Bài Thu hoạch Diễn án Hành chính hồ sơ | Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh, Đại học Thái Nguyên

Câu hỏi trắc nghiệm về Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh | Đại học Kiến trúc Hà Nội. Tài liệu gồm 13 trang giúp bạn tham khảo, củng cố kiến thức và ôn tập đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!




 !" # $%&
'($!))*+
,"-.!
/"0(1!
23!4
56!
7%89:6!
Thành phố Hồ Chí Minh ngày tháng năm 2021
);<=>?@AA=?@B
*)C1:D/,E8
Ngày 14/6/2016 ông/bà: Bùi Quang Hải sinh năm 1971 và bà Nguyễn Thị Kim sinh năm
1981, thường trú 179/8/1, Trần Phú, phường 5, thành phố A, nộp hồ sơ xin cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất tại bộ phận tiếp nhận và giao
trả kết quả thuộc UBND thành phố A , diện tích 156,7 m2 đất ở căn nhà số 179/8/1 Trần
Phú, Phường 5, Thành phố A. đất trên gồm 2 phần
+ Phần thứ nhất: 102 m2 thuộc thửa 351 tờ bản đồ số 09 ( bàn đồ năm 2000) đã được Ủy
Ban Nhân Dân Thành Phố A cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà và tài sản
gắn liền với đất số BM 62400 ngày 11/1/2013.
+ Phần thứ 2: 54,7m2 trong thửa đất số 164, tờ bản đồ 09 (bản đồ năm 2000) phường 5, trên
đất có dãy nhà cấp 4 do ông Mĩ xây năm 2000.
Ngày 7/9/2016 chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố A có thông báo số 2728/TB-
CNVPĐK trả hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà và tài sản gắn
liền với đất cho Ông Hải và Bà Kim.
Không đồng ý với với thông báo 2728/TB-CNVPĐK ông Hải và bà Kim đã nộp đơn khởi
kiện ra tòa án nhân dân TP.A,
Ngày 9/12/2017 tòa án nhân dân TP.A ra bản án sơ thẩm sau đó hai ông/bà kháng cáo và tòa
án nhân dân tỉnh H ra bản án phúc thẩm ngày 5/4/2018, bản án phúc thẩm số 04/2018/HC-
PT buộc chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai nhận lại hồ sơ của ông Hải và Bà Kim và giải
quyết các thủ tục tiếp theo qui định của pháp luật.
Ngày 20/4/2018 sau khi có bản án phúc thẩm ông Hải và bà Kim nộp hồ sơ xin cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại bộ phận tiếp nhận và giao trả
hồ sơ thuộc UBND TP. A có biên nhận ngày 6/6/2018 có kết quả.
Ngày 14/8/2018 chi nhánh văn phòng đăng ký đất TP.A ra văn bản số 4171/CNVPĐK-
ĐKCG, giải trình đã trình Hồ sơ lên văn phòng đăng ký đất đai thành phố A vào ngày
2/7/2018 số 3187/ PC-CNVPĐK.
Ngày 24/8/2014 ông Hải làm đơn khiếu nại về việc chậm giải quyết cấp giấp chứng nhận
quyền sử dụng đất .
Ngày 7/1/2019 ông/bà tiếp tục nộp đơn khiếu nại ủy ban nhân dân thành phố A chậm giải
quyết cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình ông theo bản án số 04/2018/HC-
PT.
1
Ngày 30/1/2019 ủy ban nhân dân thành phố A ra văn bản số 504/UBND-TNMT trả lời cho
ông Bùi Quang Hải – Đặng Thị Kim, ngày 9/3 UBND thành phố A đã có công văn số
1133/UBND-TNMT xin ý kiến hướng dẫn giải quyết, ngày 6/6/2018 sở tài nguyên và môi
trường đã có văn bản số 2847/STNMT-CCQLĐĐ gửi tổng cục quản lý đất đai xem xét
hướng dẫn giải quyết, nên trong thời gian chờ chỉ đạo tạm trả hồ sơ ông Bùi Quang Hải –
Đặng Thị Kim,
Ngày 18/3/2019 UBND thành phố A, đã ban hành văn bản số 1126/UBND-TNMT, giải
quyết đơn khiếu nại ngày 7/1/2019, trả lời lý do tạm trả lại hồ sơ vì lo vướng mắc trong việc
áp dụng qui định của pháp luật, cần xin ý kiến hướng dẫn của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền nếu đủ điều kiện thì sẽ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo qui định.
Ngày 4/4/2019 không đồng ý với các phương án giải quyết của UBND thành phố A, ông/bà
đã nộp đơn khởi kiện đến Tòa án Nhân Dân Tỉnh H yêu cầu : tuyên Hủy văn bản số
504/UBND-TNMT ngày 30/1/2019 và văn bản số 1126/UBND-TNMT ngày 18/3/2019 của
UBND thành phố A và buộc UBND thành phố A tiếp nhận lại và giải quyết hồ sơ cấp giấy
chứng nhận quyền sở dụng đất, sở hữu nhà và tài sản gắng liền với phần đất diện tích
54,7m2 thuộc thửa đất số 164 tờ bản đồ 09 (bản đồ số 2000) phường 5, thành phố A theo qui
định của pháp luật.
F)?.D GDHI1H1J
Người khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết là tuyên chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện
của ông Hải và bà Kim; Tuyên Hủy văn bản số 1126/UBND-TNMT ngày 18/3/2019 của
UBND thành phố A, tuyên hành vi từ chối thực hiện thủ tục “tạm trả hồ sơ” đăng ký quyền
sử dụng đất, sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất là trái pháp luật, buộc UBND thành phố
A tiếp nhận lại và giải quyết hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sở dụng đất, sở hữu nhà và
tài sản gắng liền với phần đất 54,7m2 thuộc thửa đất số 164 tờ bản đồ 09 (bản đồ số 2000)
phường 5, thành phố A theo qui định của pháp luật. Đề nghị Tòa án kiến nghị xem xét trách
nhiệm, năng lực của UBND thành phố A, về việc không thực hiện đúng chức năng, nhiệm
vụ của mình.
K)8 ,LMN-7-E/
Đối tượng khởi kiện
Văn bản số 504/UBND-TNMT ngày 30/1/2019 và văn bản số 1126/UBND-TNMT ngày
18/3/2019 của UBND thành phố A ban hành.
Đây là Quyết định hành chính có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích
hợp pháp của Ông Bùi Quang Hải và Bà Đặng Thị Kim.
O)P 8 MP$/(Q
- Người khởi kiện: Bà Đặng Thị Kim
2
+ Sinh năm: 1981
+ Địa chỉ: 179/8/1 Trần Phú, Phường 5, Thành Phố A
- Ông Bùi Quang Hải
+ Sinh năm: 1911
+ Địa chỉ: 179/8/1 Trần Phú, Phường 5, Thành Phố A
- Người bị khởi kiện: UBND thành phố A, uỷ Ban nhân dân thành Phố A
- Người có quyền và nghĩa vụ liên quan : chủ tịch UBND thành phố A, uỷ Ban nhân dân
thành Phố A
+)1NDH1JHI1H1J
Chủ thể và quyền khởi kiện
Ông Bùi Quang Hải và Bà Đặng Thị Kim có đủ năng lực pháp luật tố tụng hành chính và
năng lực hành vi tố tụng hành chính.
Văn bản số 504/UBND-TNMT ngày 30/1/2019 và văn bản số 1126/UBND-TNMT ngày
18/3/2019 của UBND thành phố A ban hành.Đây là Quyết định hành chính có ảnh hưởng
trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của Ông Bùi Quang Hải và Bà Đặng Thị Kim.
Ông Bùi Quang Hải và Bà Đặng Thị Kim có quyền khởi kiện yêu cầu hủy Văn bản số
504/UBND-TNMT ngày 30/1/2019 và văn bản số 1126/UBND-TNMT ngày 18/3/2019 của
UBND thành phố A ban hành ban hành theo quy định tại Điều 115, Luật tố tụng hành chính
2015 về quyền khởi kiện vụ án.
R)S11JDHI1H1J
Ngày 30/1/2019 ủy ban nhân dân thành phố A ra văn bản số 504/UBND-TNMT trả lời cho
ông Bùi Quang Hải – Đặng Thị Kim, ngày 9/3 UBND thành phố A đã có công văn số
1133/UBND-TNMT xin ý kiến hướng dẫn giải quyết, ngày 6/6/2018 sở tài nguyên và môi
trường đã có văn bản số 2847/STNMT-CCQLĐĐ gửi tổng cục quản lý đất đai xem xét
hướng dẫn giải quyết, nên trong thời gian chờ chỉ đạo tạm trả hồ sơ ông Bùi Quang Hải –
Đặng Thị Kim,
Ngày 18/3/2019 UBND thành phố A, đã ban hành văn bản số 1126/UBND-TNMT, giải
quyết đơn khiếu nại ngày 7/1/2019, trả lời lý do tạm trả lại hồ sơ vì lo vướng mắc trong việc
áp dụng qui định của pháp luật, cần xin ý kiến hướng dẫn của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền nếu đủ điều kiện thì sẽ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo qui định.
Ngày 4/4/2019 không đồng ý với các phương án giải quyết của UBND thành phố A, ông/bà
đã nộp đơn khởi kiện đến Tòa án Nhân Dân Tỉnh H yêu cầu : tuyên Hủy văn bản số
504/UBND-TNMT ngày 30/1/2019 và văn bản số 1126/UBND-TNMT ngày 18/3/2019 của
UBND thành phố A và buộc UBND thành phố A.Theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật
khiếu nại tố cáo năm 2011 về trình tự khiếu nại và điểm a khoản 2 điều 116 Luật TTHC
2015 về thời hiệu khởi kiện.
3
Ông Bùi Quang Hải và Bà Đặng Thị Kim còn thời hiệu khởi kiện.
T)UVWD0N
UBND thành phố A, đã ban hành văn bản số 504/UBND-TNMT theo quy định tại khoản 1
Điều 32 Luật TTHC 2015 về thẩm quyền của
Tòa án cấp tỉnh: Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà
nước cấp tỉnh trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tán và của người có thẩm
quyền trong cơ quan nhà nước đó…
Do đó, Tòa án nhân dân tỉnh H thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.
XYZ[\
]1/PS1%^H1J!
1. Xin Ông cho biết phần diện tích đất gia đình Ông Bùi Quang Hải xin cấp GCN có
vượt hạn mức sử dụng đất theo qui hoạch sử dụng đất của UBND Thành Phố A hay
không ?
2. Theo qui định tại K5 Luật Đất Đai 1993 về việc tạo điều kiện cho việc khai phá đất
hoang, lấn biển . Vậy xin Ông cho biết phần khai hoang, lấn biển 54,7m2 có xem là
bất hợp pháp hay không.
3. Xin Ông cho biết lý do cho việc chậm trễ kéo dài trong việc tiếp nhận giải quyết hồ
sơ xin cấp GCN QSDĐ của Ông Bùi Quang Hải
4. Dựa vào Nghị Định 43/2014/NĐ-CP về các trường hợp không đủ điều kiện cấp GCN
QSDĐ xin Ông cho biết hồ sơ xin cấp GCN QSDĐ của Ông Bùi Quang Hải còn
thiếu những điều kiện gi?
5. Căn cứ qui định tại Nghị định 43/2014/NĐ-CP về thời gian thực hiện thủ tục hành
chính về đất đai là không quá 15 ngày vậy xin Ông cho biết việc tiếp nhận và thực
hiện thủ tục đối vơi hồ sơ Ông Bùi Quang Hải có đúng với qui định của pháp luật
hay không?
6. Ý kiến của ông như thế nào về phần diện tích xin cấp GCN QSDĐ 54,7 m2
7. Theo qui định Luật Đất Đai thì xin Ông cho biết Phần diện tích 54,7 m2 là loại đất gì
8. Cơ quan có chắc chắn rằng hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ của ông Hải thuộc diện không
có quy định trong luật đất đai 2013 và văn bản hướng dẫn hay không?
9. Ngày 6/62018 là ngày cơ quan trả kết quả cho ông Hải đúng hay không?
10. Cơ quan dựa vào quy hoạch mục đích sử dụng đất với diện tích 54,7m2 của ông Hải
để từ chối hồ sơ cấp GCN đúng không?
11. Ngày ông Hải nộp hồ sơ cấp GCN là ngày 20/4/2018 đúng hay không?
12. Nguồn gốc đất ông Mĩ là sàn phơi cá được ông Mĩ đổ đất xây kè từ năm 1993 phải
không?
13. Thửa đất của ông Hải và Bà kim là được ông Mĩ (bố ông Hải) bán lại phải không ?
14. Theo bản đồ địa chính được phê duyệt năm 2002 phần diện tích đất 54,7m2 là phần
diện tích đất tăng thêm trong thửa đất số 164 bản đố số 9 phải không?
15. theo quyết định 1352 thì phần thửa đất phù hợp với qui hoạch đất ở đô thị phải
không?
16. Hiện tại thửa đất 54,7m2 này không có bất cứ tranh chấp gì phải không ?
17. Ngày 20/4/2018 UBND, có nhận được đầy đủ hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận QSĐ,
tài sản gắn liền với đất của ông Hải hay không?
4
18. Thửa đất số 164 bản đố số 9 của ông Hải và bà Kim là được ông Mĩ bán lại phải
không ?
19. Thửa đất số 164 bản đố số 9 này được ông Mĩ xây kè đổ đất từ sàn phơi cá phải
không?
20. Có xát nhận nào nói đất của ông hải là lấn biển hay không ? hay xác nhận do bố ông
hải kê kè đổ đất trước đó là sàn phơi cá
21. Văn bản số 1126 là văn bản giải quyết khiếu nại của UBND thành phố A với ông Hải
không?
22. Xin ông cho biết, thể thức ban hành quyết định giải quyết khiếu nại là theo hướng
dẫn luật khiếu nại phải không?
23. Theo ông việc UBND ban hành quyết định giải khiếu nại này là đúng hay sai?
]1/PS1HI1H1J!
1. Ông có chấp nhận lý do tạm trả hồ sơ mà UBND thanh phố A đã đưa ra trong văn
bản 504/UBND ngày 30/1/2019 hay không ? tại sao ?
2. Việc chậm trễ giải quyết hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
của ông như thế nào ?
3. Xin ông cho biết , phần diện tích đất 54,7m2 được phê duyệt thuộc thửa đất số 164 tờ
bản đồ số 09 vào năm nào ?
4. Việc trả lại hồ sơ nhiều lần của UBND thành phố A có gây nhiều thiệt hại cho gia
đình ông không?
5. Nguồn gốc đất của vợ chồng ông là như thế nào?
6. Bà cho biết có phải bố chồng(ông Mỹ) đã bán lại cho vợ chồng bà thửa đất này đúng
không ?
)_`>=
- Luật tố tụng hành chính năm 2015 ;
- Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 ;
- Luật khiếu nại số 02 / 2011 / QH13 ngày 12/11/2013 ;
- Nghị định số 91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2020 thay thế NĐ 102/2014/NĐ-CP của
chinh phủ
- Nghị định 43/2014/NĐ-CP hướng dẫn Luật Đất đai 2013
- Nghị định 01/2017/NĐ-CP
a`b?cded=fg
Kính thưa Hội đồng xét xử,
Thưa vị đại diện Viện kiểm sát,
Thưa các vị luật sư đồng nghiệp,
Tôi tên là Luật sư, thuộc VPLS ABC thuộc đoàn Luật sư Tp.HCM. Tôi tham gia
phiên tòa này với tư cách là Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện
Ông Bùi Quang Hải và Bà Nguyễn Thị Kim.
Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án cũng như diễn biến tại phiên tòa hôm nay, tôi xin trình bày
một số ý kiến bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện như sau:
5
Qua phần trình bày của phía người khởi kiện, người bị kiện và phần xét hỏi công khai tại
phiên tòa đã thể hiện rõ nội dung của vụ án ngày hôm nay. Tôi xin phép không tóm tắt lại
nội dung trong vụ án này.
Người khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết là tuyên chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện
của ông Hải và bà Kim; Tuyên Hủy văn bản số 1126/UBND-TNMT ngày 18/3/2019 của
UBND thành phố A, tuyên hành vi từ chối thực hiện thủ tục “tạm trả hồ sơ” đăng ký quyền
sử dụng đất, sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất là trái pháp luật, buộc UBND thành phố
A tiếp nhận lại và giải quyết hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sở dụng đất, sở hữu nhà và
tài sản gắng liền với phần đất 54,7m2 thuộc thửa đất số 164 tờ bản đồ 09 (bản đồ số 2000)
phường 5, thành phố A theo qui định của pháp luật. Đề nghị Tòa án kiến nghị xem xét trách
nhiệm, năng lực của UBND thành phố A, về việc không thực hiện đúng chức năng, nhiệm
vụ của mình.
Tôi cho rằng yêu cầu như trên của phía người khởi kiện là hoàn toàn có cơ sở chấp nhận bởi
hành vi và quyết định hành chính của UBND thành phố A là không đúng với quy định của
pháp luật thể hiện ở 05 nội dung chính sau đây:
1. Nguồn gốc thửa đất 54,7 m2 là đất sàn phơi cá của cha Bùi Xuân Mĩ bán cho ông hải có
hợp đồng mua bán tay công chứng .
2. Thửa đất 54,7 m2 của vợ chồng ông Hải đầy đủ các điều kiện để được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất .
3. ông Bùi Văn hải và bà đặng thị Kim đã nộp đầy đủ hồ sơ để được Giấy chứngnhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
4. Toàn bộ diện tích đất 54,7 không phải là đất lấn biển.
5. văn bản 1126/UBND-TNMT là sai thể thức và sai lý do ban hành quyết định giải quyết
khiếu nại.
Sau đây tôi trình bày phân tích cụ thể, chi tiết để chứng minh 05 nội dung như đã nêu trên:
hL- : trước hết chúng ta phải hiểu lấn đất là gì ? Lấn đất là việc người sử dụng chuyển
dịch mốc giới hoặc ranh giới thửa đất để mở rộng diện tích đất sử dụng mà không được cơ
quan quản lý nhà nước về đất đai cho phép hoặc không được người sử dụng hợp pháp diện
tích đất bị lấn đó cho phép. Căn cứ nghị định số 91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2020 thay thế
NĐ 102/2014/NĐ-CP của chinh phủ. Vậy câu hỏi đặt ra là phần đất của người khởi kiện có
rơi vào trường hợp này không ?
h61: Nguồn gốc thửa đất 54,7 m2 là đất sàn phơi cá của cha Bùi Xuân Mĩ bán cho ông
hải có hợp đồng mua bán tay công chứng .
6
Căn cứ vào xát nhận của UBND phường 5 ngày 13/7/2016 và kết quả kiểm tra hồ sơ số
104/TB/UBND đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà và tài sản gắn
liền với đất, nguồn gốc thửa đất 54,7 là sàn phơi cá của của bố ông Hải (ông Mĩ) cất sàn từ
năm 1993, đến năm 1998 ông Mĩ xây kề đổ đất và tiếp tục làm nơi phơi cá, đến năm 2000
ông mỹ cất phòng trò và cho thuê, Toàn bộ thửa đất này đã được ông Mĩ lập hợp đồng mua
bán tay có công chứng ngày 14/4/2003 bán toàn bộ cho con trai là ông Bùi Quang Hải và
con dâu là bà Đặng Thị Kim sinh sống cho đến ngày 8/4/2016 ông hải đã có đăng ký quyền
sử dụng đất và sử dụng ổn định cho đến nay.
Như vậy nguồn gốc thửa đất 54,7 m2 là đất sàn phơi cá của cha Bùi Xuân Mĩ bán cho ông
Hải và Bà Kim có hợp đồng mua bán tay công chứng không có bất kỳ dấu hiệu vi phạm nào
về qui định pháp luật.
h%6 : thửa đất 54,7 m2 của vợ chồng ông Hải đầy đủ các điều kiện để được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Căn cứ bản đồ địa chính năm 2000 được phê duyệt 2002
phần Thửa đất 54,7 m2 là phần diện tích tăng thêm thuộc một phần đất số 164 bản đố số 9
trong đó có 102m2 đã cấp giấy chứng nhận cho ông Mĩ sau đó chuyển nhượng biến động
cho ông Hải- bà Kim giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà và tài sản gắn liền với
đất số BM 62400 ngày 11/1/2013, đang sử dụng đất trong tổng 156,7 m2.
Căn cứ theo điều 20 nghị định 01/2017/NĐ-CP bồ sum điều 24a nghị định 43/2014 hộ gia
đình, cá nhân đang sử dụng đất được xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất có diện tích đất tăng thêm khi có đủ điều
kiện sau:
Điều kiện 1 : Đo đạc lại mà diện tích thửa đất thực tế nhiều hơn diện tích ghi trên Giấy
chứng nhận đã cấp hoặc giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Điều 100 Luật Đất đai,
Điều 18 Nghị định 43/2014/NĐ-CP thực tế diện tích đất được cấp giấy chứng nhận số BM
62400 cho ông hải và bà kim trước đó chỉ 102 m2 nhưng thực tế hiện tại tăng thêm 156,7
m2 theo bản đồ địa chính năm 2002. Nên hiện tại ranh giới thửa đất thực tế 156,7 m2 chứ
không phải là 102 m2 có thay đổi so với ranh giới thửa đất tại thời điểm có Giấy chứng
nhận hoặc giấy tờ về quyền sử dụng đất số BM 62400 .
Điều kiện 2 : Thửa đất 54,7 m2 là đất tăng thêm không có giấy tờ về quyền sử dụng đất theo
quy định tại Điều 100 của Luật đất đai, Điều 18 của Nghị định 43 nhưng sử dụng đất không
vi phạm pháp luật về đất đai đã được chứng minh từ luận điểm 1 về nguồn gốc đất.
Thủ tục cấp Giấy chứng nhận đối với toàn bộ diện tích thửa đất thực hiện theo quy định tại
Điều 70 nghị định 43. Đối chiếu với trường hợp của ông Hải và bà kim tại luận điểm 1 đã
nêu trên, về nguồn gốc đất ông Hải và bà Kim đã sử dụng ổn định đất từ trước 1/7/2004 đến
nay, thứ 2 căn cứ vào quyết định số 1352/QĐ-UBND ngày 27/6/2014 của ủy ban nhân dân
tỉnh H về việc phê duyệt qui hoạch sử dụng đất chi tiết đến năm 2020 và bản đồ qui hoạch
theo quyết định 1352 thì phần thửa đất phù hợp với qui hoạch đất ở đô thị , ngoài ra hiện tại
đất không có tranh chấp căn cứ theo phiếu lấy ý kiến của cư dân ngày 21/6/2016 và xát nhận
của UBND phường 5 ngày 13/7/2016.
7
Vì vậy căn cứ các qui định pháp luật nêu trên Thửa đất 54,7 m2 thuộc thửa đất số 164 bản
đồ số 9, của vợ chồng ông Hải đầy đủ các điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất .
h-P! ông Bùi Văn hải và bà đặng thị Kim đã nộp đầy đủ hồ sơ để được Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
Căn cứ giấy tiếp nhận hồ sơ ngày 20/4/2018 và sự hướng dẫn của bộ phận tiếp nhận hồ sơ,
gồm có đơn đăng ký, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất đối với toàn bộ diện tích của thửa đất đang sử dụng, Giấy chứng
nhận quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất ,Giấy mua bán nhà , Bản án 04/2018,
Dánh sách công khai số 104/TB-UBND, Phiếu lấy ý kiến dân cư , Bộ sao lục , Sơ đồ vị t
năm 2003, phù hợp với các giấy tờ theo điểm a khoản 3 điều 9a thông tư 33 Trường hợp
diện tích đất tăng thêm có giấy tờ theo Khoản 16 Điều 2 của Nghị định số 01/2017/NĐ-CP (
giấy đăng ký quyền sử dụng đất ngày 8/4/2016 )
Vậy hồ sơ ông Hải và bà Kim đã nộp đầy đủ theo qui định của pháp luật về việc cấp giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất.
hiV! Toàn bộ diện tích đất 54,7 không phải là đất lấn biển
Căn cứ vào danh sách công khai và giấy xác nhận của UBND khẳng định đất này là sàn
phơi cá được ổng Mĩ đổ kè và bồi đắp đất thêm cho đến năm 2002 thì gọp chung với thửa số
164, Căn cứ theo bản đồ địa chính được phê duyệt năm 2002 phần diện tích 54,7 m2 thuộc
phần diện tích đất số 164 tờ bản bản đồ sớ 09 do ông Bùi Xuân Mĩ đứng tên đăng ký, sau
này chuyển nhượng cho ông Hải và bà Kim, không có bất kỳ xác nhận nào cho rằng đất này
là đất lấn biển .
Như vậy việc UBND thành phố A tạm trả hồ sơ cho ông Hải và bà Kim với lý do đất lấn
biển là hoàn toàn bịa đặt không có căn cứ pháp lý .
h(8D! văn bản 1126/UBND-TNMT là sai thể thức và sai lý do ban hành quyết định giải
quyết khiếu nại.
Căn cứ luật giải quyết khiếu nại 2012 người giải quyết khiếu nại phải ra quyết định giải
quyết khiếu nại đúng với thể thức ban hành quyết định khiếu nại này, theo đúng qui định tại
điều 31 của nghị định này, tuy nhiên văn bản số 1126 thì chủ tịch UBND thành phố A ban
hành văn bản không không đúng qui pháp luật, về giải quyết khiếu nại theo qui định của
pháp luật, không có căn cứ pháp lý giải quyết khiếu nại, nội dung khiếu nại , kết quả thẩm
tra xát minh, kết luận khiếu nại, thể thức không phù hợp với qui định của pháp luật.
vì vậy văn bản số 1126/UBND-TNMT không hợp pháp cả về hình thức và nội dung của qui
định pháp luật về giải quyết khiếu nại theo qui định của pháp luật
8
Qua 05 nội dung tôi trình bày như trên có thể chứng minh việc UBND thành phố A, với
hành vi trả hồ sơ chậm trể thực hiện thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất và quyền sử dụng
nhà ở của ông Hải - bà Kim là trái pháp luật đồng thời quyết định giải quyết khiếu nại số
1126 là hoàn toàn không đúng với qui định của pháp luật.
Điều này đã vi phạm nghiêm trọng pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp
của phía ông Hải và bà Kim.
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước đang chủ trương thực hiện cải cách hành chính
theo hướng đơn giản hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp, giảm tối
đa chi phí tuân thủ thủ tục hành chính của xã hội. Tuy nhiên UBND thành phố A lại đang
gây khó khăn, phiền hà cho người dân.
Do đó tôi kính mong hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng hành
chính tuyên chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Hải và Bà Kim; tuyên bố hành vi
hành chính của UBND thành phố A là trái pháp luật, hủy văn bản số 1126/UBND-TNMT
ngày 18/3/2019 của UBND thành phố A và buộc UBND thành phố A tiếp nhận lại và giải
quyết hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sở dụng đất, sở hữu nhà và tài sản gắng liền với đất
diện tích 54,7m2 thuộc thửa đất số 164 tờ bản đồ 09 (bản đồ số 2000) phường 5, thành phố
A theo qui định của pháp luật.
Đề nghị Tòa án kiến nghị xem xét năng lực, trách nhiệm của UBND thành phố A, về việc
không thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình.
Trên đây là những quan điểm tôi trình bày để bảo vệ quyền lợi cho phía ông Hải-bà Kim.
Kính mong Quý toà cân nhắc xem xét và chấp nhận để ra một bản án đúng pháp luật.
Cảm ơn Hội đồng xét xử đã lắng nghe.
jD]1
1. Là luật sư anh chị nhận xét và đưa ra quan điểm đề nghị đối với những tình huống tố
tụng xảy ra tại phần thủ tục bắt đầu của phiên tòa ?
- Phần thủ tục bắt đầu phiên tòa có ý nghĩa rất quan trọng cho việc chuẩn bị các
điều kiện cần thiết bảo đảm cho hoạt động của Hội đồng xét xử tại phiên tòa theo
đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phần thủ tục sau khi kiểm tra căn
cước của bị cáo, công bố thành phần những người tham gia tố tụng, giải thích
quyền, nghĩa vụ của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa thì
thực tế cũng cho thấy có nhiều vấn đề mới nảy sinh khác với Cáo trạng của VKS
truy tố như vấn đề về họ tên, nhân thân người phạm tội trong quá trình điều tra đã
không có sự xác minh đầy đủ về nhân thân, tuổi, tình trạng năng lực trách nhiệm
hình sự của người phạm tội, cũng như những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ.
9
Ví dụ : Trong vụ án mà kết luận giám định về nguyên nhân chết hoặc thi chất mức độ
thương tích , cơ chế gây thương tích chưa rõ ràng , thông tin về điều kiện tiến hành
giám định , cơ sở thực hiện giám định , các vật , tài liệu , mẫu gửi đến giám định …
mà Luật sư nhận thấy không phù hợp , không đúng cách làm tương tự như với các
trường hợp khác , trước đó Luật sư đã đề xuất giải thích kết luận giám định , thậm chí
yêu cầu giám định lại , giám định bổ sung nhưng không được đáp ứng thì Luật sư cần
yêu cầu HĐXX bảo đảm sự có mặt của Giám định viên tại là phiên tòa , nếu người
giám định vắng mặt thì đề nghị hoãn phiên tòa .
Luật sư phải chuẩn bị sẵn ý kiến để khi Chủ toạ phiên tòa hỏi về việc người tham gia
tố tụng vắng mặt thì trình bày được ngay ý kiến đã chuẩn bị của mình , tuy không
phải quá chi tiết nhưng cũng không thể quá vắn tắt . Bởi lẽ , trong một phiên tòa , đây
là lần đầu tiên Luật sư phát ngôn , việc Luật sư nói gì sẽ không chỉ có ý nghĩa trong
việc bảo đảm quyền lợi của khách hàng mà còn thể hiện Luật sư đã đọc hồ sơ một
cách nghiêm túc và có sự cân nhắc kỹ trước mọi tình huống , thể hiện trách nhiệm
đối với việc làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án và trách nhiệm đối với công
việc bào chữa . Trong trường hợp bị cáo chưa nhận được bản cáo trạng hoặc quyết
định đưa vụ án ra xét xử thì Luật sư phải yêu cầu HĐXX hoãn phiên toà . Nếu bị cáo
hoặc đương sự không được Chủ toạ giải thích rõ quyền và nghĩa vụ của họ tại phiên
toà hoặc không hỏi họ có đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng , người giám định ,
người phiên dịch hay không thì Luật sư phải đề nghị HĐXX cho họ được thực hiện
các quyển đó theo quy định của pháp luật . Nếu thấy cần đưa thêm tài liệu , chứng cứ
mới ra xem xét tại phiên toà mà trước đó Luật sư chưa có thì Luật sư chủ động đưa ra
tài liệu chứng cứ đề nghị HĐXX xem xét Tại phiên toà . Trường hợp thấy cần đề
nghị triệu tập thêm người làm chứng quan trọng của vụ án thì Luật sư phải đề nghị
với HĐXX triệu tập người làm chứng .
2. Anh chị nhận xét về nội dung hỏi và kỹ năng đối đáp của 2 bên luật sư tại phiên tòa?
Luật sư trinh bày trong phiên tòa gồm có 5 phần :
1. Phần chuẩn bị tham gia phiên tòa
2. Phần thủ tục phiên tòa
3. Phần xét hỏi
4. Phần trinh bày luận cứ
5. Phần tranh luận
1. Phần chuẩn bị tham gia phiên tòa
Luật sư hai đã có sự chuẩn bị tốt bao gồm những điểm sau :
- Kiểm tra, sắp xếp hồ sơ
- Dự kiến kế hoạch hỏi tại phiên tòa một cách logic
- Chuẩn bị bản luận cứ bảo vệ đầy đủ chi tiết
- Chuẩn bị hệ thống văn bản pháp luật để đưa ra biện luận cho luận điểm của
minh
10
2. Phần thủ tục phiên tòa
- Thống nhất với đương sự ai trinh bày yêu cầu : luật sư trinh bày rõ ràng chinh
xác
- Trình bày ngắn gọn yêu cầu : luật sư trinh bày rõ ràng chính xác
3. Phần thủ tục hỏi
- Thứ tự hỏi hợp lý
- Phân bố thời gian phù hợp trong phần hỏi
- Linh động thay đổi câu hỏi theo diễn biến phiên tòa
- Câu hỏi có giá trị chứng minh có lợi cho đương sự minh bảo vệ
- Phối hợp với đương sự khi trả lời câu hỏi
luật sư người khởi kiện
- Phối hợp với đương sự khi trả lời câu hỏi : cần thống nhất với nhau, còn thiếu
những câu hỏi có giá trị chứng minh tốt hơn
- Linh động thay đổi câu hỏi
- Luật NKK 2 – (Phương) vi pham quy tắc đạo đức luật sư khi trước Tòa nói "
Ls đồng nghiệp lại chung bên NKK mình là dài dòng , mang tính chê bai" là không
tôn trọng đồng nghiệp, khiếm nhã, thiếu chuyên nghiệp!
luật sư người bị kiện
Luận cứ
- trinh bày rõ ràng nội dung luận cứ theo bố cục bản luận cứ
- lời lẽ , nội dung trinh bày lôi cuốn thuyết phục về chứng cứ và căn cứ pháp lý
- tranh cầm luận cứ đọc
- phong thái thể hiện khi trinh bày luận cứ
Nội dung cần làm rõ của luật sư người khởi kiện
- Nguồn gốc phần đất 54,7m2 ở đâu có ? ai sử dụng ? sử dụng từ thời gian nào ?
có kể khai đăng ký không ?
- Phần đất 54,7m2 đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận không ?căn cứ pháp lý và
chứng cứ nào chứng minh ?
- Hồ sơ cấp giấy chứng nhận là đúng theo quy định
- Toàn bộ diện tích phần 54,7m2 có phải là do lấn đất lấn biển không?
Luật sư người bị kiện
- Xin Ông cho biết phần diện tích đất gia đình Ông Bùi Quang Hải xin cấp GCN
có vượt hạn mức sử dụng đất theo qui hoạch sử dụng đất của UBND Thành Phố A
hay không ?
- Theo qui định tại K5 Luật Đất Đai 1993 về việc tạo điều kiện cho việc khai
phá đất hoang, lấn biển . Vậy xin Ông cho biết phần khai hoang, lấn biển 54,7m2 có
xem là bất hợp pháp hay không.
- Xin Ông cho biết lý do cho việc chậm trễ kéo dài trong việc tiếp nhận giải
quyết hồ sơ xin cấp GCN QSDĐ của Ông Bùi Quang Hải
11
- Dựa vào Nghị Định 43/2014/NĐ-CP về các trường hợp không đủ điều kiện
cấp GCN QSDĐ xin Ông cho biết hồ sơ xin cấp GCN QSDĐ của Ông Bùi Quang
Hải còn thiếu những điều kiện gi?
- Căn cứ qui định tại Nghị định 43/2014/NĐ-CP về thời gian thực hiện thủ tục
hành chính về đất đai là không quá 15 ngày vậy xin Ông cho biết việc tiếp nhận và
thực hiện thủ tục đối vơi hồ sơ Ông Bùi Quang Hải có đúng với qui định của pháp
luật hay không?
- Ý kiến của ông như thế nào về phần diện tích xin cấp GCN QSDĐ 54,7 m2
12
| 1/13

Preview text:

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
KHÓA ĐÀO TẠO LUẬT SƯ
BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN
Môn học: Hành chính cơ bản Hồ sơ : LS.HC.15 Họ và tên: Ngày sinh: Lớp: F Khóa: Số báo danh:
Thành phố Hồ Chí Minh ngày tháng năm 2021
I.TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN VÀ YÊU CẦU CẦU NGUYÊN ĐƠN 1.Nội dung vụ án
Ngày 14/6/2016 ông/bà: Bùi Quang Hải sinh năm 1971 và bà Nguyễn Thị Kim sinh năm
1981, thường trú 179/8/1, Trần Phú, phường 5, thành phố A, nộp hồ sơ xin cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất tại bộ phận tiếp nhận và giao
trả kết quả thuộc UBND thành phố A , diện tích 156,7 m2 đất ở căn nhà số 179/8/1 Trần
Phú, Phường 5, Thành phố A. đất trên gồm 2 phần
+ Phần thứ nhất: 102 m2 thuộc thửa 351 tờ bản đồ số 09 ( bàn đồ năm 2000) đã được Ủy
Ban Nhân Dân Thành Phố A cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà và tài sản
gắn liền với đất số BM 62400 ngày 11/1/2013.
+ Phần thứ 2: 54,7m2 trong thửa đất số 164, tờ bản đồ 09 (bản đồ năm 2000) phường 5, trên
đất có dãy nhà cấp 4 do ông Mĩ xây năm 2000.
Ngày 7/9/2016 chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố A có thông báo số 2728/TB-
CNVPĐK trả hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà và tài sản gắn
liền với đất cho Ông Hải và Bà Kim.
Không đồng ý với với thông báo 2728/TB-CNVPĐK ông Hải và bà Kim đã nộp đơn khởi
kiện ra tòa án nhân dân TP.A,
Ngày 9/12/2017 tòa án nhân dân TP.A ra bản án sơ thẩm sau đó hai ông/bà kháng cáo và tòa
án nhân dân tỉnh H ra bản án phúc thẩm ngày 5/4/2018, bản án phúc thẩm số 04/2018/HC-
PT buộc chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai nhận lại hồ sơ của ông Hải và Bà Kim và giải
quyết các thủ tục tiếp theo qui định của pháp luật.
Ngày 20/4/2018 sau khi có bản án phúc thẩm ông Hải và bà Kim nộp hồ sơ xin cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại bộ phận tiếp nhận và giao trả
hồ sơ thuộc UBND TP. A có biên nhận ngày 6/6/2018 có kết quả.
Ngày 14/8/2018 chi nhánh văn phòng đăng ký đất TP.A ra văn bản số 4171/CNVPĐK-
ĐKCG, giải trình đã trình Hồ sơ lên văn phòng đăng ký đất đai thành phố A vào ngày
2/7/2018 số 3187/ PC-CNVPĐK.
Ngày 24/8/2014 ông Hải làm đơn khiếu nại về việc chậm giải quyết cấp giấp chứng nhận quyền sử dụng đất .
Ngày 7/1/2019 ông/bà tiếp tục nộp đơn khiếu nại ủy ban nhân dân thành phố A chậm giải
quyết cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình ông theo bản án số 04/2018/HC- PT. 1
Ngày 30/1/2019 ủy ban nhân dân thành phố A ra văn bản số 504/UBND-TNMT trả lời cho
ông Bùi Quang Hải – Đặng Thị Kim, ngày 9/3 UBND thành phố A đã có công văn số
1133/UBND-TNMT xin ý kiến hướng dẫn giải quyết, ngày 6/6/2018 sở tài nguyên và môi
trường đã có văn bản số 2847/STNMT-CCQLĐĐ gửi tổng cục quản lý đất đai xem xét
hướng dẫn giải quyết, nên trong thời gian chờ chỉ đạo tạm trả hồ sơ ông Bùi Quang Hải – Đặng Thị Kim,
Ngày 18/3/2019 UBND thành phố A, đã ban hành văn bản số 1126/UBND-TNMT, giải
quyết đơn khiếu nại ngày 7/1/2019, trả lời lý do tạm trả lại hồ sơ vì lo vướng mắc trong việc
áp dụng qui định của pháp luật, cần xin ý kiến hướng dẫn của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền nếu đủ điều kiện thì sẽ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo qui định.
Ngày 4/4/2019 không đồng ý với các phương án giải quyết của UBND thành phố A, ông/bà
đã nộp đơn khởi kiện đến Tòa án Nhân Dân Tỉnh H yêu cầu : tuyên Hủy văn bản số
504/UBND-TNMT ngày 30/1/2019 và văn bản số 1126/UBND-TNMT ngày 18/3/2019 của
UBND thành phố A và buộc UBND thành phố A tiếp nhận lại và giải quyết hồ sơ cấp giấy
chứng nhận quyền sở dụng đất, sở hữu nhà và tài sản gắng liền với phần đất diện tích
54,7m2 thuộc thửa đất số 164 tờ bản đồ 09 (bản đồ số 2000) phường 5, thành phố A theo qui định của pháp luật. 2.Yêu cầu khởi kiện
Người khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết là tuyên chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện
của ông Hải và bà Kim; Tuyên Hủy văn bản số 1126/UBND-TNMT ngày 18/3/2019 của
UBND thành phố A, tuyên hành vi từ chối thực hiện thủ tục “tạm trả hồ sơ” đăng ký quyền
sử dụng đất, sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất là trái pháp luật, buộc UBND thành phố
A tiếp nhận lại và giải quyết hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sở dụng đất, sở hữu nhà và
tài sản gắng liền với phần đất 54,7m2 thuộc thửa đất số 164 tờ bản đồ 09 (bản đồ số 2000)
phường 5, thành phố A theo qui định của pháp luật. Đề nghị Tòa án kiến nghị xem xét trách
nhiệm, năng lực của UBND thành phố A, về việc không thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình.
3.Các vấn đề tố tụng
Đối tượng khởi kiện
Văn bản số 504/UBND-TNMT ngày 30/1/2019 và văn bản số 1126/UBND-TNMT ngày
18/3/2019 của UBND thành phố A ban hành.
Đây là Quyết định hành chính có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích
hợp pháp của Ông Bùi Quang Hải và Bà Đặng Thị Kim. 4.Tư cách đương sự
- Người khởi kiện: Bà Đặng Thị Kim 2 + Sinh năm: 1981
+ Địa chỉ: 179/8/1 Trần Phú, Phường 5, Thành Phố A - Ông Bùi Quang Hải + Sinh năm: 1911
+ Địa chỉ: 179/8/1 Trần Phú, Phường 5, Thành Phố A
- Người bị khởi kiện: UBND thành phố A, uỷ Ban nhân dân thành Phố A
- Người có quyền và nghĩa vụ liên quan : chủ tịch UBND thành phố A, uỷ Ban nhân dân thành Phố A
5.Điều kiện khởi kiện
Chủ thể và quyền khởi kiện
Ông Bùi Quang Hải và Bà Đặng Thị Kim có đủ năng lực pháp luật tố tụng hành chính và
năng lực hành vi tố tụng hành chính.
Văn bản số 504/UBND-TNMT ngày 30/1/2019 và văn bản số 1126/UBND-TNMT ngày
18/3/2019 của UBND thành phố A ban hành.Đây là Quyết định hành chính có ảnh hưởng
trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của Ông Bùi Quang Hải và Bà Đặng Thị Kim.
Ông Bùi Quang Hải và Bà Đặng Thị Kim có quyền khởi kiện yêu cầu hủy Văn bản số
504/UBND-TNMT ngày 30/1/2019 và văn bản số 1126/UBND-TNMT ngày 18/3/2019 của
UBND thành phố A ban hành ban hành theo quy định tại Điều 115, Luật tố tụng hành chính
2015 về quyền khởi kiện vụ án.
6.Thời hiệu khởi kiện
Ngày 30/1/2019 ủy ban nhân dân thành phố A ra văn bản số 504/UBND-TNMT trả lời cho
ông Bùi Quang Hải – Đặng Thị Kim, ngày 9/3 UBND thành phố A đã có công văn số
1133/UBND-TNMT xin ý kiến hướng dẫn giải quyết, ngày 6/6/2018 sở tài nguyên và môi
trường đã có văn bản số 2847/STNMT-CCQLĐĐ gửi tổng cục quản lý đất đai xem xét
hướng dẫn giải quyết, nên trong thời gian chờ chỉ đạo tạm trả hồ sơ ông Bùi Quang Hải – Đặng Thị Kim,
Ngày 18/3/2019 UBND thành phố A, đã ban hành văn bản số 1126/UBND-TNMT, giải
quyết đơn khiếu nại ngày 7/1/2019, trả lời lý do tạm trả lại hồ sơ vì lo vướng mắc trong việc
áp dụng qui định của pháp luật, cần xin ý kiến hướng dẫn của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền nếu đủ điều kiện thì sẽ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo qui định.
Ngày 4/4/2019 không đồng ý với các phương án giải quyết của UBND thành phố A, ông/bà
đã nộp đơn khởi kiện đến Tòa án Nhân Dân Tỉnh H yêu cầu : tuyên Hủy văn bản số
504/UBND-TNMT ngày 30/1/2019 và văn bản số 1126/UBND-TNMT ngày 18/3/2019 của
UBND thành phố A và buộc UBND thành phố A.Theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật
khiếu nại tố cáo năm 2011 về trình tự khiếu nại và điểm a khoản 2 điều 116 Luật TTHC
2015 về thời hiệu khởi kiện. 3
 Ông Bùi Quang Hải và Bà Đặng Thị Kim còn thời hiệu khởi kiện. 7.Thẩm quyền
UBND thành phố A, đã ban hành văn bản số 504/UBND-TNMT theo quy định tại khoản 1
Điều 32 Luật TTHC 2015 về thẩm quyền của
Tòa án cấp tỉnh: Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà
nước cấp tỉnh trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Toà án và của người có thẩm
quyền trong cơ quan nhà nước đó…
Do đó, Tòa án nhân dân tỉnh H thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.
KẾ HOẠCH XÉT HỎI CỦA LUẬT SƯ Hỏi người bị kiện :
1. Xin Ông cho biết phần diện tích đất gia đình Ông Bùi Quang Hải xin cấp GCN có
vượt hạn mức sử dụng đất theo qui hoạch sử dụng đất của UBND Thành Phố A hay không ?
2. Theo qui định tại K5 Luật Đất Đai 1993 về việc tạo điều kiện cho việc khai phá đất
hoang, lấn biển . Vậy xin Ông cho biết phần khai hoang, lấn biển 54,7m2 có xem là bất hợp pháp hay không.
3. Xin Ông cho biết lý do cho việc chậm trễ kéo dài trong việc tiếp nhận giải quyết hồ
sơ xin cấp GCN QSDĐ của Ông Bùi Quang Hải
4. Dựa vào Nghị Định 43/2014/NĐ-CP về các trường hợp không đủ điều kiện cấp GCN
QSDĐ xin Ông cho biết hồ sơ xin cấp GCN QSDĐ của Ông Bùi Quang Hải còn
thiếu những điều kiện gi?
5. Căn cứ qui định tại Nghị định 43/2014/NĐ-CP về thời gian thực hiện thủ tục hành
chính về đất đai là không quá 15 ngày vậy xin Ông cho biết việc tiếp nhận và thực
hiện thủ tục đối vơi hồ sơ Ông Bùi Quang Hải có đúng với qui định của pháp luật hay không?
6. Ý kiến của ông như thế nào về phần diện tích xin cấp GCN QSDĐ 54,7 m2
7. Theo qui định Luật Đất Đai thì xin Ông cho biết Phần diện tích 54,7 m2 là loại đất gì
8. Cơ quan có chắc chắn rằng hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ của ông Hải thuộc diện không
có quy định trong luật đất đai 2013 và văn bản hướng dẫn hay không?
9. Ngày 6/62018 là ngày cơ quan trả kết quả cho ông Hải đúng hay không?
10. Cơ quan dựa vào quy hoạch mục đích sử dụng đất với diện tích 54,7m2 của ông Hải
để từ chối hồ sơ cấp GCN đúng không?
11. Ngày ông Hải nộp hồ sơ cấp GCN là ngày 20/4/2018 đúng hay không?
12. Nguồn gốc đất ông Mĩ là sàn phơi cá được ông Mĩ đổ đất xây kè từ năm 1993 phải không?
13. Thửa đất của ông Hải và Bà kim là được ông Mĩ (bố ông Hải) bán lại phải không ?
14. Theo bản đồ địa chính được phê duyệt năm 2002 phần diện tích đất 54,7m2 là phần
diện tích đất tăng thêm trong thửa đất số 164 bản đố số 9 phải không?
15. theo quyết định 1352 thì phần thửa đất phù hợp với qui hoạch đất ở đô thị phải không?
16. Hiện tại thửa đất 54,7m2 này không có bất cứ tranh chấp gì phải không ?
17. Ngày 20/4/2018 UBND, có nhận được đầy đủ hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận QSĐ,
tài sản gắn liền với đất của ông Hải hay không? 4
18. Thửa đất số 164 bản đố số 9 của ông Hải và bà Kim là được ông Mĩ bán lại phải không ?
19. Thửa đất số 164 bản đố số 9 này được ông Mĩ xây kè đổ đất từ sàn phơi cá phải không?
20. Có xát nhận nào nói đất của ông hải là lấn biển hay không ? hay xác nhận do bố ông
hải kê kè đổ đất trước đó là sàn phơi cá
21. Văn bản số 1126 là văn bản giải quyết khiếu nại của UBND thành phố A với ông Hải không?
22. Xin ông cho biết, thể thức ban hành quyết định giải quyết khiếu nại là theo hướng
dẫn luật khiếu nại phải không?
23. Theo ông việc UBND ban hành quyết định giải khiếu nại này là đúng hay sai?
Hỏi người khởi kiện:
1. Ông có chấp nhận lý do tạm trả hồ sơ mà UBND thanh phố A đã đưa ra trong văn
bản 504/UBND ngày 30/1/2019 hay không ? tại sao ?
2. Việc chậm trễ giải quyết hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của ông như thế nào ?
3. Xin ông cho biết , phần diện tích đất 54,7m2 được phê duyệt thuộc thửa đất số 164 tờ
bản đồ số 09 vào năm nào ?
4. Việc trả lại hồ sơ nhiều lần của UBND thành phố A có gây nhiều thiệt hại cho gia đình ông không?
5. Nguồn gốc đất của vợ chồng ông là như thế nào?
6. Bà cho biết có phải bố chồng(ông Mỹ) đã bán lại cho vợ chồng bà thửa đất này đúng không ?
II . CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT ÁP DỤNG -
Luật tố tụng hành chính năm 2015 ; -
Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 ; -
Luật khiếu nại số 02 / 2011 / QH13 ngày 12/11/2013 ; -
Nghị định số 91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2020 thay thế NĐ 102/2014/NĐ-CP của chinh phủ
- Nghị định 43/2014/NĐ-CP hướng dẫn Luật Đất đai 2013
- Nghị định 01/2017/NĐ-CP
LUẬN CỨ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CHO NGƯỜI KHỞI KIỆN
Kính thưa Hội đồng xét xử,
Thưa vị đại diện Viện kiểm sát,
Thưa các vị luật sư đồng nghiệp,
Tôi tên là Luật sư, thuộc VPLS ABC thuộc đoàn Luật sư Tp.HCM. Tôi tham gia
phiên tòa này với tư cách là Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện
Ông Bùi Quang Hải và Bà Nguyễn Thị Kim.
Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án cũng như diễn biến tại phiên tòa hôm nay, tôi xin trình bày
một số ý kiến bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện như sau: 5
Qua phần trình bày của phía người khởi kiện, người bị kiện và phần xét hỏi công khai tại
phiên tòa đã thể hiện rõ nội dung của vụ án ngày hôm nay. Tôi xin phép không tóm tắt lại
nội dung trong vụ án này.
Người khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết là tuyên chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện
của ông Hải và bà Kim; Tuyên Hủy văn bản số 1126/UBND-TNMT ngày 18/3/2019 của
UBND thành phố A, tuyên hành vi từ chối thực hiện thủ tục “tạm trả hồ sơ” đăng ký quyền
sử dụng đất, sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất là trái pháp luật, buộc UBND thành phố
A tiếp nhận lại và giải quyết hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sở dụng đất, sở hữu nhà và
tài sản gắng liền với phần đất 54,7m2 thuộc thửa đất số 164 tờ bản đồ 09 (bản đồ số 2000)
phường 5, thành phố A theo qui định của pháp luật. Đề nghị Tòa án kiến nghị xem xét trách
nhiệm, năng lực của UBND thành phố A, về việc không thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình.
Tôi cho rằng yêu cầu như trên của phía người khởi kiện là hoàn toàn có cơ sở chấp nhận bởi
hành vi và quyết định hành chính của UBND thành phố A là không đúng với quy định của
pháp luật thể hiện ở 05 nội dung chính sau đây:
1. Nguồn gốc thửa đất 54,7 m2 là đất sàn phơi cá của cha Bùi Xuân Mĩ bán cho ông hải có
hợp đồng mua bán tay công chứng .
2. Thửa đất 54,7 m2 của vợ chồng ông Hải đầy đủ các điều kiện để được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất .
3. ông Bùi Văn hải và bà đặng thị Kim đã nộp đầy đủ hồ sơ để được Giấy chứngnhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
4. Toàn bộ diện tích đất 54,7 không phải là đất lấn biển.
5. văn bản 1126/UBND-TNMT là sai thể thức và sai lý do ban hành quyết định giải quyết khiếu nại.
Sau đây tôi trình bày phân tích cụ thể, chi tiết để chứng minh 05 nội dung như đã nêu trên:
Thứ nhất : trước hết chúng ta phải hiểu lấn đất là gì ? Lấn đất là việc người sử dụng chuyển
dịch mốc giới hoặc ranh giới thửa đất để mở rộng diện tích đất sử dụng mà không được cơ
quan quản lý nhà nước về đất đai cho phép hoặc không được người sử dụng hợp pháp diện
tích đất bị lấn đó cho phép. Căn cứ nghị định số 91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2020 thay thế
NĐ 102/2014/NĐ-CP của chinh phủ. Vậy câu hỏi đặt ra là phần đất của người khởi kiện có
rơi vào trường hợp này không ?
Thứ hai: Nguồn gốc thửa đất 54,7 m2 là đất sàn phơi cá của cha Bùi Xuân Mĩ bán cho ông
hải có hợp đồng mua bán tay công chứng . 6
Căn cứ vào xát nhận của UBND phường 5 ngày 13/7/2016 và kết quả kiểm tra hồ sơ số
104/TB/UBND đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà và tài sản gắn
liền với đất, nguồn gốc thửa đất 54,7 là sàn phơi cá của của bố ông Hải (ông Mĩ) cất sàn từ
năm 1993, đến năm 1998 ông Mĩ xây kề đổ đất và tiếp tục làm nơi phơi cá, đến năm 2000
ông mỹ cất phòng trò và cho thuê, Toàn bộ thửa đất này đã được ông Mĩ lập hợp đồng mua
bán tay có công chứng ngày 14/4/2003 bán toàn bộ cho con trai là ông Bùi Quang Hải và
con dâu là bà Đặng Thị Kim sinh sống cho đến ngày 8/4/2016 ông hải đã có đăng ký quyền
sử dụng đất và sử dụng ổn định cho đến nay.
Như vậy nguồn gốc thửa đất 54,7 m2 là đất sàn phơi cá của cha Bùi Xuân Mĩ bán cho ông
Hải và Bà Kim có hợp đồng mua bán tay công chứng không có bất kỳ dấu hiệu vi phạm nào về qui định pháp luật.
Thứ ba : thửa đất 54,7 m2 của vợ chồng ông Hải đầy đủ các điều kiện để được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Căn cứ bản đồ địa chính năm 2000 được phê duyệt 2002
phần Thửa đất 54,7 m2 là phần diện tích tăng thêm thuộc một phần đất số 164 bản đố số 9
trong đó có 102m2 đã cấp giấy chứng nhận cho ông Mĩ sau đó chuyển nhượng biến động
cho ông Hải- bà Kim giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà và tài sản gắn liền với
đất số BM 62400 ngày 11/1/2013, đang sử dụng đất trong tổng 156,7 m2.
Căn cứ theo điều 20 nghị định 01/2017/NĐ-CP bồ sum điều 24a nghị định 43/2014 hộ gia
đình, cá nhân đang sử dụng đất được xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất có diện tích đất tăng thêm khi có đủ điều kiện sau:
Điều kiện 1 : Đo đạc lại mà diện tích thửa đất thực tế nhiều hơn diện tích ghi trên Giấy
chứng nhận đã cấp hoặc giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Điều 100 Luật Đất đai,
Điều 18 Nghị định 43/2014/NĐ-CP thực tế diện tích đất được cấp giấy chứng nhận số BM
62400 cho ông hải và bà kim trước đó chỉ 102 m2 nhưng thực tế hiện tại tăng thêm 156,7
m2 theo bản đồ địa chính năm 2002. Nên hiện tại ranh giới thửa đất thực tế 156,7 m2 chứ
không phải là 102 m2 có thay đổi so với ranh giới thửa đất tại thời điểm có Giấy chứng
nhận hoặc giấy tờ về quyền sử dụng đất số BM 62400 .
Điều kiện 2 : Thửa đất 54,7 m2 là đất tăng thêm không có giấy tờ về quyền sử dụng đất theo
quy định tại Điều 100 của Luật đất đai, Điều 18 của Nghị định 43 nhưng sử dụng đất không
vi phạm pháp luật về đất đai đã được chứng minh từ luận điểm 1 về nguồn gốc đất.
Thủ tục cấp Giấy chứng nhận đối với toàn bộ diện tích thửa đất thực hiện theo quy định tại
Điều 70 nghị định 43. Đối chiếu với trường hợp của ông Hải và bà kim tại luận điểm 1 đã
nêu trên, về nguồn gốc đất ông Hải và bà Kim đã sử dụng ổn định đất từ trước 1/7/2004 đến
nay, thứ 2 căn cứ vào quyết định số 1352/QĐ-UBND ngày 27/6/2014 của ủy ban nhân dân
tỉnh H về việc phê duyệt qui hoạch sử dụng đất chi tiết đến năm 2020 và bản đồ qui hoạch
theo quyết định 1352 thì phần thửa đất phù hợp với qui hoạch đất ở đô thị , ngoài ra hiện tại
đất không có tranh chấp căn cứ theo phiếu lấy ý kiến của cư dân ngày 21/6/2016 và xát nhận
của UBND phường 5 ngày 13/7/2016. 7
Vì vậy căn cứ các qui định pháp luật nêu trên Thửa đất 54,7 m2 thuộc thửa đất số 164 bản
đồ số 9, của vợ chồng ông Hải đầy đủ các điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất .
Thứ tư: ông Bùi Văn hải và bà đặng thị Kim đã nộp đầy đủ hồ sơ để được Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
Căn cứ giấy tiếp nhận hồ sơ ngày 20/4/2018 và sự hướng dẫn của bộ phận tiếp nhận hồ sơ,
gồm có đơn đăng ký, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất đối với toàn bộ diện tích của thửa đất đang sử dụng, Giấy chứng
nhận quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất ,Giấy mua bán nhà , Bản án 04/2018,
Dánh sách công khai số 104/TB-UBND, Phiếu lấy ý kiến dân cư , Bộ sao lục , Sơ đồ vị trí
năm 2003, phù hợp với các giấy tờ theo điểm a khoản 3 điều 9a thông tư 33 Trường hợp
diện tích đất tăng thêm có giấy tờ theo Khoản 16 Điều 2 của Nghị định số 01/2017/NĐ-CP (
giấy đăng ký quyền sử dụng đất ngày 8/4/2016 )
Vậy hồ sơ ông Hải và bà Kim đã nộp đầy đủ theo qui định của pháp luật về việc cấp giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất.
Thứ năm : Toàn bộ diện tích đất 54,7 không phải là đất lấn biển
Căn cứ vào danh sách công khai và giấy xác nhận của UBND khẳng định đất này là sàn
phơi cá được ổng Mĩ đổ kè và bồi đắp đất thêm cho đến năm 2002 thì gọp chung với thửa số
164, Căn cứ theo bản đồ địa chính được phê duyệt năm 2002 phần diện tích 54,7 m2 thuộc
phần diện tích đất số 164 tờ bản bản đồ sớ 09 do ông Bùi Xuân Mĩ đứng tên đăng ký, sau
này chuyển nhượng cho ông Hải và bà Kim, không có bất kỳ xác nhận nào cho rằng đất này là đất lấn biển .
Như vậy việc UBND thành phố A tạm trả hồ sơ cho ông Hải và bà Kim với lý do đất lấn
biển là hoàn toàn bịa đặt không có căn cứ pháp lý .
Thứ sáu: văn bản 1126/UBND-TNMT là sai thể thức và sai lý do ban hành quyết định giải quyết khiếu nại.
Căn cứ luật giải quyết khiếu nại 2012 người giải quyết khiếu nại phải ra quyết định giải
quyết khiếu nại đúng với thể thức ban hành quyết định khiếu nại này, theo đúng qui định tại
điều 31 của nghị định này, tuy nhiên văn bản số 1126 thì chủ tịch UBND thành phố A ban
hành văn bản không không đúng qui pháp luật, về giải quyết khiếu nại theo qui định của
pháp luật, không có căn cứ pháp lý giải quyết khiếu nại, nội dung khiếu nại , kết quả thẩm
tra xát minh, kết luận khiếu nại, thể thức không phù hợp với qui định của pháp luật.
vì vậy văn bản số 1126/UBND-TNMT không hợp pháp cả về hình thức và nội dung của qui
định pháp luật về giải quyết khiếu nại theo qui định của pháp luật 8
Qua 05 nội dung tôi trình bày như trên có thể chứng minh việc UBND thành phố A, với
hành vi trả hồ sơ chậm trể thực hiện thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất và quyền sử dụng
nhà ở của ông Hải - bà Kim là trái pháp luật đồng thời quyết định giải quyết khiếu nại số
1126 là hoàn toàn không đúng với qui định của pháp luật.
Điều này đã vi phạm nghiêm trọng pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp
của phía ông Hải và bà Kim.
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước đang chủ trương thực hiện cải cách hành chính
theo hướng đơn giản hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp, giảm tối
đa chi phí tuân thủ thủ tục hành chính của xã hội. Tuy nhiên UBND thành phố A lại đang
gây khó khăn, phiền hà cho người dân.
Do đó tôi kính mong hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng hành
chính tuyên chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Hải và Bà Kim; tuyên bố hành vi
hành chính của UBND thành phố A là trái pháp luật, hủy văn bản số 1126/UBND-TNMT
ngày 18/3/2019 của UBND thành phố A và buộc UBND thành phố A tiếp nhận lại và giải
quyết hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sở dụng đất, sở hữu nhà và tài sản gắng liền với đất
diện tích 54,7m2 thuộc thửa đất số 164 tờ bản đồ 09 (bản đồ số 2000) phường 5, thành phố
A theo qui định của pháp luật.
Đề nghị Tòa án kiến nghị xem xét năng lực, trách nhiệm của UBND thành phố A, về việc
không thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình.
Trên đây là những quan điểm tôi trình bày để bảo vệ quyền lợi cho phía ông Hải-bà Kim.
Kính mong Quý toà cân nhắc xem xét và chấp nhận để ra một bản án đúng pháp luật.
Cảm ơn Hội đồng xét xử đã lắng nghe. Câu hỏi
1. Là luật sư anh chị nhận xét và đưa ra quan điểm đề nghị đối với những tình huống tố
tụng xảy ra tại phần thủ tục bắt đầu của phiên tòa ? -
Phần thủ tục bắt đầu phiên tòa có ý nghĩa rất quan trọng cho việc chuẩn bị các
điều kiện cần thiết bảo đảm cho hoạt động của Hội đồng xét xử tại phiên tòa theo
đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phần thủ tục sau khi kiểm tra căn
cước của bị cáo, công bố thành phần những người tham gia tố tụng, giải thích
quyền, nghĩa vụ của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa thì
thực tế cũng cho thấy có nhiều vấn đề mới nảy sinh khác với Cáo trạng của VKS
truy tố như vấn đề về họ tên, nhân thân người phạm tội trong quá trình điều tra đã
không có sự xác minh đầy đủ về nhân thân, tuổi, tình trạng năng lực trách nhiệm
hình sự của người phạm tội, cũng như những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ. 9
Ví dụ : Trong vụ án mà kết luận giám định về nguyên nhân chết hoặc thi chất mức độ
thương tích , cơ chế gây thương tích chưa rõ ràng , thông tin về điều kiện tiến hành
giám định , cơ sở thực hiện giám định , các vật , tài liệu , mẫu gửi đến giám định …
mà Luật sư nhận thấy không phù hợp , không đúng cách làm tương tự như với các
trường hợp khác , trước đó Luật sư đã đề xuất giải thích kết luận giám định , thậm chí
yêu cầu giám định lại , giám định bổ sung nhưng không được đáp ứng thì Luật sư cần
yêu cầu HĐXX bảo đảm sự có mặt của Giám định viên tại là phiên tòa , nếu người
giám định vắng mặt thì đề nghị hoãn phiên tòa .
Luật sư phải chuẩn bị sẵn ý kiến để khi Chủ toạ phiên tòa hỏi về việc người tham gia
tố tụng vắng mặt thì trình bày được ngay ý kiến đã chuẩn bị của mình , tuy không
phải quá chi tiết nhưng cũng không thể quá vắn tắt . Bởi lẽ , trong một phiên tòa , đây
là lần đầu tiên Luật sư phát ngôn , việc Luật sư nói gì sẽ không chỉ có ý nghĩa trong
việc bảo đảm quyền lợi của khách hàng mà còn thể hiện Luật sư đã đọc hồ sơ một
cách nghiêm túc và có sự cân nhắc kỹ trước mọi tình huống , thể hiện trách nhiệm
đối với việc làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án và trách nhiệm đối với công
việc bào chữa . Trong trường hợp bị cáo chưa nhận được bản cáo trạng hoặc quyết
định đưa vụ án ra xét xử thì Luật sư phải yêu cầu HĐXX hoãn phiên toà . Nếu bị cáo
hoặc đương sự không được Chủ toạ giải thích rõ quyền và nghĩa vụ của họ tại phiên
toà hoặc không hỏi họ có đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng , người giám định ,
người phiên dịch hay không thì Luật sư phải đề nghị HĐXX cho họ được thực hiện
các quyển đó theo quy định của pháp luật . Nếu thấy cần đưa thêm tài liệu , chứng cứ
mới ra xem xét tại phiên toà mà trước đó Luật sư chưa có thì Luật sư chủ động đưa ra
tài liệu chứng cứ đề nghị HĐXX xem xét Tại phiên toà . Trường hợp thấy cần đề
nghị triệu tập thêm người làm chứng quan trọng của vụ án thì Luật sư phải đề nghị
với HĐXX triệu tập người làm chứng .
2. Anh chị nhận xét về nội dung hỏi và kỹ năng đối đáp của 2 bên luật sư tại phiên tòa?
Luật sư trinh bày trong phiên tòa gồm có 5 phần : 1.
Phần chuẩn bị tham gia phiên tòa 2. Phần thủ tục phiên tòa 3. Phần xét hỏi 4. Phần trinh bày luận cứ 5. Phần tranh luận 1.
Phần chuẩn bị tham gia phiên tòa
Luật sư hai đã có sự chuẩn bị tốt bao gồm những điểm sau : -
Kiểm tra, sắp xếp hồ sơ -
Dự kiến kế hoạch hỏi tại phiên tòa một cách logic -
Chuẩn bị bản luận cứ bảo vệ đầy đủ chi tiết -
Chuẩn bị hệ thống văn bản pháp luật để đưa ra biện luận cho luận điểm của minh 10 2. Phần thủ tục phiên tòa -
Thống nhất với đương sự ai trinh bày yêu cầu : luật sư trinh bày rõ ràng chinh xác -
Trình bày ngắn gọn yêu cầu : luật sư trinh bày rõ ràng chính xác 3. Phần thủ tục hỏi - Thứ tự hỏi hợp lý -
Phân bố thời gian phù hợp trong phần hỏi -
Linh động thay đổi câu hỏi theo diễn biến phiên tòa -
Câu hỏi có giá trị chứng minh có lợi cho đương sự minh bảo vệ -
Phối hợp với đương sự khi trả lời câu hỏi
luật sư người khởi kiện -
Phối hợp với đương sự khi trả lời câu hỏi : cần thống nhất với nhau, còn thiếu
những câu hỏi có giá trị chứng minh tốt hơn -
Linh động thay đổi câu hỏi -
Luật NKK 2 – (Phương) vi pham quy tắc đạo đức luật sư khi trước Tòa nói "
Ls đồng nghiệp lại chung bên NKK mình là dài dòng , mang tính chê bai" là không
tôn trọng đồng nghiệp, khiếm nhã, thiếu chuyên nghiệp!
luật sư người bị kiện Luận cứ -
trinh bày rõ ràng nội dung luận cứ theo bố cục bản luận cứ -
lời lẽ , nội dung trinh bày lôi cuốn thuyết phục về chứng cứ và căn cứ pháp lý - tranh cầm luận cứ đọc -
phong thái thể hiện khi trinh bày luận cứ
Nội dung cần làm rõ của luật sư người khởi kiện -
Nguồn gốc phần đất 54,7m2 ở đâu có ? ai sử dụng ? sử dụng từ thời gian nào ?
có kể khai đăng ký không ? -
Phần đất 54,7m2 đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận không ?căn cứ pháp lý và
chứng cứ nào chứng minh ? -
Hồ sơ cấp giấy chứng nhận là đúng theo quy định -
Toàn bộ diện tích phần 54,7m2 có phải là do lấn đất lấn biển không?
Luật sư người bị kiện
- Xin Ông cho biết phần diện tích đất gia đình Ông Bùi Quang Hải xin cấp GCN
có vượt hạn mức sử dụng đất theo qui hoạch sử dụng đất của UBND Thành Phố A hay không ?
- Theo qui định tại K5 Luật Đất Đai 1993 về việc tạo điều kiện cho việc khai
phá đất hoang, lấn biển . Vậy xin Ông cho biết phần khai hoang, lấn biển 54,7m2 có
xem là bất hợp pháp hay không.
- Xin Ông cho biết lý do cho việc chậm trễ kéo dài trong việc tiếp nhận giải
quyết hồ sơ xin cấp GCN QSDĐ của Ông Bùi Quang Hải 11
- Dựa vào Nghị Định 43/2014/NĐ-CP về các trường hợp không đủ điều kiện
cấp GCN QSDĐ xin Ông cho biết hồ sơ xin cấp GCN QSDĐ của Ông Bùi Quang
Hải còn thiếu những điều kiện gi?
- Căn cứ qui định tại Nghị định 43/2014/NĐ-CP về thời gian thực hiện thủ tục
hành chính về đất đai là không quá 15 ngày vậy xin Ông cho biết việc tiếp nhận và
thực hiện thủ tục đối vơi hồ sơ Ông Bùi Quang Hải có đúng với qui định của pháp luật hay không?
- Ý kiến của ông như thế nào về phần diện tích xin cấp GCN QSDĐ 54,7 m2 12