




Preview text:
Bảo lãnh là gì? Quy định về đối tượng, phạm vi, nội dung bảo lãnh?
1. Quy định chung về bảo lãnh
Các bên cũng có thể thoả thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa
vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.
Việc bảo lãnh phải được thành lập văn bản, có thể lập thành văn bản riêng
hoặc ghi trong hợp đồng chính. Trong trường hợp pháp luật có quy định thì
văn bản bảo lãnh phải được công chứng hoặc chứng thực.
Bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh.
Khi nhiều người cùng bảo lãnh một nghĩa vụ thì họ phải liên đới thực hiện
việc bảo lãnh, trừ trường hợp có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định bảo
lãnh theo các phần độc lập; bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số
những người được bảo lãnh liên đới phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ.
Khi một người trong số những người bảo lãnh liên đới đã thực hiện toàn bộ
nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh thì có quyền yêu cầu những người bảo
lãnh còn lại phải thực hiện phần nghĩa vụ của họ đối với mình.
Việc bảo lãnh chấm dứt trong các trường hợp sau đây: nghĩa vụ được bảo
đảm bằng bảo lãnh chấm dứt; việc bảo lãnh được huỷ bỏ hoặc được thay thế
bằng biện pháp bảo đảm khác; bên bảo lãnh đã thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
theo thoả thuận của các bên.
2. Khái niệm bảo lãnh theo luật dân sự
Thông thường, bên có nghĩa vụ trong các quan hệ nghĩa vụ là bên bảo đảm
trong biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên, có nhiều
trường hợp bên có nghĩa vụ không có điều kiện để đảm nhận sự bảo đảm đó
trước bên có quyền. Để tạo điều kiện cho các bên có thể giao kết hợp đồng
và xác lập quan hệ nghĩa vụ mà vẫn bảo đảm được quyền lợi cho người có
quyền ngay cả trong những trường hợp người có nghĩa vụ không có tài sản
để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ đó, pháp luật quy định người khác có thể
đứng ra cam kết trước người có quyền về việc thay người có nghĩa vụ để bảo
đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ.
Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:
“Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh)
cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ
thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên
được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ".
3. Chủ thể của bảo lãnh
Theo khái niệm về bảo lãnh đã nêu trên thì khi một biện pháp bảo lãnh được
đặt ra sẽ xuất hiện nhiều mối quan hệ giữa các chủ thể với nhau và có sự liên
hệ nhất định giữa các quan hệ đó (Ví dụ: A, B, C).
Về các mối quan hệ: Quan hệ giữa A với B là quan hệ nghĩa vụ được bảo
đảm bằng biện pháp bảo lãnh (được hình thành từ sự thoả thuận giữa A và B
hoặc theo quy định của pháp luật), quan hệ giữa A với c là quan hệ bảo lãnh
(được hình thành từ sự thoả thuận giữa A và C), quan hệ giữa c với B chỉ
phát sinh khi c đã thay B thực hiện nghĩa vụ của B trước A (được gọi là nghĩa vụ hoàn lại).
Về chủ thể: Chủ thể của quan hệ bảo lãnh là A và c, trong đó c là bên bảo
lãnh, A là bên nhận bảo lãnh; chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ là A và B, trong
đó A là bên có quyền, B là bên có nghĩa vụ; chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ
hoàn lại là c và B trong đổ c là bên có quyền, B là bên có nghĩa vụ.
Về sự liên hệ giữa các quan hệ: Quan hệ giữa A với B là quan hệ có nghĩa
vụ được bảo đảm thực hiện bằng bảo lãnh (nên B đồng thời được gọi là bên
được bảo lãnh); quan hệ giữa A với c là quan hệ bảo đảm việc thực hiện
nghĩa vụ của B; quan hệ giữa c với B là quan hệ mà trong đó B phải hoàn trả
cho c các lợi ích mà c đã thay B thực hiện cho A.
Từ việc xác định trên cho thấy khi một biện pháp bảo lãnh được đặt ra thì
ngoài các bên chủ thể trong quan hệ bảo lãnh là bên bảo lãnh (C) và bên
nhận bảo lãnh (A), còn có một chủ thể liên quan là bên được bảo lãnh (B).
Bên được bảo lãnh bao giờ cũng là bên có nghĩa vụ trong quan hệ nghĩa vụ
được bảo đảm thực hiện bằng biện pháp bảo lãnh đó. Họ có thể biết hoặc
hoặc không biết về việc xác lập quan hệ bảo lãnh để bảo đảm cho việc thực
hiện nghĩa vụ của mình nhưng đều phải hoàn trả cho bên bảo lãnh các lợi ích
mà bên đó đã thay mình thực hiện.
4. Đối tượng và phạm vi bảo lãnh
Đối tượng của bảo lãnh là các cam kết của người bảo lãnh với người nhận
bảo lãnh. Tuy nhiên để thực hiện được cam kết đó thì người bão lãnh phải có
tài sản hoặc công việc phù hợp để đáp lại lợi ích của bên nhận bảo lãnh trong
trường hợp người được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ.
Như chúng ta đã biết, lợi ích mà các bên chủ thể trong một quan hệ nghĩa vụ
hướng tới là lợi ích vật chất. Chỉ thông qua một lợi ích vật chất mới có thể
bảo đảm được một lợi ích vật chất. Vì vậy, người bảo lãnh phải bằng một tài
sản hoặc bằng việc thực hiện một công việc thay cho người được bảo lãnh
mới đảm bảo được quyền lợi cho người nhận bảo lãnh.
Nếu đối tượng của nghĩa vụ chính là việc thực hiện một công việc mà chỉ
thông qua việc thực hiện công việc đó, quyền lợi của bên có quyền mới được
thoả mãn thì người nhận bảo lãnh phải thực hiện một công việc. Trong
Trường hợp này, người bảo lãnh phải là người có khả năng thực hiện công việc đó.
Nếu đối tượng của nghĩa vụ chính là một khoản tiền hoặc một tài sản có giá
trị thì người bảo lãnh phải lấy tài sản thuộc sở hữu của mình giao cho người nhận bảo lãnh xử lý.
Phạm vi bảo lãnh có thể là một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ. Nếu không có
thoả thuận gì khác thì người bảo lãnh phải bảo lãnh cả tiền lãi trên nợ gốc
trong phạm vi bảo lãnh; đồng thời phải bảo lãnh cả khoản tiền phạt cũng như
tiền bồi thường thiệt hại. Như vậy, phạm vi bảo lãnh gồm bao nhiều phần so
với tổng giá ttị của nghĩa vụ chính tuỳ thuộc vào sự cam kết, xác định của người bảo lãnh.
5. Thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
Người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ nếu đến thời hạn mà bên được bảo
lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của họ trước bên
nhận bảo lãnh. Bên bảo lãnh không phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong
trường hợp bên nhận bảo lãnh có thể bù trừ nghĩa vụ với bên được bảo lãnh.
Trong trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, bắt đầu từ thời điểm nào
thì người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ đó phải được xác định theo từng trường hợp cụ thể.
Pháp luật hiện hành có quy định rằng bên bảo lãnh “sẽ thực hiện nghĩa vụ
thay cho bên có nghĩa vụ, nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ, các bên cũng có thể thoả
thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh
không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình” (Điều 335 Bộ luật dân sự
năm 2015). Theo quy định trên thì thời điểm mà bên bảo lãnh phải thực hiện
nghĩa vụ được xác định theo hai trường hợp sau:
Thứ nhất, khi nghĩa vụ được bảo đảm bằng bảo lãnh đến thời hạn thực hiện.
Xác định việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo lãnh bắt đầu từ thời điểm này
trong trường hợp các bên trong quan hệ bảo lãnh không có thoả thuận khác
về thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Như vậy, trong trường hợp này,
bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ kể từ
thời điểm bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đến hạn.
Thứ hai, khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.
Nếu các bên trong quan hệ bảo lãnh có thoả thuận về việc bên bảo lãnh chỉ
phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện
nghĩa vụ thì dù nghĩa vụ đã đến thời hạn thực hiện mà bên được bảo lãnh
không thực hiện, bên nhận bảo lãnh vẫn không được quyền yêu cầu bên
nhận bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đó khi chưa có đủ căn cứ để xác định bên
được bảo lãnh không còn khả năng thực hiện nghĩa vụ. Như vậy, thời điểm
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong trường hợp này được xác định từ thời điểm
có đủ căn cứ để xác định về việc bên được bảo lãnh không còn khả năng thực hiện nghĩa vụ.
6. Nội dung của bảo lãnh
Bên bảo lãnh phải dùng tài sản thuộc sở hữu của mình hoặc tự mình thực
hiện một công việc để chịu trách nhiệm thay cho người được bảo lãnh nếu
người này không thực hiện nghĩa vụ hoặc gây ra thiệt hại cho bên nhận bảo
lãnh. Khi bên bảo lãnh thực hiện xong những cam kết trước bên nhận bảo
lãnh thì quan hệ nghĩa vụ chính cũng như việc bảo lãnh được coi là chấm dứt.
Khi đó, bên bảo lãnh có quyền yêu cầu người được bảo lãnh thực hiện nghĩa
vụ đối với mình trong phạm vi đã bảo lãnh; bên bảo lãnh được hưởng thù lao
nếu có thoả thuận giữa họ với người được bảo lãnh hoặc pháp luật có quy định.
Trong trường hợp nhiều người cùng bảo lãnh một nghĩa vụ mà giữa bên bảo
lãnh với bên nhận bảo lãnh không có thoả thuận khác thì nghĩa vụ của những
người cùng bảo lãnh đối với bên nhận bảo lãnh được xác định theo nghĩa vụ
liên đới và họ phải liên đới thực hiện việc bảo lãnh. Vì vậy, người nhận bảo
lãnh có thể yêu cầu bất cứ người nào trong số những người cùng bảo lãnh
phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ khi đến thời hạn thực hiện mà người được
bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng. Khi một trong số
những người bảo lãnh liên đới đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ thay cho người
được bảo lãnh thì có quyền yêu càu những người bảo lãnh còn lại phải thực
hiện cho mình phần nghĩa vụ trong phạm vi mà họ đã bảo lãnh.
Theo nguyên tắc, khi bên được bảo lãrih không thực hiện nghĩa vụ thì nghĩa
vụ được chuyển cho bên bảo lãnh, cho nên nếu người bảo lãnh được người
nhận bảo lãnh miễn việc thực hiện nghĩa vụ thì người được bảo lãnh không
phải thực hiện nghĩa vụ đó đối với người có quyền. Trừ trường hợp các bên
có thỏa thuận bên được bảo lãnh vẫn phải thực hiện nghĩa vụ (khoản 1 Điều 341).
Trong trường hợp bên nhận bảo lãnh miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho bên
bảo lãnh thì bên được bảo lãnh không phải thực hiện nghĩa vụ đối với bên
nhận bảo lãnh, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định
phải liên đới thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh (Điều 341 Bộ luật dân sự).
Document Outline
- Bảo lãnh là gì? Quy định về đối tượng, phạm vi, nộ
- 1. Quy định chung về bảo lãnh
- 2. Khái niệm bảo lãnh theo luật dân sự
- 3. Chủ thể của bảo lãnh
- 4. Đối tượng và phạm vi bảo lãnh
- 5. Thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
- 6. Nội dung của bảo lãnh