



















Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HOA SEN BÀI THU HOẠCH CHỦ ĐỀ
“TỘI ÁC CỦA MỸ TRONG
CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC VIỆT NAM –
NHỮNG CHỨNG TÍCH VỀ SỰ TÀN
KHỐC CỦA CHIẾN TRANH”
Nhóm sinh viên thực hiện: Nhóm 6 Môn học:
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Lớp: 0300 Học kỳ: 2433
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Minh Quang Tháng 04/2025
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 6 Họ và tên MSSV Phân công % đóng góp Chỉnh word
1.Giới thiệu sơ lược về Bảo tàng Nguyễn Cao Cát Tường 22301162 100%
2.6.Phá hủy cơ sở hạ tầng, công trình kiến trúc Trần Kim Anh 22300702
3.Việt Nam sau chiến tranh: Mất mát, kiêng cường và hồi sinh 100%
2.2.Các cuộc thảm sát và vi phạm nhân Nguyễn Thị Vân 22300958 quyền 100% 2.5.Tra tấn tù binh
2.1.Giới thiệu sơ lược về chiến tranh Trương Ngọc Trâm 22303061
xâm lược của Mỹ ở Việt Nam 100%
2.3.Sử dụng vũ khí để hủy diệt
4.Ý nghĩa lịch sử và bài học rút ra qua Lương Ý Như 22303754
cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở 100% Việt Nam Hồ Huỳnh Xuân Phương 22303108
2.4.Tác động đến người dân kể cả trẻ em, phụ nữ 100% Lê Vi Khanh 22115247 5.Kết luận 6.Liên hệ bản thân 100% Nguyễn Đình Long 22105006
3.3 Nỗ lực khắc phục hậu quả từ Mỹ 100% i MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN.............................................................................................................................................iv 1.
Giới thiệu sơ lược về Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh......................................................................1 1.1.
Lịch sử hình thành......................................................................................................................1 1.2.
Thông tin về Bảo tàng.................................................................................................................1 2.
Tội ác của Mỹ trong chiến tranh xâm lược Việt Nam.........................................................................2 2.1.
Giới thiệu sơ lược về chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam................................................2
2.1.1. Tội ác của chiến tranh xâm lược.............................................................................................2
2.1.2. Chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam.............................................................................2 2.2.
Các cuộc thảm sát và vi phạm nhân quyền.................................................................................3
2.2.1. Thảm sát Mỹ Lai (1986).........................................................................................................3
2.2.2. Vụ thảm sát Thạnh Phong......................................................................................................4 2.3.
Sử dụng vũ khí để hủy diệt..........................................................................................................5 2.4.
Tác động đến người dân kể cả trẻ em và phụ nữ........................................................................6 2.5.
Tra tấn tù binh............................................................................................................................8 2.6.
Phá hủy cơ sở hạ tầng, công trình kiến trúc...............................................................................9
2.6.1. Phá hủy làng mạc, trường học và khu tập thể.........................................................................9
2.6.2. Công trình kiến trúc, tôn giáo và văn hóa.............................................................................10 3.
Việt nam sau chiến tranh: Mất mát, kiêng cường và hồi sinh............................................................11 3.1.
Hậu quả và những mất mát Mỹ để lại.......................................................................................11 3.2.
Tinh thần kiên cường của dân tộc Việt Nam.............................................................................12 3.3.
Nỗ lực khắc phục hậu quả từ Mỹ..............................................................................................13 4.
Ý nghĩa lịch sử và bài học rút ra qua cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam......................14 4.1.
Ý nghĩa lịch sử..........................................................................................................................14 4.2.
Bài học rút ra từ cuộc chiến......................................................................................................14 5.
Kết luận.............................................................................................................................................15 6.
Liên hệ bản thân sinh viên.................................................................................................................16
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................................................17 DANH MỤC HÌNH ẢNH ii
Hình 1 - Ảnh nhóm chụp tại Bảo Tàng.............................................................................iv
Hình 2 - Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh (Nguồn ảnh: sinh viên tự chụp).......................1
Hình 3 - Con đường làng Sơn Mỹ buổi sáng hôm xảy ra vụ thảm sát (trái) và chia sẻ của
Binh nhất, Trung đội 1 chia sẻ về vụ thảm sát Mỹ Lai (phải) (Nguồn ảnh: sinh viên tự
chụp)..................................................................................................................................4
Hình 4 - Ống cống của gia đình ông Bùi Văn Vát đã sử dụng năm 1969 (Nguồn ảnh: sinh
viên tự chụp)......................................................................................................................5
Hình 5 - Một số loại súng và đạn của quân đội Mỹ (Nguồn ảnh: sinh viên tự chụp)..........6
Hình 6 - Khối lượng Bom Mỹ sử dụng ở Việt Nam (1965-1972) (Nguồn ảnh: sinh viên tự
chụp)..................................................................................................................................6
Hình 7 - Mẹ và những đứa con bị bom đạn của Mỹ sát hại (Nguồn ảnh: sinh viên tự chụp)
..........................................................................................................................................7
Hình 8 - Lính Mỹ Sư đoàn 1 Kỵ binh tra tấn người nông dân (Nguồn ảnh: sinh viên tự
chụp)..................................................................................................................................7
Hình 9 - Tù nhân chết do bị đàn áp, tra tấn (Nguồn ảnh: sinh viên tự chụp)......................8
Hình 10 - Khu lao động An Dương (trái) và Trường học cấp II Hương Phúc, tỉnh Hà Tĩnh
(phải) bị ném bom (Nguồn ảnh: sinh viên tự chụp).........................................................10
Hình 11 - Nhà thờ Phát Diệm bị bom Mỹ tàn phá tháng 9/1972 (Nguồn ảnh: sinh viên tự
chụp)................................................................................................................................10
Hình 12 - Các nạn nhân từ bom mìn bị biến dạng tàn nhẫn (Nguồn ảnh: sinh viên tự
chụp).................................................................................................................................11
Hình 13 - Bản đồ Việt Nam thể hiện các vị trí bị đánh bom (trái) và bị phun chất độc
(phải) (Nguồn ảnh: sinh viên tự chụp)..............................................................................12
Hình 14 - Hình ảnh thể hiện các hoạt động hạnh phúc của người dân Việt Nam sau khi có
hoà bình, tự do, độc lập (Nguồn ảnh: sinh viên tự chụp)..................................................13 ii LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên xin cho phép nhóm 6 được gửi lời cảm ơn đến Ban Giám hiệu Trường
Đại học Hoa Sen, quý thầy cô bộ môn Lịch sử Đảng, đặt biệt là thầy Nguyễn Minh
Quang cùng với Ban quản lý Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh đã tạo điều kiện cho chúng
tôi được tham gia chuyến đi thực tế vào chủ nhật vừa rồi. Chuyến đi thực tế đã để lại cho
chúng tôi rất nhiều điều bổ ích, học hỏi nhiều điều hay, gặt hái nhiều kiến thức. Việc đi
thực tế là một cách học mới mẻ và hữu ích cho sinh viên, ngoài lý thuyết thì sự kết hợp
những buổi thực hành đã giúp chúng tôi hiểu rõ hơn, có những trải nghiệm chân thật hơn
về môn học. Những hình ảnh, hiện vật và câu chuyện tại bảo tàng đã mang đến cho chúng
tôi góc nhìn trực quan, chân thật và xúc động, giúp chúng tôi hiểu rõ hơn về giá trị của hoà bình, độc lập.
Do chưa có nhiều kinh nghiệm và hạn chế về kiến thức, cho nên trong bài thu hoạch của
chúng tôi sẽ không tránh khỏi những thiếu sót không mong muốn. Vì vậy, nhóm vô cùng
mong muốn nhận được sự chỉ dẫn và đóng góp ý kiến của thầy để bài thu hoạch của
nhóm được hoàn thiện hơn nữa.
Hình 1 - Ảnh nhóm chụp tại Bảo Tàng iv NỘI DUNG
1. Giới thiệu sơ lược về Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh 1.1.
Lịch sử hình thành
Ngày 30/04/1975, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam giành thắng lợi hoàn
toàn: hòa bình, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc được khôi phục.
Hình 2 - Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh (Nguồn ảnh: sinh viên tự chụp)
Để lưu lại những chứng tích anh hùng của nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh
chống các thế lực xâm lược, đồng thời để tố cáo những tội ác và nêu bật những hậu quả
tàn khốc của cuộc chiến tranh xâm lược, ngày 04/9/1975 Nhà Trưng bày tội ác Mỹ -
Ngụy được mở cửa phục vụ công chúng. Sau đó, Nhà Trưng bày tội ác Mỹ - Ngụy được
đổi tên thành Nhà Trưng bày Tội ác Chiến tranh xâm lược (ngày 10/11/1990) trước khi
trở thành Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh (ngày 4/7/1995), và tên này được giữ cho đến ngày nay 1.2.
Thông tin về Bảo tàng
Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh là đơn vị trực thuộc Sở Văn hóa và Thể thao Thành
phố Hồ Chí Minh. Nằm trong hệ thống các bảo tàng Việt Nam, các bảo tàng vì hòa bình
thế giới và là thành viên của Hội đồng các bảo tàng thế giới (ICOM-International Council
of Museums). Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh là Bảo tàng chuyên đề nghiên cứu, sưu
tầm, lưu trữ, bảo quản và trưng bày những tư liệu, hình ảnh, hiện vật về những chứng tích
tội ác và hậu quả của các cuộc chiến tranh mà các thế lực xâm lược đã gây ra đối với Việt Nam. 1
Bảo tàng lưu giữ hơn 20.000 tài liệu, hiện vật và phim ảnh, trong đó hơn 1.500 tài liệu,
hiện vật, phim ảnh đã được đưa vào giới thiệu ở 8 chuyên đề trưng bày thường xuyên.
Trong 35 năm hoạt động, Bảo tàng đã đón tiếp trên 15 triệu lượt khách tham quan
trong và ngoài nước. Hiện nay với khoảng 500.000 lượt khách tham quan mỗi năm, Bảo
tàng Chứng tích Chiến tranh là một trong những địa chỉ văn hóa du lịch có sức thu hút
cao, được sự tín nhiệm của công chúng trong và ngoài nước. Với những thành quả đạt
được, Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao
động hạng 3 (năm 1995), Huân chương Lao động hạng 2 (năm 2001).
Qua đó, Bảo tàng giáo dục công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ, về tinh thần đấu tranh
bảo vệ độc lập tự do của Tổ quốc, về ý thức chống chiến tranh xâm lược, bảo vệ hòa bình
và tinh thần đoàn kết hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới.
2. Tội ác của Mỹ trong chiến tranh xâm lược Việt Nam 2.1.
Giới thiệu sơ lược về chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam
2.1.1. Tội ác của chiến tranh xâm lược
Tội ác chiến tranh là hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật, áp dụng trong xung đột
vũ trang (còn gọi là Luật Nhân đạo quốc tế). Đây là một trong những tội ác được quy
định trong Điều ước do đại diện chính phủ các nước Liên Xô, Hoa Kỳ, Anh, Pháp thỏa
thuận tại Luân Đôn vào ngày 8 tháng 8 năm 1945. Ví dụ về các hành vi đó bao gồm "giết
người, ngược đãi hoặc chuyển người dân dân sự của một lãnh thổ bị chiếm đóng vào các
trại lao động nô lệ", "các vụ giết người hoặc ngược đãi các tù nhân chiến tranh", giết các
con tin, "phá hủy bừa bãi các thành phố, thị xã, làng, và tàn phá không có lý do cần thiết
quân sự, hoặc dân sự ".
2.1.2. Chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam
Ở giai đoạn đầu, Mỹ viện trợ tài chính, quân sự và cố vấn cho chính quyền Sài Gòn,
mở đầu cho chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” đầu thập niên 1960, sử dụng quân đội tay
sai kết hợp với vũ khí và cố vấn Mỹ. Tuy nhiên, trước sự phát triển mạnh mẽ của lực
lượng cách mạng, Mỹ chuyển sang “Chiến tranh cục bộ” (1965–1968), đưa hơn 500.000
lính Mỹ trực tiếp tham chiến tại miền Nam. Đây là thời kỳ Mỹ huy động bom đạn, máy 2 bay, xe 3
tăng… tấn công diện rộng vào vùng căn cứ cách mạng và khu dân cư, gây thiệt hại nặng
nề cho nhân dân. Sau thất bại trong cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968, Mỹ chuyển
sang “Việt Nam hóa chiến tranh” (1969–1973), rút dần quân và trao quyền chủ lực cho
quân đội Sài Gòn. Tuy nhiên, chiến lược này cũng thất bại, buộc Mỹ phải ký Hiệp định
Paris năm 1973, rút toàn bộ quân đội khỏi miền Nam Việt Nam, khép lại một chương đen
tối trong lịch sử xâm lược.
Cuối cùng, sau thất bại hoàn toàn về cả quân sự lẫn chính trị, Mỹ buộc phải rút hết
quân đội ra khỏi miền Nam Việt Nam. Dù đã rút quân, Mỹ vẫn tiếp tục viện trợ cho chính
quyền Sài Gòn cho đến khi lực lượng cách mạng mở cuộc Tổng tiến công mùa Xuân năm
1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam vào ngày 30/4/1975. Chiến tranh xâm lược của
Mỹ ở Việt Nam chính thức chấm dứt sau 21 năm, đánh dấu thất bại thảm hại nhất trong
lịch sử quân sự của Hoa Kỳ và là thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp
giành độc lập và thống nhất đất nước. 2.2.
Các cuộc thảm sát và vi phạm nhân quyền
Trong những năm tháng chiến tranh khốc liệt, dưới bóng cờ xâm lược, lính Mỹ đã
gieo rắc bao đau thương lên mảnh đất Việt Nam. Không chỉ nhằm vào những người cầm
súng, sự tàn bạo của họ còn trút xuống đầu những dân thường vô tội, cả phụ nữ và trẻ em
cũng không tránh khỏi những cuộc càn quét đẫm máu. Chính sách "3 sạch" tàn nhẫn - đốt
sạch, phá sạch, giết sạch - đã trở thành nỗi kinh hoàng, ám ảnh bao làng quê. Những ai bị
nghi ngờ là người của cách mạng đều phải gánh chịu những hình thức tra tấn dã man. Mà
đỉnh điểm là những cuộc tàn sát hàng loạt những người dân vô tội. Tại bảo tàng Chứng
tích chiến tranh có trưng bày những hình ảnh, hiện vật về hai vụ thảm sát.
2.2.1. Thảm sát Mỹ Lai (1986)
Thảm sát Mỹ Lai, diễn ra ngày 16 tháng 3 năm 1968 tại thôn Mỹ Lai thuộc xã Sơn
Mỹ, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, là một trong những sự kiện đen tối nhất trong lịch
sử và là một vết nhơ không thể xóa nhòa trong ký ức về chiến tranh Việt Nam. Vụ việc
này không chỉ gây ra cái chết thương tâm cho hàng trăm thường dân vô tội mà còn phơi bày những 4
khía cạnh tàn khốc, phi nhân tính của chiến tranh và đặt những câu hỏi sâu sắc về đạo
đức, trách nhiệm và lương tâm con người trong bối cảnh xung đột vũ trang.
Đây là một phần trong nhiệm vụ tìm diệt một tiểu đoàn của Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam Việt Nam, còn gọi là Việt Cộng. Chiến dịch được tiến hành dựa trên
giả định rằng dân làng Mỹ Lai sẽ đi chợ vắng nhà. Đại úy Medina đã lên kế hoạch càn
quét khắp khu vực, ra lệnh cho người của mình phá hủy mọi thứ và giết bất cứ ai chống
cự. Trong vòng 4 tiếng đồng hồ, quân đội Mỹ đã gây ra cái chết của 504 thường dân
không vũ trang. Thống kê cho thấy trong số các nạn nhân có 182 phụ nữ, bao gồm 17
người đang mang thai; 173 trẻ em, trong đó 56 em ở độ tuổi từ sơ sinh đến 6 tuổi; và 60
người già trên 60 tuổi. Những hình ảnh đầu tiên của vụ thảm sát được công bố lần đầu
tiên trên báo chí Mỹ vào năm 1970 đã gây sự “sốc” cho dư luận
quốc tế. Trong vụ thảm sát có những bức
ảnh đã gây xúc động điển hình là trong
bức ảnh phóng lớn con đường làng Sơn Mỹ
buổi sáng hôm xảy ra vụ thảm sát, người Hình 3 - Con đường làng Sơn Mỹ buổi sáng hôm xảy ra
chết nằm la liệt, phần đông trong số họ vụ thảm sát (trái) và chia sẻ của Binh nhất, Trung đội 1
chia sẻ về vụ thảm sát Mỹ Lai (phải) (Nguồn ảnh: sinh
chỉ là phụ nữ và trẻ em. viên tự chụp)
2.2.2. Vụ thảm sát Thạnh Phong
Vụ thảm sát Thạnh Phong, xảy ra vào đêm 25 tháng 2 năm 1969 tại xã Thạnh Phong,
tỉnh Bến Tre, là một chương đen tối và gây tranh cãi trong lịch sử Chiến tranh Việt Nam.
Dưới sự chỉ huy của Trung úy Bob Kerrey, một đơn vị biệt kích Hải quân Hoa Kỳ (Navy
SEALs) đã thực hiện một nhiệm vụ mà kết cục là cái chết của nhiều dân thường Việt
Nam, phần lớn là phụ nữ và trẻ em.
Tối ngày 25/2/1969, nhóm biệt kích hải quân SEAL do Trung úy Bob Kerrey chỉ huy
tiến vào làng chài Khâu Băng, xã Thạnh Phong, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre nhằm
truy tìm 1 cán bộ của lực lượng Mặt trận dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam do
nhận được tin từ tình báo trước đó. Trong đêm càn quét đó, toán lính Mỹ đã sát hại tổng 5
cộng 20 người dân bao gồm người già, phụ nữ và trẻ nhỏ, hoàn toàn không có một người nào thuộc lực 6
lượng cách mạng. Sau vụ thảm sát, Bob Kerry được tặng
thưởng Huân chương Sao Đồng (Bronze Start) vì giết được
20 Việt cộng, phá hủy 2 căn nhà và thu được 2 vũ khí. Tại
đó họ đã cắt cổ ông Bùi Văn Vát 66 tuổi và vợ ông sau đó
họ lại lôi 3 cháu bé là cháu nội của ông bà đang nấp trong
ống cống ra đâm chết hai cháu Bùi Thị Ánh (khoảng 10
tuổi) và Bùi Thị Nguyệt (khoảng 8 tuổi), và mổ bụng cháu
trai Bùi Văn Dân (khoảng 6 tuổi). Sau đó họ lại tiến đến Hình 4 - Ống cống của gia đình
hầm trú ẩn của các gia đình khác, tại đó họ đã giết chết 15 ông Bùi Văn Vát đã sử dụng
năm 1969 (Nguồn ảnh: sinh viên
người, trong đó có 3 phụ nữ đang mang thai và mổ bụng 1 tự chụp)
bé gái. Nạn nhân sống
sót duy nhất là một bé gái tên Bùi Thị Lượm 12 tuổi bị thương ở chân. 2.3.
Sử dụng vũ khí để hủy diệt
Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Mỹ đã huy động một khối lượng vũ khí
và phương tiện chiến tranh cực kỳ lớn, tạo nên một cuộc chiến tranh huỷ diệt toàn diện,
chưa từng có trong lịch sử hiện đại.
Về không quân, Mỹ đã sử dụng tới 75 kiểu loại máy bay khác nhau. Ở thời kỳ đỉnh
cao sau ngày 30/3/1972, Washington đã huy động 1.270 máy bay chiến đấu, tương đương
31% tổng số máy bay chiến đấu của Mỹ trên toàn cầu, tập trung chủ yếu vào khu vực chiến sự ở Việt Nam.
Không chỉ dừng lại ở đó, hải quân Mỹ cũng được điều động với quy mô khổng lồ. Tại
vùng biển Việt Nam, Mỹ triển khai cao nhất lên đến 65 tàu chiến và tàu đổ bộ, trong đó
có từ 4 đến 5 tàu sân bay công kích và tương tự là số lượng tàu tuần dương. Đặc biệt,
Hạm đội 7 – lực lượng hải quân chủ lực của Mỹ tại Thái Bình Dương – đã tập trung tới 6
tàu sân bay và 5 tàu tuần dương tại Việt Nam, chiếm đến 55% tổng số tàu chiến loại này
của toàn quân đội Mỹ. Đây được xem là đợt tập trung hải quân lớn nhất của Mỹ kể từ sau Thế chiến II. 7
Trên bộ, Mỹ huy động lực lượng thiết giáp và pháo binh với mật độ dày đặc.
Trong các năm 1968–1969 – giai đoạn đỉnh cao của chiến
tranh, Mỹ đưa vào miền Nam Việt Nam 24 tiểu
đoàn thiết giáp với khoảng 950 xe tăng cùng 83
tiểu đoàn pháo binh sở hữu tới 1.412 khẩu pháo các loại. Vũ
khí sát thương không dừng lại ở bom đạn thông
thường, mà còn có bom cháy, vũ khí hóa học và
Hình 5 - Một số loại súng và đạn của quân
đội Mỹ (Nguồn ảnh: sinh viên tự chụp)
hóa học độc hại. Theo thống kê, Mỹ đã rải 45.260 tấn
chất độc hóa học và khoảng 338.000 tấn bom napan xuống miền Nam Việt Nam. Những
loại vũ khí này không chỉ gây sát thương tức thời mà còn để lại hậu quả nặng nề về môi
trường, sức khỏe cho người dân suốt nhiều thế hệ sau.
Tính đến tháng 8 năm 1973, Mỹ đã sử dụng tổng cộng 7.882.547 tấn bom đạn tại
chiến trường Đông Dương, trong đó riêng miền Nam Việt Nam hứng chịu khoảng
3.770.000 tấn, miền Bắc khoảng 937.000 tấn, còn lại là ở Lào và Campuchia. Con số này
cao gấp 12 lần lượng bom đạn Mỹ sử dụng trong chiến tranh Triều Tiên và gấp 3,8 lần so
với toàn bộ bom đạn trong Thế chiến thứ hai.
Chi phí chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam cũng lên
đến 400 tỷ đô la – gấp 20 lần so với chiến tranh Triều
Tiên và gấp đôi so với chi phí tham chiến trong Thế chiến
II (250 tỷ đô la). Tuy nhiên, bất chấp những vũ khí tối tân
và ngân sách khổng lồ đó, nước Mỹ vẫn không thể tránh
khỏi thất bại cay đắng trước tinh thần chiến đấu kiên Hình 6 - Khối lượng Bom Mỹ sử
dụng ở Việt Nam (1965-1972)
cường của dân tộc Việt Nam.
(Nguồn ảnh: sinh viên tự chụp) 2.4.
Tác động đến người dân kể cả trẻ em và phụ nữ
Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh đã thể hiện rất rõ tội ác của quân đội Mỹ gieo rắc
lên hàng triệu người dân, kể cả những đứa trẻ hồn nhiên, vô tội đến những người phụ nữ 8
của đất nước Việt Nam. 9
Trẻ em - những mầm non chưa kịp lớn, chưa hiểu chuyện gì xảy ra đã chịu cảnh mồ
côi, thương tật suốt đời do tai nạn từ bom đạn, dị tật bẩm sinh nghiêm trọng vì chất độc
da cam, để lại nỗi đau kéo dài qua nhiều thế hệ. Hình ảnh những em bé tàn tật, ánh mắt
vô hồn và khoảnh khắc cầu xin trong vô vọng đã gây xúc động mạnh mẽ. Các em mất
nhà cửa, mang vết sẹo chiến tranh cả về thể xác lẫn tinh thần, sống trong đói khổ và bị
truy đuổi dù không hiểu chuyện gì đang xảy ra.
Không chỉ dừng lại ở đó, những người phụ nữ Việt Nam phải gánh chịu nỗi đau thể
xác và tinh thần tột cùng trong chiến tranh Mỹ, họ bị cưỡng hiếp, hành hạ, sát hại và bị
ảnh hưởng bởi chất độc màu da cam. Hình ảnh người mẹ gầy gò ôm con đói khổ, ánh mắt
vô hồn đã chứng tỏ được sự tàn bạo của chiến tranh xâm lược. Chiến tranh để lại trong họ
vết thương không chỉ thể xác mà còn ám ảnh ký ức, khiến họ sống cô đơn, tuyệt vọng.
Họ phải đối mặt với bệnh mãn tính và di chứng qua thế hệ con cái. Nhiều phụ nữ đã ra đi
với cơ thể tàn tạ, trở thành biểu tượng cho sự khắc khổ và tuyệt vọng của chiến tranh.
Người phụ nữ còn phải gánh vác gia đình, tham gia công tác
chiến tranh, nhưng sau hòa bình, họ vẫn gặp
khó khăn trong cải thiện đời sống, có những người
mất chồng, mất con, phải sống cô độc và mang Hình 7 - Mẹ và những đứa con bị bom đạn của
nỗi đau không thể lành đến hết cuộc đời.
Mỹ sát hại (Nguồn ảnh: sinh viên tự chụp)
Bi kịch vẫn còn nối tiếp khi dân thường Việt
Nam bị tra tấn dã man, cưỡng bức rời bỏ nhà cửa, sống trong sợ hãi, đàn áp, thảm sát và
ám ảnh tâm lý nặng nề. Trong “chiến dịch tìm và diệt” của lính Mỹ, hàng chục người dân
bị lôi ra giữa đồng và bị sát hại, ngay cả khi đã không còn hơi thở thì
thân xác của họ còn bị vứt bỏ nằm chồng chất san sát nhau, những
người dân lương thiện, vô hại đã trở thành mục tiêu của sự tàn ác vô
nhân tính. Các vùng nông thôn và khu vực chiến sự chịu nhiều thiệt
hại nặng nề về người, tài sản và kinh tế.. Hơn nữa, chiến tranh kết Hình 8 - Lính Mỹ Sư đoàn
1 Kỵ binh tra tấn người nông dân (Nguồn ảnh: sinh viên tự chụp) 1
thúc với khoảng 3 triệu người chết (trong đó có 2 triệu dân thường), khoảng 2 triệu người
bị thương, 300.000 người mất tích.
Những hành động phi nhân đạo của Mỹ đã tạo làn sóng phẫn nộ cho toàn dân tộc. Nỗi
đau về mặt thể xác, tâm lý, các di chứng dị tật do chất độc màu da cam gây ra là nhiều
nỗi đau không thể nào bị xóa nhòa trong xuyên suốt nhiều sau kể từ khi hòa bình được lập lại 2.5. Tra tấn tù binh
Trong thời chiến tranh Việt Nam, một sự tương phản rõ rệt tồn tại trong cách đối xử
với tù binh. Theo các quy định quốc tế, tù binh Mỹ bị giam giữ tại miền Bắc Việt Nam
thường được đảm bảo các quyền cơ bản, bao gồm cung cấp thức ăn, nước uống đầy đủ,
chăm sóc y tế và quyền liên lạc với gia đình. Sự đối xử nhân đạo này tương phản hoàn
toàn với tình cảnh của các tù binh Việt Nam, phần lớn là những người bị chính quyền
Việt Nam Cộng hòa bắt giữ.
Họ phải chịu đựng một chế độ lao tù khắc nghiệt tại các trại giam khét tiếng như
Khám Chí Hòa, Côn Đảo, Phú Quốc,…. Điều kiện sống tại đây vô cùng tồi tệ, họ phải
chịu sự giam cầm trong không gian chật hẹp, thiếu vệ sinh, thường xuyên đối mặt với
tình trạng đói khát và bệnh tật…
Tại Khám Chí Hòa, dù không khét tiếng về tra tấn thể xác dã man như các nhà tù
khác, tù nhân vẫn phải chịu đựng nhiều hình thức áp bức và hành hạ tinh thần. Biệt giam
trong những phòng tối tăm, chật hẹp gặm nhấm ý chí, sự thiếu thốn về vật chất và điều
kiện vệ sinh tồi tệ dẫn đến bệnh tật. Các hình phạt hà khắc
và việc sử dụng hơi cay đàn áp nổi dậy tạo ra một
bầu không khí căng thẳng và sợ hãi thường trực.
Đặc biệt, "còng kiểu Mỹ" trở thành một công cụ
tra tấn tinh vi, gây đau đớn tột cùng mỗi khi tù
Hình 9 - Tù nhân chết do bị đàn áp, tra tấn nhân cử động.
(Nguồn ảnh: sinh viên tự chụp)
Phú Quốc nổi lên như một trong những biểu tượng khủng khiếp nhất của chế độ
lao tù miền Nam. Nơi đây áp dụng vô vàn hình thức tra tấn dã man. Bên cạnh những đòn 1
roi, dùi cui, tù nhân còn phải chịu đựng những cực hình như đóng đinh vào tay, chân, thậm chí 1
đầu; bẻ răng, nhổ răng bằng kìm; đục xương bánh chè gây tàn phế; đổ nước xà phòng gây
tổn thương nội tạng; và hình thức chôn sống rợn người. Nỗi kinh hoàng còn nhân lên gấp
bội với những "chuồng cọp" làm bằng kẽm gai sắc nhọn, gây thương tích nghiêm trọng
khi tù nhân cựa quậy, cùng với roi cá đuối tẩm độc. Việc bị ép "tắm nắng" và "tắm mưa"
trần truồng dưới thời tiết khắc nghiệt càng làm tăng thêm sự nhục nhã và suy kiệt thể chất.
Côn Đảo nơi gắn với lịch sử lâu dài dưới thời Pháp thuộc, tiếp tục gieo rắc nỗi kinh
hoàng trong chiến tranh Việt Nam. Hệ thống "chuồng cọp" tại đây không hề kém cạnh
Phú Quốc về mức độ tàn bạo. Tù nhân, phần lớn là những chiến sĩ cách mạng kiên trung,
phải chịu đựng điều kiện sống khắc nghiệt và những hình thức tra tấn thể xác và tinh thần
tương tự. Biệt giam trong những xà lim ẩm ướt, tối tăm kéo dài, cùng với những đòn roi,
tra tấn bằng nước, đốt và nhiều hình thức dã man khác đã biến hòn đảo xinh đẹp này
thành một biểu tượng của sự đau khổ và mất mát. 2.6.
Phá hủy cơ sở hạ tầng, công trình kiến trúc
Trong chiến tranh Việt Nam, quân đội Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã thực hiện nhiều
cuộc tấn công vào vùng nông thôn và khu dân cư, gây thiệt hại nặng nề về con người,
kinh tế, và đặc biệt là việc phá huỷ công trình tôn giáo và văn hóa quan trọng. Hành động
này nhằm dập tắt phong trào kháng chiến nhưng đã để lại hậu quả lớn và không thể phục
hồi cho di sản văn hóa và đời sống tinh thần của người dân.
2.6.1. Phá hủy làng mạc, trường học và khu tập thể
Trong chiến dịch "Tìm và Diệt," Mỹ đã triển khai một lực lượng mạnh mẽ để truy
quét Việt Cộng, sử dụng hỏa lực và pháo binh nhằm tiêu diệt mọi nghi ngờ, dẫn đến sự
tàn phá nặng nề của nhiều ngôi nhà và làng mạc, đặc biệt tại Bến Tre. Một sĩ quan Mỹ
từng phát biểu: "Chúng ta phải phá hủy ngôi làng để cứu nó," đã phơi bày sự vô nhân đạo
và mục đích tàn bạo của cuộc chiến.
Không chỉ dừng lại ở nông thôn, sự tàn phá còn lan đến Thủ đô Hà Nội - Trái tim của
đất nước. Mỹ không phân biệt mục tiêu quân sự hay dân sự, Mỹ đánh phá bừa bãi vào
vùng đông dân cư. Nhiều nơi trên địa bàn Thủ đô bị đánh đi đánh lại nhiều lần, nhiều cơ
sở kinh tế, công trình lợi ích công cộng của Hà Nội bị tàn phá một cách nặng nề.Đêm 26- 1 12-1972, 1
phố Khâm Thiên bị ném bom rải thảm bởi 30 máy bay B-52, 17 khối phố thiệt hại nặng,
nhiều khối bị hủy diệt hoàn toàn.. Ngoài ra, bệnh viện Bạch Mai, biểu tượng của ngành y
tế Thủ đô, cũng không thoát khỏi bom đạn, đã bị giặc Mỹ ném bom và hứng chịu hơn
100 quả bom loại 2.000 bảng Anh, làm 28 cán bộ, nhân viên y tế và bệnh nhân thiệt
mạng, nhiều khu nhà cao tầng sụp đổ, hàng nghìn thiết bị y tế bị phá hủy.
Khu tập thể An Dương, nơi an cư, cư trú của những gia đình lao động cũng bị máy
bay Mỹ tấn công. Vệt bom B-52 kéo dài gần 2 km, rộng hàng trăm mét đã làm cho 47
dãy nhà ở cùng với hệ thống trường m
mầm non, trường cấp 1, cấp 2, trạm
y tế bị đổ sập. Bom Mỹ đã cướp đi
sinh mạng của 174 người, trong đó
có 5 phụ nữ mang thai, 5 gia đình bị Hình 10 - Khu lao động An Dương (trái) và Trường học cấp
II Hương Phúc, tỉnh Hà Tĩnh (phải) bị ném bom (Nguồn
chết cả nhà, 154 người bị thương.
ảnh: sinh viên tự chụp)
Không chỉ vậy, chiều 9/2/1966, lúc 16h30, máy bay Mỹ bất ngờ ném bom Trường cấp
II Hương Phúc (Hà Tĩnh), cướp đi sinh mạng 33 học sinh và làm 24 em khác bị thương.
Vụ tấn công tàn bạo đã biến ngôi trường từ nơi ươm mầm tri thức, đầy tiếng cười của học
sinh thành đống đổ nát tang thương, khắc sâu vào lịch sử một tội ác chiến tranh không thể dung thứ.
2.6.2. Công trình kiến trúc, tôn giáo và văn hóa
Song song với việc phá hủy các khu dân cư và cơ sở hạ tầng, quân đội Mỹ còn trực
tiếp tấn công vào các công trình tôn giáo và văn hóa, những nơi chứa đựng linh hồn và
bản sắc của dân tộc Việt Nam.
Chùa chiền, không chỉ là nơi thờ tự mà còn là trung tâm văn hóa
cộng đồng, nơi đây cũng trở thành mục tiêu của bom đạn. Nhiều
ngôi chùa bị phá hủy nặng nề. Các cột gỗ, trụ đá bị bom đạn làm nứt
vỡ, xiêu vẹo hoặc thậm chí bị thổi bay. Tượng Phật, bàn thờ vỡ nát hoặc
Hình 11 - Nhà thờ Phát
cháy đen. Chùa Linh Sơn ở Quảng Trị là một trong những nơi chịu Diệm bị bom Mỹ tàn phá tháng 9/1972
tàn phá nặng nề nhất. Khuôn viên chùa nhuốm màu tang thương, đất (Nguồn ảnh: sinh viên tự chụp) 10