉ đơn thuần lời trò chuyện giữa hai người đàn ông còn là
những lời trăn trối thiêng liêng, mang nặng ân tình. Người cha, mặc rất thương con, nhưng đã
gạt đi nh riêng để giữ vững tinh thần trách nhiệm với đất nước, để lại cho con một sứ mệnh
lớn lao. Hình ảnh "bốn bề hổ thét chim kêu" gợi lên sự hoang tàn của đất nước, cho thấy cảnh
tượng xung quanh đầy bi thảm.
Nguyễn Phi Khanh đã tinh tế thể hiện rằng tình yêu gia đình không chỉ dừng lại những mối
quan hệ máu mủ còn cần phải được nâng lên thành tình yêu nước. Ông nhấn mạnh rằng thù
nhà chỉ có thể được giải quyết khi nợ nước được trả. Điều này được thể hiện trong những lời
dạy bảo của người cha dành cho con:
“Hạt máu nóng thấm quanh hồn ớc
Chút thân tàn lần bước dặm khơi
Trông con tầm châu rơi
Con ơi con nhớ lấy lời cha khuyên
Qua những câu thơ này, tác giả không chỉ diễn tả tình cảm sâu sắc của người cha dành cho con
còn khắc họa nét nỗi đau của một n tộc đang sống trong cảnh lầm than. Hình ảnh "hạt
máu nóng" thấm đẫm quanh hồn nước thể hiện mối liên kết chặt chẽ giữa con người quê
hương, rằng sự tồn tại của một nhân gắn liền với sự tồn vong của đất nước.
Phần tiếp theo của bài thơ tập trung vào lòng tự hào dân tộc, với những lời dặn đầy m huyết
của người cha:
“Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định,
Mấy ngàn năm suy thịnh đổi thay,
Trời Nam riêng một cõi này,
Anh hùng, hiệp nữ xưa nay kém !”
Người cha nhắc đến nguồn gốc của n tộc, "giống Hồng Lạc," khẳng định rằng dân tộc Việt
Nam không chỉ nguồn gốc đại còn một lịch sử lâu dài với những thời kỳ hưng thịnh
suy tàn. Qua đó, tác giả khơi dậy tinh thần anh hùng trong mỗi con người Việt Nam. Ông
khẳng định rằng, trong bất kỳ thời kỳ nào, đều những anh hùng đại làm n những chiến
Cuối cùng, những dòng thơ như:
“Than vận nước gặp khi biến đổi
Để quân Minh thừa hội xâm lăng
Bốn phương khói lửa bừng bừng
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông!”
đã thể hiện sự phẫn nộ của người cha trước tội ác của kẻ thù. Những vần thơ trắc nhịp điệu
gợi cảm đã m nổi bật nỗi uất ức, sự căm giận nỗi sầu thảm của một n tộc đang chịu đựng
ách đô hộ. Tác giả đã khéo léo sử dụng ngôn ngữ mạnh mẽ để thể hiện sự thảm khốc của chiến
tranh, nơi "xương rừng máu sông" trở thành biểu tượng cho nỗi đau mất mát của dân tộc.
Thông qua lời dặn của người cha với con trai, Trần Tuấn Khải đã gửi gắm một thông điệp lớn
về lòng yêu nước, sự gắn kết giữa tình yêu gia đình tình yêu T quốc. "Hai chữ Nước Nhà"
không chỉ lời nhắc nhở về nghĩa vụ bảo vệ đất nước còn tiếng gọi hành động, kêu gọi
mỗi người dân phải đặt trách nhiệm với Tổ quốc lên trên hết, sẵn ng hi sinh tự do của dân
tộc.
Tác phẩm sức ảnh hưởng mạnh mẽ trong thời điểm ra đời, khi đất nước đang chìm trong cảnh
lầm than, đến nay vẫn mang giá trị tưởng to lớn trong việc giáo dục lòng yêu nước trách
nhiệm của mỗi nhân đối với quê hương, đất nước.

Preview text:

Bài thơ "Hai chữ Nước Nhà" của Trần Tuấn Khải, sáng tác năm 1924, là một tác phẩm tiêu biểu
thể hiện tinh thần yêu nước và lòng tự hào dân tộc trong bối cảnh đất nước bị giặc Minh xâm
lược. Tác phẩm được xây dựng dưới hình thức tâm sự của một người cha - nhà yêu nước, nhà
chí sĩ tài giỏi - gửi đến con trai trước khi ông phải rời xa quê hương. Qua thể thơ song thất lục
bát, tác phẩm vừa mang tính tự sự, vừa là lời dạy bảo sâu sắc, gói trọn tinh yêu nước và sự kêu
gọi trách nhiệm của thế hệ sau đối với Tổ quốc.
Khung cảnh chia ly giữa người cha và người con diễn ra trong không khí buồn bã, ảm đạm,
gợi lên nỗi đau sâu sắc. Nơi vùng biên giới, hình ảnh hàng vạn chiến sĩ yêu nước chỉ kịp nói lời
vĩnh biệt tổ quốc đã thể hiện sự tàn khốc của chiến tranh. Tác giả miêu tả cuộc chia ly này bằng
những hình ảnh đầy sức nặng:
“Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm,
Cõi giời Nam gió thảm đìu hiu.
Bốn bề hổ thét chim kêu,
Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình.”
Những dòng thơ trên không chỉ đơn thuần là lời trò chuyện giữa hai người đàn ông mà còn là
những lời trăn trối thiêng liêng, mang nặng ân tình. Người cha, mặc dù rất thương con, nhưng đã
gạt đi tình riêng để giữ vững tinh thần trách nhiệm với đất nước, và để lại cho con một sứ mệnh
lớn lao. Hình ảnh "bốn bề hổ thét chim kêu" gợi lên sự hoang tàn của đất nước, cho thấy cảnh
tượng xung quanh đầy bi thảm.
Nguyễn Phi Khanh đã tinh tế thể hiện rằng tình yêu gia đình không chỉ dừng lại ở những mối
quan hệ máu mủ mà còn cần phải được nâng lên thành tình yêu nước. Ông nhấn mạnh rằng thù
nhà chỉ có thể được giải quyết khi nợ nước được trả. Điều này được thể hiện rõ trong những lời
dạy bảo của người cha dành cho con:
“Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước
Chút thân tàn lần bước dặm khơi
Trông con tầm tã châu rơi
Con ơi con nhớ lấy lời cha khuyên”
Qua những câu thơ này, tác giả không chỉ diễn tả tình cảm sâu sắc của người cha dành cho con
mà còn khắc họa rõ nét nỗi đau của một dân tộc đang sống trong cảnh lầm than. Hình ảnh "hạt
máu nóng" thấm đẫm quanh hồn nước thể hiện mối liên kết chặt chẽ giữa con người và quê
hương, rằng sự tồn tại của một cá nhân gắn liền với sự tồn vong của đất nước.
Phần tiếp theo của bài thơ tập trung vào lòng tự hào dân tộc, với những lời dặn dò đầy tâm huyết của người cha:
“Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định,
Mấy ngàn năm suy thịnh đổi thay,
Trời Nam riêng một cõi này,
Anh hùng, hiệp nữ xưa nay kém gì!”
Người cha nhắc đến nguồn gốc của dân tộc, "giống Hồng Lạc," khẳng định rằng dân tộc Việt
Nam không chỉ có nguồn gốc vĩ đại mà còn có một lịch sử lâu dài với những thời kỳ hưng thịnh
và suy tàn. Qua đó, tác giả khơi dậy tinh thần anh hùng trong mỗi con người Việt Nam. Ông
khẳng định rằng, trong bất kỳ thời kỳ nào, đều có những anh hùng vĩ đại làm nên những chiến
Cuối cùng, những dòng thơ như:
“Than vận nước gặp khi biến đổi
Để quân Minh thừa hội xâm lăng
Bốn phương khói lửa bừng bừng
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông!”
đã thể hiện rõ sự phẫn nộ của người cha trước tội ác của kẻ thù. Những vần thơ trắc và nhịp điệu
gợi cảm đã làm nổi bật nỗi uất ức, sự căm giận và nỗi sầu thảm của một dân tộc đang chịu đựng
ách đô hộ. Tác giả đã khéo léo sử dụng ngôn ngữ mạnh mẽ để thể hiện sự thảm khốc của chiến
tranh, nơi mà "xương rừng máu sông" trở thành biểu tượng cho nỗi đau và mất mát của dân tộc.
Thông qua lời dặn dò của người cha với con trai, Trần Tuấn Khải đã gửi gắm một thông điệp lớn
về lòng yêu nước, sự gắn kết giữa tình yêu gia đình và tình yêu Tổ quốc. "Hai chữ Nước Nhà"
không chỉ là lời nhắc nhở về nghĩa vụ bảo vệ đất nước mà còn là tiếng gọi hành động, kêu gọi
mỗi người dân phải đặt trách nhiệm với Tổ quốc lên trên hết, sẵn sàng hi sinh vì tự do của dân tộc.
Tác phẩm có sức ảnh hưởng mạnh mẽ trong thời điểm ra đời, khi đất nước đang chìm trong cảnh
lầm than, và đến nay vẫn mang giá trị tư tưởng to lớn trong việc giáo dục lòng yêu nước và trách
nhiệm của mỗi cá nhân đối với quê hương, đất nước.