




Preview text:
Bao thanh toán là gì? Đặc điểm, các phương thức bao thanh toán?
1. Khái niệm bao thanh toán
Khi thực hiện các giao dịch thương mại làm phát sinh các khoản phải thu (ví
dụ như các khoản tiền bán hàng chưa đến hạn thanh toán), người bán có thể
cải thiện trạng thái ngân quỹ của mình bằng việc đem nhượng bán các khoản
phải thu để nhận ngay một khoản tiền mặt đã trừ phần chiết khấu từ tổ chức
bao thanh toán. Tổ chức bao thanh toán sau khi nhận các khoản phải thu từ
người bán sẽ thực hiện việc thu nợ đối với người mua. Hoạt động bao thanh
toán xét về mặt nội dung là sự mua bán quyền đòi nợ. Hoạt động bao thanh
toán không làm ảnh hưởng đến nội dung giao dịch thương mại của người
bán và người mua, ngoại trừ quyền đòi nợ và tiếp nhận sự thanh toán được
chuyển sang cho tổ chức bao thanh toán. Quyền đòi nợ của tổ chức bao
thanh toán được xem là tuyệt đối, không bị ràng buộc bởi bất cứ điều kiện
nào liên quan đến khả năng thanh toán của người mua cũng như quá trình
thực hiện giao dịch thương mại giữa người bán và người mua. Đối tượng của
quyền đòi nợ phải là toàn bộ giá trị khoản phải thu, việc chỉ chuyển nhượng
một phần khoản phải thu thường không được chấp nhận. Xét về mặt hình
thức, hoạt động bao thanh toán gắn liền với việc chuyển giao cho tổ chức bao
thanh toán các chửng từ thương mại liên quan đến giao dịch giữa người mua
và người bán. Các chứng từ này là căn cứ để xác định sự tồn tại pháp lí và
giá trị kinh tế của các khoản phải thu. Thông thường, các loại chứng từ này
bao gồm: chứng từ hàng hoá (ví dụ: hoá đơn bán hàng, hoá đơn vận tải),
chứng từ tài chính (ví dụ: hối phiếu hoặc lệnh phiếu) và có thể cả các sổ sách
kế toán có liên quan. Cũng cần lưu ý rằng bao thanh toán là quan hệ giữa
người bán và tổ chức bao thanh toán nhưng lại liên quan mật thiết tới người
mua nên trong thực tiễn thương mại và pháp lí, thủ tục và trình tự thông báo
về nội dung bao thanh toán cho người mua luôn được ghi nhận một cách rõ ràng và chặt chẽ.
Công ước của UNIDROIT về bao thanh toán quốc tế năm 1988 (Công ước
Ottawa năm 1988 - Công ước được soạn thảo bởi Uỷ ban luật thống nhất
quốc tế và hiện có khoảng gần 20 nước tham gia) đã mô tả hoạt động bao thanh toán như sau:
- Bên bán hàng hoá sẽ chuyển giao cho bên bao thanh toán các khoản phải
thu phát sinh từ các hợp đồng mua bán hàng hoá giữa bên bán và bên mua
(con nợ), trừ các hợp đồng nhằm mục đích tiêu dùng cho cá nhân, hộ gia đình;
- Bên bao thanh toán sẽ thực hiện ít nhất hai trong số các nghiệp vụ sau: tài
trợ tài chính cho người bán hàng (như cho vay hoặc thanh toán trước cho các
khoản phải thu); quản lí các giấy tờ, sổ sách kế toán liên quan đển khoản
phải thu; thực hiện việc thu nợ từ người mua; tiến hành các biện pháp phù
hợp để giải quyết các hành vi gian lận của người mua.
- Bên mua hàng phải được thông báo chính thức bằng văn bản về việc khoản
phải thu đã được bao thanh toán.
Hoạt động bao thanh toán mặc dù đã manh nha từ rất lâu trong lịch sử của
nền sàn xuất hàng hoá và được pháp luật đề cập nhưng sự phát triển mạnh
mẽ của hoạt động này cũng như những thành tựu thể chế hoá nó về mặt
pháp lí mới chỉ diễn ra trong vài thập kỉ gần đây. Các quy định về mua bán nợ
có thể tìm thấy trong bộ luật Hammurabi nổi tiếng và những người đầu tiên
thực hiện việc trao đổi các giấy nợ với mức giá thấp hon giá trị bề mặt của nó
chính là các thương nhân Lamã. Công cuộc khai thác châu Mỹ và các cuộc
cách mạng công nghiệp là những cột mốc cận đại ghi nhận những ưu điểm
nổi bật của việc tài trợ thương mại thông qua việc ứng tiền trước cho các
khoản phải thu chưa đến hạn thanh toán. Nước Mỹ, nơi phát minh ra rất
nhiều công cụ tài chính, từ thế kỉ XIX, các hoạt động bao thanh toán đã diễn
ra khá sôi động trong ngành dệt may. Tuy nhiên, hoạt động bao thanh toán
chỉ trở thành một loại hình dịch vụ tài chính phổ biến ở nhiều quốc gia từ
những năm 1960 và cũng trong khoảng thời gian này, Hiệp hội bao thanh
toán quốc tế đã được thành lập. Kể từ đó, hoạt động bao thanh toán phát
triển khá nhanh. Thống kê của Hiệp hội bao thanh toán quốc tế cho thấy vào
năm 2004, doanh số hoạt động bao thanh toán trên thế giới là khoảng 860 tỉ
USD. Mười năm sau đó, năm 2014, con số này đã tăng tới hơn 2817 tỉ USD.
Đồng thời với quá trình này, nhiều nỗ lực nhằm tập hợp và thống nhất các
nguyên tắc, tập quán, luật lệ chung cho hoạt động bao thanh toán đã được
thực hiện. Công ước Ottawa nêu trên, Luật mẫu của Ưncitral về chuyển
nhượng các khoản phải thu, các quy định chung của Hiệp hội .bao thanh toán
quốc tế ngày càng có ảnh hưởng sâu rộng đến mọi khía cạnh phảp lí của
quan hệ bao thanh toán. Nguyên nhân cơ bản cho sự phát triển mạnh mẽ này
là sự gia tăng các giao dịch kinh tế và xu hưởng đa dạng hoá hoạt động tài
chính diễcỊ ra trong thời gian qua. Chính nó đã tạo ra môi trường và điểu kiện
để thúc đẩy quá trình ứng dụng những ích lợi của bao thanh tọán trong hoạt
động kinh tế. Các lợi ích chính của bao thanh toán có thể tóm tắt là: thứ nhất,
nó giúp cho người bán cải thiện được tính thanh khoản cho tài sản của mình
và hạn chế những rủi ro, tiết kiệm thời gian cho việc thu nợ từ người mua; thứ
hai, các tổ chức tài chính, tín-dụng có khả năng đa dạng hoá các sản phẩm, dịch vụ của mình.
Ở Việt Nam, hoạt động bao thanh toán được quy định lần đầu tiên tại Quyết
định của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam số 1096/2004/QĐ-NHNN
ngày 06/9/2004 ban hành Quy chế hoạt động bao thanh toán của tổ chức tín
dụng. Theo Quyết định này, khái niệm về bao thanh toán được định nghĩa chính thức như sau:
Bao thanh toán là hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho bên bán
hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua, bán
hàng hoá đã được bên hán hàng và bên mua hàng thoả thuận trong hợp đồng mua, bán hàng hoá.
2. Đặc điểm của bao thanh toán ở Việt Nam
Theo định nghĩa này, hoạt động bao thanh toán ở Việt Nam có một số đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, bao thanh toán là hình thức cấp tín dụng ngắn hạn của tổ chức tín
dụng. Khi thực hiện quan hệ bao thanh toán, tổ chức tín dụng ứng trước cho
khách hàng của mình một khoản tiến nhất đinh thấp hon giá trị thực tế của
các khoản phải thu. Phần chênh lệch này chính là phần phí và lãi tín dụng.
Thông 'thường chỉ những khoản phải thu có thời hạn không quá 18O.ngàý
mới được chấp nhận bao thanh toán. Từ đặc điểm này có thể rút ra hai nhận xét sau:
Một là so với Công ước Ottawa năm 1988, hoạt động bao thanh toán ở Việt
Nam.bat buộc phải gắn với chức năng tài trợ tín dụng, các nghiệp vụ quản lí
sổ sách, quản lí thu nợ không được coi là chức năng độc lập trong bao thanh toán;
Hai là với tính chất là nội dung của cấp tín dụng, tổ chức thực hiện hoạt động
bao thanh toán phải tuân thủ các điều kiện, thủ tục và các hạn chế để bảo
đảm an toàn được quy định trong Luật các tổ chức tín dụng.
Thứ hai, hoạt động bao thanh toán dựa trên quan hệ về mua bán quyền tài
sản là quyền đòi nợ. Đây là dấu hiệu để phân biệt hoạt động bao thanh toán
với các hình thức cấp tín dụng khác. Do quyền đòi nợ là một loại tài sản được
xác định từ giao dịch thương mại cụ thể nên khi thực hiện hoạt động bao
thanh toán, tổ chức bao thanh toán phải tiến hành phân tích toàn diện và trực
tiếp các giao dịch làm phát sinh khoản phải thu, tình hình tài chính và hoật
động của cả bên bán và bên mua hàng. Điều này khác với chiết khấu thương
phiếu, do đặc tính trừu tượng của thương phiếu, các bên chuyển nhượng
thương phiếu không cân thiết phải quan tâm tới khoản nợ ghi trên thương
phiếu phát sinh từ giao dịch kinh tể nào và về mặt pháp lí khoản nợ ghi trên
thương phiếu cũng không phụ thuộc vào hợp đồng mua bán. Do sự khác biệt
này mà dẫn đến hệ quả là khi thực hiện việc cấp tín dụng dưới hình thức bao
thanh toán, bên bán hàng phải chuyển giao toàn bộ chứng từ và các giấy tờ
khác liên quan đến giao dịch mua, bán để xác lập và chuyển quyền đòi nợ cho bên bao thanh toán.
3. Các phương thức bao thanh toán
Trong thực tế, hoạt động bao thanh toán có thể thực hiện theo nhiều phương
thức khác nhau. Nếu căn cứ vào mối quan hệ giữa các bên của hợp đồng
bao thanh toán với bên mua hàng, hoạt động bao thanh toán có thể tiến hành
theo hai hình thức: bao thanh toán đóng và bao thanh toán mở. Trong bao
thanh toán đóng, tổ chức bao thanh toán chỉ cấp tín dụng cho người bán
hàng còn người bán vẫn chịu trách nhiệm thu nợ từ người mua cho tổ chức
bao thanh toán. Ngược lại, trong bao thanh toán mở, tổ chức bao thanh toán
sẽ thực hiện trách nhiệm thu nợ từ phía người mua. Nếu căn cứ vào vị trí của
tổ chức bao thanh toán trong quan hệ tố tụng, học thuyết của hệ thống
common law (hệ pháp luật Anh - Mỹ) còn chia bao thanh toán thành hai dạng:
tổ chức bao thanh toán có thể độc lập tiến hành việc kiện người mua hàng và
người bán hàng hoặc tổ chức báo thanh toán chỉ có thể kiện với tư cách đồng nguyên đơn.
Quyết định của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam số 1096/2004/QĐ-
NHNN ngày 06/9/2004 ban hành Quy chế hoạt động bao thanh toán của tổ
chức tín dụng ghi nhận những phương thức sau đây:
- Bao thanh toán có quyền truy đòi và bao thanh toán không có quyền truy đòi.
Trong bao thanh toán có quyền truy đòi, tổ chức bao thanh toán có quyền đòi
lại số tiền đã ứng trước cho bên bán hàng khi bên mua hàng không có khả
năng hoàn thành nghĩa vụ thanh toán khoản phải thu. Ngược lại, trong bao
thanh toán không có quyền truy đòi, tổ chức bao thanh toán phải gánh chịu
mọi rủi ro khi bên mua hàng không có khả năng thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
- Bao thanh toán theo hạn mức và bao thanh toán từng lần. Trong bao thanh
toán theo hạn mức, các bên sẽ thoả thuận duy trì một hạn mức tín dụng để
thực hiện bao thanh toán trong một khoảng thời gian nhất định. Trong thời
gian đó, nghiệp vụ bao thanh toán được tự động thực hiện mà không cần
thiết phải kí kết các hợp đồng bao thanh toán theo từng thương vụ. Thực chất,
tổ chức bao thanh toán đã thực hiện việc quản lí toàn diện các khoản phải thu
của khách hàng. Ngược lại, trong bao thanh toán từng lần, các bên sẽ thực
hiện các thủ tục và kí hợp đồng bao thanh toán đối với các khoản phải thu theo từng lần phát sinh.
- Bao thanh toán xuất khẩu và bao thanh toán trong nước. Bao thanh toán
trong nước là việc bao thanh toán dựa trên hợp đồng mua bán mà các bên
mua hàng và bán hàng là người cư trú; còn bao thanh toán xuất khẩu là dựa
trên hợp đồng xuất nhập khẩu.
Document Outline
- Bao thanh toán là gì? Đặc điểm, các phương thức ba
- 1. Khái niệm bao thanh toán
- 2. Đặc điểm của bao thanh toán ở Việt Nam
- 3. Các phương thức bao thanh toán