lOMoARcPSD| 59114765
Bài Tiểu Luận Luật Hình Sự
Tên : Lê Thị Khánh
Huyền
Lớp : ql26.40
Msv : 2621215706
MỞ ĐẦU
Xuất phát từ quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về con người đã chứng minh cho
chúng ta thấy rằng:’’Con người một thực thể tự nhiên mang đặc nh hội;
sự thống nhất biện chứng giữa hai phương diện tự nhiên hội.... Chính nhờ lao
động mà con người khả năng vượt qua loài động vật để ến hóa
phát triển thành người. Cũng chính vì lẽ đó mà trong công cuộc đấu tranh giành
lại độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định được
con đường cách mạng Việt Nam giải phóng con người, giải phóng dân tộc. Tư
ởng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân của chủ tịch Hồ Chí Minh đã
được vận dụng trong quá trìnhy dựng Hiến Pháp năm 2013. Điều 2 – Hiến pháp
2013 quy định: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Từ đây, chúng ta
thể thấy được nét tầm quan trọng của con người trong công cuộc y dựng
đổi mới của Đảng và Nhà nước ta trong thời phát triển kinh tế. Qua đó, quyền
lợi của con người cũng được nhà nước chúng ta coi trọng và bảo vệ khi được quy
định tại Điều 20 Hiến pháp 2013:” 1. Mọi người quyền bất khả xâm phạm về
thân thể, được pháp luật bảo hộ vsức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra
tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất khình thức đối xử nào khác xâm phạm
thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. 2. Không ai bị bắt nếu không
quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát
nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật
định. 3. Mọi người quyền hiến mô, bộ phận thể người hiến xác theo quy
định của luật. Việc thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất kỳ hình thức thử
nghiệm nào khác trên thể người phải sự đồng ý của người được thử nghiệm.
Tuy nhiên, xã hội Việt Nam càng phát triển thì đi kèm với chính nh hình tội
phạm cũng diễn biến phức tạp với nhiều thủ đoạn nh vi, táo bạo, ềm ẩn nhiều
nguy cơ đe dọa đến an ninh của xã hội, an toàn của người dân, đi ngược lại với chủ
trương, mục êu của Đảng và nhà nước. Hiện nay, ở ớc ta cũng như ở các nưc
phát triển khác trên thế giới thì tội phạm vẫn
lOMoARcPSD| 59114765
luôn là vn đề bức thiết, gây nhiều thiệt hại cho xã hội mà hậu quả để lại rất lớn
chúng ta không thể thống kê nó một cách chính xác. Tỉ lệ phạm tội của tội phm
trong nước ngày càng gia tăng khi hành vi, thủ đoạn thực hiện ngày một nh vi,
táo bạo đe dọa đến an ninh xã hội và an toàn của người dân. Những hành vi đó đã
xâm phạm đến quyn của con người, đi ngược lại với pháp luật Việt Nam nên đòi
hỏi các cơ quan chức năng cần có những biển pháp phòng tránh đấu tranh
chống tội phạm một cách có hiệu quả. Chính sự yêu cầu mức thiết y mà Bộ Lut
hình sự ớc ta ban hành năm 1985 và qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung để phù
hợp với nh hình của xã hội thì vẫn có những điều luật còn nhiều vướng mắc, gây
tranh cãi vì chưa được giải thích rõ ràng về đặc điểm phm tội, trong đó có Điều
134 quy định về tội:” Cố ý gây thương ch hoặc gây tn hại đến sức khỏe của
người khác” trong Bộ lut Hình sự 2015 – sửa đổi, bổ sung 2017. Điều luật được
đưa ra mà chưa có những giải thích cụ th đầy đủ đã vô nh gây ra sự không đồng
nhất, có nhiều sai sót ở các Tòa án trong quá trình vận dụng vào xét xử tội phạm
khi nh hình tội phạm xâm hại đến sức khỏe, danh dự con người có chiều hướng
gia tăng đáng kể qua từng năm trẻ hóa độ tuổi. Vì những lý do trên nên em
quyết định lựa chọn đề tài:” Pháp luật hình sự về tội Cố ý gây thương ch hoặc
gây tổn hại đến sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh”
làm cơ sở cho hoạt động đấu tranh chống tội phạm xâm hại đến sức khỏe, danh
dự của con người giúp hoàn thiện hoạt động xử án.
NỘI DUNG
1.Khái Niệm
Khái niệm luật hình sự nói về những luật có chung tính chất là xác định những
hành vi (tội) mà xã hội đó không muốn xảy ra, và đề ra những hình phạt riêng
biệt và nặng nề hơn bình thường nếu thành viên xã hội đó phạm vào.
Tùy theo loại tội và thẩm quyền, sự trừng phạt (về mặt) hình sự bao gồm tử hình,
giam giữ, bị quản thúc hoặc bị phạt vạ. Những tội cổ xưa như sát nhân (giết
người), phản quốc.v.v. luật hình sự nơi nào cũng có. Nhưng cũng có nhiều tội ở
nước này đưa vào luật hình sự mà nước khác thì không. Ngay cả trong các bộ luật
đôi khi cũng không rõ ràng về ranh giới giữa dân sự và hình sự.
Luật hình sự thường được tiến hành khởi tố bởi chính quyền, không giống như luật
dân sự thường được tiến hành khởi tố bởi người dân hay các pháp nhân khác.
lOMoARcPSD| 59114765
2.Hình phạt trong Luật Hình sự
Luật hình sự mang đặc tính riêng của nó, đó là (1) Nêu ra cụ thể những hậu quả có
thể xảy ra cho những ai không chấp hành nghiêm chỉnh và (2) nêu ra các yếu tố
cấu thành tội. Những hậu quả có thể bao gồm tử hình, khổ sai (đánh đòn, hành hạ),
cải tạo giam giữ hoặc không giam giữ (án treo cho tại ngoại) tùy theo các cấp thẩm
quyền khác nhau. Thời gian cải tạo có thể từ vài ngày cho đến chung thân. Khi ra
ngoài, tội nhân có thể còn chịu thêm thời gian quản thúc tại gia, hay phải báo cáo
định kỳ với nhân viên tòa án tùy vào bản án. Phạm nhân có thể thương lượng với
chính quyền về mức độ phạm tội, tội danh, án phạt... để đổi lại sự hợp tác, chỉ
chứng hay cung cấp thông tin cho cơ quan tố tụng. Phạt và đền tiền cũng là một
hình phạt phổ biến.
Tuy ở nhiều mức độ khác nhau, nhưng năm mục đích sau đây được chấp nhận rộng
rãi trong hầu hết các bộ luật hình sự về mặt trừng trị tội phạm: báo oán (trả oán),
răn đe, vô hiệu hóa, giúp cải tà quy chánh và đền bù thiệt hại.
Báo oán (trả oán) - Phạm nhân phải chịu đau khổ dằn vặt trừng phạt do tội
mình làm ra. Đây là một mục đích thường thấy nhất. Vì phạm nhân đã lạm
dụng sai trái, hay gây ra tổn thất không đáng có cho những bên thiệt hại (làm
lệch cán cân công bình xã hội) do đó luật hình sự phải đưa phạm nhân vào
những tình huống khổ sai để làm quân bình cán cân công lý. Lý giải này dựa
trên nguyên tắc: mọi công dân tuân theo luật pháp để mong được sự bảo vệ
không bị giết hại, vì vậy nếu người nào bị kết tội giết người thì sẽ bị tước quyền
được luật pháp che chở. Một người đi giết người thì có thể bị (nhà nước) xử tử.
Giống như một cán cân bị lệch vì nhân mạng phải được đền bù bằng nhân
mạng.
Răn đe - Có hai loại: răn đe cá nhân nhằm vào các phạm nhân với mục đích
đưa ra mức phạt đủ nặng khiến những người này không dám phạm tội từ đây về
sau. Còn răn đe xã hội nhằm vào toàn thể các công dân không trừ một ai với
mục đích trừng phạt những ai đã phạm tội lẫn răn đe những ai có khả năng
phạm tội.
Vô hiệu hóa - được thiết kế với mục đích đơn giản là đưa người phạm tội ra
khỏi xã hội để bảo vệ xã hội khỏi bị ảnh hưởng bởi những tội phạm do phạm
nhân gây ra, thể hiện bằng án tù. Đây là lý do chính quyền cho xây các nhà tù,
các trại tập trung cải tạo giam giữ. Các án tử hình và các lệnh cấm (quản chế)
cũng nhằm mục đích này.
Giúp cải tà quy chính - nhằm mục đích cải hóa phạm nhân trở lại thành một
thành viên hữu ích trong xã hội. Phạm nhân phải trải qua một chương trình học
lOMoARcPSD| 59114765
tập, cải huấn (có hay không kèm giam giữ) ở nhiều mặt khác nhau để giúp
phạm nhân nhận thức được sự sai trái những việc mình đã làm.
Đền bù thiệt hại - đây là một lý thuyết về trừng phạt hướng về nạn nhân. Mục
tiêu là nhà nước đứng ra quyết định loại hình và mức độ đền bù cho những
đau khổ thiệt hại lên mình nạn nhân. Ví dụ, phạm nhân trộm công qu
thường bị phạt phải trả lại tiền đã biển thủ. Đền bù thiệt hại thường được kết
hợp với các mục đích khác của luật hình sự và bắt nguồn từ các khái niệm
tương tự trong luật dân sự.
3.Những khía cạnh và yếu tố cấu thành tội Hình sự
Theo nhiều bộ luật hình sự ở các nước, chính quyền (nhà nước) thực thi luật hình
sự bằng cách đề ra những đe dọa hình sự. Hình thức và mức độ đe dọa khác nhau
tùy theo văn hóa, lịch sử tư pháp và tôn giáo của mỗi nước.
Các bộ luật hình sự trên thế giới thể hiện hàng trăm quan điểm, lý luận khác nhau.
Trong khuôn khổ giới hạn này rất khó thống kê hoàn chỉnh và đầy đủ mà không bị
thiếu sót. Tuy vậy, những yếu tố và khía cạnh sau đây xuất hiện phổ biến trong các
luật hình sự: hành vi cấm, sự cố ý, đối tượng bị thiệt hại, yếu tố đồng lõa, các yếu
tố bào chữa, và mối liên hệ giữa các yếu tố nói trên.
Hành vi cấm
Luật hình sự thường cấm những hành vi cụ thể. Do đó, chứng cứ phạm tội phải
hợp lý minh chứng hành động do chính can phạm gây ra. Hành động cụ thể này
gọi là hành vi phạm tội (guilty act - Latin: actus reus)
Hành vi phạm tội (hành vi cấm) có thể cấu thành bởi một hành động hay một hành
động đe dọa, hay trong một số trường hợp hạn hữu, sự bất hành động (tức không
làm một việc do mình chuyên trách) cũng là hành vi cấm. Ví dụ: cha mẹ bỏ đói trẻ
sơ sinh, cũng là một hành vi cấm.
Nếu hành vi phạm tội là một sự bất hành động như nêu trên, thì cần phải đi kèm
một trách nhiệm (duty). Trách nhiệm này có thể là do hợp đồng, do tự nguyện dấn
thân, quan hệ huyết mạch và đôi khi là do chức vụ được giao. Trách nhiệm còn có
thể hình thành nếu anh tự tạo ra một điều kiện nguy hiểm. Đôi khi, ở Mỹ hay Âu
châu còn ràng buộc người qua đường phải giúp - trong một số trường hợp rất cụ
thể - những người trong những tình huống bất khả kháng (ví dụ: giúp kêu xe cứu
thương hay giúp trẻ em đang chết chìm ở sông cạn).
Một hành vi phạm tội có thể được bào chữa (hay được hủy bỏ) nếu cơ quan công
tố không thể chứng minh liên hệ nhân quả của hành vi phạm tội của phạm nhân
này đối với thiệt hại gây ra (causation). Nói cách khác, luật sư biện hộ có thể chỉ ra
lOMoARcPSD| 59114765
các yếu tố chứng minh hành vi của người này không phải là nguyên nhân duy nhất
và trực tiếp nhất gây ra thiệt hại. Xem thêm phần yếu tố bào chữa ở dưới.
Sự cố ý
Vì hình phạt nghiêm khắc của luật hình sự, các thẩm phán công minh đều đòi hỏi
bên công tố phải chứng minh một ý thức cố ý phạm tội (guilty mind, Latin: mens
rea). Ý thức phạm tội này được giải thích là sự cố ý trong khi làm một hành vi sai
trái. Chú ý rằng trong luật hình sự, ý thức phạm tội hoàn toàn được tách ra khỏi ý
đồ, động lực (motive) của nghi can. Nếu A cướp tài sản của B chia cho dân nghèo
(cướp phú tế bần), thì hành động lấy đồ của B trong lúc A không phải là chủ sở
hữu chứng tỏ A đã có ý thức cố ý muốn cướp tài sản của B. Ý đồ động lực giúp
người nghèo tuy là ý tốt, nhưng không thể thay đổi sự cố ý phạm tội của A trong
việc đánh cướp tài sản.
Sự cố ý phạm tội dễ dàng bị bên công tố chứng minh hơn nếu nghi can biết hành vi
của mình sẽ gây nguy hiểm nhưng vẫn cứ tiến hành. Ví dụ: nghi can A xả chất thải
độc hại xuống dòng sông và biết rằng các chất này có thể gây nhiễm độc nguồn
nước cho dân cư 2 bên bờ sông, nhưng A vẫn cứ làm. Bị truy tố, A có thể bào chữa
là mình không hề muốn đầu độc dòng sông (tức là không cố ý phạm tội), nhưng
khi bên công tố dễ dàng chứng minh rằng, với cương vị của mình, A thừa biết các
chất xả thải kia gây độc hại, là đã đủ cơ sở chứng minh A có yếu tố "cố ý phạm
tội".
Khi xem xét yếu tố cố ý phạm tội, tòa án Phương Tây phải xét thêm khía cạnh nghi
can khi hành động có thực sự "muốn" gây ra hậu quả cụ thể hay không. dụ:
trong tội giết người, sự "muốn" hay "không muốn" nạn nhân tử vong có thể chuyển
từ tội cố sát (tử hình) sang tội ngộ sát (ở tù). Đây là một lãnh vực hết sức khó khăn
để chứng minh lẫn bào chữa.
Mặt khác yếu tố cố ý phạm tội có thể bị "chuyển sang" nạn nhân thứ ba, dù rằng
nghi can không hề cố ý gây hại cho người thứ ba (transfer malice). Ví dụ: A dùng
súng bắn B đang đứng trong đám đông, nhưng không trúng B. Viên đạn lạc sang
phía C và giết chết C. A có thể nói rằng mình không hề biết C và không có ý đồ
giết C. Nhưng vì A chĩa súng vào đám đông có C nên ý đồ giết người của A đã
được "chuyển sang" C, vì bất cứ ai trong đám đông ấy cũng có khả năng bị trúng
đạn. A có thể bị truy tố tội cố ý giết C.
Đối tượng của xâm phạm
Công dân hy sinh một phần quyền lợi của mình để tuân thủ luật pháp nhà nước
nhằm mục đích được pháp luật bảo hộ không bị các hành vi phạm tội xâm phạm:
lOMoARcPSD| 59114765
Nhân Mạng - sát nhân (homocide) là một tội danh cổ xưa khi nghi can giết
người phi pháp. Đây là một hành vi được các bộ luật hình sự rất chú trọng và
thường được chia ra làm nhiều mức độ khác nhau với mức án khác nhau dựa
trên việc có hay không có yếu tố "cố ý phạm tội". Nếu thì tội và hình phạt trở
đặc biệt nghiêm trọng (murder) và nếu không có thì có thể chỉ phạm vào tội ngộ
sát. Trong trường hợp thiếu hẳn yếu tố "cố ý phạm tội", phía công tố có thể
chuyển qua truy tố tội ngộ sát (manslaughter) hay là bất cẩn gây chết người
(involuntary manslaugher) là những tội với hình phạt nhẹ hơn.
Thân Thể - hầu hết các luật hình sự bảo vệ sự bất khả xâm phạm của cơ thể
công dân nói chung. Hành vi "đánh người" (battery) là tội do bởi sự đụng chạm
phi pháp và không được phép. Tội này không bao gồm các hành động đánh
nhau khi thi đấu trên võ đài khi 2 người im lặng đồng ý khi đánh nhau trước
đám đông. Mặc dù không đánh, nhưng nghi phạm vẫn có thể bị truy tố tội "tấn
công" người khác (assault) nếu hành động của nghi phạm khiến nạn nhân có
cảm giác "sợ bị đánh ngay lập tức" (fear of imminent battery). Quan hệ tình dục
không đồng thuận hay quan hệ tình dục với trẻ em vị thành niên thường bị truy
tố tội hiếp dâm (rape) - trong đó luật rất cụ thể chi li về các hành vi thể hiện sự
hiếp dâm. Hiếp dâm là một dạng của tội đánh người.
Tài Sản & Nơi Cư Trú - ở các nước Phương Tây, tài sản và nơi cư trú được bảo
vệ bởi luật hình sự. Hành vi xuất hiện hay bước vào khu vực, đất, tư gia hay
văn phòng không có phép của chủ nhân có thể bị truy tố tội xâm nhập trái phép
(trespassing). Hành vi trộm cắp (theft), biển thủ công quỹ (embezzlement),
lường gạt (conversion) đều liên quan đến sự cố ý chuyển nhượng, sử dụng trái
phép tài sản thuộc chủ quyền của người khác. Nếu các hành vi trên có kèm sử
dụng vũ lực thì lập tức chuyển thành tội danh ăn cướp (robbery). Với công
chức Tây Phương còn có thêm hành vi gian dối, lợi dụng chức quyền lừa gạt
(fraud) cũng bị truy tố hình sự.
Đạo Đức - luật hình sự kế thừa vai trò lịch sử của các tổ chức tôn giáo trong
việc điều chỉnh các hành vi con người theo giáo luật đã có từ ngàn xưa, khi nhà
nước chưa tồn tại. Những hành vi tội phạm bị đa số các tôn giáo cấm nngoại
tình (adultery), đa phu hay đa thê (polygamy), loạn luân (incest), dụ dỗ tình
dục (seduction), quan hệ tình dục trái tự nhiên (sodomy), bán
dâm (prostitution), c hành vi tục tĩu (obscenity and indecency)... ngày nay
được hầu hết các bộ luật hình sự ghi nhận.
Trật Tự Công Cộng - luật hình sự đóng vai trò đảm bảo quyền công dân được
sống trong một xã hội có trật tự và ổn định chung. Luật sẽ phạt những hành vi
cố ý xâm phạm một cách không chính đáng và không hợp lệ các quyền lợi này.
Những tội như đánh nhau ở nơi công cộng (public fighting),
lOMoARcPSD| 59114765
dọa (affray), bạo loạn (riot), phá hoại hội họp công cộng (disturbance of public
assembly), bê bối nơi ở (disorderly house), xâm nhập và bắt người trái phép
(forcible entry and detainer), lăng mạ xúc phạm nhân phẩm (libel/defamation),
giấu vũ khí trái phép (illegal concealed weapon)... nhằm bảo vệ trị an cuộc
sống.
Quốc gia và Cơ quan Nhà nước - những hoạt động chính đáng của các cơ quan
nhà nước nhằm phục vụ công dân và xã hội cần các cơ chế đảm bảo ổn định
trong sạch. dụ các hệ thống tòa án phải có cơ chế đảm bảo tính công minh và
độc lập, các cơ quan nhà nước dính líu đến việc quản lý phân phối tài sản có g
trị cần phải được minh bạch và tránh nạn tham nhũng từ bên ngoài lẫn từ bên
trong. Xuất phát từ quá trình đấu tranh xây dựng bảo vệ tổ quốc, các bộ luật
hình sự ngoài việc duy trì các hình phạt cổ xưa còn thiết lập thêm một số tội
phạm hiện đại nhằm đảm bảo các hoạt động của các cơ quan nhà nước. Điển
hình như các tội phạm phản quốc (treason), che giấu phản tặc (misprision of
treason), lật đổ chính phủ (overthrow of government), gián điệp (espionage),
thề dối (perjury), hối lộ (bribery), lạm dụng quyền hạn chức v (official
misconduct), ảnh hưởng công chánh tư pháp (embracery), làm tiền giả
(counterfeit), cưỡng lệnh (tòa) (contempt), phá hoại quá trình tư pháp
(obstruction of justice), che giấu tội phạm (misprision of felony), cướp biển
(piracy),... Tuy nhiên, cần đảm bảo quyền lợi của công dân không bị các quyền
lợi nhà nước xâm phạm lẫn nhau.
Đồng lõa
Một số luật hình sự trừng phạt sự liên kết phạm tội, dính líu đến hành vi phạm tội,
hoặc ngay cả khi hành vi đó dính líu đến các tội phạm nhưng không thành công.
Một số tội danh thông thường là: đồng phạm, giúp đỡ và che giấu tội phạm, xúi
giục người khác phạm tội và cố ý phạm tội nhưng không thành công.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 59114765
Bài Tiểu Luận Luật Hình Sự
Tên : Lê Thị Khánh Huyền Lớp : ql26.40 Msv : 2621215706 MỞ ĐẦU
Xuất phát từ quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về con người đã chứng minh cho
chúng ta thấy rằng:’’Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội; có
sự thống nhất biện chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội.... Chính nhờ lao
động mà con người có khả năng vượt qua loài động vật để tiến hóa và
phát triển thành người”. Cũng chính vì lẽ đó mà trong công cuộc đấu tranh giành
lại độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định được
con đường cách mạng Việt Nam là giải phóng con người, giải phóng dân tộc. Tư
tưởng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân của chủ tịch Hồ Chí Minh đã
được vận dụng trong quá trình xây dựng Hiến Pháp năm 2013. Điều 2 – Hiến pháp
2013 quy định: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Từ đây, chúng ta
có thể thấy được rõ nét tầm quan trọng của con người trong công cuộc xây dựng
và đổi mới của Đảng và Nhà nước ta trong thời kì phát triển kinh tế. Qua đó, quyền
lợi của con người cũng được nhà nước chúng ta coi trọng và bảo vệ khi được quy
định tại Điều 20 – Hiến pháp 2013:” 1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về
thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra
tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm
thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. 2. Không ai bị bắt nếu không
có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát
nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật
định. 3. Mọi người có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác theo quy
định của luật. Việc thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất kỳ hình thức thử
nghiệm nào khác trên cơ thể người phải có sự đồng ý của người được thử nghiệm.”
Tuy nhiên, xã hội Việt Nam càng phát triển thì đi kèm với nó chính là tình hình tội
phạm cũng diễn biến phức tạp với nhiều thủ đoạn tinh vi, táo bạo, tiềm ẩn nhiều
nguy cơ đe dọa đến an ninh của xã hội, an toàn của người dân, đi ngược lại với chủ
trương, mục tiêu của Đảng và nhà nước. Hiện nay, ở nước ta cũng như ở các nước
phát triển khác trên thế giới thì tội phạm vẫn lOMoAR cPSD| 59114765
luôn là vấn đề bức thiết, gây nhiều thiệt hại cho xã hội mà hậu quả để lại rất lớn mà
chúng ta không thể thống kê nó một cách chính xác. Tỉ lệ phạm tội của tội phạm
trong nước ngày càng gia tăng khi hành vi, thủ đoạn thực hiện ngày một tinh vi,
táo bạo đe dọa đến an ninh xã hội và an toàn của người dân. Những hành vi đó đã
xâm phạm đến quyền của con người, đi ngược lại với pháp luật Việt Nam nên đòi
hỏi các cơ quan chức năng cần có những biển pháp phòng tránh và đấu tranh
chống tội phạm một cách có hiệu quả. Chính sự yêu cầu mức thiết ấy mà Bộ Luật
hình sự nước ta ban hành năm 1985 và qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung để phù
hợp với tình hình của xã hội thì vẫn có những điều luật còn nhiều vướng mắc, gây
tranh cãi vì chưa được giải thích rõ ràng về đặc điểm phạm tội, trong đó có Điều
134 quy định về tội:” Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của
người khác” trong Bộ luật Hình sự 2015 – sửa đổi, bổ sung 2017. Điều luật được
đưa ra mà chưa có những giải thích cụ thể đầy đủ đã vô tình gây ra sự không đồng
nhất, có nhiều sai sót ở các Tòa án trong quá trình vận dụng vào xét xử tội phạm
khi tình hình tội phạm xâm hại đến sức khỏe, danh dự con người có chiều hướng
gia tăng đáng kể qua từng năm và trẻ hóa độ tuổi. Vì những lý do trên nên em
quyết định lựa chọn đề tài:” Pháp luật hình sự về tội Cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại đến sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh”
làm cơ sở cho hoạt động đấu tranh chống tội phạm xâm hại đến sức khỏe, danh
dự của con người giúp hoàn thiện hoạt động xử án. NỘI DUNG 1.Khái Niệm
Khái niệm luật hình sự nói về những luật có chung tính chất là xác định những
hành vi (tội) mà xã hội đó không muốn xảy ra, và đề ra những hình phạt riêng
biệt và nặng nề hơn bình thường nếu thành viên xã hội đó phạm vào.
Tùy theo loại tội và thẩm quyền, sự trừng phạt (về mặt) hình sự bao gồm tử hình,
giam giữ, bị quản thúc hoặc bị phạt vạ. Những tội cổ xưa như sát nhân (giết
người), phản quốc.v.v. luật hình sự nơi nào cũng có. Nhưng cũng có nhiều tội ở
nước này đưa vào luật hình sự mà nước khác thì không. Ngay cả trong các bộ luật
đôi khi cũng không rõ ràng về ranh giới giữa dân sự và hình sự.
Luật hình sự thường được tiến hành khởi tố bởi chính quyền, không giống như luật
dân sự thường được tiến hành khởi tố bởi người dân hay các pháp nhân khác. lOMoAR cPSD| 59114765
2.Hình phạt trong Luật Hình sự
Luật hình sự mang đặc tính riêng của nó, đó là (1) Nêu ra cụ thể những hậu quả có
thể xảy ra cho những ai không chấp hành nghiêm chỉnh và (2) nêu ra các yếu tố
cấu thành tội. Những hậu quả có thể bao gồm tử hình, khổ sai (đánh đòn, hành hạ),
cải tạo giam giữ hoặc không giam giữ (án treo cho tại ngoại) tùy theo các cấp thẩm
quyền khác nhau. Thời gian cải tạo có thể từ vài ngày cho đến chung thân. Khi ra
ngoài, tội nhân có thể còn chịu thêm thời gian quản thúc tại gia, hay phải báo cáo
định kỳ với nhân viên tòa án tùy vào bản án. Phạm nhân có thể thương lượng với
chính quyền về mức độ phạm tội, tội danh, án phạt... để đổi lại sự hợp tác, chỉ
chứng hay cung cấp thông tin cho cơ quan tố tụng. Phạt và đền tiền cũng là một hình phạt phổ biến.
Tuy ở nhiều mức độ khác nhau, nhưng năm mục đích sau đây được chấp nhận rộng
rãi trong hầu hết các bộ luật hình sự về mặt trừng trị tội phạm: báo oán (trả oán),
răn đe, vô hiệu hóa, giúp cải tà quy chánh và đền bù thiệt hại. •
Báo oán (trả oán) - Phạm nhân phải chịu đau khổ dằn vặt trừng phạt do tội
mình làm ra. Đây là một mục đích thường thấy nhất. Vì phạm nhân đã lạm
dụng sai trái, hay gây ra tổn thất không đáng có cho những bên thiệt hại (làm
lệch cán cân công bình xã hội) do đó luật hình sự phải đưa phạm nhân vào
những tình huống khổ sai để làm quân bình cán cân công lý. Lý giải này dựa
trên nguyên tắc: mọi công dân tuân theo luật pháp để mong được sự bảo vệ
không bị giết hại, vì vậy nếu người nào bị kết tội giết người thì sẽ bị tước quyền
được luật pháp che chở. Một người đi giết người thì có thể bị (nhà nước) xử tử.
Giống như một cán cân bị lệch vì nhân mạng phải được đền bù bằng nhân mạng. •
Răn đe - Có hai loại: răn đe cá nhân nhằm vào các phạm nhân với mục đích
đưa ra mức phạt đủ nặng khiến những người này không dám phạm tội từ đây về
sau. Còn răn đe xã hội nhằm vào toàn thể các công dân không trừ một ai với
mục đích trừng phạt những ai đã phạm tội lẫn răn đe những ai có khả năng phạm tội. •
Vô hiệu hóa - được thiết kế với mục đích đơn giản là đưa người phạm tội ra
khỏi xã hội để bảo vệ xã hội khỏi bị ảnh hưởng bởi những tội phạm do phạm
nhân gây ra, thể hiện bằng án tù. Đây là lý do chính quyền cho xây các nhà tù,
các trại tập trung cải tạo giam giữ. Các án tử hình và các lệnh cấm (quản chế)
cũng nhằm mục đích này. •
Giúp cải tà quy chính - nhằm mục đích cải hóa phạm nhân trở lại thành một
thành viên hữu ích trong xã hội. Phạm nhân phải trải qua một chương trình học lOMoAR cPSD| 59114765
tập, cải huấn (có hay không kèm giam giữ) ở nhiều mặt khác nhau để giúp
phạm nhân nhận thức được sự sai trái những việc mình đã làm.
Đền bù thiệt hại - đây là một lý thuyết về trừng phạt hướng về nạn nhân. Mục
tiêu là nhà nước đứng ra quyết định loại hình và mức độ đền bù cho những
đau khổ thiệt hại lên mình nạn nhân. Ví dụ, phạm nhân trộm công quỹ
thường bị phạt phải trả lại tiền đã biển thủ. Đền bù thiệt hại thường được kết
hợp với các mục đích khác của luật hình sự và bắt nguồn từ các khái niệm
tương tự trong luật dân sự.

3.Những khía cạnh và yếu tố cấu thành tội Hình sự
Theo nhiều bộ luật hình sự ở các nước, chính quyền (nhà nước) thực thi luật hình
sự bằng cách đề ra những đe dọa hình sự. Hình thức và mức độ đe dọa khác nhau
tùy theo văn hóa, lịch sử tư pháp và tôn giáo của mỗi nước.
Các bộ luật hình sự trên thế giới thể hiện hàng trăm quan điểm, lý luận khác nhau.
Trong khuôn khổ giới hạn này rất khó thống kê hoàn chỉnh và đầy đủ mà không bị
thiếu sót. Tuy vậy, những yếu tố và khía cạnh sau đây xuất hiện phổ biến trong các
luật hình sự: hành vi cấm, sự cố ý, đối tượng bị thiệt hại, yếu tố đồng lõa, các yếu
tố bào chữa, và mối liên hệ giữa các yếu tố nói trên. Hành vi cấm
Luật hình sự thường cấm những hành vi cụ thể. Do đó, chứng cứ phạm tội phải
hợp lý minh chứng hành động do chính can phạm gây ra. Hành động cụ thể này
gọi là hành vi phạm tội (guilty act - Latin: actus reus)
Hành vi phạm tội (hành vi cấm) có thể cấu thành bởi một hành động hay một hành
động đe dọa, hay trong một số trường hợp hạn hữu, sự bất hành động (tức không
làm một việc do mình chuyên trách) cũng là hành vi cấm. Ví dụ: cha mẹ bỏ đói trẻ
sơ sinh, cũng là một hành vi cấm.
Nếu hành vi phạm tội là một sự bất hành động như nêu trên, thì cần phải đi kèm
một trách nhiệm (duty). Trách nhiệm này có thể là do hợp đồng, do tự nguyện dấn
thân, quan hệ huyết mạch và đôi khi là do chức vụ được giao. Trách nhiệm còn có
thể hình thành nếu anh tự tạo ra một điều kiện nguy hiểm. Đôi khi, ở Mỹ hay Âu
châu còn ràng buộc người qua đường phải giúp - trong một số trường hợp rất cụ
thể
- những người trong những tình huống bất khả kháng (ví dụ: giúp kêu xe cứu
thương hay giúp trẻ em đang chết chìm ở sông cạn).
Một hành vi phạm tội có thể được bào chữa (hay được hủy bỏ) nếu cơ quan công
tố không thể chứng minh liên hệ nhân quả của hành vi phạm tội của phạm nhân
này đối với thiệt hại gây ra (causation). Nói cách khác, luật sư biện hộ có thể chỉ ra lOMoAR cPSD| 59114765
các yếu tố chứng minh hành vi của người này không phải là nguyên nhân duy nhất
và trực tiếp nhất gây ra thiệt hại. Xem thêm phần yếu tố bào chữa ở dưới. Sự cố ý
Vì hình phạt nghiêm khắc của luật hình sự, các thẩm phán công minh đều đòi hỏi
bên công tố phải chứng minh một ý thức cố ý phạm tội (guilty mind, Latin: mens
rea). Ý thức phạm tội này được giải thích là sự cố ý trong khi làm một hành vi sai
trái. Chú ý rằng trong luật hình sự, ý thức phạm tội hoàn toàn được tách ra khỏi ý
đồ, động lực (motive) của nghi can. Nếu A cướp tài sản của B chia cho dân nghèo
(cướp phú tế bần), thì hành động lấy đồ của B trong lúc A không phải là chủ sở
hữu
chứng tỏ A đã có ý thức cố ý muốn cướp tài sản của B. Ý đồ động lực giúp
người nghèo tuy là ý tốt, nhưng không thể thay đổi sự cố ý phạm tội của A trong
việc đánh cướp tài sản.
Sự cố ý phạm tội dễ dàng bị bên công tố chứng minh hơn nếu nghi can biết hành vi
của mình sẽ gây nguy hiểm nhưng vẫn cứ tiến hành. Ví dụ: nghi can A xả chất thải
độc hại xuống dòng sông và biết rằng các chất này có thể gây nhiễm độc nguồn
nước cho dân cư 2 bên bờ sông, nhưng A vẫn cứ làm. Bị truy tố, A có thể bào chữa
là mình không hề muốn đầu độc dòng sông (tức là không cố ý phạm tội), nhưng
khi bên công tố dễ dàng chứng minh rằng, với cương vị của mình, A thừa biết các
chất xả thải kia gây độc hại, là đã đủ cơ sở chứng minh A có yếu tố "cố ý phạm tội".
Khi xem xét yếu tố cố ý phạm tội, tòa án Phương Tây phải xét thêm khía cạnh nghi
can khi hành động có thực sự "muốn" gây ra hậu quả cụ thể hay không. Ví dụ:
trong tội giết người, sự "muốn" hay "không muốn" nạn nhân tử vong có thể chuyển
từ tội cố sát (tử hình) sang tội ngộ sát (ở tù). Đây là một lãnh vực hết sức khó khăn
để chứng minh lẫn bào chữa.
Mặt khác yếu tố cố ý phạm tội có thể bị "chuyển sang" nạn nhân thứ ba, dù rằng
nghi can không hề cố ý gây hại cho người thứ ba (transfer malice). Ví dụ: A dùng
súng bắn B đang đứng trong đám đông, nhưng không trúng B. Viên đạn lạc sang
phía C và giết chết C. A có thể nói rằng mình không hề biết C và không có ý đồ
giết C. Nhưng vì A chĩa súng vào đám đông có C nên ý đồ giết người của A đã
được "chuyển sang" C, vì bất cứ ai trong đám đông ấy cũng có khả năng bị trúng
đạn. A có thể bị truy tố tội cố ý giết C.
Đối tượng của xâm phạm
Công dân hy sinh một phần quyền lợi của mình để tuân thủ luật pháp nhà nước
nhằm mục đích được pháp luật bảo hộ không bị các hành vi phạm tội xâm phạm: lOMoAR cPSD| 59114765 •
Nhân Mạng - sát nhân (homocide) là một tội danh cổ xưa khi nghi can giết
người phi pháp. Đây là một hành vi được các bộ luật hình sự rất chú trọng và
thường được chia ra làm nhiều mức độ khác nhau với mức án khác nhau dựa
trên việc có hay không có yếu tố "cố ý phạm tội". Nếu thì tội và hình phạt trở
đặc biệt nghiêm trọng (murder) và nếu không có thì có thể chỉ phạm vào tội ngộ
sát. Trong trường hợp thiếu hẳn yếu tố "cố ý phạm tội", phía công tố có thể
chuyển qua truy tố tội ngộ sát (manslaughter) hay là bất cẩn gây chết người
(involuntary manslaugher) là những tội với hình phạt nhẹ hơn. •
Thân Thể - hầu hết các luật hình sự bảo vệ sự bất khả xâm phạm của cơ thể
công dân nói chung. Hành vi "đánh người" (battery) là tội do bởi sự đụng chạm
phi pháp và không được phép. Tội này không bao gồm các hành động đánh
nhau khi thi đấu trên võ đài khi 2 người im lặng đồng ý khi đánh nhau trước
đám đông. Mặc dù không đánh, nhưng nghi phạm vẫn có thể bị truy tố tội "tấn
công"
người khác (assault) nếu hành động của nghi phạm khiến nạn nhân có
cảm giác "sợ bị đánh ngay lập tức" (fear of imminent battery). Quan hệ tình dục
không đồng thuận hay quan hệ tình dục với trẻ em vị thành niên thường bị truy
tố tội hiếp dâm (rape) - trong đó luật rất cụ thể chi li về các hành vi thể hiện sự
hiếp dâm. Hiếp dâm là một dạng của tội đánh người. •
Tài Sản & Nơi Cư Trú - ở các nước Phương Tây, tài sản và nơi cư trú được bảo
vệ bởi luật hình sự. Hành vi xuất hiện hay bước vào khu vực, đất, tư gia hay
văn phòng không có phép của chủ nhân có thể bị truy tố tội xâm nhập trái phép
(trespassing). Hành vi trộm cắp (theft), biển thủ công quỹ (embezzlement),
lường gạt (conversion) đều liên quan đến sự cố ý chuyển nhượng, sử dụng trái
phép tài sản thuộc chủ quyền của người khác. Nếu các hành vi trên có kèm sử
dụng vũ lực thì lập tức chuyển thành tội danh ăn cướp (robbery). Với công
chức Tây Phương còn có thêm hành vi gian dối, lợi dụng chức quyền lừa gạt
(fraud) cũng bị truy tố hình sự. •
Đạo Đức - luật hình sự kế thừa vai trò lịch sử của các tổ chức tôn giáo trong
việc điều chỉnh các hành vi con người theo giáo luật đã có từ ngàn xưa, khi nhà
nước chưa tồn tại. Những hành vi tội phạm bị đa số các tôn giáo cấm như ngoại
tình
(adultery), đa phu hay đa thê (polygamy), loạn luân (incest), dụ dỗ tình
dục
(seduction), quan hệ tình dục trái tự nhiên (sodomy), bán
dâm (prostitution), các hành vi tục tĩu (obscenity and indecency)... ngày nay
được hầu hết các bộ luật hình sự ghi nhận. •
Trật Tự Công Cộng - luật hình sự đóng vai trò đảm bảo quyền công dân được
sống trong một xã hội có trật tự và ổn định chung. Luật sẽ phạt những hành vi
cố ý xâm phạm một cách không chính đáng và không hợp lệ các quyền lợi này.
Những tội như đánh nhau ở nơi công cộng (public fighting), lOMoAR cPSD| 59114765
dọa (affray), bạo loạn (riot), phá hoại hội họp công cộng (disturbance of public
assembly), bê bối nơi ở (disorderly house), xâm nhập và bắt người trái phép
(forcible entry and detainer), lăng mạ xúc phạm nhân phẩm (libel/defamation),
giấu vũ khí trái phép (illegal concealed weapon)... nhằm bảo vệ trị an cuộc sống. •
Quốc gia và Cơ quan Nhà nước - những hoạt động chính đáng của các cơ quan
nhà nước nhằm phục vụ công dân và xã hội cần các cơ chế đảm bảo ổn định và
trong sạch. Ví dụ các hệ thống tòa án phải có cơ chế đảm bảo tính công minh và
độc lập, các cơ quan nhà nước dính líu đến việc quản lý phân phối tài sản có giá
trị cần phải được minh bạch và tránh nạn tham nhũng từ bên ngoài lẫn từ bên
trong. Xuất phát từ quá trình đấu tranh xây dựng bảo vệ tổ quốc, các bộ luật
hình sự ngoài việc duy trì các hình phạt cổ xưa còn thiết lập thêm một số tội
phạm hiện đại nhằm đảm bảo các hoạt động của các cơ quan nhà nước. Điển
hình như các tội phạm phản quốc (treason), che giấu phản tặc (misprision of
treason), lật đổ chính phủ (overthrow of government), gián điệp (espionage),
thề dối (perjury), hối lộ (bribery), lạm dụng quyền hạn chức vụ (official
misconduct), ảnh hưởng công chánh tư pháp (embracery), làm tiền giả
(counterfeit), cưỡng lệnh (tòa) (contempt), phá hoại quá trình tư pháp
(obstruction of justice), che giấu tội phạm (misprision of felony), cướp biển
(piracy),... Tuy nhiên, cần đảm bảo quyền lợi của công dân không bị các quyền
lợi nhà nước xâm phạm lẫn nhau. Đồng lõa
Một số luật hình sự trừng phạt sự liên kết phạm tội, dính líu đến hành vi phạm tội,
hoặc ngay cả khi hành vi đó dính líu đến các tội phạm nhưng không thành công.
Một số tội danh thông thường là: đồng phạm, giúp đỡ và che giấu tội phạm, xúi
giục người khác phạm tội và cố ý phạm tội nhưng không thành công.