








Preview text:
Bản án giải quyết hợp đồng dân sự vô hiệu     
Diễn án Dân sự (Trường Đại học Luật - Đại học quốc gia Hà Nội)     
Bản án giải quyết hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn.    Số  Tên bản án  Nội dung bản án  Nhận định của tòa án  thứ  tự  01 
Bán số 147/2019/DS-ST 
Ngày 30/3/2019, tại nhà ông N, bà TN Đối chiếu kết quả tranh tụng tại phiên   
ngày 27/11/2019 của Tòa 
thì bà T và ông N, bà TN đã thỏa tòa với các tài liệu, chứng cứ thu thập 
án nhân dân Thành phố  được,  
 Hội đồng xét xử đủ cơ sở để xác 
thuận cam kết chuyển nhượng, mua 
Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam 
định, khi ký kết giao dịch đặt cọc, các   
bán nhà và đất của ông N, bà TN. Khi 
Về việc “Tranh chấp hợp 
bên đã nhầm lẫn về diện tích đất chuyển    đồ giao ng
 dịch, ông Th và bà L chứng kiến; 
 đặt cọc” 
nhượng trong giấy tờ và diện tích đất   
ông Th viết hộ “Giấy tạm ứng tiền” cho chuyển nhượng trên thực tế.   
việc thỏa thuận mua bán 280m2 đất và   
tài sản trên đất trị giá 2,5 tỷ đồng. Tuy Sự nhầm lẫn về diện tích quyền sử dụng    nhiên
đất từ việc mua bán, chuyển nhượng 
 do có sự nhầm lẫn trong diện trong giấy tờ là 280m2 xuống diện tích   
tích ghi trong bìa đỏ cũ thì diện tích thực tế được phép chuyển nhượng, mua   
thửa đất chỉ còn 196,4m2 nên bà T bán 196m2 dẫn đến mục đích ký kết hợp   
không đồng ý. Vì vậy, bà T yêu cầu đồng đặt cọc (để ký kết hợp đồng   
Tòa án giải quyết buộc vợ chồng ông chuyển nhượng quyền sử dụng đất và   
N thực hiện chuyển nhượng, mua bán mua bán nhà) giữa hai bên không thực   
tài sản theo đúng giấy thỏa thuận với hiện được.   
diện tích đất 280m2, trường hợp thiếu Tại thời điểm xét xử các bên không khắc   
diện tích thì giá chuyển nhượng giảm phục được sự nhầm lẫn trên và không   
xuống thành 2.3 tỷ đồng hoặc trả tiền       
cọc và bị phạt cọc 200 triệu đồng. 
thỏa thuận được việc tiếp tục ký kết, lập 
hồ sơ sang tên việc mua bán nhà và 
chuyển nhượng quyền sử dụng đất của 
nhà số AA đường TD, thành phố TK. 
Theo đó, căn cứ Điều 126 Bộ luật dân 
sự, Hội đồng xét xử xác định giao dịch 
đặt cọc thể hiện bằng “Giấy tạm ứng 
tiền” của các bên lập ngày 30 tháng 3             
năm 2019 vô hiệu do bị nhầm lẫn.    02 
Bản án số 36/2019/DS-PT 
Vào năm 2017, vợ chồng bà Th1 có Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên: 
ngày 19/3/2019 của Tòa án 
thỏa thuận bán cho vợ chồng ông T,  
nhân dân tỉnh An Giang về 
bà Th một phần đất do vợ chồng bà Không chấp nhận yêu cầu của ông T, bà 
việc “Tranh chấp hợp 
Th1 đang sử dụng, nhưng quyền sử Th yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển 
đồng quyền sử dụng đất” 
dụng đất do ông M là anh chồng bà nhượng.  Th1 đứng tên.     
Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng 
Các bên thỏa thuận mức giá là quyền sử dụng đất ngày 16/10/2017 giữa 
115.000.000đ công tầm cắt là ông T, bà Th với ông M, bà N là vô hiệu. 
1.296m2, có làm giấy tay với nhau. Hai Buộc ông Văng Công M, bà Phan Thị N 
bên có thỏa thuận chừa đường nước có nghĩa vụ liên đới trả cho ông Đỗ Tấn T 
ngang khoảng 1m dài khoảng 60m cho (Ph), Bà Trần Thị Thanh Th số tiền 
hộ canh tác đất phía sau sử dụng. Sau 100.000.000đ. Ông Đỗ Tấn T (Ph), Bà 
khi giao tiền và hợp đồng chuyển Trần Thị Thanh Th có nghĩa vụ trả cho 
nhượng đã công chứng chứng thực. 
ông Văng Công M, bà Phan Thị N giấy 
chứng nhận quyền sử dụng đất số 01246 
Sau đó, ông T bà Th có nộp hồ sơ tại QSDD/oB được Ủy ban nhân dân huyện 
Văn phòng một cửa để làm thủ tục CM cấp ngày 03/7/1993 thuộc thửa số 
sang tên, khi cán bộ đo đạc đến đo 3180, tờ bản đồ số 01, do Ủy ban nhân 
hiện trạng thì không thống nhất trụ dân huyện CM cấp cho ông Văng Công 
ranh, nên không tiến hành đo đạc và M. 
phần đường nước do diện tích nhỏ 
không thể tách thửa được. 
Ngày 28/11/2018, ông T và bà Th kháng  cáo toàn bộ bản án.     
Phía ông M cho rằng đất này trước  
đây ông bán cho ông B và bà Th1 Nhận định của phúc thẩm tòa án: 
bằng miệng không làm giấy tờ. Sau đó 
mới thỏa thuận bán lại cho ông bà Th, Xét hợp đồng chuyển nhượng quyền sử 
khi đo đạc thì phía ông M yêu cầu dụng đất lập ngày 16/10/2017, có công 
chừa lại đường nước cho hộ phía sau chứng chứng thực theo quy định; Tuy           
sử dụng các bên không thống nhất nhiên tại các lời khai của các đương sự 
được nên không thực hiện được hợp đều thống nhất thỏa thuận giá chuyển 
đồng. Nay, ông T, bà Th yêu cầu Tòa nhượng  115.000.000đ/1.296m2 (Công 
án công nhận hợp đồng chuyển tầm cắt), nhưng trong hợp đồng chỉ để 
nhượng quyền sử dụng đất ngày chuyển nhượng giá 155.796.000đ cho cả 
16/10/2017 mà các bên đã ký kết; diện tích 4.050m2 là không đúng thỏa 
đồng ý chừa đường nước theo hiện thuận ban đầu, nhằm trốn tránh nghĩa vụ  trạng đã đo vẽ. 
nộp thuế cho Nhà nước nhưng nguyên 
đơn đã thừa nhận; Theo định quy định tại 
khoản 2 Điều 124 của Bộ luật Dân sự 
2015 đây được xem là hợp đồng giả tạo.   
Mặt khác, theo thỏa thuận ban đầu có 
chừa đường dẫn nước vào đất ông C, 
nhưng khi ký kết hợp đồng lại không ghi 
cụ thể diện tích bao nhiêu là có sự nhầm 
lẫn theo quy định tại khoản 1 Điều 126 
của Bộ luật Dân sự làm cho các bên 
không đạt được mục đích như thỏa thuận 
ban đầu; Quá trình giải quyết các đương 
sự không yêu cầu xác định lỗi khi hợp 
đồng vô hiệu để bồi thường và trong 
trường hợp này giá trị thỏa thuận chuyển 
nhượng ban đầu cao hơn giá trị do Hội 
đồng định giá xác định, nên không gây 
thiệt hại cho bên mua, lẫn bên bán nên 
không xem xét yếu tố lỗi để hoàn chênh  lệch cho nhau.  03 
Bản án số 95/2019/DS-PT 
Ngày 01/3/2012, Ủy ban nhân dân Tòa án sơ thẩm tuyên: Chấp nhận yêu 
ngày 18/7/2019 của Tòa án 
thành phố Đ cấp Giấy chứng nhận cầu khởi kiện của nguyên đơn là bà 
nhân dân cấp cao tại Đà 
quyền sử dụng đất số BI 068656 công Nguyễn Thị A và bà Nguyễn Thị T. Tuyên          Nẵng 
nhận bà Nguyễn Thị A và bà Nguyễn bố hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ vô 
Về việc “Tranh chấp hợp 
Thị T có quyền sử dụng 363m2 đất hiệu, hủy GCNQSDD đã cấp cho ông H, 
đồng chuyển nhượng 
trồng cây hàng năm, thuộc thửa số bà T2. 
quyền sử dựng đất và yêu 
405, tờ bản đồ số 18, khu phố Đ,  
cầu hủy Giấy chứng nhận 
phường Đ, thành phố Đ. 
Chấp nhận một phần yêu cầu của vợ 
quyền sử dụng đất” 
chồng ông Nguyễn Thanh H, bà Nguyễn 
Ngày 23/3/2012, Ủy ban nhân dân Thị Tân, buộc bà Nguyễn Thị A, bà 
thành phố Đ cấp Giấy chứng nhận Nguyễn Thị T phải trả cho ông Nguyễn 
quyền sử dụng đất số BI 068832 công Thanh H, bà Nguyễn Thị T2 tổng số tiền 
nhận bà A và bà T có quyền sử dụng 100.000.000 đồng. Ngày 26/11/2018, vợ 
630m2 đất ở và đất trồng cây, thuộc chồng ông H, bà T2 kháng cáo toàn bộ 
thửa số 406, tờ bản đồ 18, khu phố Đ, bản án sơ thẩm. 
phường Đ, thành phố Đ.   
Toán nhân dân cấp phúc thẩm nhận 
Ngày 20/4/2016, ông H mời bà A, bà T định: Tòa án cấp sơ thẩm xác định 02 
đến nhà ông H làm thủ tục chuyển giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng 
nhượng đất; lợi dụng bà A, bà T tuổi đất vô hiệu do nhầm lẫn theo quy định tại 
cao, không biết chữ, không am hiểu Điều 126 Bộ luật dân sự 2015 là có cơ 
pháp luật, bà T còn mắt kém, nặng tai sở, đúng pháp luật. 
nên H lừa dối ghi nội dung bà A, bà T  
chuyển nhượng cho ông H toàn bộ Do 02 giao dịch chuyển nhượng quyền sử 
thửa đất 406 và thửa 405. 
dụng đất nêu trên vô hiệu nên Tòa án cấp 
sơ thẩm căn cứ Điều 34 Bộ luật tố tụng 
Đến tháng 4/2017 khi đến UBND dân sự 2015 (về thẩm quyền của Tòa án 
phường Đ xin hỗ trợ nhà ở cho hộ đối với quyết định cá biệt của cơ quan, tổ 
nghèo thì bà A, bà T mới phát hiện sự chức) hủy Giấy chứng nhận quyền sử  việc. 
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản 
gắn liền với đất số CD 976408 mà UBND 
Ngày 21/3/2018, bà A, bà T khởi kiện thành phố Đ cấp cho ông H, bà T2 ngày 
yêu cầu Tòa án tuyên bố 02 Hợp đồng 16/5/2016 đối với quyền sử dụng 
chuyển nhượng quyền sử dụng đất 814m2 đất, thửa số 406 (406+408), tờ bản 
xác lập tại Văn phòng công chứng T đồ số 18, khu phố Đ, phường Đ, thành 
ngày 20/4/2016 giữa 02 Bà với vợ phố Đ, tỉnh Quảng Trị là có cơ sở, đúng           
chồng ông H, bà T2 (chuyển nhượng pháp luật. 
184m2 đất là một phần của thửa số  
405 diện tích 363m2; chuyển nhượng 
Về hậu quả hợp đồng vô hiệu thì Hội 
toàn bộ 630m2 thuộc thửa 406) vô đồng xét xử cấp phúc thẩm xét thấy ngoài 
hiệu; yêu cầu hủy Giấy chứng nhận việc đủ cơ sở xác định 02 Hợp đồng 
quyền sử dụng đất số CD 976408 mà chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu 
UBND thành phố Đ cấp cho ông H, bà trên vô hiệu do nhầm lẫn theo quy định tại 
T2 ngày 16/5/2016 đối với diện tích Điều 126 Bộ luật dân sự 2015 thì còn có 
đất 814m2 tại thửa 406 (406+408), tờ dấu hiệu để xác định 02 Hợp đồng 
bản đồ số 18, khu phố Đ, phường Đ, chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu  thành phố Đ. 
trên vô hiệu do bị lừa dối theo quy định tại 
Điều 127 Bộ luật dân sự 2015 vì cụ A và 
cụ T không biết chữ, nhưng ông H vẫn 
chở 2 Cụ đến Văn phòng công chứng và 
mặc dù không có người làm chứng, 
nhưng ông H vẫn bảo 2 Cụ điểm chỉ vào 
Hợp đồng; như vậy, cần xác định lỗi trong 
việc xác lập 02 Hợp đồng chuyển nhượng 
quyền sử dụng đất bị vô hiệu nêu trên 
hoàn toàn thuộc về bên nhận chuyển 
nhượng (vợ chồng ông H). Vì 02 Hợp 
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất 
nêu trên vô hiệu nên Tòa án cấp sơ thẩm 
buộc các bên hoàn trả cho nhau những gì 
đã nhận là đúng pháp luật. Do đó, Tòa án 
phúc thẩm tuyên giữ nguyên quyết định 
tại Bản án dân sự sơ thẩm.     
Bản án giải quyết hợp đồng vô hiệu do không nhận thức và làm chủ hành vi.    Số  Tên bản án  Nội dung bản án 
Nhận định của toàn án  thứ  tự  01 
Bản án số 
Vào năm 2009, Chi nhánh NĐ_Ngân hàng Nông nghiệp Tòa án sơ thẩm xét xử:  20/2014/KDTM- 
và Phát triển nông thôn Tùng Thu huyện TN (sau đây gọi Hợp  đồng  thế  chấp  số 
PT của tòa án 
tắt là NĐ_Ngân hàng) có ký kết Hợp đồng tín dụng số 3843/HĐTC ngày 27/5/2009 (đối 
nhân dân tỉnh 
3843/HĐTD ngày 27/5/2009 với bà BĐ_Mai Thị Thúy, sinh với diện tích đất 204m2 đất thuộc 
ĐN về vụ việc: “ năm 1945, trú tại: ấp Bắc Sơn, xã QT, huyện TN, tỉnh ĐN. thửa 443, tờ bản đồ số 02 và tài 
tranh chấp hợp 
Theo đó ngày 09/4/2010, bà BĐ_Mai Thị Thúy đã vay của sản gắn liền với đất tại xã QT, 
đồng tín dụng 
NĐ_Ngân hàng số tiền 1.000.000.000 đồng, lãi suất vay là huyện TN) và Hợp đồng thế chấp 
và tranh chấp 
12%/năm, thời hạn vay đến ngày 21/03/2011. Mục đích vay số 3843 ngày 27/5/2009 (đối với 
hợp đồng thế 
để nuôi gà. Tài sản đảm bảo cho khoản nợ vay trên gồm: diện tích đất 27.300m2 thuộc các 
chấp, bảo lãnh 
Quyền sử dụng diện tích 204m2 đất thuộc thửa 443, tờ bản thửa số 162, 184, 227, 228, 237, 
quyền sử dụng 
đồ số 02, xã QT,huyện TN, tỉnh ĐN (giấy chứng nhận 238, 239, 240, 241, tờ bản đồ số 
đất, tài sản gắn 
quyền sử dụng đất đứng tên bà BĐ_Mai Thị Thúy) và tài 10, xã GT 3, huyện TN, tỉnh ĐN) 
liền với đất” 
sản gắn liền với đất theo Hợp đồng thế chấp quyền sử ký kết giữa bà BĐ_Mai Thị Thúy, 
dụng đất số 3B43/HĐTC ngày 27/5/2009 được ký kết giữa ông Trần Văn Hải và NĐ_Ngân 
NĐ_Ngân hàng và ông Trần Văn Hải, bà BĐ_Mai Thị Thúy. hàng Nông nghiệp và Phát triển 
Quyền sử dụng diện tích 27.300m2 đất thuộc các thửa số nông hôn Tùng Thu - Chi nhánh 
162, 184, 227, 228, 237, 238, 239, 240, 241, tờ bản đồ số huyện TN có hiệu lực pháp luật, là 
10, xã GT 3, huyện TN, tỉnh ĐN (giấy chứng nhận quyền tài sản để đảm bảo cho khoản nợ 
sử dụng đất đứng tên hộ ông Trần Văn Hải) và tài sản trên vay và tiền lãi của bà BĐ_Mai Thị 
đất theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số Thúy với NĐ_Ngân hàng Nông 
3843/HĐTC ngày 27/5/2009 được ký kết giữa NĐ_Ngân nghiệp và Phát triển nông thôn 
hàng và ông Trần Văn Hải, bà BĐ_Mai Thị Thúy. 
Tùng Thu - Chi nhánh huyện TN 
-22/3/2011, do không trả nợ đúng hạn nên ngân hàng đã tại Hợp đồng tín dụng số 
chuyển khoản nợ quá hạn số tiền là 1.000.000.000 đồng và 3843/HĐTD ngày 27 tháng 05 
phát sinh số tiền lãi quá hạn là 652 088 889 đồng. Do bà năm 2009.           
BĐ Thúy đã thanh toán cho ngân hàng số tiền lãi là 82 088 
- Về hậu quả pháp lý: Buộc bà 
889 đồng nên số tiền lãi còn lại phải thanh toán là 570 000 BĐ_Mai Thị Thúy có nghĩa vụ 
000 đồng. Tính đến ngày 26/03/2013, bà BĐ_Thúy còn nợ hoàn trả cho NĐ_Ngân hàng Nông 
ngân hàng tổng cộng là 1 570 000 000 đồng. Ngoài ra ngân nghiệp và Phát triển nông thôn 
hàng còn yêu cầu Tòa án công nhận 02 bản Hợp đồng thế Tùng Thu - Chi nhánh huyện TN 
chấp tài sản số 3843/HĐTC và cùng ngày 27/05/2009 được số  tiền  nợ  vốn  gốc  là 
kí kết giữa NĐ_ngân hàng và ông Trần Văn Hải và bà BĐ_ 1.000.000.000 đồng (một tỷ đồng)  Thúy là có hiệu lực. 
và có nghĩa vụ thanh toán tiền lãi 
Tại các bản tự khai, các ông bà BĐ_Thúy, các bên có liên tính đến ngày 26/3/2013 là 
quan không đồng ý tiếp tục dùng tài sản là các quyền sử 570.000.000 đồng (năm trăm bảy 
dùng đất và tài sản gắn liền với đất để đảm bảo cho khoản mươi triệu đồng). 
vay 1 000 000 000 đồng tại NĐ_ngân hàng với lý do tại thời 
Kể từ ngày 27/3/2013 cho đến 
điểm kí kết hợp đồng thế chấp (bảo lãnh) ông Trần Văn Hải khi bà BĐ_Thúy hoàn trả xong nợ, 
bị tai biến mạch máu não, không có khả năng nhận thức và thì bà BĐ_Thúy còn phải trả lãi 
làm chủ hành vi để giao kết hợp đồng. Do đó, bà BĐ_Thúy trên phần vốn gốc theo mức lãi 
yêu cầu tòa án tuyên bố 02 hợp đồng bảo lãnh và thế chấp suất đã thỏa thuận trong Hợp 
là vô hiệu do một bên chủ thể không đủ năng lực hành vi đồng tín dụng số 3843/HĐTD  dân sự.  ngày 27/5/2009 cho NĐ_Ngân 
hàng Nông nghiệp và phát triển 
nông thôn Tùng Thu - Chi nhánh  huyện TN. 
Tòa án phúc thẩm nhận định: 
Hợp đồng thế chấp quyền sử 
dụng đất và tài sản gắn liền với 
đất (diện tích đất 204m2 + nhà) bị 
vô hiệu 1⁄2 (phần của ông Hải), 
còn hợp đồng thế chấp quyền sử 
dụng đất (diện tích đất 27.300m2) 
bị vô hiệu đối với phần đất ông             
Hải và bà BĐ_Thúy đã cho ông  LQ_Tuấn  và  bà  LQ_Tiền 
(10.655m2) và phần của những 
người khác thuộc hộ ông Trần 
Văn Hải (trừ bà BĐ_Thúy). Do đó, 
Sau khi có sự kháng nghị của 
Viện kiểm sát cấp huyện đề nghị 
sửa bản án sơ thẩm, hội đồng xét 
xử phúc thẩm quyết định hủy một 
phần bản án sơ thẩm về phần thế  chấp tài sản.        
