
















Preview text:
lOMoAR cPSD| 58412604
BIÊN BẢN XÁC ĐỊNH MỨC ĐỘ THAM GIA VÀ KẾT QUẢ THAM GIA
LÀM BÀI TẬP NHÓM MÔN TÂM LÝ HỌC
Ngày: 01/11/2024 Địa điểm: Trường Đại học Luật Hà Nội Nhóm số: 05 Lớp: 4821
Khoa: Pháp luật kinh tế Khóa: 48
Tổng số sinh viên của nhóm: 09 + Có mặt: 09 + Vắng mặt: 0
Tên bài tập: Bài tập nhóm Môn học: Tâm lý học Mã đề: 14
Xác định mức độ tham gia và kết quả tham gia của từng thành viên trong quá trình làm bài tập nhóm: Mã SV Đánh SV Đánh giá của ST giá ký tên GV Họ và tên T của Điểm GV SV 1
482158 Vũ Nguyễn Phương Tú A 2 482156 Trần Minh Tuấn A 3 482157 Nguyễn Thị Tuyết A 4 482145 Phùng Thị Thái A 5 482146 Nguyễn Nhật Thành A 6 482147 Nguyễn Hoàng Thu A 7
482148 Đinh Ngọc Thanh Thủy A 8
482149 Nguyễn Thị Thu Thủy A
453761 Nguyễn Thị Phương 9 A Thanh
Kết quả điểm bài tập nhóm:
Hà Nội, ngày 01 tháng 11 năm 2024
............................................................ NHÓM TRƯỞNG lOMoAR cPSD| 58412604 Nguyễn Thị Thu Thủy MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
A - PHÂN TÍCH PHƯƠNG PHÁP THỰC NGHIỆM TRONG TÂM LÝ HỌC .. 1
I. Khái niệm phương pháp thực nghiệm trong tâm lý học ................................... 1
II. Phân loại phương pháp thực nghiệm ................................................................ 2
III. Phân tích ưu điểm và nhược điểm của phương pháp thực nghiệm .............. 2
1. Thực nghiệm tự nhiên ....................................................................................... 3
2. Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm ............................................................. 3
B - MỘT SỐ THỰC NGHIỆM TÂM LÝ HỌC NỔI TIẾNG ĐÃ ĐƯỢC THỰC
HIỆN TRÊN THẾ GIỚI ............................................................................................. 6
I. Thiếu hụt giao tiếp xã hội và rối loạn tâm lý ở khỉ con ..................................... 6
II. THÍ NGHIỆM KẸO XỐP .................................................................................. 8
III. NHÀ TÙ STANFORD ..................................................................................... 10
III. HẤP DẪN HÌNH THỂ - HIỆU ỨNG HÀO QUANG .................................. 13
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 15 lOMoAR cPSD| 58412604 MỞ ĐẦU
Tâm lý học là một lĩnh vực khoa học đặc thù, song ngành tâm lý trên thực tế lại
mang bản chất bao hàm tương đối rộng, có ảnh hưởng đáng kể đối với vô số khía cạnh
trong đời sống vật chất, tinh thần cũng như hành vi của con người. Dĩ nhiên, để chứng
minh sự tác động to lớn đó, các nhà tâm lý học đã triển khai, thực hiện các thí nghiệm
tâm lý thực tế trên các đối tượng cụ thể, hay nói cách khác là phương pháp thực nghiệm
tâm lý. Đây là phương pháp quan trọng, có thể nói là yếu tố cốt lõi trong việc định hình
hành vi, xu hướng tâm lý con người. Bởi tâm trí chúng ta, theo quan điểm của một số
triết gia và nhà tâm lý học, là một thực thể đa nhánh, phức tạp; thậm chí còn tồn tại
khái niệm “siêu tâm lý” (tâm trí vô thức) bên cạnh những hành vi tâm lý bề nổi dễ thấy
trong đời thường. Và nhiệm vụ tiên quyết của phương pháp thực nghiệm tâm lý chính
là lý giải hành vi bên ngoài, và bóc tách những xu hướng bên trong, mang tính mơ hồ
mà tâm trí vô thức chi phối.
A - PHÂN TÍCH PHƯƠNG PHÁP THỰC NGHIỆM TRONG TÂM LÝ HỌC
I. Khái niệm phương pháp thực nghiệm trong tâm lý học
Phương pháp thực nghiệm là phương pháp trong đó nhà nghiên cứu chủ động
tạo ra các hiện tượng mà mình cần nghiên cứu sau khi đã tạo ra các hiện tượng sau khi
đã tạo ra điều kiện cần thiết loại trừ yếu tố ngẫu nhiên. Đặc điểm chủ yếu của phương
pháp này là sự tạo ra và kiểm soát các điều kiện ảnh hưởng, từ đó giúp nghiên cứu được
thể hiện tích cực và chủ động của các hiện tượng, sự kiện nghiên cứu.
Ví dụ: Các nhà nghiên cứu có thể sử dụng phương pháp thực nghiệm để điều tra
mối quan hệ giữa nỗi lo lắng và nhu cầu gần gũi xã hội. Họ sẽ bắt đầu bằng cách tạo ra
một tình huống gây ra nỗi lo lắng cho một nhóm người tham gia, sau đó, nhà nghiên
cứu sẽ đo lường mức độ thích ở bên cạnh người khác của nhóm này bằng cách sử dụng
một bảng hỏi hoặc một bài kiểm tra tâm trạng. Bằng cách đối chiếu với kết quả khi
không bị gây ra nỗi lo lắng, các nhà nghiên cứu có thể phân tích tác động của nỗi lo
lắng đối với nhu cầu tìm kiếm sự gần gũi và hỗ trợ từ người khác. lOMoAR cPSD| 58412604
Đây là phương pháp cơ bản trong nghiên cứu khoa học nói chung và tâm lý nói
riêng, mang tính chủ động và sáng tạo rất cao trong việc nghiên cứu tâm lý.
II. Phân loại phương pháp thực nghiệm
Phương pháp thực nghiệm bao gồm thực nghiệm tự nhiên và thực nghiệm trong phòng thí nghiệm.
Thực nghiệm tự nhiên được tiến hành trong các điều kiện sinh hoạt bình thường
của đối tượng thực nghiệm. Các nhà nghiên cứu lợi dụng hoàn cảnh hàng ngày của đối
tượng để thực hiện các chương trình đã xác định.
Ví dụ: Nghiên cứu tác động của việc thay đổi giờ làm việc đến năng suất lao
động: Nhà nghiên cứu có thể tiến hành một nghiên cứu tại một công ty mà ở đó, giờ
làm việc của nhân viên được thay đổi từ 40 giờ mỗi tuần sang 32 giờ mỗi tuần mà
không giảm lương. Mục tiêu là xem liệu sự giảm bớt giờ làm việc có ảnh hưởng tích
cực đến năng suất và sự hài lòng của nhân viên hay không.
Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm là loại thực nghiệm mà nhà nghiên cứ
tạo ra những điều kiện để làm nảy sinh hay phát triển một hiện tượng tâm lý nào đó để
nghiên cứu. Các thực nghiệm này được tiến hành trong điều kiện khống chế một cách
nghiêm ngặt các tác động chi phối, ảnh hưởng từ bên ngoài.
Ví dụ, để nghiên cứu hiệu ứng của việc giảm ánh sáng lên giấc ngủ, người tham
gia có thể được đưa vào một phòng tối để thực hiện các nhiệm vụ khác nhau dưới điều
kiện ánh sáng khác nhau. Sau đó, các nhà nghiên cứu sẽ đo lường các yếu tố như thời
gian hoàn thành nhiệm vụ, khả năng tư duy và tinh thần của người tham gia để đánh
giá tác động của ánh sáng lên giấc ngủ.
III. Phân tích ưu điểm và nhược điểm của phương pháp thực nghiệm
Có thể nói, phương pháp thực nghiệm có nhiều ưu điểm so với các phương pháp
nghiên cứu khác trong tâm lý học. lOMoAR cPSD| 58412604
Xét về hình thức, người ta thường nói đến hai loại thực nghiệm cơ bản là thực
nghiệm trong phòng thí nghiệm và thực nghiệm tự nhiên. Mỗi loại sẽ có những ưu điểm riêng:
1. Thực nghiệm tự nhiên
• Có thể thực hiện dựa trên những điều kiện tự nhiên sẵn có, không phải phụ
thuộc vào máy móc hay trang thiết bị đặc biệt để tiến hành
• Vì là tự nhiên nên hiện tượng tâm lí có thể nhanh chóng xuất hiện
• Có thể tận dụng phương pháp này để nghiên cứu những hoạt động, diễn biến
phức tạp trong tư tưởng và tình cảm con người.
2. Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm
2.1. Phân tích ưu điểm của phương pháp thực nghiệm trong tâm lý học
Nhà nghiên cứu có thể chủ động tạo ra điều kiện để làm nảy sinh các hiện tượng
tâm lí nên có thể xác định đầy đủ hơn về điều kiện và những ảnh hưởng của điều kiện đó lên đối tượng
Nếu hiện tượng lặp đi lặp lại nhiều lần và cho ra một kết quả giống nhau thì có
thể kết luận được tính quy luật và đảm bảo được tính chính xác của vấn đề.
Ngoài ra, ta còn có thể thấy được một số những ưu điểm vượt trội sau:
• Xác định mối quan hệ nhân quả
Một trong những lợi thế lớn nhất của phương pháp thực nghiệm là khả năng xác
định mối quan hệ nhân quả giữa các biến số. Điều này khác với các phương pháp quan
sát hay phỏng vấn, nơi mối quan hệ giữa các yếu tố thường chỉ mang tính tương quan
mà không thể xác nhận được nguyên nhân thực sự. • Kiểm soát biến số lOMoAR cPSD| 58412604
Nhờ vào khả năng kiểm soát biến số, nhà nghiên cứu có thể chắc chắn rằng các
yếu tố không mong muốn không gây ảnh hưởng đến kết quả của thí nghiệm. Điều này
giúp đảm bảo tính chính xác và độ tin cậy của nghiên cứu. • Tái lập kết quả
Phương pháp thực nghiệm cho phép các nghiên cứu khác có thể tái lập và kiểm
tra lại kết quả. Điều này đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tính khách quan
của nghiên cứu. Ví dụ, một thí nghiệm về tác động của giấc ngủ lên sự ghi nhớ có thể
được lặp lại ở các phòng thí nghiệm khác nhau để kiểm tra tính nhất quán của kết quả.
2.2. Phân tích hạn chế của phương pháp thực nghiệm trong tâm lý học
Phương pháp thực nghiệm là một trong những phương pháp quan trọng trong
nghiên cứu khoa học, đặc biệt là trong tâm lý học, nhằm tìm hiểu các mối quan hệ nhân
quả giữa các yếu tố tâm lý. Tuy nhiên, dù có nhiều ưu điểm, phương pháp này cũng tồn
tại những hạn chế cần được lưu ý.
• Khó khăn trong việc kiểm soát tất cả các yếu tố
Trong tâm lý học, việc kiểm soát tất cả các yếu tố có thể ảnh hưởng đến hành vi
của con người là rất khó khăn. Các yếu tố như cảm xúc, thái độ, hoặc những biến cố
bên ngoài mà không thể đo lường hoặc kiểm soát được có thể tác động đến kết quả
nghiên cứu. Dù có thể kiểm soát một số yếu tố trong môi trường thí nghiệm, nhưng
việc tạo ra một môi trường thí nghiệm hoàn toàn giống với đời thực là điều khó khả thi.
• Giới hạn tính tổng quát (Thiếu tính thực tế)
Một trong những điểm yếu lớn của phương pháp thực nghiệm là kết quả nghiên
cứu có thể không được áp dụng rộng rãi trong đời sống thực tế. Các thí nghiệm thường
được thực hiện trong môi trường có kiểm soát, nơi các yếu tố bên ngoài được giảm
thiểu. Tuy nhiên, trong thực tế, hành vi con người có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu lOMoAR cPSD| 58412604
tố không thể kiểm soát được, dẫn đến sự hạn chế trong việc khái quát kết quả nghiên
cứu ra ngoài bối cảnh thí nghiệm.
• Vấn đề đạo đức trong thí nghiệm
Một số thí nghiệm trong tâm lý học, đặc biệt là những thí nghiệm có tính can
thiệp sâu vào tâm lý người tham gia, có thể gây tổn hại về mặt cảm xúc hoặc tinh thần.
Ví dụ, thí nghiệm Stanford Prison hay thí nghiệm Milgram về tuân thủ mệnh lệnh có
thể gây ra những tổn thương tâm lý cho người tham gia, và việc thực hiện chúng hiện
nay thường gặp phải nhiều chỉ trích đạo đức. Việc bảo vệ quyền lợi và sự an toàn của
người tham gia là một yếu tố quan trọng cần được cân nhắc kỹ lưỡng khi áp dụng
phương pháp thực nghiệm. • Độ lệch mẫu
- Khả năng khái quát hóa hạn chế : Các nghiên cứu thường sử dụng mẫu tiện lợi
(ví dụ: sinh viên đại học), có thể không đại diện cho toàn bộ dân số. Điều này
hạn chế tính hợp lệ bên ngoài của các phát hiện.
- Thiên kiến văn hóa : Nhiều nghiên cứu tâm lý được tiến hành trong bối cảnh
phương Tây, có thể không áp dụng được cho các nền văn hóa ngoài phương Tây.
• Phản ứng của người tham gia (Hawthorne effect)
Một vấn đề khác trong các thí nghiệm tâm lý học là hiện tượng "hiệu ứng
Hawthorne" – khi người tham gia thay đổi hành vi của họ chỉ vì biết mình đang tham
gia vào một nghiên cứu. Điều này có thể làm biến dạng kết quả của thí nghiệm, vì hành
vi của người tham gia không còn tự nhiên hoặc phản ánh đúng các yếu tố mà nghiên
cứu đang tìm hiểu. Đây là một yếu tố quan trọng cần được xem xét khi thiết kế và phân
tích kết quả từ nghiên cứu thực nghiệm.
• Động cơ của người tham gia lOMoAR cPSD| 58412604
Các nghiên cứu thực nghiệm thường yêu cầu người tham gia thực hiện các nhiệm
vụ hoặc thực hành nhất định, và một số người tham gia có thể có động cơ khác nhau
khi tham gia thí nghiệm, chẳng hạn như mong muốn làm hài lòng người nghiên cứu
hoặc kiếm phần thưởng. Điều này có thể ảnh hưởng đến sự chính xác trong các kết quả
đo được, vì người tham gia có thể cố gắng thể hiện hành vi "chính xác" hoặc đáp ứng
theo cách mà họ nghĩ người nghiên cứu muốn thấy.
B - MỘT SỐ THỰC NGHIỆM TÂM LÝ HỌC NỔI TIẾNG ĐÃ ĐƯỢC
THỰC HIỆN TRÊN THẾ GIỚI
I. Thiếu hụt giao tiếp xã hội và rối loạn tâm lý ở khỉ con
1. Tác giả của thực nghiệm: Harry Hallow (1905 - 1981) 2. Mục tiêu của thực nghiệm
Mục tiêu chính của nghiên cứu này bao gồm: •
Xác định ảnh hưởng của việc thiếu giao tiếp xã hội đến sự phát triển tâm lý của khỉ con; •
Đánh giá các rối loạn tâm lý có thể phát sinh từ tình trạng thiếu hụt giao tiếp xã hội. 3. Cách tiến hành
Nghiên cứu được thực hiện theo quy trình sau: •
Thiết lập môi trường kiểm soát: Khỉ con được nuôi trong hai điều kiện khác
nhau: một nhóm trong môi trường cô lập hoàn toàn và một nhóm trong môi
trường có sự tương tác xã hội với đồng loại. •
Quan sát hành vi: Các nhà nghiên cứu tiến hành quan sát hành vi của khỉ con
trong suốt quá trình phát triển, ghi chép lại các dấu hiệu của lo âu, trầm cảm và
khả năng tương tác xã hội. •
Thực hiện các bài kiểm tra tâm lý: Các bài kiểm tra được áp dụng nhằm đánh
giá mức độ phát triển nhận thức và cảm xúc của khỉ con, từ đó xác định mối liên
hệ giữa giao tiếp xã hội và tình trạng tâm lý. lOMoAR cPSD| 58412604
4. Kết quả của thực nghiệm
Bọn khỉ bị cách ly khỏi mẹ và bạn bè trong 6 tháng đầu đời hoặc lâu hơn bộc lộ một
cung cách ứng xử đặc biệt bất thường - các vấn đề ứng xử bất thường khi trở về cuộc
sống bình thường của chúng dai dẳng đến tận tuổi trưởng thành. Khi bị cách ly giao
tiếp thời thơ ấu, con khỉ đực không thể tham gia sinh sản, mặc dù nó trở nên tích cực
khi có con cái nhưng nó không biết cách giao phối; con khỉ cái vẫn có thể có con, nhưng
nó không giao tiếp với con nó khi đẻ ra, không nhận biết con và dẫm lên con như thể
đó là vật chứ không phải con nó sinh ra hoặc đối xử rất thô lỗ với con.
Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng những khỉ con thiếu giao tiếp xã hội có xu hướng
phát triển các rối loạn tâm lý như lo âu và trầm cảm. Các cá thể này gặp khó khăn trong
việc thiết lập mối quan hệ với đồng loại và thiếu hụt kỹ năng xã hội cần thiết cho sự
tồn tại. Cụ thể, tỷ lệ khỉ con biểu hiện triệu chứng lo âu và trầm cảm cao hơn đáng kể
so với nhóm có sự tương tác xã hội. 5. Bình luận
Nghiên cứu của Harlow đã đưa ra nhiều hiệu ứng tâm lý quan trọng, bao gồm: •
Hiệu ứng tình mẫu tử: Sự gắn bó giữa mẹ và con không chỉ dựa trên nhu cầu
sinh lý mà còn dựa trên nhu cầu tình cảm. •
Hiệu ứng cô đơn: Thiếu hụt giao tiếp xã hội dẫn đến các triệu chứng trầm cảm
và lo âu ở động vật, phản ánh rõ ràng trong hành vi của khỉ con khi chúng thiếu
sự tương tác với đồng loại.
Kết quả của các nghiên cứu về giao tiếp xã hội và rối loạn tâm lý ở khỉ con đã
chỉ ra một số phát hiện quan trọng: •
Tăng cường sự gắn bó cảm xúc: Các nghiên cứu, đặc biệt là của Harry Harlow,
cho thấy rằng khỉ con phát triển tốt hơn về mặt tâm lý khi có sự gắn bó với mẹ
hoặc các cá thể khác trong nhóm. Sự gắn bó này không chỉ liên quan đến nhu
cầu sinh lý mà còn đến nhu cầu về tình cảm và an toàn. •
Hậu quả của thiếu hụt giao tiếp xã hội: Khỉ con thiếu giao tiếp xã hội thường
biểu hiện các triệu chứng rối loạn tâm lý như lo âu và trầm cảm. Chúng có xu lOMoAR cPSD| 58412604
hướng trở nên nhút nhát, sợ hãi và gặp khó khăn trong việc thiết lập mối quan hệ với đồng loại. •
Khó khăn trong phát triển kỹ năng xã hội: Những khỉ con không có đủ sự tương
tác xã hội thường thiếu hụt kỹ năng cần thiết để tương tác với các cá thể khác.
Điều này dẫn đến việc chúng không thể tham gia vào các hoạt động xã hội bình
thường, như chơi đùa hoặc hợp tác. •
Ảnh hưởng đến sự phát triển não bộ: Thiếu hụt giao tiếp xã hội không chỉ ảnh
hưởng đến hành vi mà còn có tác động tiêu cực đến sự phát triển não bộ của khỉ
con. Nghiên cứu cho thấy rằng những cá thể này có thể gặp khó khăn trong việc
học hỏi và xử lý thông tin. •
Tác động lâu dài: Các rối loạn tâm lý do thiếu hụt giao tiếp xã hội có thể kéo dài
qua tuổi trưởng thành, ảnh hưởng đến khả năng hòa nhập xã hội và chất lượng cuộc sống của khỉ.
Những kết quả này không chỉ làm nổi bật tầm quan trọng của giao tiếp xã hội
trong sự phát triển tâm lý của khỉ con mà còn cung cấp cái nhìn sâu sắc về cách mà
môi trường xã hội ảnh hưởng đến hành vi và cảm xúc ở động vật nói chung.
II. THÍ NGHIỆM KẸO XỐP
1. Tác giả: Walter Mischel
2. Mục tiêu thực nghiệm: Chứng minh mối liên hệ giữa khả năng tự kiểm
soát bản thân của trẻ em với sự thành công của chúng trong tương lai. 3. Cách tiến hành
Các trẻ mầm non được yêu cầu ngồi trong một căn phòng. Nghiên cứu viên phát
cho mỗi bạn một viên kẹo marshmallow. Nhưng trước khi ăn viên kẹo ấy, các em nhỏ được nghe 2 lựa chọn:
• Có thể ăn ngay viên kẹo
• Hoặc chờ đợi 15 phút phần thưởng sẽ là viên kẹo thứ hai
Sau khi nói với những đứa trẻ về 2 lựa chọn, nghiên cứu viên bước ra ngoài, bỏ
chúng lại trong phòng song vẫn quan sát qua cửa kính một chiều xem chúng sẽ phản
ứng như thế nào trong tình huống này. lOMoAR cPSD| 58412604
Trong quá trình đó nhiều trẻ không thể chờ đợi và ngay lập tức vui vẻ nhai nhồm
nhoàm viên kẹo. Nhưng vài bạn khác lại kiềm chế, tập trung vào những thứ khác để
phân tán sự chú ý bằng cách hát thầm một bài hay nghĩ tới một trò chơi trong đầu để
quên đi viên kẹo trước mắt. 4. Kết quả
Thực nghiệm cho thấy trong 600 trẻ tham gia một số ít trẻ chọn cách ăn ngay,
vẫn ít trẻ có thể để nguyên viên kẹo trong suốt mười lăm phút, một phần ba trẻ được
nhận thêm viên kẹo thứ hai.
Tuy nhiên chưa dừng lại ở đây các nghiên cứu viên tiếp tục theo dõi những đứa
trẻ này trong vài chục năm về sau cho thấy, vào độ tuổi trung học phổ thông, những
bạn có khả năng đợi suốt 15 phút có đời sống tinh thần khỏe mạnh và thường ít gặp
phải những vấn đề về hành vi, nghiện thuốc hay béo phì hơn so với những đứa trẻ chỉ
“nhịn” được ít hơn một phút. Các bạn kiềm chế tốt trung bình cũng có điểm SAT cao hơn 210 điểm.
Trong quá trình nghiên cứu xuyên suốt 50 năm, hết lần này đến lần khác, nhóm
kiên nhẫn chờ đợi viên kẹo thứ hai đã thành công trong bất kỳ tiêu chí nào mà họ đo
lường. Đồng thời, người ta đã chụp cắt lớp não của những người tham gia vào thực
nghiệm, đứa trẻ có thể trì hoãn sự tự thỏa mãn của bản thân có phần thùy trước phát
triển hơn hẳn, phần đảm nhiệm vai trò rèn luyện bản thân và ý chí mạnh mẽ. 5. Bình luận
Mischel và các đồng nghiệp của ông lập luận rằng khả năng trì hoãn sự thỏa mãn
là yếu tố tiên đoán về sự thành công của một người. Thành công thường đến từ việc
lựa chọn nỗi đau của kỷ luật thay vì sự dễ dàng của xao nhãng, đến một lúc nào đó bạn
sẽ cần phải tìm ra khả năng kỷ luật và hành động thay vì mất tập trung và làm những
việc dễ dàng. Điều đó đòi hỏi bạn phải bỏ qua việc làm một việc dễ dàng hơn (trì hoãn
sự thỏa mãn) để ủng hộ việc làm một việc khó hơn (làm việc và thực hiện các lần lặp lại của bạn).
Điều này đưa ta đến một câu hỏi: Có phải một số trẻ em có khả năng tự chủ tự
nhiên hơn và do đó được định sẵn sẽ thành công? Hay ta có thể học cách kiềm chế để lOMoAR cPSD| 58412604
phát triển? Nhìn về góc độ rộng, hành vi và cuộc sống của con người khá phức tạp vì
vậy không thể hoàn toàn khẳng định một lựa chọn mà đứa trẻ bốn tuổi đưa ra sẽ quyết
định phần còn lại của cuộc đời nó. Có thể rèn luyện bản thân để trở nên tốt hơn chỉ
bằng cách thực hiện một vài cải thiện nhỏ:
- Bắt đầu với những điều đơn giản
- Cải thiện mỗi ngày một chút
- Hành động ngay trong vòng 2 phút
Ngoài ra các tác giả nghiên cứu, đứng đầu là B.J. Casey giáo sư tâm lý sinh học
phát triển tại Đại học Cornell muốn tìm hiểu xem liệu những trẻ khi nhỏ thiếu kiềm chế
có biểu hiện những dấu hiệu thiếu khả năng tự kiểm soát khi lớn hay không, hay liệu
hiện tượng này chỉ diễn ra trong một số trường hợp cụ thể với sự có mặt của cảm xúc.
Casey cho rằng: “Liệu đây chỉ là tình huống cá nhân gặp khó khăn trong việc kiểm soát
xung năng hay nó là do tính nhạy cảm trước những lời mời gọi?”. Ông nhấn mạnh rằng
những người ít kiềm chế không hề thiếu trí tuệ tổng quát, đồng thời họ sở hữu những
phẩm chất vô cùng quan trọng đối với xã hội. Trong một số thời điểm, kiềm chế chưa
chắc là một lựa chọn chính xác, những người đi theo xung năng cảm xúc của mình có
khả năng sẽ trở thành những nhà khám phá hay doanh nhân vĩ đại (Steve Jobs là một minh chứng kinh điển). III. NHÀ TÙ STANFORD
1. Tác giả: Philip Zimbardo và các đồng nghiệp (1973)
2. Mục tiêu thực nghiệm
Mục tiêu chính của thực nghiệm này là nghiên cứu tác động của môi trường xã
hội và vai trò đến hành vi con người. Zimbardo muốn tìm hiểu xem những yếu tố nào
trong môi trường nhà tù có thể ảnh hưởng đến hành vi của người tham gia, đặc biệt là
sự thay đổi trong hành vi khi họ được giao những vai trò cụ thể (người lính gác và tù
nhân). Ông cũng mong muốn khám phá cách mà quyền lực và sự kiểm soát có thể dẫn
đến các hành vi cực đoan của con người. lOMoAR cPSD| 58412604 3. Cách tiến hành
Thực nghiệm tâm lý học “nhà tù Stanford” được thực hiện tại một số phòng ở
tầng hầm của Đại học Stanford, nơi được cải tạo thành một nhà tù giả lập. Philip
Zimbardo và các cộng sự đã tuyển chọn 24 sinh viên nam từ một nhóm lớn các ứng
viên, đảm bảo rằng họ đều có sức khỏe tốt và không có tiền sử bệnh tâm lý. Những
sinh viên này được chia ngẫu nhiên thành hai nhóm: một nhóm đóng vai trò lính canh
và một nhóm là tù nhân.
Khi thực nghiệm bắt đầu, những tình nguyện viên đóng vai tù nhân được đưa
đến nhà tù, nơi mà các nhà nghiên cứu đã mô phỏng một nhà tù chân thật, với những
buồng giam, các bức tường lạnh lẽo và những quy định nghiêm ngặt. Mỗi tù nhân được
cấp một số hiệu thay vì tên thật, nhằm giảm thiểu danh tính cá nhân và tạo cảm giác bị
kiểm soát. Họ cũng được yêu cầu mặc trang phục của tù nhân, bao gồm áo phông và
quần ngắn, cùng với dép cao su, mũ nilông và có một chuỗi dây xích buộc vào mắt cá
chân, điều này càng làm tăng thêm sự tách biệt với “bản sắc cá nhân” của họ. Bên cạnh
đó, để tạo tình huống cho giống với thực, các nhà thực nghiệm đã dựng lên một tâm lí
chế nhạo những người tù, nhằm tạo ra sự tương tác và phản ứng xã hội giống như trong một nhà tù thực sự.
Trong khi đó, nhóm lính canh được giao quyền lực và trách nhiệm quản lý các
tù nhân. Họ được khuyến khích thể hiện vai trò của mình mà không có giới hạn rõ ràng
về cách thức thực hiện. Họ được trang bị đồng phục bao gồm áo kaki, quần đùi, còi,
gậy tuần tra và kính râm để che khuất biểu cảm khuôn mặt và tạo ra một hình ảnh mạnh
mẽ và đáng sợ. Họ có quyền sử dụng các biện pháp kiểm soát, bao gồm phạt tù nhân
và thực hiện các cuộc kiểm tra theo ý muốn.
Các nhà thực nghiệm đã lên kế hoạch giám sát chặt chẽ các sinh viên trong hai
tuần để xem liệu họ có thực sự nhập vai như một người cai tù hay như một tù nhân
trong một tình huống được tạo ra có vẻ như là thực tế hay không. lOMoAR cPSD| 58412604 4. Kết quả
Chỉ trong một thời gian rất ngắn, cả lính canh và tù nhân đều ổn định với vai trò
mới của mình, trong đó lính canh chấp nhận vai trò một cách nhanh chóng và dễ dàng.
Chỉ vài giờ sau khi bắt đầu cuộc thực nghiệm, các lính canh đã bắt đầu quấy rối tù
nhân, như gọi họ dậy vào lúc 2:30 sáng để đếm số lượng và kiểm soát tù nhân. Trong
khi đó các tù nhân cũng bắt đầu có hành vi giống “tù nhân” hơn như: tuân thủ nghiêm
ngặt các quy định và thậm chí đứng về phía lính canh chống lại những tù nhân không tuân thủ.
Cho đến ngày thứ ba, các lính canh bắt đầu thể hiện hành vi áp bức, sử dụng các
phương pháp như hình phạt thể xác, giam giữ trong các buồng tối, và thực hiện các
cuộc tra hỏi có tính chất xúc phạm. Họ còn áp dụng các kỹ thuật tâm lý nhằm tạo ra
cảm giác sợ hãi và bất lực trong các tù nhân, như cấm họ giao tiếp với nhau và làm
giảm thiểu quyền tự do cá nhân.
Ngược lại, những tù nhân ngày càng trở nên thụ động, cảm thấy bất lực và lo âu.
Một số tù nhân đã trải qua mức độ căng thẳng và mệt mỏi đến mức không thể tiếp tục
tham gia và đã được giải phóng khỏi cuộc thực nghiệm sớm hơn, mặc dù họ đều biết
rằng mình đang tham gia vào một cuộc thực nghiệm và vai trò “tù nhân” của họ chỉ là giả định.
Vai trò của người cai tù và tù nhân mà các sinh viên đảm nhận đã trở nên sâu sắc
hơn so với những gì các nhà thực nghiệm dự tính. Tác động tâm lý của các vai trò này
đã vượt qua dự đoán ban đầu, dẫn đến việc các nhà thực nghiệm quyết định kết thúc
cuộc thí nghiệm chỉ sau sáu ngày, thay vì hai tuần như dự kiến. 5. Bình luận
Khi ở trong một tình huống giả lập, có thể chúng ta thường nghĩ rằng vai trò mà
mình được giao sẽ không quan trọng, vì sau đó mỗi người đều nhận thức rằng đó chỉ
là một thí nghiệm, và chúng ta chỉ đang giả vờ nhập vai vào một nhân vật nào đó. Vì
vậy, hành vi của chúng ta chỉ là diễn kịch. Nhưng Philip Zimbardo và các đồng nghiệp
của ông lại tin rằng chuẩn mực xã hội luôn có sức mạnh tạo nên sự tương đồng trong lOMoAR cPSD| 58412604
nhận thức, xúc cảm, hành vi của cá nhân và nó phản ánh nhân cách của con người ngay
cả khi chúng ta đang đóng vai. Đó chính là quá trình nhập vai xã hội.
Theo Philip Zimbardo và các đồng nghiệp, khi con người nhập tâm vào một trò
nào đó quá nhiều thì tính không tương đồng về cá nhân và cảm giác về sự đúng đắn sẽ
mất. Lúc này, chuẩn mực xã hội sẽ quy định vai trò mà họ đảm nhận trong xã hội. Vì
vậy, ngay cả khi đóng vai, nhân cách họ cũng bị thay đổi và tác động mạnh mẽ bởi
những vai trò đó trong đời sống. Thí nghiệm này cho thấy rằng, những vai trò mà chúng
ta đảm nhiệm có khả năng tạo ra sự tác động lớn trong cách ứng xử của chúng ta, đôi
khi có thể dẫn đến những hành vi mà chúng ta không mong muốn.
III. HẤP DẪN HÌNH THỂ - HIỆU ỨNG HÀO QUANG 1.
Tác giả: Harold Sigall và David Landy - Đại học Rochester, New York, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ 2.
Mục tiêu thực nghiệm: Chứng minh về tác động về mặt hình thể có ảnh
hưởng đến sự đánh giá của con người. 3. Cách tiến hành
Về đối tượng, 60 nam sinh viên của Đại học Rochester được tuyển chọn từ một
khóa học tâm lý học đại cương.
Về bài luận, hai bài luận tiêu chuẩn không có tiêu đề về vai trò và tác dụng của
truyền hình được chuẩn bị. Tuy nhiên, có một bài luận được viết tốt, đúng ngữ pháp,
có tổ chức và trình bày ý tưởng rõ ràng. Bài luận còn lại được viết kém, chứa nhiều từ
ngữ sáo rỗng và sai sót trong cách sử dụng, cách trình bày đơn giản và thiếu tổ chức.
Về vẻ đẹp hình thể người viết, hai bức ảnh kỷ yếu đại học của các sinh viên nữ
đã được chọn để sử dụng trong thí nghiệm. Một trong những bức ảnh chụp một người
phụ nữ có hình thể hấp dẫn, và một bức là của một người phụ nữ có hình thể không
hấp dẫn. Các bản sao của mỗi bức ảnh được gắn trên các thẻ hồ sơ riêng biệt với bài
luận tốt hoặc kém, trên đó đánh máy một cái tên hư cấu, Marilyn Thomas, cùng với
những mô tả tiêu chuẩn không có thật về cô gái trong ảnh về tên gọi, lý lịch gia đình
cũng như sở thích cá nhân.
Về cách thức tiến hành, các nam sinh đọc một bài luận ngắn, sau đó đánh giá
chất lượng tổng thể và đưa ra ấn tượng của họ về người viết nó. Một nửa số nam sinh lOMoAR cPSD| 58412604
đọc một bài luận tốt trong khi những nam sinh còn lại đọc một bài luận kém. Ngoài ra,
một phần ba nam sinh được dẫn đến tin rằng bài luận được viết bởi một nữ sinh đại học
có ngoại hình hấp dẫn, một phần ba nam sinh khác được dẫn đến tin rằng bài luận được
viết bởi một nữ sinh kém hấp dẫn cùng những tấm ảnh kèm theo, và một phần ba nam
sinh còn lại - là các nam sinh đọc bài luận viết hay hoặc bài luận viết kém mà không
kèm theo tấm ảnh nào về người nữ sinh nên không bị chi phối bởi ngoại hình của người viết.
Sau đó, họ đánh giá "Chất lượng chung" của bài luận theo thang điểm 9, và “Khả
năng tổng thể” cũng như “Điểm số ấn tượng” về người nữ sinh viết bài luận đó. 4. Kết quả
Về chất lượng bài luận, người viết càng kém hấp dẫn về mặt hình thể thì đánh
giá của nam sinh về bài luận của cô ấy càng thấp. Các nam sinh đánh giá bài luận tốt
và kém của nữ sinh hấp dẫn từ 5,7 - 6,4 trên thang điểm 9, trong khi đó đánh giá về bài
luận được viết tốt đối với nữ sinh kém hấp dẫn cao nhất cũng chỉ được 5,9.
Bên cạnh đó, họ đánh giá về năng lực và ấn tượng về người nữ sinh viết luận với
điểm số cao nhất khi cô ấy có ngoại hình hấp dẫn, điểm thấp nhất nhất khi cô ấy kém
hấp dẫn và trung bình khi không có thông tin nào về ngoại hình của cô ấy được đưa ra. 5. Bình luận
Con người luôn bị hấp dẫn bởi cái đẹp, hoặc/và trí tuệ. Trong đó vẻ đẹp hình thể
luôn có sức mạnh hấp dẫn nhất. Vẻ đẹp hình thể là một giá trị trong đánh giá xã hội.
Nó tham gia một cách vô thức và có ý thức trong đánh giá của mọi người.
Kết quả của thí nghiệm này chỉ ra rằng sức hấp dẫn về mặt hình thể của một cá
nhân có sự ảnh hưởng nhất định đến cách mọi người đánh giá cả hiệu suất và người
thực hiện. Điều này đúng ngay cả khi việc thực hiện nhiệm vụ được đánh giá hoàn toàn
không liên quan đến sức hấp dẫn thể chất của người thực hiện. Do đó, ngoại hình không
chỉ ảnh hưởng đến cách người khác phản ứng với một người mà còn ảnh hưởng đến
cách họ phản ứng với những thành tựu của người đó. Và sự đánh giá xiên lệch kết quả
tri giác khách quan này chính là do ánh "hào quang" phát lộ ra bên ngoài ở một số cá lOMoAR cPSD| 58412604
nhân gây nên, chủ yếu thể hiện qua hình thức bề ngoài hoặc khả năng trí tuệ, chúng
được các nhà tâm lý học xã hội gọi là "Hiệu ứng hào quang". KẾT LUẬN
Tâm trí, bản năng và hành vi của con người là phạm trù tâm lý đa tầng, càng khai
thác kỹ lưỡng lại càng trở nên trừu tượng, càng không thể lý giải bằng lý thuyết thông
thường. Do đó, phương pháp thực nghiệm trong lĩnh vực tâm lý là vô cùng cần thiết,
từ các thí nghiệm tâm lý ấy mà các chuyên gia có thể phân tích sự tương quan giữa ý
thức và hoạt động, làm sáng tỏ những hành vi nhất định của con người. Các nhà tâm lý
học, chuyên gia đầu ngành căn cứ vào tính hiệu quả và tính nhân đạo để xem xét tổ
chức và thực hiện hóa phương pháp này. Trên thực tế, đã và đang có vô vàn các thực
nghiệm tâm lý được tiến hành, tương đương với vô vàn cách tiếp cận, xâm nhập khác
nhau vào tâm trí, hành vi con người. Điểm chung của các cách tiếp cận đa dạng này
đối với tâm lý học đều là mong muốn giải thích hành vi của cá nhân dựa trên hoạt động
của tâm trí, đây cũng đồng thời là mục đích then chốt mà phương pháp thực nghiệm hướng tới.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO