






Preview text:
  lOMoAR cPSD| 59114765
 Bài Tiểu Luận Luật Hình Sự    
 Tên : Lê Thị Khánh  Huyền   Lớp : ql26.40   Msv : 2621215706       MỞ ĐẦU 
Xuất phát từ quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về con người đã chứng minh cho 
chúng ta thấy rằng:’’Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội; có 
sự thống nhất biện chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội.... Chính nhờ lao 
động mà con người có khả năng vượt qua loài động vật để tiến hóa và 
phát triển thành người”. Cũng chính vì lẽ đó mà trong công cuộc đấu tranh giành 
lại độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định được 
con đường cách mạng Việt Nam là giải phóng con người, giải phóng dân tộc. Tư 
tưởng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân của chủ tịch Hồ Chí Minh đã 
được vận dụng trong quá trình xây dựng Hiến Pháp năm 2013. Điều 2 – Hiến pháp 
2013 quy định: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp 
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Từ đây, chúng ta 
có thể thấy được rõ nét tầm quan trọng của con người trong công cuộc xây dựng 
và đổi mới của Đảng và Nhà nước ta trong thời kì phát triển kinh tế. Qua đó, quyền 
lợi của con người cũng được nhà nước chúng ta coi trọng và bảo vệ khi được quy 
định tại Điều 20 – Hiến pháp 2013:” 1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về 
thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra 
tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm 
thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. 2. Không ai bị bắt nếu không 
có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát 
nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật 
định. 3. Mọi người có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác theo quy 
định của luật. Việc thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất kỳ hình thức thử 
nghiệm nào khác trên cơ thể người phải có sự đồng ý của người được thử nghiệm.” 
Tuy nhiên, xã hội Việt Nam càng phát triển thì đi kèm với nó chính là tình hình tội 
phạm cũng diễn biến phức tạp với nhiều thủ đoạn tinh vi, táo bạo, tiềm ẩn nhiều 
nguy cơ đe dọa đến an ninh của xã hội, an toàn của người dân, đi ngược lại với chủ 
trương, mục tiêu của Đảng và nhà nước. Hiện nay, ở nước ta cũng như ở các nước 
phát triển khác trên thế giới thì tội phạm vẫn      lOMoAR cPSD| 59114765
luôn là vấn đề bức thiết, gây nhiều thiệt hại cho xã hội mà hậu quả để lại rất lớn  mà 
chúng ta không thể thống kê nó một cách chính xác. Tỉ lệ phạm tội của tội phạm 
trong nước ngày càng gia tăng khi hành vi, thủ đoạn thực hiện ngày một tinh vi, 
táo bạo đe dọa đến an ninh xã hội và an toàn của người dân. Những hành vi đó đã 
xâm phạm đến quyền của con người, đi ngược lại với pháp luật Việt Nam nên đòi 
hỏi các cơ quan chức năng cần có những biển pháp phòng tránh và đấu tranh 
chống tội phạm một cách có hiệu quả. Chính sự yêu cầu mức thiết ấy mà Bộ Luật 
hình sự nước ta ban hành năm 1985 và qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung để phù 
hợp với tình hình của xã hội thì vẫn có những điều luật còn nhiều vướng mắc, gây 
tranh cãi vì chưa được giải thích rõ ràng về đặc điểm phạm tội, trong đó có Điều 
134 quy định về tội:” Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của 
người khác” trong Bộ luật Hình sự 2015 – sửa đổi, bổ sung 2017. Điều luật được 
đưa ra mà chưa có những giải thích cụ thể đầy đủ đã vô tình gây ra sự không đồng 
nhất, có nhiều sai sót ở các Tòa án trong quá trình vận dụng vào xét xử tội phạm 
khi tình hình tội phạm xâm hại đến sức khỏe, danh dự con người có chiều hướng 
gia tăng đáng kể qua từng năm và trẻ hóa độ tuổi. Vì những lý do trên nên em 
quyết định lựa chọn đề tài:” Pháp luật hình sự về tội Cố ý gây thương tích hoặc 
gây tổn hại đến sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh” 
làm cơ sở cho hoạt động đấu tranh chống tội phạm xâm hại đến sức khỏe, danh 
dự của con người giúp hoàn thiện hoạt động xử án.   NỘI DUNG  1.Khái Niệm 
Khái niệm luật hình sự nói về những luật có chung tính chất là xác định những 
hành vi (tội) mà xã hội đó không muốn xảy ra, và đề ra những hình phạt riêng 
biệt và nặng nề hơn bình thường nếu thành viên xã hội đó phạm vào. 
Tùy theo loại tội và thẩm quyền, sự trừng phạt (về mặt) hình sự bao gồm tử hình, 
giam giữ, bị quản thúc hoặc bị phạt vạ. Những tội cổ xưa như sát nhân (giết 
người), phản quốc.v.v. luật hình sự nơi nào cũng có. Nhưng cũng có nhiều tội ở 
nước này đưa vào luật hình sự mà nước khác thì không. Ngay cả trong các bộ luật 
đôi khi cũng không rõ ràng về ranh giới giữa dân sự và hình sự. 
Luật hình sự thường được tiến hành khởi tố bởi chính quyền, không giống như luật 
dân sự thường được tiến hành khởi tố bởi người dân hay các pháp nhân khác.      lOMoAR cPSD| 59114765
2.Hình phạt trong Luật Hình sự   
Luật hình sự mang đặc tính riêng của nó, đó là (1) Nêu ra cụ thể những hậu quả có 
thể xảy ra cho những ai không chấp hành nghiêm chỉnh và (2) nêu ra các yếu tố 
cấu thành tội. Những hậu quả có thể bao gồm tử hình, khổ sai (đánh đòn, hành hạ), 
cải tạo giam giữ hoặc không giam giữ (án treo cho tại ngoại) tùy theo các cấp thẩm 
quyền khác nhau. Thời gian cải tạo có thể từ vài ngày cho đến chung thân. Khi ra 
ngoài, tội nhân có thể còn chịu thêm thời gian quản thúc tại gia, hay phải báo cáo 
định kỳ với nhân viên tòa án tùy vào bản án. Phạm nhân có thể thương lượng với 
chính quyền về mức độ phạm tội, tội danh, án phạt... để đổi lại sự hợp tác, chỉ 
chứng hay cung cấp thông tin cho cơ quan tố tụng. Phạt và đền tiền cũng là một  hình phạt phổ biến. 
Tuy ở nhiều mức độ khác nhau, nhưng năm mục đích sau đây được chấp nhận rộng 
rãi trong hầu hết các bộ luật hình sự về mặt trừng trị tội phạm: báo oán (trả oán), 
răn đe, vô hiệu hóa, giúp cải tà quy chánh và đền bù thiệt hại.  • 
Báo oán (trả oán) - Phạm nhân phải chịu đau khổ dằn vặt trừng phạt do tội 
mình làm ra. Đây là một mục đích thường thấy nhất. Vì phạm nhân đã lạm 
dụng sai trái, hay gây ra tổn thất không đáng có cho những bên thiệt hại (làm 
lệch cán cân công bình xã hội) do đó luật hình sự phải đưa phạm nhân vào 
những tình huống khổ sai để làm quân bình cán cân công lý. Lý giải này dựa 
trên nguyên tắc: mọi công dân tuân theo luật pháp để mong được sự bảo vệ 
không bị giết hại, vì vậy nếu người nào bị kết tội giết người thì sẽ bị tước quyền 
được luật pháp che chở. Một người đi giết người thì có thể bị (nhà nước) xử tử. 
Giống như một cán cân bị lệch vì nhân mạng phải được đền bù bằng nhân  mạng.  • 
Răn đe - Có hai loại: răn đe cá nhân nhằm vào các phạm nhân với mục đích 
đưa ra mức phạt đủ nặng khiến những người này không dám phạm tội từ đây về 
sau. Còn răn đe xã hội nhằm vào toàn thể các công dân không trừ một ai với 
mục đích trừng phạt những ai đã phạm tội lẫn răn đe những ai có khả năng  phạm tội.  • 
Vô hiệu hóa - được thiết kế với mục đích đơn giản là đưa người phạm tội ra 
khỏi xã hội để bảo vệ xã hội khỏi bị ảnh hưởng bởi những tội phạm do phạm 
nhân gây ra, thể hiện bằng án tù. Đây là lý do chính quyền cho xây các nhà tù, 
các trại tập trung cải tạo giam giữ. Các án tử hình và các lệnh cấm (quản chế) 
cũng nhằm mục đích này.  • 
Giúp cải tà quy chính - nhằm mục đích cải hóa phạm nhân trở lại thành một 
thành viên hữu ích trong xã hội. Phạm nhân phải trải qua một chương trình học      lOMoAR cPSD| 59114765
tập, cải huấn (có hay không kèm giam giữ) ở nhiều mặt khác nhau để giúp 
phạm nhân nhận thức được sự sai trái những việc mình đã làm. 
Đền bù thiệt hại - đây là một lý thuyết về trừng phạt hướng về nạn nhân. Mục 
tiêu là nhà nước đứng ra quyết định loại hình và mức độ đền bù cho những 
đau khổ thiệt hại lên mình nạn nhân. Ví dụ, phạm nhân trộm công quỹ 
thường bị phạt phải trả lại tiền đã biển thủ. Đền bù thiệt hại thường được kết 
hợp với các mục đích khác của luật hình sự và bắt nguồn từ các khái niệm 
tương tự trong luật dân sự. 
3.Những khía cạnh và yếu tố cấu thành tội Hình sự   
Theo nhiều bộ luật hình sự ở các nước, chính quyền (nhà nước) thực thi luật hình 
sự bằng cách đề ra những đe dọa hình sự. Hình thức và mức độ đe dọa khác nhau 
tùy theo văn hóa, lịch sử tư pháp và tôn giáo của mỗi nước. 
Các bộ luật hình sự trên thế giới thể hiện hàng trăm quan điểm, lý luận khác nhau. 
Trong khuôn khổ giới hạn này rất khó thống kê hoàn chỉnh và đầy đủ mà không bị 
thiếu sót. Tuy vậy, những yếu tố và khía cạnh sau đây xuất hiện phổ biến trong các 
luật hình sự: hành vi cấm, sự cố ý, đối tượng bị thiệt hại, yếu tố đồng lõa, các yếu 
tố bào chữa, và mối liên hệ giữa các yếu tố nói trên.  Hành vi cấm 
Luật hình sự thường cấm những hành vi cụ thể. Do đó, chứng cứ phạm tội phải 
hợp lý minh chứng hành động do chính can phạm gây ra. Hành động cụ thể này 
gọi là hành vi phạm tội (guilty act - Latin: actus reus) 
Hành vi phạm tội (hành vi cấm) có thể cấu thành bởi một hành động hay một hành 
động đe dọa, hay trong một số trường hợp hạn hữu, sự bất hành động (tức không 
làm một việc do mình chuyên trách) cũng là hành vi cấm. Ví dụ: cha mẹ bỏ đói trẻ 
sơ sinh, cũng là một hành vi cấm. 
Nếu hành vi phạm tội là một sự bất hành động như nêu trên, thì cần phải đi kèm 
một trách nhiệm (duty). Trách nhiệm này có thể là do hợp đồng, do tự nguyện dấn 
thân, quan hệ huyết mạch và đôi khi là do chức vụ được giao. Trách nhiệm còn có 
thể hình thành nếu anh tự tạo ra một điều kiện nguy hiểm. Đôi khi, ở Mỹ hay Âu 
châu còn ràng buộc người qua đường phải giúp - trong một số trường hợp rất cụ 
thể - những người trong những tình huống bất khả kháng (ví dụ: giúp kêu xe cứu 
thương hay giúp trẻ em đang chết chìm ở sông cạn). 
Một hành vi phạm tội có thể được bào chữa (hay được hủy bỏ) nếu cơ quan công 
tố không thể chứng minh liên hệ nhân quả của hành vi phạm tội của phạm nhân 
này đối với thiệt hại gây ra (causation). Nói cách khác, luật sư biện hộ có thể chỉ ra      lOMoAR cPSD| 59114765
các yếu tố chứng minh hành vi của người này không phải là nguyên nhân duy nhất 
và trực tiếp nhất gây ra thiệt hại. Xem thêm phần yếu tố bào chữa ở dưới.  Sự cố ý 
Vì hình phạt nghiêm khắc của luật hình sự, các thẩm phán công minh đều đòi hỏi 
bên công tố phải chứng minh một ý thức cố ý phạm tội (guilty mind, Latin: mens 
rea). Ý thức phạm tội này được giải thích là sự cố ý trong khi làm một hành vi sai 
trái. Chú ý rằng trong luật hình sự, ý thức phạm tội hoàn toàn được tách ra khỏi ý 
đồ, động lực (motive) của nghi can. Nếu A cướp tài sản của B chia cho dân nghèo 
(cướp phú tế bần), thì hành động lấy đồ của B trong lúc A không phải là chủ sở 
hữu chứng tỏ A đã có ý thức cố ý muốn cướp tài sản của B. Ý đồ động lực giúp 
người nghèo tuy là ý tốt, nhưng không thể thay đổi sự cố ý phạm tội của A trong 
việc đánh cướp tài sản. 
Sự cố ý phạm tội dễ dàng bị bên công tố chứng minh hơn nếu nghi can biết hành vi 
của mình sẽ gây nguy hiểm nhưng vẫn cứ tiến hành. Ví dụ: nghi can A xả chất thải 
độc hại xuống dòng sông và biết rằng các chất này có thể gây nhiễm độc nguồn 
nước cho dân cư 2 bên bờ sông, nhưng A vẫn cứ làm. Bị truy tố, A có thể bào chữa 
là mình không hề muốn đầu độc dòng sông (tức là không cố ý phạm tội), nhưng 
khi bên công tố dễ dàng chứng minh rằng, với cương vị của mình, A thừa biết các 
chất xả thải kia gây độc hại, là đã đủ cơ sở chứng minh A có yếu tố "cố ý phạm  tội". 
Khi xem xét yếu tố cố ý phạm tội, tòa án Phương Tây phải xét thêm khía cạnh nghi 
can khi hành động có thực sự "muốn" gây ra hậu quả cụ thể hay không. Ví dụ: 
trong tội giết người, sự "muốn" hay "không muốn" nạn nhân tử vong có thể chuyển 
từ tội cố sát (tử hình) sang tội ngộ sát (ở tù). Đây là một lãnh vực hết sức khó khăn 
để chứng minh lẫn bào chữa. 
Mặt khác yếu tố cố ý phạm tội có thể bị "chuyển sang" nạn nhân thứ ba, dù rằng 
nghi can không hề cố ý gây hại cho người thứ ba (transfer malice). Ví dụ: A dùng 
súng bắn B đang đứng trong đám đông, nhưng không trúng B. Viên đạn lạc sang 
phía C và giết chết C. A có thể nói rằng mình không hề biết C và không có ý đồ 
giết C. Nhưng vì A chĩa súng vào đám đông có C nên ý đồ giết người của A đã 
được "chuyển sang" C, vì bất cứ ai trong đám đông ấy cũng có khả năng bị trúng 
đạn. A có thể bị truy tố tội cố ý giết C. 
Đối tượng của xâm phạm 
Công dân hy sinh một phần quyền lợi của mình để tuân thủ luật pháp nhà nước 
nhằm mục đích được pháp luật bảo hộ không bị các hành vi phạm tội xâm phạm:      lOMoAR cPSD| 59114765 • 
Nhân Mạng - sát nhân (homocide) là một tội danh cổ xưa khi nghi can giết 
người phi pháp. Đây là một hành vi được các bộ luật hình sự rất chú trọng và 
thường được chia ra làm nhiều mức độ khác nhau với mức án khác nhau dựa 
trên việc có hay không có yếu tố "cố ý phạm tội". Nếu có thì tội và hình phạt trở 
đặc biệt nghiêm trọng (murder) và nếu không có thì có thể chỉ phạm vào tội ngộ 
sát. Trong trường hợp thiếu hẳn yếu tố "cố ý phạm tội", phía công tố có thể 
chuyển qua truy tố tội ngộ sát (manslaughter) hay là bất cẩn gây chết người 
(involuntary manslaugher) là những tội với hình phạt nhẹ hơn.  • 
Thân Thể - hầu hết các luật hình sự bảo vệ sự bất khả xâm phạm của cơ thể 
công dân nói chung. Hành vi "đánh người" (battery) là tội do bởi sự đụng chạm 
phi pháp và không được phép. Tội này không bao gồm các hành động đánh 
nhau khi thi đấu trên võ đài khi 2 người im lặng đồng ý khi đánh nhau trước 
đám đông. Mặc dù không đánh, nhưng nghi phạm vẫn có thể bị truy tố tội "tấn 
công" người khác (assault) nếu hành động của nghi phạm khiến nạn nhân có 
cảm giác "sợ bị đánh ngay lập tức" (fear of imminent battery). Quan hệ tình dục 
không đồng thuận hay quan hệ tình dục với trẻ em vị thành niên thường bị truy 
tố tội hiếp dâm (rape) - trong đó luật rất cụ thể chi li về các hành vi thể hiện sự 
hiếp dâm. Hiếp dâm là một dạng của tội đánh người.  • 
Tài Sản & Nơi Cư Trú - ở các nước Phương Tây, tài sản và nơi cư trú được bảo 
vệ bởi luật hình sự. Hành vi xuất hiện hay bước vào khu vực, đất, tư gia hay 
văn phòng không có phép của chủ nhân có thể bị truy tố tội xâm nhập trái phép 
(trespassing). Hành vi trộm cắp (theft), biển thủ công quỹ (embezzlement), 
lường gạt (conversion) đều liên quan đến sự cố ý chuyển nhượng, sử dụng trái 
phép tài sản thuộc chủ quyền của người khác. Nếu các hành vi trên có kèm sử 
dụng vũ lực thì lập tức chuyển thành tội danh ăn cướp (robbery). Với công 
chức Tây Phương còn có thêm hành vi gian dối, lợi dụng chức quyền lừa gạt 
(fraud) cũng bị truy tố hình sự.  • 
Đạo Đức - luật hình sự kế thừa vai trò lịch sử của các tổ chức tôn giáo trong 
việc điều chỉnh các hành vi con người theo giáo luật đã có từ ngàn xưa, khi nhà 
nước chưa tồn tại. Những hành vi tội phạm bị đa số các tôn giáo cấm như ngoại 
tình (adultery), đa phu hay đa thê (polygamy), loạn luân (incest), dụ dỗ tình 
dục (seduction), quan hệ tình dục trái tự nhiên (sodomy), bán  
dâm (prostitution), các hành vi tục tĩu (obscenity and indecency)... ngày nay 
được hầu hết các bộ luật hình sự ghi nhận.  • 
Trật Tự Công Cộng - luật hình sự đóng vai trò đảm bảo quyền công dân được 
sống trong một xã hội có trật tự và ổn định chung. Luật sẽ phạt những hành vi 
cố ý xâm phạm một cách không chính đáng và không hợp lệ các quyền lợi này. 
Những tội như đánh nhau ở nơi công cộng (public fighting), hù       lOMoAR cPSD| 59114765
dọa (affray), bạo loạn (riot), phá hoại hội họp công cộng (disturbance of public 
assembly), bê bối nơi ở (disorderly house), xâm nhập và bắt người trái phép 
(forcible entry and detainer), lăng mạ xúc phạm nhân phẩm (libel/defamation), 
giấu vũ khí trái phép (illegal concealed weapon)... nhằm bảo vệ trị an cuộc  sống.  • 
Quốc gia và Cơ quan Nhà nước - những hoạt động chính đáng của các cơ quan 
nhà nước nhằm phục vụ công dân và xã hội cần các cơ chế đảm bảo ổn định và 
trong sạch. Ví dụ các hệ thống tòa án phải có cơ chế đảm bảo tính công minh và 
độc lập, các cơ quan nhà nước dính líu đến việc quản lý phân phối tài sản có giá 
trị cần phải được minh bạch và tránh nạn tham nhũng từ bên ngoài lẫn từ bên 
trong. Xuất phát từ quá trình đấu tranh xây dựng bảo vệ tổ quốc, các bộ luật 
hình sự ngoài việc duy trì các hình phạt cổ xưa còn thiết lập thêm một số tội 
phạm hiện đại nhằm đảm bảo các hoạt động của các cơ quan nhà nước. Điển 
hình như các tội phạm phản quốc (treason), che giấu phản tặc (misprision of 
treason), lật đổ chính phủ (overthrow of government), gián điệp (espionage), 
thề dối (perjury), hối lộ (bribery), lạm dụng quyền hạn chức vụ (official 
misconduct), ảnh hưởng công chánh tư pháp (embracery), làm tiền giả 
(counterfeit), cưỡng lệnh (tòa) (contempt), phá hoại quá trình tư pháp 
(obstruction of justice), che giấu tội phạm (misprision of felony), cướp biển 
(piracy),... Tuy nhiên, cần đảm bảo quyền lợi của công dân không bị các quyền 
lợi nhà nước xâm phạm lẫn nhau.  Đồng lõa 
Một số luật hình sự trừng phạt sự liên kết phạm tội, dính líu đến hành vi phạm tội, 
hoặc ngay cả khi hành vi đó dính líu đến các tội phạm nhưng không thành công. 
Một số tội danh thông thường là: đồng phạm, giúp đỡ và che giấu tội phạm, xúi 
giục người khác phạm tội và cố ý phạm tội nhưng không thành công.