lOMoARcPSD| 61630929
LỜI NÓI ĐẦU
Giám hộ một chế định quan trọng trong pháp luật Dân sự Việt Nam, thể hiện sự quan
tâm sâu sắc của Nhà nước hội ta đối với người chưa thành niên hoàn cảnh đặc
biệt và người mất năng lực hành vi dân sự. Ngay từ Bộ luật Dân sự 1995 - bộ luật Dân sự
đầu tiên của Việt Nam đã những quy định về chế định Giám hộ với mục đích bảo vệ
đối tượng người yếu thế, những đối tượng đặc biệt cần được pháp luật hội quan
tâm. Tuy nhiên, những vấn đề về dân sự không đơn thuần chỉ là cách xử sđược quy định
trong luật pháp mà còn chứa đựng cả yếu tố phức tạp trong các quan hệ đời sống thường
ngày của con người thế trong thực tiễn xét xử, không phải vụ việc nào cũng được giải
quyết thấu trọn cả lý lẫn tình. Đề cập đến nguyên nhân của vấn đề này, có thể kể đến các
yếu tố như năng lực, trách nhiệm của quan có thẩm quyền xét xử, những hạn chế còn
tồn tại trong các quy định pháp luật hiện hành. Từ Bản án 18/2023/DS-ST ngày 26/06/2023
về chỉ định người giám hộ đối với người mất ng lực hành vi dân sự, qua phân tích những
điểm chưa phù hợp và đưa ra hướng giải quyết mà nhóm nghiên cứu cho là đúng với quy
định của pháp luật, chúng tôi xin đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện những quy định
pháp luật hiện hành về chế định này. Nội dung cụ thể sẽ được trình bày trong bài viết dưới
đây.
NỘI DUNG
1. Tóm tắt nội dung vụ việc.
Ngày 26 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tán nhân dân thị MH, tỉnh Hưng Yên xét
xử thẩm công khai vụ án dân sự thụ số 22/2023/TLST DS ngày 09/5/2023, giữa
các đương sự:
Nguyên đơn: Nguyễn Thị H1, trú tại: Tổ dân phố L, phường N, thị MH, tỉnh
Hưng Yên.
Bị đơn: Ông Nguyễn Đức Th, trú tại: Tổ dân phố C, phường B, thị xã MH, tỉnh Hưng
Yên.
lOMoARcPSD| 61630929
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (đứng về phía nguyên đơn): Bà Nguyễn Thị
L, trú tại: Thôn Ngọc Tỉnh, Ngọc Long, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên; Nguyễn
Thị H2, trú tại: Tổ dân phố Cộng Hòa, phường B, thị xã MH, tỉnh Hưng Yên.
Nội dung việc dân sự: Bà Nguyễn Thị H1 yêu cầu tòa án chỉ định người giám hộ và
người giám sát việc giám hộ cho ông Nguyễn Đức T, người mất năng lực hành vi dân sự.
Bà đề nghị chỉ định bà Nguyễn Thị H2 là người giám hộ và bà Nguyễn Thị H1 là người
giám sát việc giám hộ.
Theo nội dung đơn khởi kiện, lời khai của nguyên đơn Nguyễn Thị H1 lời khai
của những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đứng về phía nguyên đơn gồm
Nguyễn Thị L và bà Nguyễn Thị H2 thể hiện:
Quyết định của Tòa án: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Chỉ định bà Nguyễn Th
H2 làm người giám hộ cho ông Nguyễn Đức T, và chỉ định bà Nguyễn Thị H1 làm người
giám sát việc giám hộ. Người giám hộ và người giám sát thực hiện các quyền và nghĩa vụ
theo quy định của Bộ luật dân sự. Miễn án phí sơ thẩm dân sự cho bà Nguyễn Thị H1.
2. Những điểm chưa phù hợp trong bn án sơ thẩm.
Theo nhóm chúng tôi bản án thẩm số 18/2023/DS-ST ngày 26/06/2023 do Tòa án
nhân dân thị MH, Tỉnh Hưng Yên ra quyết định 3 điểm chưa ràng, chưa hợp
về Nội dung bản án, Nhận định của Tòa án, Quyết định của Tòa án.
2.1. Nội dung bản án chưa cụ thể dẫn đến nhiều điểm bất hợp lý.
Thứ nhất, về phần các đương sự. Các đương sự được trình bày trong bản án bao gồm:
nguyên đơn - Nguyễn Thị H1, bị đơn - ông Nguyễn Đức Th, người quyền lợi
nghĩa vụ liên quan (đứng về phía nguyên đơn) - bà Nguyễn Thị L và bà Nguyễn Thị H2.
Tuy nhiên trong nội dung của bản án lại đưa ra: “… bà H1 làm đơn đề nghị Uỷ ban nhân
dân phường B, thị xã MH cử người giám hộ cho ông T …bà H1 khởi kiện yêu cầu Tòa án
chỉ định bà Nguyễn Thị H2 người giám hộ cho ông T theo quy định tại Điều 54 của
BLDS 2015.” (theo nội dung đơn khởi kiện, lời khai của nguyên đơn bà Nguyễn
Thị H1 và lời khai của những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đứng về phía nguyên
đơn) và “Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Chỉ định bà Nguyễn Thị H2 làm
lOMoARcPSD| 61630929
người giám hộ cho ông Nguyễn Đức T bị mất ng lực hành vi dân sự; ch định bà Nguyễn
Thị H1 người giám sát việc giám hộ. Miễn án phí dân sthẩm cho Nguyễn Thị
H1.” (theo phần về đường lối giải quyết vụ án). Như vậy, bản án cũng không nêu lên những
nội dung khởi kiện liên quan đến ông Th, điều này là một điểm bất hợp lý.
Thứ hai, thiếu sót của bản án về các căn cứ liên quan đến vấn đề cử người giám hộ.
Trong bán án này ta thấy: Ông Nguyễn Đức T người mất năng lực hành vi dân sự nhưng
không người giám hộ đương nhiên
1
. Do đó, UBND cấp nơi trú của ông T
trách nhiệm cử người giám hộ cho ông T
2
. Tuy nhiên, “…bà H1 làm đơn đề nghị
UBND phường B, thị MH cử người giám hcho ông T nhưng em trai bà ông Nguyễn
Đức Th không hợp tác, không đến trụ sở UBND phường B để làm thủ tục cử người giám
hộ cho ông T…”. Đối với trường hợp này, chiếu theo Khoản 2 Điều 54 BLDS 2015 về
việc cử, chđịnh người giám hộ, việc cử người giám hộ phải được sự đồng ý của người
được cử làm người giám hộ thì ông Th hoàn toàn có quyền từ chối trở thành người giám
hộ của ông T. Nhưng nội dung vụ án lại không đề cập ràng đến vấn đề này, không
văn bản chứng minh ông Th có từ chối hay không hay chỉ không hợp tác.
Nếu ông Th từ chối, UBND cấp phải trách nhiệm cử người khác hoặc cử theo
thoả thuận giữa các anh chị em ông T. Đây là thẩm quyền của UBND cấp xã theo Khoản
1 Điều 54 BLDS 2015 - Tòa án sẽ chỉ định người giám hộ trong trường hợp có tranh chấp
giữa những người giám hộ quy định tại Điều 52 và Điều 53 của BLDS về người giám hộ
hoặc tranh chấp về việc cử người giám hộ. Nếu trong trường hợp này, chưa thấy có tranh
chấp về người giám hộ xảy ra vì tranh chấp về người giám hộ chỉ xảy ra nếu ông Th đồng
ý trở thành người giám hộ cho ông T nhưng không hoàn thành nghĩa vụ, gây ảnh hưởng
đến người có quyền và lợi ích hợp pháp thì những anh chị em còn lại có quyền khởi kiện
lên tòa, yêu cầu tòa chỉ định người giám hộ hoặc tranh chấp riêng giữa những người
liên quan được UBND cấp cử làm người giám hộ. Do đó UBND cấp phải tiếp tục
có trách nhiệm cử người khác làm người giám hộ cho ông T. Việc cử người giám hộ phải
văn bản, tuân theo trình tự thủ tục được quy định trong Khoản 3 Điều 54 BLDS
1
Theo quy định tại Điều 53 BLDS 2015
2
Theo quy định tại Điều 54 BLDS 2015
lOMoARcPSD| 61630929
2015. Nhưng trong nội dung vụ án lại không văn bản nào đề cập đến việc UBND cấp
xã đã cử người giám hộ sau khi ông Th từ chối chỉ định bản thân làm người giám hộ hay
chưa, đồng thời cũng không nêu ra trường hợp có tranh chấp về người giám hộ để dẫn tới
việc cần Tòa án chỉ định người giám hộ.
2.2. Nhận định của tòa án còn chưa đầy đủ:
Về nhận định [1] của tòa án về thẩm quyền giải quyết vụ án. Trong phần nội dung bản
án không có văn bản nào đề cập đến việc UBND cấp xã đã cử người giám hộ sau khi ông
Th từ chối chỉ định bản thân làm người giám hộ hay chưa, đồng thời cũng không nêu ra
trường hợp tranh chấp về người giám hộ để dẫn tới việc cần Tòa án chỉ định người
giám hộ theo Khoản 1 Điều 54 BLDS 2015. Do đó, việc tòa án nhận định “đây vụ án
tranh chấp về chỉ định người giám hộ đối với người mất năng lực hành vi dân sự thuộc
thẩm quyền giải quyết của TAND thị xã MH, tỉnh Hưng Yênchưa đủ căn cứ.
Về nhận định [4] của tòa án vviệc H2 “đủ điều kiện để làm người giám hộ theo
quy định tại Điều 49 của BLDS tự nguyện nuôi dưỡng giám hộ ông T người bị mất
năng lực hành vi dân sự”. Tuy nhiên, nhận định này chỉ nêu rằng “Bà Nguyễn Thị H2
thực hiện các quyền của người giám hộ theo quy định tại Điều 58, 59 của Bộ luật dân sự
và các quy định pháp luật có liên quan”không đề cập tới nghĩa vụ của người giám hộ
quy đnh tại Khoản 1 Điều 57 BLDS. Theo đó, người giám hộ đối với người mất năng lực
hành vi dân sự cần phải có nghĩa vụ chăm sóc, bảo đảm việc điều trị bệnh cho người được
giám hộ; nghĩa vụ đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự; nghĩa vụ
quản tài sản của người được giám hộ; nghĩa vbảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
người được giám hộ. Như vậy, tòa án vẫn chưa nhận định đầy đủ về nghĩa vụ của người
giám hộ đối với người được giám hộ.
Về nhận định [5] của tòa án về việc chấp nhận yêu cầu cử bà Nguyễn Thị H1 là người
giám sát việc giám hộ cho ông Nguyễn Đức T. Khoản 1 điều Điều 51 BLDS 2015 về Giám
sát việc giám hộ có quy định về giám sát giám hộ phải các điều kiện như sau: Người
thân thích của người được giám hộ phải thỏa thuận cử người giám sát việc giám hộ trong
số những người thân thích hoặc chọn nhân, pháp nhân khác làm người giám sát việc
giám hộ và việc cử chọn người giám sát việc giám hộ phải được sự đồng ý của người
lOMoARcPSD| 61630929
đó. Trong trường hợp này H1 tnguyện nhận nên chắc chắn sự đồng ý của người
được cử giám sát giám hộ. Tuy nhiên, về yêu cầu do người thân thích của người được
giám hộ thỏa thuận” cử thì chưa đảm bảo. Trong trường hợp này, để cử người giám sát
giám hộ cần sự đồng thuận của người thân thích của ông T bao gồm H1, bà L ông
Th (là anh chị em của ông T). Mà nội dung bản án ở đây chưa có cơ sở xác định sự đồng
thuận của ông Th với vấn đề này. ông Th chỉ xác nhận các nội dung thông tin như
nguyên đơn cung cấp đúng không ý kiến về việc chỉ định H2 làm người
giám hộ cho ông T chỉ định bà H1 là người giám sát việc giám hộ nhưng ông Th đều
không ký vào các biên bản làm việc, biên bản ghi lời khai. Vậy vấn đề đây chưa
sở chứng minh sự thỏa thuận của ông Th về việc cử người giám sát giám hộ
bà H1 nhưng tòa vẫn nhận định bà H1 có đủ điều kiện trở thành người giám sát giám
hộ của ông Nguyễn Đức T.
2.3. Quyết định của tòa án chưa đủ cơ sở.
Thứ nhất, về căn cứ pháp lý mà tòa án đưa ra, căn cứ mà Tòa án đưa ra “Khoản 14
Điều 26, điểm a khoản 3 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm b khoản 1 Điều 227,
Điều 228, Điều 238 của BLTTDS, Điều 47, Điều 48, Điều 49, Điều 51, Điều 53, Điều 54
BLDS”. Trong đó, điểm a khoản 3 Điều 35 không trong BLTTDS 2015: Điều 35. Thẩm
quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện: 3. Những tranh chấp, yêu cầu quy định tại khoản
1 khoản 2 Điều này đương sự hoặc tài sản nước ngoài hoặc cần phải ủy thác
pháp cho quan đại diện nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam nước ngoài,
cho Tòa án, quan thẩm quyền của nước ngoài không thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án nhân dân cấp huyện, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này.” Như vậy,
việc đưa ra căn cứ pháp lý ở đây còn chưa chính xác.
Thứ hai, tòa vẫn tuyên án ông Nguyễn Đức Th chưa vào các biên bản làm
việc, biên bản ghi lời khai. Việc cử người giám sát giám hộ đối với ông Nguyễn Đức T
phải có sự thỏa thuận đồng ý cử của những người thân thích của người được giám hộ
3
.
Trong trường hợp này, ông T không còn cha mẹ, có vcon chỉ có 04 người anh chem
ruột là Ông Nguyễn Đức T có 04 anh chị em ruột là bà Nguyễn Thị H1, bà Nguyễn Thị L,
3
Theo khoản 1 Điều 51 BLDS 2015
lOMoARcPSD| 61630929
ông Nguyễn Đức Th và ông Nguyễn Đức Thúy (đã chết năm 2021). Vì vậy, việc cử người
giám sát giám hộ cho ông T thì phải sự thỏa thuận cử của H1, L ông Th. Nhưng
ông Th lại không sự xác nhận hợp pháp về việc đồng ý cho H1 người giám sát
việc giám hộ - mặc dù cán bộ có đến gặp ông Th nhưng ông không ký vào biên bản, việc
này sẽ làm phát sinh hậu quả pháp lý sau này khi có tranh chấp về việc giám hộ, lúc đó sẽ
gây khó khăn cho việc xác nhận rằng ông Th đã đồng ý. Cần phải sự xác nhận hợp pháp
bằng việc ký vào biên bản làm việc, biên bản lời khai của ông Th để làm căn cứ hợp pháp
cho quyết định của toà án. Tuy nhiên tòa vẫn tuyên án và quyết định bà H1 trở thành người
giám sát giám hộ cho ông T chưa xác nhận hợp pháp đó. Đây sự thiếu căn cứ
trong quyết định của tòa án.
3. Những quan điểm về việc giải quyết vụ việc phù hợp với quy định của pháp luật.
Qua việc phân tích những điểm chưa hợp lý trong nội dung bản án cũng nnhận đnh
và quyết định của Tòa án nhân dân thị xã MH - tỉnh Hưng Yên khi xét xử vụ án về tranh
chấp liên quan đến yêu cầu chỉ định người giám hộ đối với người mất năng lực hành vi
n sự, nhóm chúng tôi xin đưa ra một số hướng để giải quyết vụ việc, như sau:
Trước tiên, khi UBND cấp cử ông Nguyễn Đức Th làm người giám hộ cho người
mất năng lực hành vi dân sự ông Nguyễn Đức T, cần xem xét thái độ không hợp tác
từ chối của ông Th cần văn bản xác minh việc ông Th từ chối khi được cử làm
người giám hộ hay không.
“Để thực hiện quyền đại diện cho ông T trong các giao dịch dân sự, quản lí tài sản
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho ông T, H1 làm đơn đề nghị UBND phường B, thị
xã MH cử người giám hộ cho ông T nhưng em trai bà là ông Nguyễn Đức Th không hợp
tác, không đến trụ sở UBND phường B để làm thủ tục cử người giám hộ cho ông T”. Từ
nội dung bản án nêu trên cho thấy ông Th thái độ không hợp tác trong quá trình cử
người giám hộ cho ông T nhưng lại không nói rằng ông Th từ chối việc trở thành
người giám hộ của ông T hay không. theo Khoản 2 Điều 54 BLDS về việc cử, chỉ
định người giám hộ, ông Th hoàn toàn có quyền từ chối trở thành người giám hộ ca ông
T. vậy UBND cấp cần xác thực vấn đề này, bằng cách cử cán bộ đến làm việc tại
nhà ông Th để lấy lời khai ý kiến và phải có văn bản chứng minh bằng cách cử người đến
lOMoARcPSD| 61630929
nơi cư trú của ông Th để xác minh vấn đề này để từ đó đưa ra hướng giải quyết cho người
có quyền và lợi ích hợp pháp liên quan.
Tiếp đó, từ việc có căn cứ xác minh ông Th từ chối giám hộ cho ông T, tòa cũng cần
phải xem xét đây có phải vụ việc có tranh chấp về cử người giám hộ theo Khoản 1 Điều
54 BLDS về cử, chỉ định người giám hộ để xác định thẩm quyền giải quyết vụ việc. Vụ
việc có thể xử lý theo hai trường hợp sau:
Trường hợp 1, trong trường hợp không tranh chấp về việc cử người giám hộ cho
ông T ông Th tchối việc trở thành người giám hộ: Đây vviệc thuộc thẩm quyền
giải quyết của Ủy ban nhân dân phường B theo quy định tại Khoản 1 Điều 54 BLDS 2015:
Ủy ban nhân dân phường B phải tiếp tục cử người khác làm người giám hộ cho ông T
được sự đồng thuận của họ thì người đó mới trở thành người giám hộ hợp pháp của ông
T. thể cử H2, khi sự đồng ý của H2 thì hoàn toàn thể trở thành người
giám hộ cho ông T theo thủ tục cử người giám hcăn cứ tại Khoản 1 Điều 22, Điều 54
BLDS 2015; Điều 376, 377, 378 BLTTDS 2015.
Trường hợp 2, trong trường hợp gisử Tòa án xác định tranh chấp về việc cử người
giám hộ đối với người mất năng lực hành vi dân sự (mà nội dung bản án chưa nêu rõ)
thì Tòa án sẽ chỉ định người giám hộ theo quy định tại Khoản 1 Điều 54 BLDS 2015. “Tòa
án sẽ chỉ định người giám hộ trong trường hợp tranh chấp giữa những người giám h
quy định tại Điều 52 Điều 53 của BLDS 2015 về người giám hộ hoặc tranh chấp về
việc cử người giám hộ”
Sau khi chỉ định, người được chỉ định sẽ làm thủ tục đăng kí giám hộ:
Theo Điều 20, 21 Luật Hộ tịch 2014 và Quyết định 1872/QĐ-BTP ngày 04/9/2020
4
,
thủ tục đăng ký giám hộ được quy định như sau:
Bước 1: Chuẩn bị hồ sơ
Bước 2: Nộp h
Bước 3: Giải quyết hồ sơ
Ngoài ra, Tòa án cần xác minh về sự đồng thuận của ông Th về việc H1 trở thành
người giám sát giám hộ. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 51 BLDS: “Người thân thích
4
Phụ luc
lOMoARcPSD| 61630929
của người được giám hthỏa thuận cử người giám hộ trong số những người thân thích…”.
Tòa án cần phải xác minh qua các biên bản cho thấy sự đồng thuận của những người thân
thích của người mất hành vi năng lực dân sư – bao gồm: Bà H1, ông Th, bà L. Từ đó, vấn
đề cử người giám sát giám h sẽ được xử lý theo hai trường hợp:
Trường hợp 1, nếu ông Th không đồng ý nghĩa là không sự đồng thuận giữa
những người thân thích của người được giám hộ về việc cử người giám sát giám hộ. Do
đó, Ủy ban nhân dân cấp nơi trú của người giám hộ cử nhân hoặc pháp nhân giám
sát việc giám hộ. (Khoản 2 Điều 51 BLDS)
Trường hợp 2, nếu ông Th đồng ý để bà H1 trở thành người giám sát việc giám hộ, tức
sự đồng thuận về cử người giám sát việc giám hộ giữa những người thân thích của
người được giám hộ. Thì cần biên bản minh chứng sự đồng thuận đó, tức ông Th
phải vào các biên bản lấy lời khai, ý kiến của tòa án. Từ đó, bà H1 thể là người giám
sát việc giám hộ hợp pháp theo quy định tại Khoản 1 Điều 51 BLDS.
4. Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành.
Thứ nhất, cần quy định cụ thể về cách giải quyết các trường hợp không hợp tác
trong việc đưjợc Ủy ban nhân dân cấp xã (phường) cử làm người giám hộ để dễ dàng
xử vụ án: Theo điều 54 BLDS 2015 quy định trường hợp người mất năng lực hành vi
dân sự không người giám hộ đương nhiên theo quy định tại điều 52 điều 53 thì
UBND cấp nơi trú của người được giám hộ trách nhiệm cử người giám hộ
việc cử người giám hộ phải được sự đồng ý của người đó. Vấn đề đặt ra từ bản án là sau
khi người được cử làm người giám hộ không hợp tác gây khó khăn hay từ chối việc được
cử làm người giám hộ thì UBND cấp xã cần tiếp tục xử lý như thế nào và cần có các biên
bản, văn bản chứng minh sự từ chối của người được cử làm người giám hộ. vậy kiến
nghị của nhóm chúng tôi đưa ra hướng giải quyết cụ thể hơn để giải quyết vấn đề trên tức
khi sự từ chối của người được cử làm giám hộ cần văn bản chứng minh, đưa ra
các quy định cụ thể trong trường hợp này để UBND cấp tiếp tục cử người giám hộ kế
tiếp cho người mất năng lực hành vi dân sự hoặc quy định việc từ chối đó trở thành tranh
chấp về cử người giám hộ để Tòa án chỉ định
lOMoARcPSD| 61630929
Thứ hai, theo khoản 1 điều 54 BLDS 2015 vviệc giám sát việc giám hộ “Trường hợp
người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự không người giám hđương
nhiên theo quy định tại Điều 52 Điều 53 của Bộ luật này thì Ủy ban nhân dân cấp
nơi trú của người được giám hộ trách nhiệm cử người giám hộ. Trường hợp tranh
chấp giữa những người giám hộ quy định tại Điều 52 Điều 53 của Bộ luật này về người
giám hộ hoặc tranh chấp về việc cử người giám hộ thì Tòa án chđịnh người giám hộ.”
Tuy nhiên pháp luật hiện hành chưa quy định cụ thể về các trường hợp tranh chấp về việc
cử người giám hộ, để yêu cầu tòa án xét xử chỉ định người giám hộ, điều này gây kkhăn
cho việc xác định đúng thẩm quyền xét xử của tòa án, thể gây ra sự “chồng chéo” về
thủ tục phạm lý. Vì vậy nhóm chúng tôi đề xuất việc đưa ra các quy định cụ thể về các
trường hợp tranh chấp về cử người giám hộ cần sự chỉ định của tòa án vừa để xác
định đúng thẩm quyền giải quyết của các quan: xác định đâu vụ việc tranh
chấp để tòa án xlý hay đâu là vụ việc chưa có tranh chấp mà UBND cấp xã có thể giải
quyết. Đồng thời điều này cũng ngăn chặn các trường hợp lạm quyền có thể xảy ra, đồng
thời giúp tạo ra một quá trình pháp công khai, minh bạch, giải quyết các vụ việc một
cách dễ dàng, hiệu quả.
Thứ ba, theo quy định tại điều 51 về người giám sát giám hộ thì cần sự thỏa
thuận của người thân thích của người được giám hộ, do đó cần quy định cụ thể các
văn bản cho thấy sự thỏa thuận cử, chọn của họ. Từ đó giúp việc cử, chỉ định người
giám sát giám hộ đúng với tinh thần của BLDS hiện hành đồng thời tạo sự thống nhất, rõ
ràng, hạn chế và giúp xử lý dễ dàng các mâu thuẫn có thể xảy ra.
KẾT LUẬN
Bản án 18/2023/DS-ST ngày 26/06/2023 vchỉ định người giám hộ đối với người mất
năng lực hành vi dân sự kết quả của quá trình sưu tầm, phân tích,đánh giá cẩn thận,
nghiêm túc các nội dung của vụ việc và những quy định trong chế định Giám hộ liên
quan. Bằng những hiểu biết còn hạn chế, nhóm nghiên cứu đã đưa ra quan điểm về quyết
định của Tán nhân dân thị MH, tỉnh Hưng Yên liên quan đến việc chỉ định người
giám hộ, người giám sát việc giám hộ. Đồng thời, chúng tôi cũng mạnh dạn kiến nghị một
lOMoARcPSD| 61630929
số giải pháp nhằm hoàn thiện các điều luật thuộc chế định này, tập trung vào các quy định
về người giám hộ và các điều kiện của người giám hộ. Hi vọng bài viết sẽ mang đến một
khía cạnh khác đgóc nhìn về pháp luật dân sự được mở rộng, đào sâu và mang tính thực
tiễn hơn.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61630929 LỜI NÓI ĐẦU
Giám hộ là một chế định quan trọng trong pháp luật Dân sự Việt Nam, thể hiện sự quan
tâm sâu sắc của Nhà nước và xã hội ta đối với người chưa thành niên có hoàn cảnh đặc
biệt và người mất năng lực hành vi dân sự. Ngay từ Bộ luật Dân sự 1995 - bộ luật Dân sự
đầu tiên của Việt Nam đã có những quy định về chế định Giám hộ với mục đích bảo vệ
đối tượng là người yếu thế, những đối tượng đặc biệt cần được pháp luật và xã hội quan
tâm. Tuy nhiên, những vấn đề về dân sự không đơn thuần chỉ là cách xử sự được quy định
trong luật pháp mà còn chứa đựng cả yếu tố phức tạp trong các quan hệ đời sống thường
ngày của con người vì thế trong thực tiễn xét xử, không phải vụ việc nào cũng được giải
quyết thấu trọn cả lý lẫn tình. Đề cập đến nguyên nhân của vấn đề này, có thể kể đến các
yếu tố như năng lực, trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền xét xử, những hạn chế còn
tồn tại trong các quy định pháp luật hiện hành. Từ Bản án 18/2023/DS-ST ngày 26/06/2023
về chỉ định người giám hộ đối với người mất năng lực hành vi dân sự, qua phân tích những
điểm chưa phù hợp và đưa ra hướng giải quyết mà nhóm nghiên cứu cho là đúng với quy
định của pháp luật, chúng tôi xin đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện những quy định
pháp luật hiện hành về chế định này. Nội dung cụ thể sẽ được trình bày trong bài viết dưới đây. NỘI DUNG
1. Tóm tắt nội dung vụ việc.
Ngày 26 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã MH, tỉnh Hưng Yên xét
xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 22/2023/TLST – DS ngày 09/5/2023, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H1, trú tại: Tổ dân phố L, phường N, thị xã MH, tỉnh Hưng Yên.
Bị đơn: Ông Nguyễn Đức Th, trú tại: Tổ dân phố C, phường B, thị xã MH, tỉnh Hưng Yên. lOMoAR cPSD| 61630929
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (đứng về phía nguyên đơn): Bà Nguyễn Thị
L, trú tại: Thôn Ngọc Tỉnh, xã Ngọc Long, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên; Bà Nguyễn
Thị H2, trú tại: Tổ dân phố Cộng Hòa, phường B, thị xã MH, tỉnh Hưng Yên.
Nội dung việc dân sự: Bà Nguyễn Thị H1 yêu cầu tòa án chỉ định người giám hộ và
người giám sát việc giám hộ cho ông Nguyễn Đức T, người mất năng lực hành vi dân sự.
Bà đề nghị chỉ định bà Nguyễn Thị H2 là người giám hộ và bà Nguyễn Thị H1 là người giám sát việc giám hộ.
Theo nội dung đơn khởi kiện, lời khai của nguyên đơn bà Nguyễn Thị H1 và lời khai
của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đứng về phía nguyên đơn gồm bà
Nguyễn Thị L và bà Nguyễn Thị H2 thể hiện:
Quyết định của Tòa án: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Chỉ định bà Nguyễn Thị
H2 làm người giám hộ cho ông Nguyễn Đức T, và chỉ định bà Nguyễn Thị H1 làm người
giám sát việc giám hộ. Người giám hộ và người giám sát thực hiện các quyền và nghĩa vụ
theo quy định của Bộ luật dân sự. Miễn án phí sơ thẩm dân sự cho bà Nguyễn Thị H1.
2. Những điểm chưa phù hợp trong bản án sơ thẩm.
Theo nhóm chúng tôi bản án sơ thẩm số 18/2023/DS-ST ngày 26/06/2023 do Tòa án
nhân dân thị xã MH, Tỉnh Hưng Yên ra quyết định có 3 điểm chưa rõ ràng, chưa hợp lý
về Nội dung bản án, Nhận định của Tòa án, Quyết định của Tòa án.
2.1. Nội dung bản án chưa cụ thể dẫn đến nhiều điểm bất hợp lý.
Thứ nhất, về phần các đương sự. Các đương sự được trình bày trong bản án bao gồm:
nguyên đơn - bà Nguyễn Thị H1, bị đơn - ông Nguyễn Đức Th, người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan (đứng về phía nguyên đơn) - bà Nguyễn Thị L và bà Nguyễn Thị H2.
Tuy nhiên trong nội dung của bản án lại đưa ra: “… bà H1 làm đơn đề nghị Uỷ ban nhân
dân phường B, thị xã MH cử người giám hộ cho ông T …bà H1 khởi kiện yêu cầu Tòa án
chỉ định bà Nguyễn Thị H2 là người giám hộ cho ông T theo quy định tại Điều 54 của
BLDS 2015.” (theo nội dung đơn khởi kiện, lời khai của nguyên đơn bà Nguyễn
Thị H1 và lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đứng về phía nguyên
đơn) và “Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Chỉ định bà Nguyễn Thị H2 làm lOMoAR cPSD| 61630929
người giám hộ cho ông Nguyễn Đức T bị mất năng lực hành vi dân sự; chỉ định bà Nguyễn
Thị H1 là người giám sát việc giám hộ. Miễn án phí dân sự sơ thẩm cho bà Nguyễn Thị
H1.” (theo phần về đường lối giải quyết vụ án). Như vậy, bản án cũng không nêu lên những
nội dung khởi kiện liên quan đến ông Th, điều này là một điểm bất hợp lý.
Thứ hai, thiếu sót của bản án về các căn cứ liên quan đến vấn đề cử người giám hộ.
Trong bán án này ta thấy: Ông Nguyễn Đức T là người mất năng lực hành vi dân sự nhưng
không có người giám hộ đương nhiên 1. Do đó, UBND cấp xã nơi cư trú của ông T có
trách nhiệm cử người giám hộ cho ông T2. Tuy nhiên, “…bà H1 làm đơn đề nghị
UBND phường B, thị xã MH cử người giám hộ cho ông T nhưng em trai bà là ông Nguyễn
Đức Th không hợp tác, không đến trụ sở UBND phường B để làm thủ tục cử người giám
hộ cho ông T…”. Đối với trường hợp này, chiếu theo Khoản 2 Điều 54 BLDS 2015 về
việc cử, chỉ định người giám hộ, việc cử người giám hộ phải được sự đồng ý của người
được cử làm người giám hộ thì ông Th hoàn toàn có quyền từ chối trở thành người giám
hộ của ông T. Nhưng nội dung vụ án lại không đề cập rõ ràng đến vấn đề này, không có
văn bản chứng minh ông Th có từ chối hay không hay chỉ không hợp tác.
Nếu ông Th từ chối, UBND cấp xã phải có trách nhiệm cử người khác hoặc cử theo
thoả thuận giữa các anh chị em ông T. Đây là thẩm quyền của UBND cấp xã theo Khoản
1 Điều 54 BLDS 2015 - Tòa án sẽ chỉ định người giám hộ trong trường hợp có tranh chấp
giữa những người giám hộ quy định tại Điều 52 và Điều 53 của BLDS về người giám hộ
hoặc tranh chấp về việc cử người giám hộ. Nếu trong trường hợp này, chưa thấy có tranh
chấp về người giám hộ xảy ra vì tranh chấp về người giám hộ chỉ xảy ra nếu ông Th đồng
ý trở thành người giám hộ cho ông T nhưng không hoàn thành nghĩa vụ, gây ảnh hưởng
đến người có quyền và lợi ích hợp pháp thì những anh chị em còn lại có quyền khởi kiện
lên tòa, yêu cầu tòa chỉ định người giám hộ hoặc có tranh chấp riêng giữa những người
liên quan được UBND cấp xã cử làm người giám hộ. Do đó UBND cấp xã phải tiếp tục
có trách nhiệm cử người khác làm người giám hộ cho ông T. Việc cử người giám hộ phải
có văn bản, tuân theo trình tự và thủ tục được quy định trong Khoản 3 Điều 54 BLDS
1 Theo quy định tại Điều 53 BLDS 2015
2 Theo quy định tại Điều 54 BLDS 2015 lOMoAR cPSD| 61630929
2015. Nhưng trong nội dung vụ án lại không có văn bản nào đề cập đến việc UBND cấp
xã đã cử người giám hộ sau khi ông Th từ chối chỉ định bản thân làm người giám hộ hay
chưa, đồng thời cũng không nêu ra trường hợp có tranh chấp về người giám hộ để dẫn tới
việc cần Tòa án chỉ định người giám hộ.
2.2. Nhận định của tòa án còn chưa đầy đủ:
Về nhận định [1] của tòa án về thẩm quyền giải quyết vụ án. Trong phần nội dung bản
án không có văn bản nào đề cập đến việc UBND cấp xã đã cử người giám hộ sau khi ông
Th từ chối chỉ định bản thân làm người giám hộ hay chưa, đồng thời cũng không nêu ra
trường hợp có tranh chấp về người giám hộ để dẫn tới việc cần Tòa án chỉ định người
giám hộ theo Khoản 1 Điều 54 BLDS 2015. Do đó, việc tòa án nhận định “đây là vụ án
tranh chấp về chỉ định người giám hộ đối với người mất năng lực hành vi dân sự thuộc
thẩm quyền giải quyết của TAND thị xã MH, tỉnh Hưng Yên”chưa đủ căn cứ.
Về nhận định [4] của tòa án về việc bà H2 “đủ điều kiện để làm người giám hộ theo
quy định tại Điều 49 của BLDS và tự nguyện nuôi dưỡng giám hộ ông T – người bị mất
năng lực hành vi dân sự”. Tuy nhiên, nhận định này chỉ nêu rằng “Bà Nguyễn Thị H2
thực hiện các quyền của người giám hộ theo quy định tại Điều 58, 59 của Bộ luật dân sự
và các quy định pháp luật có liên quan” mà không đề cập tới nghĩa vụ của người giám hộ
quy định tại Khoản 1 Điều 57 BLDS. Theo đó, người giám hộ đối với người mất năng lực
hành vi dân sự cần phải có nghĩa vụ chăm sóc, bảo đảm việc điều trị bệnh cho người được
giám hộ; nghĩa vụ đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự; nghĩa vụ
quản lý tài sản của người được giám hộ; nghĩa vụ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
người được giám hộ. Như vậy, tòa án vẫn chưa nhận định đầy đủ về nghĩa vụ của người
giám hộ đối với người được giám hộ.
Về nhận định [5] của tòa án về việc chấp nhận yêu cầu cử bà Nguyễn Thị H1 là người
giám sát việc giám hộ cho ông Nguyễn Đức T. Khoản 1 điều Điều 51 BLDS 2015 về Giám
sát việc giám hộ có quy định về giám sát giám hộ phải có các điều kiện như sau: Người
thân thích của người được giám hộ phải thỏa thuận cử người giám sát việc giám hộ trong
số những người thân thích hoặc chọn cá nhân, pháp nhân khác làm người giám sát việc
giám hộ và việc cử và chọn người giám sát việc giám hộ phải được sự đồng ý của người lOMoAR cPSD| 61630929
đó. Trong trường hợp này bà H1 tự nguyện nhận nên chắc chắn có sự đồng ý của người
được cử giám sát giám hộ. Tuy nhiên, về yêu cầu “do người thân thích của người được
giám hộ thỏa thuận” cử thì chưa đảm bảo. Trong trường hợp này, để cử người giám sát
giám hộ cần có sự đồng thuận của người thân thích của ông T bao gồm bà H1, bà L và ông
Th (là anh chị em của ông T). Mà nội dung bản án ở đây chưa có cơ sở xác định sự đồng
thuận của ông Th với vấn đề này. Vì ông Th chỉ xác nhận các nội dung thông tin như
nguyên đơn cung cấp là đúng và không có ý kiến gì về việc chỉ định bà H2 làm người
giám hộ cho ông T và chỉ định bà H1 là người giám sát việc giám hộ nhưng ông Th đều
không ký vào các biên bản làm việc, biên bản ghi lời khai. Vậy vấn đề ở đây là dù chưa
có cơ sở chứng minh sự thỏa thuận của ông Th về việc cử người giám sát giám hộ là
bà H1 nhưng tòa vẫn nhận định bà H1 có đủ điều kiện trở thành người giám sát giám
hộ của ông Nguyễn Đức T.
2.3. Quyết định của tòa án chưa đủ cơ sở.
Thứ nhất, về căn cứ pháp lý mà tòa án đưa ra, căn cứ mà Tòa án đưa ra “Khoản 14
Điều 26, điểm a khoản 3 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm b khoản 1 Điều 227,
Điều 228, Điều 238 của BLTTDS, Điều 47, Điều 48, Điều 49, Điều 51, Điều 53, Điều 54
BLDS”. Trong đó, điểm a khoản 3 Điều 35 không có trong BLTTDS 2015: Điều 35. Thẩm
quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện: 3. Những tranh chấp, yêu cầu quy định tại khoản
1 và khoản 2 Điều này mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác
tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài,
cho Tòa án, cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài không thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án nhân dân cấp huyện, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này.” Như vậy,
việc đưa ra căn cứ pháp lý ở đây còn chưa chính xác.
Thứ hai, tòa vẫn tuyên án dù ông Nguyễn Đức Th chưa ký vào các biên bản làm
việc, biên bản ghi lời khai. Việc cử người giám sát giám hộ đối với ông Nguyễn Đức T
phải có sự thỏa thuận đồng ý cử của những người thân thích của người được giám hộ3.
Trong trường hợp này, ông T không còn cha mẹ, có vợ con mà chỉ có 04 người anh chị em
ruột là Ông Nguyễn Đức T có 04 anh chị em ruột là bà Nguyễn Thị H1, bà Nguyễn Thị L,
3 Theo khoản 1 Điều 51 BLDS 2015 lOMoAR cPSD| 61630929
ông Nguyễn Đức Th và ông Nguyễn Đức Thúy (đã chết năm 2021). Vì vậy, việc cử người
giám sát giám hộ cho ông T thì phải có sự thỏa thuận cử của bà H1, bà L và ông Th. Nhưng
ông Th lại không có sự xác nhận hợp pháp về việc đồng ý cho bà H1 là người giám sát
việc giám hộ - mặc dù cán bộ có đến gặp ông Th nhưng ông không ký vào biên bản, việc
này sẽ làm phát sinh hậu quả pháp lý sau này khi có tranh chấp về việc giám hộ, lúc đó sẽ
gây khó khăn cho việc xác nhận rằng ông Th đã đồng ý. Cần phải có sự xác nhận hợp pháp
bằng việc ký vào biên bản làm việc, biên bản lời khai của ông Th để làm căn cứ hợp pháp
cho quyết định của toà án. Tuy nhiên tòa vẫn tuyên án và quyết định bà H1 trở thành người
giám sát giám hộ cho ông T dù chưa có xác nhận hợp pháp đó. Đây là sự thiếu căn cứ
trong quyết định của tòa án.
3. Những quan điểm về việc giải quyết vụ việc phù hợp với quy định của pháp luật.
Qua việc phân tích những điểm chưa hợp lý trong nội dung bản án cũng như nhận định
và quyết định của Tòa án nhân dân thị xã MH - tỉnh Hưng Yên khi xét xử vụ án về tranh
chấp liên quan đến yêu cầu chỉ định người giám hộ đối với người mất năng lực hành vi
dân sự, nhóm chúng tôi xin đưa ra một số hướng để giải quyết vụ việc, như sau:
Trước tiên, khi UBND cấp xã cử ông Nguyễn Đức Th làm người giám hộ cho người
mất năng lực hành vi dân sự là ông Nguyễn Đức T, cần xem xét thái độ không hợp tác –
từ chối của ông Th và cần có văn bản xác minh việc ông Th có từ chối khi được cử làm
người giám hộ hay không.
“Để thực hiện quyền đại diện cho ông T trong các giao dịch dân sự, quản lí tài sản và
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho ông T, bà H1 làm đơn đề nghị UBND phường B, thị
xã MH cử người giám hộ cho ông T nhưng em trai bà là ông Nguyễn Đức Th không hợp
tác, không đến trụ sở UBND phường B để làm thủ tục cử người giám hộ cho ông T”. Từ
nội dung bản án nêu trên cho thấy ông Th có thái độ không hợp tác trong quá trình cử
người giám hộ cho ông T nhưng lại không nói rõ rằng ông Th có từ chối việc trở thành
người giám hộ của ông T hay không. Mà theo Khoản 2 Điều 54 BLDS về việc cử, chỉ
định người giám hộ, ông Th hoàn toàn có quyền từ chối trở thành người giám hộ của ông
T. Vì vậy UBND cấp xã cần xác thực vấn đề này, bằng cách cử cán bộ đến làm việc tại
nhà ông Th để lấy lời khai ý kiến và phải có văn bản chứng minh bằng cách cử người đến lOMoAR cPSD| 61630929
nơi cư trú của ông Th để xác minh vấn đề này để từ đó đưa ra hướng giải quyết cho người
có quyền và lợi ích hợp pháp liên quan.
Tiếp đó, từ việc có căn cứ xác minh ông Th từ chối giám hộ cho ông T, tòa cũng cần
phải xem xét đây có phải vụ việc có tranh chấp về cử người giám hộ theo Khoản 1 Điều
54 BLDS về cử, chỉ định người giám hộ để xác định thẩm quyền giải quyết vụ việc. Vụ
việc có thể xử lý theo hai trường hợp sau:
Trường hợp 1, trong trường hợp không có tranh chấp về việc cử người giám hộ cho
ông T mà là ông Th từ chối việc trở thành người giám hộ: Đây là vụ việc thuộc thẩm quyền
giải quyết của Ủy ban nhân dân phường B theo quy định tại Khoản 1 Điều 54 BLDS 2015:
Ủy ban nhân dân phường B phải tiếp tục cử người khác làm người giám hộ cho ông T và
được sự đồng thuận của họ thì người đó mới trở thành người giám hộ hợp pháp của ông
T. Có thể cử bà H2, và khi có sự đồng ý của bà H2 thì hoàn toàn có thể trở thành người
giám hộ cho ông T theo thủ tục cử người giám hộ căn cứ tại Khoản 1 Điều 22, Điều 54
BLDS 2015; Điều 376, 377, 378 BLTTDS 2015.
Trường hợp 2, trong trường hợp giả sử Tòa án xác định có tranh chấp về việc cử người
giám hộ đối với người mất năng lực hành vi dân sự (mà ở nội dung bản án chưa nêu rõ)
thì Tòa án sẽ chỉ định người giám hộ theo quy định tại Khoản 1 Điều 54 BLDS 2015. “Tòa
án sẽ chỉ định người giám hộ trong trường hợp có tranh chấp giữa những người giám hộ
quy định tại Điều 52 và Điều 53 của BLDS 2015 về người giám hộ hoặc tranh chấp về
việc cử người giám hộ”
Sau khi chỉ định, người được chỉ định sẽ làm thủ tục đăng kí giám hộ:
Theo Điều 20, 21 Luật Hộ tịch 2014 và Quyết định 1872/QĐ-BTP ngày 04/9/20204,
thủ tục đăng ký giám hộ được quy định như sau:
Bước 1: Chuẩn bị hồ sơ Bước 2: Nộp hồ sơ
Bước 3: Giải quyết hồ sơ
Ngoài ra, Tòa án cần xác minh về sự đồng thuận của ông Th về việc bà H1 trở thành
người giám sát giám hộ. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 51 BLDS: “Người thân thích 4 Phụ luc lOMoAR cPSD| 61630929
của người được giám hộ thỏa thuận cử người giám hộ trong số những người thân thích…”.
Tòa án cần phải xác minh qua các biên bản cho thấy sự đồng thuận của những người thân
thích của người mất hành vi năng lực dân sư – bao gồm: Bà H1, ông Th, bà L. Từ đó, vấn
đề cử người giám sát giám hộ sẽ được xử lý theo hai trường hợp:
Trường hợp 1, nếu ông Th không đồng ý có nghĩa là không có sự đồng thuận giữa
những người thân thích của người được giám hộ về việc cử người giám sát giám hộ. Do
đó, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người giám hộ cử cá nhân hoặc pháp nhân giám
sát việc giám hộ. (Khoản 2 Điều 51 BLDS)
Trường hợp 2, nếu ông Th đồng ý để bà H1 trở thành người giám sát việc giám hộ, tức
là có sự đồng thuận về cử người giám sát việc giám hộ giữa những người thân thích của
người được giám hộ. Thì cần có biên bản minh chứng sự đồng thuận đó, tức là ông Th
phải ký vào các biên bản lấy lời khai, ý kiến của tòa án. Từ đó, bà H1 có thể là người giám
sát việc giám hộ hợp pháp theo quy định tại Khoản 1 Điều 51 BLDS.
4. Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành.
Thứ nhất, cần quy định cụ thể về cách giải quyết các trường hợp không hợp tác
trong việc đưjợc Ủy ban nhân dân cấp xã (phường) cử làm người giám hộ để dễ dàng
xử lý vụ án: Theo điều 54 BLDS 2015 quy định trường hợp người mất năng lực hành vi
dân sự không có người giám hộ đương nhiên theo quy định tại điều 52 và điều 53 thì
UBND cấp xã nơi cư trú của người được giám hộ có trách nhiệm cử người giám hộ
việc cử người giám hộ phải được sự đồng ý của người đó. Vấn đề đặt ra từ bản án là sau
khi người được cử làm người giám hộ không hợp tác gây khó khăn hay từ chối việc được
cử làm người giám hộ thì UBND cấp xã cần tiếp tục xử lý như thế nào và cần có các biên
bản, văn bản chứng minh sự từ chối của người được cử làm người giám hộ. Vì vậy kiến
nghị của nhóm chúng tôi đưa ra hướng giải quyết cụ thể hơn để giải quyết vấn đề trên tức
là khi có sự từ chối của người được cử làm giám hộ cần có văn bản chứng minh, đưa ra
các quy định cụ thể trong trường hợp này để UBND cấp xã tiếp tục cử người giám hộ kế
tiếp cho người mất năng lực hành vi dân sự hoặc quy định việc từ chối đó trở thành tranh
chấp về cử người giám hộ để Tòa án chỉ định lOMoAR cPSD| 61630929
Thứ hai, theo khoản 1 điều 54 BLDS 2015 về việc giám sát việc giám hộ “Trường hợp
người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự không có người giám hộ đương
nhiên theo quy định tại Điều 52 và Điều 53 của Bộ luật này thì Ủy ban nhân dân cấp xã
nơi cư trú của người được giám hộ có trách nhiệm cử người giám hộ. Trường hợp có tranh
chấp giữa những người giám hộ quy định tại Điều 52 và Điều 53 của Bộ luật này về người
giám hộ hoặc tranh chấp về việc cử người giám hộ thì Tòa án chỉ định người giám hộ.”
Tuy nhiên pháp luật hiện hành chưa quy định cụ thể về các trường hợp tranh chấp về việc
cử người giám hộ, để yêu cầu tòa án xét xử chỉ định người giám hộ, điều này gây khó khăn
cho việc xác định đúng thẩm quyền xét xử của tòa án, có thể gây ra sự “chồng chéo” về
thủ tục phạm lý. Vì vậy nhóm chúng tôi đề xuất việc đưa ra các quy định cụ thể về các
trường hợp tranh chấp về cử người giám hộ cần có sự chỉ định của tòa án vừa để xác
định đúng thẩm quyền giải quyết của các cơ quan: xác định đâu là vụ việc có tranh
chấp để tòa án xử lý hay đâu là vụ việc chưa có tranh chấp mà UBND cấp xã có thể giải
quyết. Đồng thời điều này cũng ngăn chặn các trường hợp lạm quyền có thể xảy ra, đồng
thời giúp tạo ra một quá trình pháp lý công khai, minh bạch, giải quyết các vụ việc một
cách dễ dàng, hiệu quả.
Thứ ba, theo quy định tại điều 51 về người giám sát giám hộ thì cần có sự thỏa
thuận của người thân thích của người được giám hộ, do đó cần quy định cụ thể các
văn bản cho thấy sự thỏa thuận cử, chọn của họ. Từ đó giúp việc cử, chỉ định người
giám sát giám hộ đúng với tinh thần của BLDS hiện hành đồng thời tạo sự thống nhất, rõ
ràng, hạn chế và giúp xử lý dễ dàng các mâu thuẫn có thể xảy ra. KẾT LUẬN
Bản án 18/2023/DS-ST ngày 26/06/2023 về chỉ định người giám hộ đối với người mất
năng lực hành vi dân sự là kết quả của quá trình sưu tầm, phân tích,đánh giá cẩn thận,
nghiêm túc các nội dung của vụ việc và những quy định trong chế định Giám hộ có liên
quan. Bằng những hiểu biết còn hạn chế, nhóm nghiên cứu đã đưa ra quan điểm về quyết
định của Toà án nhân dân thị xã MH, tỉnh Hưng Yên liên quan đến việc chỉ định người
giám hộ, người giám sát việc giám hộ. Đồng thời, chúng tôi cũng mạnh dạn kiến nghị một lOMoAR cPSD| 61630929
số giải pháp nhằm hoàn thiện các điều luật thuộc chế định này, tập trung vào các quy định
về người giám hộ và các điều kiện của người giám hộ. Hi vọng bài viết sẽ mang đến một
khía cạnh khác để góc nhìn về pháp luật dân sự được mở rộng, đào sâu và mang tính thực tiễn hơn.