Bản án thị xã Long Mỹ tỉnh Hậu Giang - Law | Học viện Tòa án
Phần đất của bà tại thửa đất số 532 giáp ranh với ông Đỗ Văn Phẩmvề nguồn gốc đất, phần đất giữa bà và ông Đỗ Văn Phẩm trước đây cha bàcó đào một con mương để làm ranh, đằng sau ra trước, phía sau là ruộng. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
TÒA ÁN NHÂN
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT DÂN THỊ XÃ NAM LONG MỸ TỈNH
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc HẬU GIANG Bản án số: 97/2023/DS-ST Ngày: 29/09/2023
V/v: Tranh chấp quyền sử dụng đất. NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ LONG MỸ, TỈNH HẬU GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Như Long
Các Hội thẩm nhân dân:
- – Bà Trần Kim Ngân Bình Bà Cà Thị Kiết –
- Những người tiến hành tố tụng khác:
Thư ký phiên tòa: Bà Nại Thị Minh Huệ là Thư ký Tòa án nhân dân
Thị xã Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang.
Đại diện Viện kiểm nhân dân sát thị xã Long Mỹ tham gia phiên tòa
là: Bà Kha Thị Yến Chi - Kiểm sát viên.
Ngày 29 tháng 09 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Long
Mỹ, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số:
41/2016/TLST- DS ngày 18 tháng 01 năm 2016 về việc “Tranh chấp
quyền sử dụng đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
70/2016/QĐXXST-DS ngày 25 tháng 4 năm 2016, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Tô Thị Sâm sinh năm 1942
Cư trú tại: Khu vực Long Trị 2, phường Trà Lồng, Thị xã Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang.
- Người đại diện theo uỷ quyền của bà Tô Thị Sâm: Ông Trần Văn Sĩ,
sinh năm 1982; cư trú tại: Số 10 KDC, tổ 6, khu vực 4, đường Hoàng Quốc
Việt, Phường An Bình, Quận Ninh Kiều, Thành phố Cần Thơ (văn bản ủy quyền ngày 25/04/2016 )
- Bị đơn: Ông Đỗ Văn Phẩm, sinh năm 1930; cư trú tại: Khu vực
Long Trị 2, phường Trà Lồng, Thị xã Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
UBND phường Trà Lồng, đại diện theo pháp luật ông Mai Tiến Dũng -
chức vụ: Chủ tịch UBND phường Trà Lồng. NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại
phiên tòa nguyên đơn bà Tô Thị Sâm đồng thời là người đại diện theo ủy
quyền của nguyên đơn Trần Văn Sĩ trình bày:
Phần đất của bà tại thửa đất số 532 giáp ranh với ông Đỗ Văn Phẩm
về nguồn gốc đất, phần đất giữa bà và ông Đỗ Văn Phẩm trước đây cha bà
có đào một con mương để làm ranh, đằng sau ra trước, phía sau là ruộng.
Vào năm 2009 bà và ông Phẩm có yêu cầu chính quyền ấp và địa chính Thị
trấn Trà Lồng xuống chỉ ranh phóng ra lộ nhưng sau ông Phẩm không đồng
ý và đã khởi kiện ra tòa án huyện Long Mỹ, được tòa án huyện Long Mỹ
giải thích giữ nguyên hiện trạng thực tế nên bà đồng ý rút đơn kiện lại và
ông Phẩm hứa hẹn kể từ đây không còn tranh chấp nữa. Sau đó cán bộ địa
chính và Ủy ban thị trấn Trà Lồng xuống đóng cọc trụ đá từ trước đến sau
hết chiều dài đất 03 cọc trụ đá bà sử dụng con mương từ đó đến nay.
Ngày 6/10 / 2014 ngang nhiên ông Phẩm nhổ cọc trụ đá dời qua
cắm phần đất của bà, bà không đồng ý ông Phẩm lại không chịu đóng cọc
đá lại chỗ cũ (cặp lộ nông thôn) ông Phẩm lại nhỏ đóng cọc trụ đá dưới
mé sông qua phần đất bà 1,5 m, cọc trụ đá giáp lộ 16,8m, chiều dài 24,8m
Tại buổi hòa giải ông Phẩm còn yêu cầu bà giao nửa con mương
của cha bà đào ở phần đất của bà, nếu không đồng ý ông Phẩm không cho
bà sử dụng bến mé sông và thường xuyên chửi bà. Từ những vấn đề nêu
trên nay bà làm đơn khởi kiện, yêu cầu tòa án nhân dân buộc ông Phẩm
phải trả lại cho bà chiều ngang 16,8m giáp sông Trà Lồng, chiều ngang
16,8m giáp lộ nông thôn, chiều dài 24,8m cọc trụ đá đóng cọc trước đây
và ông Phẩm không được ngăn cản bà sử dụng phần đất và con mương
dưới mé sông và ông không được đốn và phá hoại cây của bà và công
nhận con mương ranh, giáp ranh phần đất giáp ranh của ông Phẩm là
quyền sử dụng của tôi chiều ngang đầu mép giáp lộ 16,8m chiều ngang
sau đầu đất 17,8m chiều dài 77,5m đất tọa lạc tại ấp Long Trị II, thị trấn
Trà Lồng,huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang.
Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bị đơn ông Đỗ Văn Phẩm trình bày:
Trước đây là của mẹ ông là bà Châu Thị Ênh trao lại cho ông trực
tiếp canh tác từ năm 1950 đến năm 1982 mẹ ông chết ông tiếp tục công
tác đến năm 2010. Bà Tô Thị Sâm nổi lên tranh chấp cái mương ranh với
ông. Cái mương ranh này trước đây do cha của ông và cha bà Sâm cùng
đào, hai bên chia ra mỗi người sử dụng phân nửa cái mương. Cũng vào
năm 2010 thì bà Sâm phát đơn thưa ông giành lấy hết cái mương ranh đó,
có đến chình quyền ấp, xã hòa giải nhưng ông không chịu, có chuyển đến
TAND huyện Long Mỹ. Khi ra đến TAND huyện Long Mỹ hòa giải thì
bà Sâm xin rút đơn. Đến năm 2014 bà Sâm tiếp tục kiện đòi lấy hết cái
mương ranh đó. Ông không đồng ý, vì từ đời cha ông và cha của bà Sâm
chia mỗi người sử dụng phân nửa cái mương cho đến nay. Vậy ông yêu
cầu TAND huyện Long Mỹ đo đạc đất của ông đúng theo giấy chứng
nhận quyền sử dụng của ông.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đại diện ủy quyền UBND
Thị xã Long Mỹ - Trương Thanh Phong: Qua quá trình trích lục hồ sơ
đăng ký quyền sử dụng đất của bà Tô Thị Sâm và ông Đỗ Văn Phẩm là
hoàn toàn đúng trình tự thủ tục, khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất hai bên không phát sinh tranh chấp. Do đó, đề nghị Tòa án giải quyết
đúng theo quy định pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thị xã Long Mỹ tỉnh Hậu
Giang trình bày quan điểm:
Về thủ tục tố tụng: quá trình thụ lý, giải quyết vụ án cũng nhuw tại phiên
tòa, Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, các đương sự đã thực hiện đúng
trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Đối với đương sự là đại diện theo
ủy quyền UBND thị xã Long Mỹ - Trương Thanh Phong vắng mặt tại phiên tòa
có đơn xét xử vắng mặt; do đó đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điều 227,228
Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt đương sự theo quy định.
Về nội dung vụ án: theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp và
các tài liệu, chứng cứ chứng minh về nguồn gốc, quá trình sử dụng đất của các
bên; đối chiếu với đo đạc thực tế thì nguồn gốc phần đất tranh chấp là của ông
Tô Văn Chín cho bà Sâm vào năm 1969. Bà Sâm sử dụng đến ngày 22/8/1995
được Ủy ban nhân dân thị xã Long Mỹ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, phần đất bà được cấp tại thửa 532. Nguyên đơn Tô Thị Sâm đã nộp đơn
khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bị đơn Đỗ Văn Phẩm trả lại phần đất
đã lấn chiếm chiều ngang 1,5m, chiều dài 24m theo giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất của bà Sâm.Về phần chứng cứ, tài liệu tình tiết của vụ án đã được thể
hiện rõ ràng, đầy đủ, khách quan, toàn diện, công khai đúng với quy định của
pháp luật, yêu cầu khởi kiện của đương sự là hợp pháp. Từ những căn cứ nêu
trên, Viện kiểm sát đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Về thủ tục tố tụng:
[1]. Các đương sự tranh chấp với nhau về ranh giới đất liền kề mà
các bên đang sử dụng chưa thống nhất. Xác định đây là quan hệ pháp luật
“Tranh chấp quyền sử dụng đất”. Căn cứ theo quy định tại Điều 26, 35 và
Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án nhân dân huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang.
[2]. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án có tiến hành các biện pháp
thu thập chứng cứ theo quy định tại Điều 97 Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn
cứ khoản 2 Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án này thuộc trường
hợp Viện kiểm sát tham gia phiên tòa; Tòa án đã chuyển hồ sơ cho Viện
kiểm sát nghiên cứu và thông báo thời gian xét xử theo đúng quy định.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên có mặt.
Về nội dung vụ án:
[1]Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; căn cứ vào các tài liệu,
chứng cứ trong hồ sơ, qua kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy:
[1.1]. Phần đất tranh chấp thể hiện tại vị trí (I) diện tích 42,5m2 và
thể hiện tại vị trí (II) diện tích 25,5 m2 theo Mảnh trích đo địa chính số
04-2016 ngày 02/02/2016 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thị
xã Long Mỹ; đất tọa lạc tại khu vực Long Trị 2, Phường Trà Lồng, thị xã
Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang. Quá trình sử dụng đất bà Tô Thị Sâm cho rằng
ông Đỗ Văn Phẩm lấn ranh nên yêu cầu phải trả lại phần đất tranh chấp
theo đo đạc thực tế diện tích 21,25m2 tại vị trí (I) và diện tích 12,75m2 tại
vị trí (II). Phần đất giáp ranh giữa hai bên đang sử dụng đều đã được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau khi đo đạc thực tế các bên thống
nhất với Mảnh trích đo địa chính về vị trí, kích thước, diện tích đất đã
được đo vẽ và không phát sinh tranh chấp mốc ranh giới đối với thửa đất
của những người đang sử dụng đất liền kề.
[1.2]. Về nguồn gốc, việc kê khai đăng ký và quá trình sử dụng đất:
Phần đất của bà Tô Thị Sâm đang sử dụng có nguồn gốc là của ông Tô
Văn Chín cho bà Sâm năm 1969. Bà Sâm sử dụng đến ngày 22/8/1995
được Ủy ban nhân dân huyện Long Mỹ cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, phần đất bà được cấp tại thửa 532, diện tích 1394m2.
Nguồn gốc đất của ông Đỗ Văn Phẩm là của mẹ ông - bà Châu Thị Ênh
trao lại cho ông trực tiếp canh tác từ năm 1950 đến năm 1982 mẹ ông
chết ông tiếp tục công tác đến năm 2010. Ông Phẩm sử dụng đến ngày
22/8/1995 được Ủy ban nhân dân huyện Long Mỹ cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, phần đất ông được cấp tại thửa 535, diện tích 3876m2.
[1.3] Theo bản địa chính số 04-2016 của Văn phòng đăng ký đất đai thị xã
Long Mỹ ngày 18/02/2016 có diện tích như sau
Với diện tích đất của bà Sâm:
- Thửa đất số 532 có diện tích 990.1 m2
- Phần đất ven kinh có diện tích 306.8 m2
- Tổng diện tích đo đạc thực tế: 1296.9 m2
Với diện tích đất của ông Phẩm:
- Thửa đất số 535, diện tích 3683.5 m2
- Phần đất vcn kinh có diện tích 699.7 m2
- Tổng diện tích đo đạc thực tế: 4383.2 m2
Theo Diện tích đất 2 bên được UBND thị xã Long Mỹ đo đạc và thể
hiện trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất:
- Thửa số 532 của bà Sâm có diện tích 1394 m2
- Thửa số 535 của ông Phẩm có diện tích 3876 m2
Từ đó nhận thấy phần đất cùa 2 bên đã có sự thay đổi, của bà Sâm bị
thu hẹp lại so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, còn ông Phẩm lại được mở rộng ra
[1.4]. Phần đất giáp ranh đang tranh chấp giữa hai bên hiện do bà
Sâm và ông Phẩm đang sử dụng. Theo kết quả xác minh nguồn gốc và quá
trình sử dụng đất, xác định được phần ranh giới giữa hai bên đã tồn tại như
hiện trạng từ trước đến nay. Khi cụ Chín và cụ Ênh còn sống đã không có
phát sinh tranh chấp. Thực tế thì hai bên đã sử dụng đất ổn định lâu dài; bà
Sâm và ông Phẩm quá trình sử dụng đất có sự thay đổi hiện trạng phần ranh
giới liền kề giữa hai bên. Do đó, có cơ sở xác định ông Phẩm có lấn chiếm
của bà Sâm. Vì vậy, buộc ông Phẩm phải trả lại cho bà Sâm phần đất ông
lấn chiếm và không được đốn phá hoại cây của bà Phẩm cũng như cho bà
Sâm sử dụng bến mé sông. Tuy nhiên, chỉ công nhận phân nửa con mương
là thuộc về bà Sâm và nửa con mương kia thuộc về ông Phẩm. Vì vậy, yêu
cầu khởi kiện của bà Sâm là có căn cứ chấp nhận, một phần yêu cầu khởi
kiện. Buộc ông Phẩm phải giao trả phần đất tranh chấp diện tích 34m2 cho
bà Sâm được quyền sử dụng.
[2]. Về chi phí tố tụng: Căn cứ Điều 157, 158 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tổng chi phí tố tụng là 4.500.000đ. Bị đơn chịu phân nửa chi phí tố tụng.
[3]. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30
tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu,
miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Ông Đỗ
Văn Phẩm không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm do ông là người cao tuổi
[4]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật Vì các lẽ trên, QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 26, 35, 39, 147, 157, 158, 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân
sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của
Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Áp dụng 99, 100, 203 Luật đất đai năm 2013.
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Tô Thị Sâm về việc
đòi ông Đỗ Văn Phẩm trả phần đất ranh giới bị lấn, chiếm.
2. Buộc ông Phẩm phải trả lại cho bà Sâm 34m2 tại vị trí số (I) thuộc
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 000064 một phần thửa 535, loại
LNK, thuộc tờ bản đồ số 8; tọa lạc tại khu vực Long Trị 2, Phường Trà
Lồng, thị xã Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang. Diện tích, kích thước thể hiện tại vị
trí (I) kèm theo Mảnh trích đo địa chính số 04-2016 ngày 02/02/2016 của
Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã Long Mỹ.
3. Về chi phí tố tụng: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12
năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Ông Đỗ Văn
Phẩm là không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
4. Về chi phí tố tụng: Ông Đỗ Văn Phẩm phải chịu 2.250.000đ (hai
triệu hai trăm hai mươi lăm nghìn đồng).
5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại
Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người
phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi
hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại
các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được
thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
6. Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong
thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được
quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án
hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết, tống đạt theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nơi nhận:
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ
THẨM THẨM PHÁN - CHỦ TỌA - TAND tỉnh Hậu Giang; PHIÊN TÒA - VKSND thị xã Long Mỹ;
- Chi cục THADS thị xã Long (đã ký) Mỹ; - Các đương sự; - Lưu hồ sơ. Nguyễn Như Long