







Preview text:
lOMoAR cPSD| 61470371
1. Lúc nào thì nên giáo dục một đứa trẻ?
Đó là khi chúng vừa sinh ra, bởi vì khi đó thì sự giáo dục mới có thể thực hiện. Do sự giáo
dục đó là sự truyền đạt và lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội từ thế hệ trước truyền cho
thế hệ sau, phải có sự tương tác giữa hai chủ thể, phải phân biệt được sự giáo dục đó là sự
tác động đôi bên, và sự tác động một phía (hay còn gọi là tiền giáo dục). Trước khi sinh ra
thì đứa bé cũng nên có kích thích từ phía bên ngoài, tức là quan điểm thai giáo (nghe nhạc…)
Bản chất Giáo dục học, theo nghĩa rộng nhất, là quá trình truyền đạt và lĩnh hội những
kinh nghiệm xã hội lịch sử, từ thế hệ trước truyền cho thế hệ sau, nhằm hình thành và phát
triển nhân cách (phẩm chất và năng lực) cho người được giáo dục theo yêu cầu và chuẩn mực của xã hội.
Giáo dục (theo nghĩa rộng) = gd (theo nghĩa hẹp) (phát triển phẩm chất đạo đức-dạy người
) + dạy học (chủ yếu phát triển năng lực - dạy chữ).
2. Tại sao lại nói giáo dục là một hiện tượng đặc trưng của xã hội?
Bước 1: Trình bày bản chất của giáo dục theo nghĩa rộng.
Bản chất Giáo dục học, theo nghĩa rộng nhất, là quá trình truyền đạt và lĩnh hội những
kinh nghiệm xã hội lịch sử, từ thế hệ trước truyền cho thế hệ sau, nhằm hình thành và phát
triển nhân cách (phẩm chất và năng lực) cho người được giáo dục theo yêu cầu và chuẩn mực của xã hội.
Bước 2: Thế nào là hiện tượng xã hội?
Hiện tượng xã hội: Là hiện tượng nảy sinh, tồn tại và phát triển trong xã hội loài người,
nó phản ánh những mối quan hệ, những dạng hoạt động khác nhau của con người.
Bước 3: Trình bày nguồn gốc của giáo dục.
Cùng với sự xuất hiện xã hội loài người cũng đồng thời xuất hiện hiện tượng: Người lớn
dạy cho trẻ em những gì họ đã tích lũy, ngược lại, trẻ em học ở người lớn những điều đó.
Lúc đầu công việc này được thực hiện tự phát, sau đó được tổ chức một cách tự giác, ta
gọi đó là hiện tượng giáo dục.
Dấu hiện bản chất của hiện tượng này: Được thể hiện ở “Sự truyền đạt và lĩnh hội kinh
nghiệm xã hội- lịch sử”. Chủ thể của sự truyền đạt là thế hệ đi trước; chủ thể của sự lĩnh
hội là thế hệ đi sau; nội dung của truyền đạt là kinh nghiệm xã hội- lịch sử.
Bước 4: Nêu các tính chất của giáo dục: lOMoAR cPSD| 61470371 -
Giáo dục là một hiện tượng phổ biến và vĩnh hằng, tức là giáo dục chỉ có ở xã hội
loài người, nó là một phần không thể tách rời của đời sống xã hội. -
Giáo dục chịu sự quy định của xã hội, giáo dục là một hoạt động gắn liền với tiến
trình đi lên của xã hội, khi xã hội chuyển từ hình thái kinh tế – xã hội này sang hình thái
kinh tế – xã hội khác thì toàn bộ hệ thống giáo dục tương ứng cũng biến đổi theo. -
Giáo dục mang tính giai cấp, khẳng định giáo dục không đứng ngoài chính sách và
quan điểm của nhà nước, điều đó được toàn xã hội chấp nhận. Trong xã hội có giai cấp
đối kháng, giáo dục là đặc quyền của giai cấp thống trị; trong xã hội không có giai cấp
đối kháng, giáo dục hướng tới công bằng.
Bước 5: Đưa ra kết luận sư phạm.
3. Phân tích vai trò của giáo dục tới sự phát triển của xã hội.
Bước 1: Trình bày bản chất của giáo dục theo nghĩa rộng.
Bản chất Giáo dục học, theo nghĩa rộng nhất, là quá trình truyền đạt và lĩnh hội những
kinh nghiệm xã hội lịch sử, từ thế hệ trước truyền cho thế hệ sau, nhằm hình thành và phát
triển nhân cách (phẩm chất và năng lực) cho người được giáo dục theo yêu cầu và chuẩn mực của xã hội.
Bước 2: Trình bày các chức năng xã hội của giáo dục. -
Chức năng kinh tế - sản xuất: giáo dục tái sản xuất sức lao động xã hội, tạo nên
sức lao động mới có chất lượng cao hơn, thay thế sức lao động cũ đã lạc hậu, đã già cỗi
hoặc đã mất đi bằng cách phát triển những năng lực chung và năng lực chuyên biệt của con người. -
Chức năng chính trị - xã hội: giáo dục tác động đến cấu trúc xã hội, tức là tác
động đến các bộ phận, các thành phần xã hội (các giai cấp, các tầng lớp, các nhóm xã
hội...) làm thay đổi tính chất mối quan hệ giữa các bộ phận, thành phần đó bằng cách
nâng cao trình độ văn hóa chung cho toàn thể xã hội. -
Chức năng tư tưởng - văn hóa: giáo dục tham gia vào việc xây dựng một hệ tư
tưởng chi phối toàn xã hội, xây dựng một lối sống phổ biến trong xã hội bằng cách phổ
cập giáo dục phổ thông với trình độ ngày càng cao cho mọi tầng lớp xã hội.
4. Nêu vai trò của giáo dục tới sự phát triển nhân cách của một con người.
Bước 1: Nêu khái niệm giáo dục theo nghĩa rộng. lOMoAR cPSD| 61470371
Bản chất Giáo dục học, theo nghĩa rộng nhất, là quá trình truyền đạt và lĩnh hội những
kinh nghiệm xã hội lịch sử, từ thế hệ trước truyền cho thế hệ sau, nhằm hình thành và phát
triển nhân cách (phẩm chất và năng lực) cho người được giáo dục theo yêu cầu và chuẩn mực của xã hội.
Bước 2: Nêu đặc trưng của quá trình giáo dục. -
Thứ nhất, giáo dục là quá trình tác động tự giác (tôi chủ định, có thể điều khiển
được theo hướng tích cực) khác với tự phát: tản mạn không kiểm soát được. -
Thứ hai là, giáo dục có mục đích nội dung, phương pháp, phương tiện, chương
trình,.. được tổ chức lựa chọn khoa học phù hợp với mọi đối tượng giúp họ chiếm lĩnh
được những kinh nghiệm, giá trị xã hội của nhân loại bằng con đường ngắn nhất..
Bước 3: Nêu quan điểm sai lầm về vai trò của giáo dục (tuyệt đối hóa/phủ nhận) ⇒ quá
nhấn mạnh vai trò của giáo dục (Nếu không tính ánh sáng mặt trời thì thầy cô là những
người sáng nhất), hay phủ nhận vai trò của giáo dục (con nhà tông không giống lông cũng giống cánh).
Bước 4: Liệt kê ra các yếu tố tác động: liệt kê 4 yếu tố và sau đó PHẢI có câu dẫn: “Giáo
dục đóng vai trò chủ đạo tới sự phát triển nhân cách.”
Bước 5: Nêu vai trò của giáo dục đối với sự phát triển hình thành nhân cách cá nhân -
Thứ nhất, giáo dục vạch ra chiều hướng mục tiêu hoàn thành và phát triển nhân
cách, dẫn dắt học sinh thực hiện quá trình đó đạt đến kết quả mong muốn. -
Thứ hai, có tác động tự giác mang lại những tiến bộ mà các yếu tố di truyền bẩm
sinh hoặc môi trường hoàn cảnh không thể tạo ra được do tác động tự phát. -
Thứ ba, có sức mạnh cải biến những nét tính cách, phẩm chất lệch lạc không phù
hợp với yêu cầu, chuẩn mực xã hội của những đứa trẻ hư hoặc người phạm pháp. -
Thứ tư, có tầm quan trọng đối với những người khuyết tật giúp cho họ có thể phục
hồi một phần chức năng đã mất hoặc phát triển những kỹ năng làm bù trừ đi những chức
năng bị khiếm khuyết, bên cạnh đó giáo dục còn giúp những người có năng khiếu bẩm
sinh, thiên tài được bộc lộ và phát triển. -
Thứ năm, giáo dục có tác động điều khiển và điều chỉnh cho nên không thích ứng
với những yếu tố di truyền, bẩm sinh, môi trường, hoàn cảnh trong quá trình hình thành
và phát triển nhân cách mà nó còn có khả năng kìm hãm or thúc đẩy các yếu tố ảnh hưởng
đến quá trình đó theo gia tốc phù hợp mà di truyền và môi trường không thực hiện được.
Bước 6: Kết luận sư phạm. lOMoAR cPSD| 61470371
Cần có nhận thức đúng đắn về vai trò của GD đến sự hình thành và phát triển nhân cách.
• Biến quá trình GD thành quá trình tự GD ở người học. • Tổ chức quá trình GD một cách
khoa học, hợp lý: Phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý HS. Yêu cầu GD mang tính vừa sức
với HS. - Tổ chức các hoạt động và giao lưu đa dạng, phong phú cho HS. - Lựa chọn nội
dung GD phù hợp và các phương pháp GD khoa học. - Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa
nhà GD và người được GD. - Khơi dậy khả năng tiềm ẩn, tố chất di truyền, tính tích cực
trong hoạt động cá nhân của HS nhằm mang lại hiệu quả cho quá trình GD.
5. Nêu đặc điểm của quá trình giáo dục.
Các đặc điểm của quá trình giáo dục bao gồm:
Đặc điểm 1: Quá trình giáo dục mang tính phức hợp.
- Do chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố (khách quan-chủ quan; bên trong-ngoài; trực
tiếpgián; tích cực-tiêu; truyền thống-hiện đại).
- Bởi vì quá trình giáo dục xảy ra trong suốt cuộc đời còn người nên luôn luôn chịu sự ảnh
hưởng của mọi yếu tố.
Kết luận sư phạm:
- Nhà giáo dục cần quan tâm đến các điều kiện, các yếu tố khách quan, chủ quan, bên trong,
bên ngoài của quá trình giáo dục.
- Đòi hỏi nhà giáo dục (người giáo dục, gia đình, xã hội) phải hết sức linh hoạt để phát huy
tính cực và hạn chế tiêu cực tới người được giáo dục trong các môi trường.
- Nhà giáo dục phải phối hợp tổ chức tất cả lực lượng giáo dục để thống nhất về mục tiêu,nd
yc giáo dục, làm rõ vai trò của từng lực lượng giáo dục.
- Nhà gd phải hạn chế tối đa những tính tiêu cực tự phát.
Đặc điểm 2: Giáo dục là một quá trình diễn ra lâu dài, bền bỉ.
- Giáo dục diễn ra suốt hành vi cuộc đời của mỗi người.
- Để thay đổi hình thành, hành vi thói quen đúng đắn đòi hỏi thời gian lâu dài.
- Để thay đổi cái cũ cái lạc hậu cái xấu, để hình thành cái mới chuẩn mực thì đòi hỏi có
sự bền bỉ đấu tranh động cơ một cách bền bỉ, kiên trì, tích cực trong cuộc sống thực thì
nó mới trở thành thói quen.
Kết luận sư phạm: lOMoAR cPSD| 61470371
- Nhà giáo dục không được nôn nóng vội vàng, cần phải có thời gian. Công tác giáo dục
phải diễn ra tính bền bỉ lâu dài, đồng thời phải phát huy tính tự giác của người được giáo dục.
- Khi nhìn nhận đánh giá con người thì phải thận trọng, tức là lâu dài thì mới có thể đánh
giá một con người. Cần có thời gian để đánh giá tác động giáo dục, vì kết quả quá trình
giáo dục có định tính định lượng một cách chính xác.
Đặc điểm 3: Quá trình giáo dục mang tính cụ thể, riêng biệt.
- Quá trình giáo dục phải tính đến từng nhóm đối tượng cụ thể.
- Quá trình diễn ra trong tình huống, hoàn cảnh riêng biệt cụ thể.
- Có sự thống nhất các chuẩn mực, yêu cầu chung với cái riêng, cái độc đáo của đối tượng giáo dục.
- Kết quả giáo dục ở từng đối tượng, nhóm đối tượng, có tính cụ thể, khác biệt với nhau.
Kết luận sư phạm:
- Nhà giáo dục phải thực sự thương yêu và hiểu học sinh, phải thấu hiểu được hoàn cảnh của các em.
- Qua đó nhà giáo dục sẽ hiểu được các hành vi tốt xấu của học sinh là do đâu? Để từ đó
có tác động phù hợp.
- Nhà giáo dục không dập khuôn máy móc trong quá trình giáo dục, không thể lấy kinh
nghiệm học sinh này để áp dụng cho học sinh khác.
Đặc điểm 4: Quá trình giáo dục thống nhất với quá trình dạy học.
- Quá trình dạy học và quá trình giáo dục là hai bộ phận của quá trình sư phạm tổng thể,
có mối quan hệ thống nhất biện chứng với nhau nhằm hoàn thiện và phát triển nhân cách
toàn diện cho người được giáo dục.
- Hai quá trình có chức năng trội và ưu thế riêng, song vẫn có sự bổ trợ, bổ sung, tác động lẫn nhau.
- Mục tiêu cuối cùng của quá trình dạy học là phát triển nhân cách cho con người (chúngta
thường nghe câu: quá trình dạy học, đó là thông qua dạy chữ để mà dạy người); và để
thực hiện quá trình hiệu quả thì con đường dạy học là con đường hết sức hiệu quả để
thúc đẩy sự phát triển của quá trình giáo dục.
Tại sao quá trình dạy học và quá trình giáo dục lại là hai quá trình thống nhất biện chứng? lOMoAR cPSD| 61470371
Bởi vì trong nội dung dạy học thì nó hàm chứa nội dung giáo dục, mục tiêu cuối cùng của
của quá trình dạy học là phát triển nhân cách cho con người, và để thực hiện quá trình giáo
dục được hiệu quả thì có lẽ con đường dạy học là con đường hiệu quả nhất để thúc đẩy sự
phát triển của quá trình giáo dục.
Quá trình dạy học và quá trình giáo dục có điểm chung là đều phát triển nhân cách cho học
sinh. Trong đó, quá trình giáo dục hình thành tri thức về các mặt xã hội (thế nào là trách
nhiệm, khoan dung), còn quá trình dạy học hình thành tri thức khoa học.
Hai quá trình này có mối quan hệ biện chứng qua lại lẫn nhau. Giáo dục cho người ta phẩm
chất hành vi tích cực, qua đó tác động đến quá trình dạy học, do những người có hành vi
tích cực, trách nhiệm, có tính kỷ luật sẽ giúp cho quá trình học tập tốt. Khi dạy học, những
bài giảng cũng đã hàm chứa những câu chuyện, hành vi, kiến thức về các mặt xã hội, thông
qua đó sẽ giáo dục một đứa trẻ.
6. Phân tích bản chất của quá trình giáo dục.
Bước 1: Đưa ra khái niệm quá trình giáo dục.
Quá trình giáo dục là một quá trình trong đó dưới vai trò chủ đạo của nhà giáo dục, người
được giáo dục tự giác, tích cực, chủ động tự giáo dục nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ giáo dục.
- Mặt chủ đạo của nhà giáo dục: Nhà giáo dục thực hiện vai trò chủ đạo của mình thông
qua việc định hướng mục đích giáo dục, lựa chọn nội dung, các phương pháp giáo dục,
thống nhất các yếu tố của quá trình giáo dục.
- Mặt chủ động, tự giác của người được giáo dục: Người giáo dục không tiếp nhận quá
trình giáo dục một cách thụ động, máy móc, trái lại, họ đáp ứng các tác động giáo dục
thông qua hoạt động tích cực của bản thân, chủ động chuyển hóa những yêu cầu giáo
dục thành những năng lực và phẩm chất cá nhân.
- Quá trình giáo dục được thực hiện ở mọi nơi (gia đình, nhà trường và xã hội).
Bước 2: Phân tích bản chất quá trình giáo dục.
- Quá trình giáo dục nhằm biến các chuẩn mực xã hội thành những hành vi và thói quen
phù hợp với đạo đức và chuẩn mực.
Quá trình giáo dục nhằm hình thành và phát triển cá nhân con người trở thành những
thành viên xã hội, họ vừa thích ứng với các yêu cầu xã hội, vừa có khả năng cải tạo xã hội. . lOMoAR cPSD| 61470371
- Quá trình giáo dục là một quá trình tổ chức cuộc sống, hoạt động và giao lưu cho đối tượng giáo dục.
Triết học Marxist khẳng định: Bản chất xã hội của con người chỉ có được khi nó tham gia
vào đời sống xã hội đích thực thông qua hoạt động và giao lưu ở một môi trường văn hóa.
Tâm lý học đã khẳng định: hoạt động và giao lưu vừa là nguồn gốc vừa là động lực của
sự hình thành và phát triển nhân cách.
Hoạt động và giao lưu là hai mặt cơ bản, thống nhất trong cuộc sống của con người và
cũng là điều kiện tất yếu của sự hình thành và phát triển nhân cách của cá nhân.
Bước 3: Đưa ra kết luận bản chất quá trình giáo dục.
Bước 4: Đưa ra kết luận sư phạm.
- Người giáo dục thì cần phải hình thành cho học sinh những niềm tin, động cơ, lý tưởng
phù hợp với các mặt xã hội.
- Người giáo dục thường xuyên tổ chức các hoạt động và giao lưu để giúp học sinh hình
thành hành vi và thói quen phù hợp với các mặt xã hội.
7. Phân tích động lực của quá trình giáo dục.
Bước 1: Nêu khái niệm quá trình giáo dục.
Quá trình giáo dục là một quá trình trong đó dưới vai trò chủ đạo của nhà giáo dục, người
được giáo dục tự giác, tích cực, chủ động tự giáo dục nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ giáo dục.
Bước 2: Nêu khái niệm động lực của quá trình giáo dục.
Động lực của quá trình giáo dục là những yếu tố thúc đẩy quá trình giáo dục vận động và
phát triển không ngừng. Do đó, động lực của quá trình giáo dục chính là việc giải quyết
đúng đắn và có hiệu quả các mâu thuẫn của quá trình giáo dục.
Quá trình giáo dục có hai loại mâu thuẫn là mâu thuẫn bên ngoài và mâu thuẫn bên trong.
Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa các thành tố của quá trình giáo dục với các điều
kiện khách quan bên ngoài. Ví dụ, môi trường kinh tế, xã hội đặt ra yêu cầu cao với người
lao động mà quá trình giáo dục chưa đáp ứng được.
Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn giữa các thành tố của quá trình giáo dục với nhau hoặc
mâu thuẫn giữa các yếu tố trong từng thành tố của quá trình giáo dục. Ví dụ nhà giáo dục
có trình độ chuyên môn tốt, nhưng lại non kém về khả năng giao tiếp sư phạm. lOMoAR cPSD| 61470371
Động lực của quá trình giáo dục chính là kết quả giải quyết tốt giữa một bên là các yêu
cầu, nhiệm vụ giáo dục mới đang đặt ra cho người được giáo dục với một bên là trình độ
được giáo dục và phát triển hiện có của người được giáo dục.
Việc giải quyết các mâu thuẫn bên trong của quá trình giáo dục có hiệu quả tạo động lực
thúc đẩy quá trình giáo dục vận động và phát triển.