LỜI CAM KẾT
Chúng tôi xin cam đoan luận văn này công trình nghiên cứu của riêng
nhóm chúng tôi những nội dung được trình bày trong luận n này là hoàn toàn
trung thực. Những dữ liệu phục vụ cho việc phân tích dẫn dắt đề tài này được thu
thập từ các nguồn tài liệu khác nhau được ghi c trong mục i liệu tham khảo
hoặc chú thích ngay bên ới các dữ liệu. Các dữ liệu s dụng phân tích trong luận
văn nguồn gốc ràng, đã được ng bố theo đúng quy định.
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU................................................................................................1
1. do chọn đề tài....................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề i..................................................................... 1
3. Mục đích nghiên cứu.................................................................................1
4. Đối tượng nghiên cứu............................................................................... 2
5. Phạm vi nguyên cứu..................................................................................2
6. Nhiệm vụ nghiên cứu................................................................................ 2
7. Phương pháp nghiên cứu......................................................................... 3
7.1. Phương pháp phân tích tổng hợp....................................................3
7.2. Phương pháp quy nạp diễn giải......................................................3
7.3. Phương pháp phân tích tổng kết kinh nghiệm.....................................3
8. Ý nghĩa khoa học giá trị ứng dụng của đề i....................................... 4
8.1. Ý nghĩa khoa học của đ i.................................................................4
8.2. Giá trị thực tiễn của đề i...................................................................4
NỘI DUNG........................................................................................................ 5
1. lược về Bản án: Bản án 392/2019/HS-ST ngày 17/10/2019 về tội
giết người cướp tài sản.............................................................................5
1.1. Thông tin của những người tham gia phiên a.................................. 5
1.2. Tóm tắt bản án..................................................................................... 5
1.3. Tại phiên a........................................................................................ 7
1.4. Nhận định của tòa án...........................................................................7
1.5. Quyết định của tòa án..........................................................................8
2. Phân tích cấu thành tội phạm..................................................................8
2.1. Khách th............................................................................................. 8
2.2. Mặt khách quan....................................................................................8
2.3. Chủ th............................................................................................... 10
2.4. Mặt chủ quan..................................................................................... 10
3. Bình luận bản án..................................................................................... 12
3.1 Những điểm đúng trong bản án..........................................................12
3.2. Những điểm hạn chế trong bản án.................................................... 13
3.3. Bình luận bản án................................................................................13
4. Quan điểm của nhóm..............................................................................14
4.1 Đồng ý với quan điểm của tòa án....................................................... 14
4.2. Không đồng ý với quan điểm của a án........................................... 15
PHẦN KẾT LUẬN..........................................................................................16
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................. 17
PHỤ LỤC KHÁC............................................................................................18
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN.................................................................. 19
PHẦN MỞ ĐẦU
1. do chọn đề i
Ghen tuông một cảm xúc tiêu cực luôn hiện hữu trong mỗi con
người. Lòng ghen tuông thể khiến con người mất đi trí, dẫn đến những
hành vi tội ác gây tổn hại đến tính mạng tài sản của người khác. Người có
tính ghen tuông cần học cách kiểm soát cơn ghen tức hoặc cần được điều trị tâm
để kiểm soát cảm xúc của mình. Tuy nhiên việc kiểm soát cơn ghen tức
điều cùng khó khăn đối với mỗi nhân vậy cần sự chung tay, góp sức
của gia đình hội để giáo dục, tuyên truyền về tác hại của ghen tuông, giúp
mọi người nâng cao nhận thức về vấn đề y cách xử lành mạnh hơn
trong tình yêu.
Nhóm chúng tôi hy vọng thông qua vụ án mạng sau thể giúp mọi
người phần nào ng cao nhận thức về thực trạng u đương, ghen tuông
quáng đang nhức nhối hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề i
Hiện nay, nhiều trang báo, tạp chí, các bài bình luận nghiên cứu đặt ra
vấn đề cấu thành tội phạm phân tích các phương pháp phân ch các bản án
pháp luật cụ thể các đối tượng như ấn phẩm, nhãn hiệu, dịch vụ… Tiêu biểu
phải k đến: Bản án Hình sự sơ thẩm số 392/2019/HS-ST NGÀY 17/10/2019 về
"TỘI GIẾT NGƯỜI CƯỚP TÀI SẢN" một vụ án gây rúng động luận về
hành vi giết người yêu phân xác thành nhiều phần được Tòa án nhân dân
Thành ph Hồ Chí Minh xét xử.
3. Mục đích nghiên cứu
Cung cấp thông tin, dữ liệu v trách nhiệm hình sự đến các bạn độc giả.
Trình bày quan điểm, bình luận của nhóm c giả, rút ra những bất cập thiếu
sót hay phân tích cái hay trong các quyết định của Tòa án trong phiên a xét xử
1
của các bị cáo (đối tượng nghiên cứu) được đề cập trong đề i đưa ra giải
pháp để hoàn thiện hơn hay học tập theo.
Bài nghiên cứu y sẽ tìm hiểu, làm về vấn đề liên quan đến Bản án
Hình Sự 920/2019/HS-ST về tội giết người cướp tài sản gây rúng động
luận diễn ra tại khu trọ tại Thành phố Hồ Chí Minh” mang lại hiệu quả phục
vụ cho việc y dựng an ninh hội, sự công bằng cho các cá nhân,gia đình
hội khẳng định những quyết định liêm chính của a án. Từ đó, mọi người
cùng chung tay xây dựng một hội trong đó tất cả đều được tôn trọng
bảo vệ bởi pháp luật thật sự.
4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu đề tài là những đối tượng về tội phạm giết người
tính chất xâm phạm, chiếm đoạt, nguyên nhân, điều kiện thực tiễn đến tính mạng
con người, quyền sống, quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe thân
thể các quyền đi kèm khác của chủ thể.
5. Phạm vi nguyên cứu
-
Phạm vi không gian: Việt Nam.
-
Phạm vi thời gian: tiểu luận được thực hiện vào tháng 11 năm 2023.
-
Phạm vi nội dung chính: Phần lớn tiểu luận phân tích trách nhiệm hình s về
tội giết người cướp tài sản.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
-
tả thực trạng vấn đề tội phạm hình sự qua bản án Việt Nam mối liên
hệ giữa các chủ thể, quan hệ pháp luật.
-
Phân tích, đánh giá thực trạng, nguyên nhân vấn đề tội phạm do ghen tuông
quáng.
-
Hệ thống hóa những vấn đề luận liên quan đến thực trạng, phạm vi đề i.
-
Đề xuất biện pháp. khuyến nghị với vấn đề phạm tội do ghen tuông
quáng.
2
7. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nhóm chúng tôi dùng để nghiên cứu đề tài này phương pháp
phân tích - tổng hợp, quy nạp diễn giải, phân tích tổng kết kinh nghiệm kết hợp
với phân tích bản án để thực hiện đề tài nghiên cứu.
7.1. Phương pháp phân tích tổng hợp
Mục đích của phương pháp: thực hiện nhiệm vụ hệ thống hóa những vấn đề
luận liên quan đến đề tài.
Đối tượng của phương pháp: bản án, cấu thành tội phạm
Nội dung của phương pháp: dùng để chia một vấn đề tội phạm vì ghen tuông
quáng thành những bộ phận, những mặt, những yếu tố đơn giản hơn để nghiên
cứu làm ng t vấn đề.
7.2. Phương pháp quy nạp diễn giải
Mục đích của phương pháp: phân tích các thông tin rời rạc tổng hợp lại
các kết quả.
Đối tượng của phương pháp: các thông tin, kiến thức về vụ án từ các nguồn
báo chí, Internet bản án.
Nội dung của phương pháp: tổng hợp lại các kết quả, thông tin rời rạc thu
được từ các nguồn, rút ra đặc điểm của đối ợng nghiên cứu.
7.3. Phương pháp phân tích tổng kết kinh nghiệm:
Mục đích của phương pháp: phân tích những thông tin đã chọn lọc được và
rút ra bài học cụ thể
Đối tượng của phương pháp: các thông tin, kiến thức về vụ án từ các nguồn
báo chí, Internet bản án.
3
Nội dung của phương pháp: thu thập thông tin, chọn lọc, học tập gom lại
những kết quả từ những trang web liên quan đến vụ án để rút ra bài học cụ thể, nâng
cao nhận thức của từng cá nhân.
8. Ý nghĩa khoa học g trị ng dụng của đề tài:
8.1. Ý nghĩa khoa học của đ i
Bài tiểu luận tài liệu học tập của nhóm tác giả về lĩnh vực tội phạm hình sự
về tội giết người ớp tài sản trong môn Luật Hình sự 2.
8.2. Giá trị thực tiễn của đề i
Kết quả nghiên cứu của nhóm thể làm tài liệu tham khảo về lĩnh vực tội
phạm hình sự v tội giết người cướp tài sản trong môn Luật Hình sự 2. Góp phần
nâng cao nhận thức về thực trạng yêu đương, ghen tuông quáng đang nhức nhối
hiện nay.
4
NỘI DUNG
1. lược về Bản án: Bản án 392/2019/HS-ST ngày 17/10/2019 về tội
giết người và cướp tài sản
1.1. Thông tin của những người tham gia phiên tòa
-
Bị o: Ngọc Hiếu, giới tính nam. Sinh năm: 1989 tại tỉnh Gia Lai, đăng
HKTT: Hẻm 333 H1, Tổ H2, phường H3, thành phố H4, tỉnh Gia Lai;
Chỗ hiện nay: Số 146/14 Đường số H5, Phường H6, quận V, Thành phố
Hồ Chí Minh; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông
Ngọc S con bà Nguyễn Thị S1 (chết); Hoàn cảnh gia đình: bị cáo chưa
vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không. B cáo bị bắt tạm giam từ ngày 05/6/2018.
-
Bị hại: Đàm Ý Nhi, sinh năm 1991 (đã chết).
-
Đại diện hợp pháp của bị hại: Ông Đàm Anh D, sinh m 1968 (cha của bị
hại); Huỳnh Thị Kim A, sinh năm 1965 (mẹ của bị hại)
-
Người bào chữa: Luật Đỗ Ngọc O, thuộc Đoàn Luật sư Thành ph Hồ Chí
Minh, làm việc tại n phòng Luật sư. Được chỉ định bào chữa cho bị cáo
Ngọc Hiếu.
1.2. Tóm tắt bản án:
1.2.1.
Về tội giết người:
-
Theo cáo trạng, Ngọc Hiếu (sinh năm 1989, quê tỉnh Gia Lai) ch Đàm
Ý Nhi (sinh năm 1991, ngụ tại Thành ph Hồ Chí Minh) quan hệ tình cảm
yêu thương nhau trong 9 năm (t 2008 đến 2017). Tuy nhiên, đến khoảng
tháng 7/2017, hai người phát sinh mâu thuẫn nên ít gặp nhau chủ yếu liên
lạc qua điện thoại.
-
Ngày 31/5/2018, H chị N hẹn gặp nhau tại nhà thuê của H quận Gò Vấp,
Thành phố Hồ Chí Minh. Tại đây, sau khi quan hệ tình dục, H biết chị N
đã bạn trai mới sẽ đi lấy chồng nên nảy sinh ý định giết chết chị N.
-
Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 1/6/2018, H dùng tay trái bịt miệng chị N
dùng tay phải vòng qua cổ chị N rồi siết chặt, đồng thời lăn theo ớng từ
5
phải qua trái lật chị N nằm ngửa trên người của H ng hai chân kẹp hai
chân của chị N lại không cho chị N vùng vẫy, cho đến khi chị N chết.
-
Khoảng 10 giờ sáng ngày 01/6/2018:
Bộ phận sinh dục của chị N tiết ra dịch mùi hôi thối thấm vào
nệm, H s mọi người xung quanh phát hiện nên đã nảy sinh ý định
phân xác.
H lần ợt cắt hai khuỷu tay, hai chân từ khớp gối tr xuống, cắt phần
đầu rồi bỏ vào trong các túi nilon màu đen; rồi tiếp tục dùng dao lóc
phần thịt hai chân t đầu gối lên tới mông, lóc thịt hai cánh tay lên tới
bả vai cho vào 04 túi nilon; tháo khớp bả vai lấy 02 xương cánh tay
còn lại cho vào một túi nilon.
H mang phần ơng thịt vừa cắt ra xuống tầng trệt cho vào tủ lạnh,
còn phần thân của ch N, H bỏ vào trong chiếc nhựa rồi mang
xuống n vệ sinh tầng trệt.
H tiếp tục dùng dao mổ phần bụng của chị N lấy nội tạng ra cắt nhỏ
cho o bồn cầu vệ sinh rồi dội ớc cho trôi xuống hầm cầu (khoảng
4 - 5 lần). cho vào túi nilon.
- Ngày 04/6/2018:
Khoảng 00 giờ 10 phút, H dọn quần áo lấy những phần thi thể của
chị N từ trong tủ lạnh ra bỏ o trong vali, thùng carton, bịch nylon để
lên xe gắn máy hiệu Suzuki Smash Revo cột lại rồi điều khiển xe
đến nhà anh Trần Thanh R tỉnh Tây Ninh.
Khoảng 09 giờ 00 phút, H đ lại một s đồ vật, quần áo tại nhà anh R
dùng xe Suzuki Smash Revo chở theo vali, thùng carton, bịch nilon
chứa những phần thi thể chị N đi vứt tại i đất trống tỉnh y Ninh.
1.2.2.
Về tội cướp tài sản:
-
Vào khoảng 22 giờ ngày 01/6/2018, sau khi phân xác chị N, H lấy bọc đựng
quần áo cùng một số vật dụng nhân của ch N bỏ vào cốp xe Honda
Airblade của chị N, rồi điều khiển chiếc xe y đến nhà anh Trần Thanh R
tỉnh Tây Ninh.
6
-
Buổi sáng ngày 02/6/2018, H điều khiển xe y đi đến khu vực bãi đất trống
tỉnh Tây Ninh, để vứt bọc đựng quần áo đồng phục cùng một s vật dụng
nhân của chị N.
-
Sáng ngày 03/06/2018, H gửi lại chiếc xe máy Honda AirBlade của chị N
nhà anh R nói anh R kiếm người bán xe để lấy tiền m ăn rồi đi xe buýt
về lại thành phố H Chí Minh.
-
Khoảng 00 giờ 10 phút ngày 04/6/2018, H đi bộ về nhà thuê của H. Tại đây,
H lấy 02 điện thoại di động, một số giấy tờ nhân đồng h đeo tay của
chị N.
1.3. Tại phiên a
-
Bị cáo Ngọc H khai nhận hành vi phạm tội.
-
H khai do sử dụng ma túy trước đó chỉ dán băng keo khiến nạn nhân ngạt
thở, không giết.
-
H cũng không giải được do sao lại phân xác nạn nhân.
1.4. Nhận định của tòa án
-
Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Trong quá trình điều tra, truy tố, t xử, quan Cảnh t điều tra
Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Cán bộ điều tra,
Viện kiểm sát nhân dân Thành ph Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên đã
thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, th tục quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự. Quá trình điều tra tại phiên tòa, luật sư bào chữa đã
thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Do vậy,
các hành vi, các quyết định của quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng người bào chữa hợp pháp.
Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các kết luận giám định, kết luận
định giá, biên bản khám nghiệm hiện trường cùng các i liệu, chứng
cứ khác trong hồ vụ án, đã đủ sở xác định tội danh của bị cáo.
-
Tại Bản Kết luận Giám định pháp y tử thi Kết luận giám định pháp y tử
thi bổ sung của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã
7
xác định: Nạn nhân Đàm Ý N chết do ngạt học do chẹn đường hấp
vùng cổ; sau chết, nạn nhân bị cắt, phân c m nhiều mảnh.
-
Tại Kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá i sản thường xuyên
trong tố tụng hình s cấp thành ph ngày 26/11/2018 đã kết luận tổng giá tr
của số tài sản của nạn nhân 87.661.193 đồng (số tài sản này đã thu hồi
trả lại cho phía b hại).
-
Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã đủ sở kết luận bị
cáo Ngọc H phạm tội “Giết người” tội “Cướp tài sản”
1.5. Quyết định của tòa án
-
Ngày 17/10/2019, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên phạt
Ngọc Hiếu mức án tử hình về tội giết người 8 năm về tội ớp i sản.
Tổng nh phạt chung bị cáo này phải chấp hành tử hình.
-
Buộc Ngọc H phải bồi thường cho ông Đàm Anh D Huỳnh Thị
Kim A chi phí mai táng tổn thất tinh thần với tổng số tiền 400.000.000
đồng (bốn trăm triệu đồng).
2. Phân tích cấu thành tội phạm
2.1. Khách th
-
Xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của con người (hành vi giết người)
-
Xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân (hành vi cướp tài sản)
2.2. Mặt khách quan
2.2.1.
Về tội giết người
-
Hành vi:
H dùng tay trái bịt miệng chị N dùng tay phải vòng qua cổ chị N
rồi siết chặt, đồng thời lăn theo hướng từ phải qua trái lật chị N nằm
ngửa trên người của H dùng hai chân kẹp hai chân của chị N lại
không cho chị N vùng vẫy, cho đến khi chị N chết. Đây một loạt
các hành vi gây chết bị hại của Hiếu.
H cắt hai khuỷu tay; hai chân từ khớp gối tr xuống; cắt phần đầu của
nạn nhân; dùng dao lóc phần thịt hai chân t đầu gối lên tới mông; c
thịt hai nh tay lên tới bả vai cho; tháo khớp b vai; dùng dao mổ
8
phần bụng của chị N, lấy nội tạng ra cắt nhỏ cho vào bồn cầu v sinh
rồi dội ớc cho trôi xuống hầm cầu (khoảng 4 - 5 lần). Hành vi này
đã phạm vào điểm i khoản 1 điều 123 BLHS 2015.
-
Hậu quả: Hành vi của bị cáo làm chết bị hại
-
Thời gian: khoảng 00 giờ 30 phút ngày 1/6/2018
-
Địa điểm: tại nhà thuê của bị cáo quận Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh
-
Hung khí:
Bị cáo không sử dụng hung khí y chết bị hại
02 dao găm bao ốp (dài khoảng 40cm khoảng 30cm) để phân
c
Tại Bản Kết luận Giám định pháp y tử thi số 547-18/KLGĐ-PY ngày
04/9/2018 Kết luận giám định pháp y tử thi bổ sung số 1477-19/KLGĐBS-PY
ngày 18/9/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh đối
với nạn nhân Đàm Ý Nhi, kết luận: Nạn nhân Đàm Ý Nhi chết do ngạt học do
chẹn đường hấp vùng cổ. Sau chết, nạn nhân bị cắt, phân c làm nhiều mảnh.
Tại Bản Kết luận Giám định số 774/KLGĐ-TT ngày 11/6/2018 của Phòng
Kỹ thuật Hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: “Dấu vân tay của nữ
giới chưa tung tích thu gi khi Giải phẫu tử thi vào ngày 05/6/2018 trùng với dấu
vân tay trên phần thu thập thông tin Căn cước công dân mang tên Đàm Ý Nhi”.
2.2.2.
Về tội cướp tài sản
-
Hành vi:
Hành vi chuyển phần tài sản của bị hại gồm: 01 (một) xe Honda
Airblade màu đỏ đen, biển số: 59N2-257.88; 01 (một) điện thoại di
động Iphone 6S (dung lượng 64G); 01 (một) điện thoại di động
Iphone 8 Plus (dung lượng 64G); 01 (một) đồng hồ đeo tay màu
đen hiệu Casio Baby G”; 01 (một) đôi bông tai bằng kim loại màu
trắng, bên trên có gắn hạt đá. Tổng giá trị tài sản được định giá
87.661.193 đồng của bị cáo th nói muốn giữ tài sản này lại để
bán lấy tiền” đã cấu thành tội “cướp tài sản” theo điểm đ khoản 2
Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015.
9
-
Hậu quả: Hành vi cướp tài sản của bị cáo y thiệt hại về mặt vật chất to lớn
cho bị hại gia đình của bị hại
-
Thời gian: Ngày 4/6/2018
-
Địa điểm: tại nhà thuê của bị cáo quận Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh
Tại Kết luận định giá i sản số: 8046/KL-HĐĐGTS của Hội đồng định giá
tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự cấp thành phố ngày 26/11/2018 đã kết
luận: 01 xe Honda Airblade nhập khẩu Thái, đăng lần đầu năm 2012; 01 điện
thoại di động Iphone 6S 64GB đã qua sử dụng, màu vàng trắng; 01 điện thoại di
động Iphone 8 Plus 64GB đã qua sử dụng, màu đen; 01 đồng hồ đeo tay hiệu Casio
Baby G đã qua sử dụng, màu đen; 01 đôi bông tai bằng kim loại màu trắng bên trên
gắn hạt đá: hạt đá kim ơng 3 ly 6, màu F, số lượng 02 viên, vỏ kim loại bằng
bạch kim tại thời điểm tháng 6/2018 có tổng giá trị là 87.661.193 đồng.
2.3. Chủ thể:
Ngọc Hiếu năng lực chịu trách nhiệm pháp (30 tuổi, nhận thức bình
thường)
2.4. Mặt chủ quan
2.4.1.
Về tội giết người
-
Lỗi: Được phân tích theo hai trường hợp sau
Trường hợp 1: Hiếu siết cổ chị N để đe dọa chị N nhưng không ngờ chị N chết.
Nếu xét theo trường hợp này thì Vũ Ngọc Hiếu phạm lỗi ý phạm tội theo khoản
1 điều 11 BLHS 2015.
Xét về trí: Hiếu thấy trước hành vi siết cổ thể gây nguy hiểm cho
tính mạng của chị N.
Xét về ý chí: Hiếu cho rằng mình chỉ siết cổ để cảnh cáo, đe dọa chị N
quay lại làm người yêu mình trả s tiền 400 triệu Việt Nam đồng.
Hiếu cho rằng hậu quả chết người s không xảy ra Hiếu thể
ngăn ngừa việc khiến chị N mất mạng được nhưng cuối cùng lại lỡ tay
siết quá lâu khiến chị N chết.
Trường hợp 1 được nhóm xem t đưa vào bài viết trước đó, tại phiên
tòa, Hiếu đã đổi lời khai rằng mình bị hại đã sử dụng ma túy Hiếu không kiểm
10
soát được hành vi của mình nên mới vô tình gây án trong trạng thái tinh thần không
tỉnh táo.
Trường hợp 2: Hiếu siết cổ chị N ghen tuông quáng, nghĩ rằng nếu chị N
không thuộc về Hiếu thì chị N phải chết để chị N ch thuộc về mình Hiếu. Nếu xét
theo trường hợp này thì Ngọc Hiếu phạm lỗi cố ý trực tiếp theo khoản 1 Điều 10
BLHS 2015.
Về trí: Hiếu nhận thức hành vi siết cổ hành vi nguy hiểm.
Hiếu thấy trước hậu quả nh vi đó thể gây ra chắc chắn sẽ
gây chết người.
Về ý chí: Hiếu nhìn thấy trước hậu qu nhưng vẫn làm mong muốn
hậu quả xảy ra: Hiếu cố tình siết c đến khi chị N chết mới buông ra
-
Động cơ: Theo bản án, do nghe chị N thông báo đã có bạn trai mới sẽ lấy
người đó làm chồng nên Hiếu sợ bị ch N bỏ rơi, ghen tuông quáng
nảy sinh ý định giết chị N. Đây một động đê hèn tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự của Hiếu theo khoản q điều 123 BLHS 2015.
-
Mục đích: Muốn giết người yêu ghen tuông quáng, muốn người yêu
thuộc về riêng mình.
5.4.2 Về tội cướp tài sản
-
Lỗi: được phân tích theo hai trường hợp sau
Trường hợp 1: Hiếu để người khác n tài sản của bị hại, để người khác lấy tiền
làm ăn. Tuy không ý định lấy tiền từ việc n tài sản của b hại nhưng
Hiếu vẫn để mặc người khác bán tài sản của b hại.
Về lý trí: Hiếu nhận thức hành vi lấy tài sản của bị hại đưa cho
người khác đem bán sai nhưng vẫn để mặc cho người khác làm.
Về ý chí: Tuy không có ý định lấy tiền từ việc để người khác bán tài
sản của bị hại nhưng Hiếu vẫn đưa tài sản của bị hại cho người khác
đề mặc cho tài sản bị n đi.
Xét theo trường hợp này thì hành vi của Hiếu đã phạm lỗi cố ý gián tiếp theo
khoản 2 điều 10 BLHS 2015.
11
Trường hợp 2: Hiếu muốn che dấu chứng cứ phạm tội, tránh việc bị phát hiện
mang theo i sản sau đó suy nghĩ bán tài sản chiếc xe hiệu Airblade
của bị hại để tiêu thụ phục vụ cho việc b trốn.
Về lý trí: Hiếu không biết hành vi của mình phạm tội cướp mặc số
tài sản của chị N giá trị lớn.
Về ý chí: Hiếu không thấy trước hành vi của mình hành vi thể
gây nguy hại cho hội, mặc phải thấy trước thể thấy trước
hậu quả đó.
Xét theo trường hợp này thì hành vi của Hiếu đã phạm lỗi ý do cẩu thả
theo khoản 2 điều 11 BLHS 2015. Đồng thời những hành vi này của Hiếu cũng đã
cấu thành tội cướp tài sản theo điều 168 BLHS 2015.
-
Động cơ: Theo bản án lời khai của Hiếu thì việc Hiếu lấy tài sản của bị
hại do muốn che giấu chứng cứ phạm tội.
-
Mục đích: Không mục đích từ trước, phát sinh sau khi đạt được mục đích
chính của hành vi phạm tội của mình.
3. Bình luận bản án
3.1 Những điểm đúng trong bản án
3.1.1
Nhận định của Viện kiểm t
Tại Cáo trạng số 290/CT-VKS-P2 ngày 23/7/2019 của Viện Kiểm sát nhân
dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố Ngọc H về tội “Giết người” theo c điểm e,
i, q khoản 1 Điều 123 và tội “Cướp tài sản” theo điểm đ khoản 2 Điều 168 Bộ luật
Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 hoàn toàn xác đáng.
3.1.2
Nhận định của Tòa án
Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, quan Cảnh t điều tra Công an
Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, n bộ điều tra, Viện kiểm sát nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ
tục quy định của B luật Tố tụng hình sự.
Việc Hội đồng xét xử cho rằng lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các kết
luận giám định, kết luận định giá, biên bản khám nghiệm hiện trường cùng các tài
liệu, chứng cứ khác trong hồ vụ án hoàn toàn hợp . Qua đó, đã đủ sở
12
kết luận bị cáo H đã có hành vi phạm tội Giết người” “Cướp tài sản” được quy
định tại Điều 123 168 BLHS 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tòa án đã đưa ra căn cứ để chấp nhận lời trình bày của đại diện Viện kiểm
sát nhân n thành phố Hồ Chí Minh chấp nhận một phần lời trình bày của luật
tại phiên tòa. Việc Hội đồng xét xử xem xét đến các tình tiết tăng nặng, tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hoàn cảnh nhân thân của bị cáo trước khi ra quyết
định hình phạt hoàn toàn cần thiết hợp tình, hợp lý.
Áp dụng đúng quy định về tổng hợp hình phạt được tại Điều 55 BLHS.
Đảm bảo nguyên tắc bản của pháp luật Việt Nam khi tôn trọng thỏa thuận
của các bên về việc bồi thường chi phí mai táng tổn thất tinh thần với tổng số
tiền 400.000.000 đồng khi xét thấy việc thống nhất thỏa thuận này hoàn
toàn tự nguyện, không vi phạm pháp luật (điều 592.2 BLDS 2015).
Hội đồng xét xử đã thực hiện việc xử vật chứng đúng theo quy định tại
Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.
3.2. Những điểm hạn chế trong bản án
Điểm hạn chế thứ nhất việc tòa án chưa m nguyên nhân dẫn đến hành
vi phạm tội của bị cáo. Bị cáo Hiếu khai nhận do không muốn người yêu chia tay
đi lấy chồng nên đã sát hại gái. Tuy nhiên, nguyên nhân sâu xa của hành vi y
thể do b cáo tâm bất ổn, thiếu kiểm soát bản thân, hoặc do bị cáo dùng
ma túy. Việc làm nguyên nhân dẫn đến nh vi phạm tội s giúp cho việc x
tội phạm đạt hiệu quả n.
Điểm hạn chế thứ hai việc tòa án chưa xem xét đầy đủ c tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm nh sự cho bị o. B cáo Hiếu một số tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự như: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình có công với cách
mạng. Tuy nhiên, tòa án chỉ xem xét áp dụng một tình tiết giảm nhẹ "thành
khẩn khai o". Việc không xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nh trách nhiệm hình
sự thể dẫn đến hình phạt đối với bị cáo chưa được ơng xứng với tính chất, mức
độ của hành vi phạm tội.
3.3. Bình luận bản án
Qua quá trình điều tra tại phiên tòa, luật bào chữa đã thực hiện đúng
quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Lời khai nhận của bị cáo hoàn toàn
13
phù hợp với các kết luận giám định, kết luận định giá, biên bản khám nghiệm hiện
trường cùng các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ vụ án, đã đủ sở xác định.
Do đó, việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đối với bị
cáo căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Nghiên cứu diễn biến sự việc xảy ra, đối chiếu với các quy định của pháp
luật, chúng tôi đồng tình với quan điểm của Hội đồng t xử, lẽ: Hành vi của bị
cáo Ngọc H là đặc biệt nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho hội, đã trực tiếp
xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng tài sản thuộc sở hữu của người khác được
pháp luật bảo vệ, y mất trật tự an toàn hội, do vậy cần phải được x nghiêm
để cải tạo, giáo dục riêng răn đe phòng ngừa chung. Căn cứ lời khai của bị cáo
tại Tòa, H tài liệu chứng cứ trong vụ án đề nghị của Viện kiểm sát; Dựa trên
các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ. Việc Hội đồng xét xử tuyên phạt tử hình bị cáo
Ngọc Hiếu về tội Giết người và Cướp tài sản theo quy định tại các Điều 123
Điều 168 Bộ luật hình s hoàn toàn hợp theo quy định pháp luật.
4. Quan điểm của nhóm
4.1 Đồng ý với quan điểm của tòa án
Đồng ý rằng Ngọc Hiếu phải chịu án "tử hình" để trả giá cho tội ác của
mình. Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã chứng minh được tính khách
quan công bằng của mình trong việc xử vụ án man rợ kinh hoàng của
Ngọc Hiếu. Hành vi tàn bạo của hắn - giết người yêu (sự tâm ích kỷ xuất
phát t suy nghĩ của một người bị b rơi - khi chị N quyết định rời xa hắn để
cưới chồng. Hắn đã xuống tay cướp đi mạng sống của chị N). Vì vậy, chúng tôi cho
rằng quyết định áp dụng nh phạt tử hình của tòa án hoàn toàn chính đáng cần
thiết, nhằm đảm bảo sự minh bạch, công bằng trong các vụ án pháp lý.
Trong vụ án này, bị cáo thái độ thành khẩn khai o, ăn năn hối cải. Đây
các tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 cần
áp dụng cho bị cáo. Mặc bị cáo có tình tiết giảm nhẹ như đã nêu trên, nhưng với
tội ác bị cáo đã gây ra đặc biệt nghiêm trọng, hậu quả xảy ra không
đắp nổi nên cần phải loại bỏ vĩnh viễn bị cáo ra khỏi đời sống hội đối với tội
“Giết người” áp dụng nh phạt có thời hạn đối với tội “Cướp i sản” mới
14
tránh được mối nguy hại sau này, đồng thời cũng đảm bảo tính giáo dục, n đe
phòng ngừa chung cho hội.
4.2. Không đồng ý với quan điểm của tòa án
Bị o Vũ Ngọc Hiếu liên tục thay đổi lời khai, không nhận ra những hành
động của mình đã dẫn đến một sự việc đáng trách, gây ảnh hưởng xấu đến toàn
hội. Nhưng nếu lời khai của Ngọc Hiếu trước tòa đúng sự thật thì tòa phải
hoãn phiên tòa và thu thập chứng cứ chứng minh việc sử dụng ma túy liên quan
đến vụ án giết người. Tuy nhiên, tòa không chấp nhận lời khai của Ngọc Hiếu,
cho rằng “thực tế ảo tưởng do ma túy gây ra không phải là căn cứ giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự cho bị cáo”. thiếu bằng chứng ràng nhưng tòa án đã kết luận
tội ác của Ngọc Hiếu được thực hiện do ghen tuông ích kỷ.
Thêm vào đó, tại phiên tòa, Hiếu thay đổi lời khai rằng Hiếu cho ch N
mượn 400 triệu để làm ăn trước khi gây án Hiếu N sử dụng ma túy. Người
sử dụng chất ma túy thông thường sẽ không thể kiểm soát hành vi của bản thân.
Hiếu đã tin tưởng giao cho ch N một số tiền lớn như vậy, hiện tại đang không
việc làm gặp khó khăn về i chính đã đòi nợ nhiều lần nhưng chị N không trả,
th thấy nếu lời khai này đúng thì chị N đã nh vi trái pháp luật. Hơn nữa,
việc chị N thông báo sắp đi lấy chồng việc thể kích động rất mạnh đến trạng
thái tinh thần của Hiếu. Nếu sự việc hoàn toàn đúng như lời khai của b cáo và
đầy đủ bằng chứng thì đây thể một tình tiết vô cùng quan trọng trong việc xác
định tội danh của Hiếu. Qua đó, có thể thấy trong quá trình điều tra đã thiếu sót
trong việc giám định pháp y tâm thần trạng thái tinh thần của Hiếu trong c gây
án, dẫn đến những khó khăn sau này trong việc giải quyết v án. Tóm lại, việc kiểm
tra cẩn thận và kỹ ỡng tất cả c bằng chứng, bao gồm lời khai của nhân chứng
phân tích pháp y, là hoàn toàn cần thiết để đảm bảo đạt được công trong vụ án này.
Do đó, điều bắt buộc tòa án phải xem xét tất cả các thông tin liên quan trước khi
ấn định cáo buộc thích hợp đánh giá trách nhiệm hình sự.
15

Preview text:

LỜI CAM KẾT
Chúng tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng
nhóm chúng tôi và những nội dung được trình bày trong luận văn này là hoàn toàn
trung thực. Những dữ liệu phục vụ cho việc phân tích và dẫn dắt đề tài này được thu
thập từ các nguồn tài liệu khác nhau và được ghi chú trong mục tài liệu tham khảo
hoặc chú thích ngay bên dưới các dữ liệu. Các dữ liệu sử dụng phân tích trong luận
văn có nguồn gốc rõ ràng, đã được công bố theo đúng quy định. MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 1
1. Lý do chọn đề tài. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 1
3. Mục đích nghiên cứu. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .1
4. Đối tượng nghiên cứu. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 2
5. Phạm vi nguyên cứu. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 2
6. Nhiệm vụ nghiên cứu. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 2
7. Phương pháp nghiên cứu. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 3
7.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 3
7.2. Phương pháp quy nạp và diễn giải. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 3
7.3. Phương pháp phân tích tổng kết kinh nghiệm. . . . . . . . . . . . . . . . . . .3
8. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 4
8.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .4
8.2. Giá trị thực tiễn của đề tài. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .4
NỘI DUNG. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 5
1. Sơ lược về Bản án: Bản án 392/2019/HS-ST ngày 17/10/2019 về tội
giết người và cướp tài sản. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .5
1.1. Thông tin của những người tham gia phiên tòa. . . . . . . . . . . . . . . . . 5
1.2. Tóm tắt bản án. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 5
1.3. Tại phiên tòa. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 7
1.4. Nhận định của tòa án. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .7
1.5. Quyết định của tòa án. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 8
2. Phân tích cấu thành tội phạm. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 8
2.1. Khách thể. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 8
2.2. Mặt khách quan. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 8
2.3. Chủ thể. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 10
2.4. Mặt chủ quan. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 10
3. Bình luận bản án. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 12
3.1 Những điểm đúng trong bản án. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 12
3.2. Những điểm hạn chế trong bản án. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 13
3.3. Bình luận bản án. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 13
4. Quan điểm của nhóm. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 14
4.1 Đồng ý với quan điểm của tòa án. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 14
4.2. Không đồng ý với quan điểm của tòa án. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 15
PHẦN KẾT LUẬN. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 17
PHỤ LỤC KHÁC
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 18
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 19 PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ghen tuông là một cảm xúc tiêu cực và luôn hiện hữu trong mỗi con
người. Lòng ghen tuông có thể khiến con người mất đi lý trí, dẫn đến những
hành vi tội ác gây tổn hại đến tính mạng và tài sản của người khác. Người có
tính ghen tuông cần học cách kiểm soát cơn ghen tức hoặc cần được điều trị tâm
lý để kiểm soát cảm xúc của mình. Tuy nhiên việc kiểm soát cơn ghen tức là
điều vô cùng khó khăn đối với mỗi cá nhân vì vậy cần có sự chung tay, góp sức
của gia đình và xã hội để giáo dục, tuyên truyền về tác hại của ghen tuông, giúp
mọi người nâng cao nhận thức về vấn đề này và có cách cư xử lành mạnh hơn trong tình yêu.
Nhóm chúng tôi hy vọng thông qua vụ án mạng sau có thể giúp mọi
người phần nào nâng cao nhận thức về thực trạng yêu đương, ghen tuông mù
quáng đang nhức nhối hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, nhiều trang báo, tạp chí, các bài bình luận nghiên cứu đặt ra
vấn đề cấu thành tội phạm và phân tích các phương pháp phân tích các bản án
pháp luật cụ thể các đối tượng như ấn phẩm, nhãn hiệu, dịch vụ… Tiêu biểu
phải kể đến: Bản án Hình sự sơ thẩm số 392/2019/HS-ST NGÀY 17/10/2019 về
"TỘI GIẾT NGƯỜI VÀ CƯỚP TÀI SẢN" một vụ án gây rúng động dư luận về
hành vi giết người yêu cũ và phân xác thành nhiều phần được Tòa án nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh xét xử.
3. Mục đích nghiên cứu
Cung cấp thông tin, dữ liệu về trách nhiệm hình sự đến các bạn độc giả.
Trình bày quan điểm, bình luận của nhóm tác giả, rút ra những bất cập và thiếu
sót hay phân tích cái hay trong các quyết định của Tòa án trong phiên tòa xét xử 1
của các bị cáo (đối tượng nghiên cứu) được đề cập trong đề tài và đưa ra giải
pháp để hoàn thiện hơn hay học tập theo.
Bài nghiên cứu này sẽ tìm hiểu, làm rõ về vấn đề liên quan đến Bản án
Hình Sự 920/2019/HS-ST về tội giết người và cướp tài sản gây rúng động dư
luận diễn ra tại khu trọ tại Thành phố Hồ Chí Minh” có mang lại hiệu quả phục
vụ cho việc xây dựng an ninh xã hội, sự công bằng cho các cá nhân,gia đình và
xã hội khẳng định những quyết định liêm chính của tòa án. Từ đó, mọi người
cùng chung tay xây dựng một xã hội mà trong đó tất cả đều được tôn trọng và
bảo vệ bởi pháp luật thật sự.
4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu đề tài là những đối tượng về tội phạm giết người có
tính chất xâm phạm, chiếm đoạt, nguyên nhân, điều kiện và thực tiễn đến tính mạng
con người, quyền sống, quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe thân
thể và các quyền đi kèm khác của chủ thể. 5. Phạm vi nguyên cứu
- Phạm vi không gian: ở Việt Nam.
- Phạm vi thời gian: tiểu luận được thực hiện vào tháng 11 năm 2023.
- Phạm vi nội dung chính: Phần lớn tiểu luận phân tích trách nhiệm hình sự về
tội giết người và cướp tài sản.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Mô tả thực trạng vấn đề tội phạm hình sự qua bản án ở Việt Nam và mối liên
hệ giữa các chủ thể, quan hệ pháp luật.
- Phân tích, đánh giá thực trạng, nguyên nhân vấn đề tội phạm do ghen tuông mù quáng.
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận liên quan đến thực trạng, phạm vi đề tài.
- Đề xuất biện pháp. khuyến nghị với vấn đề phạm tội do ghen tuông mù quáng. 2
7. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nhóm chúng tôi dùng để nghiên cứu đề tài này là phương pháp
phân tích - tổng hợp, quy nạp và diễn giải, phân tích tổng kết kinh nghiệm kết hợp
với phân tích bản án để thực hiện đề tài nghiên cứu.
7.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp
Mục đích của phương pháp: thực hiện nhiệm vụ hệ thống hóa những vấn đề
lý luận liên quan đến đề tài.
Đối tượng của phương pháp: bản án, cấu thành tội phạm
Nội dung của phương pháp: dùng để chia một vấn đề tội phạm vì ghen tuông
mù quáng thành những bộ phận, những mặt, những yếu tố đơn giản hơn để nghiên
cứu và làm sáng tỏ vấn đề.
7.2. Phương pháp quy nạp và diễn giải
Mục đích của phương pháp: phân tích các thông tin rời rạc và tổng hợp lại các kết quả.
Đối tượng của phương pháp: các thông tin, kiến thức về vụ án từ các nguồn
báo chí, Internet và bản án.
Nội dung của phương pháp: tổng hợp lại các kết quả, thông tin rời rạc thu
được từ các nguồn, rút ra đặc điểm của đối tượng nghiên cứu.
7.3. Phương pháp phân tích tổng kết kinh nghiệm:
Mục đích của phương pháp: phân tích những thông tin đã chọn lọc được và rút ra bài học cụ thể
Đối tượng của phương pháp: các thông tin, kiến thức về vụ án từ các nguồn
báo chí, Internet và bản án. 3
Nội dung của phương pháp: thu thập thông tin, chọn lọc, học tập và gom lại
những kết quả từ những trang web liên quan đến vụ án để rút ra bài học cụ thể, nâng
cao nhận thức của từng cá nhân.
8. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài:
8.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Bài tiểu luận là tài liệu học tập của nhóm tác giả về lĩnh vực tội phạm hình sự
về tội giết người và cướp tài sản trong môn Luật Hình sự 2.
8.2. Giá trị thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của nhóm có thể làm tài liệu tham khảo về lĩnh vực tội
phạm hình sự về tội giết người và cướp tài sản trong môn Luật Hình sự 2. Góp phần
nâng cao nhận thức về thực trạng yêu đương, ghen tuông mù quáng đang nhức nhối hiện nay. 4 NỘI DUNG
1. Sơ lược về Bản án: Bản án 392/2019/HS-ST ngày 17/10/2019 về tội
giết người và cướp tài sản
1.1. Thông tin của những người tham gia phiên tòa
- Bị cáo: Vũ Ngọc Hiếu, giới tính nam. Sinh năm: 1989 tại tỉnh Gia Lai, đăng
ký HKTT: Hẻm 333 H1, Tổ H2, phường H3, thành phố H4, tỉnh Gia Lai;
Chỗ ở hiện nay: Số 146/14 Đường số H5, Phường H6, quận V, Thành phố
Hồ Chí Minh; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông Vũ
Ngọc S và con bà Nguyễn Thị S1 (chết); Hoàn cảnh gia đình: bị cáo chưa có
vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 05/6/2018.
- Bị hại: Đàm Ý Nhi, sinh năm 1991 (đã chết).
- Đại diện hợp pháp của bị hại: Ông Đàm Anh D, sinh năm 1968 (cha của bị
hại); Bà Huỳnh Thị Kim A, sinh năm 1965 (mẹ của bị hại)
- Người bào chữa: Luật sư Đỗ Ngọc O, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí
Minh, làm việc tại Văn phòng Luật sư. Được chỉ định bào chữa cho bị cáo Vũ Ngọc Hiếu.
1.2. Tóm tắt bản án:
1.2.1. Về tội giết người:
- Theo cáo trạng, Vũ Ngọc Hiếu (sinh năm 1989, quê tỉnh Gia Lai) và chị Đàm
Ý Nhi (sinh năm 1991, ngụ tại Thành phố Hồ Chí Minh) có quan hệ tình cảm
yêu thương nhau trong 9 năm (từ 2008 đến 2017). Tuy nhiên, đến khoảng
tháng 7/2017, hai người phát sinh mâu thuẫn nên ít gặp nhau mà chủ yếu liên lạc qua điện thoại.
- Ngày 31/5/2018, H và chị N hẹn gặp nhau tại nhà thuê của H ở quận Gò Vấp,
Thành phố Hồ Chí Minh. Tại đây, sau khi có quan hệ tình dục, H biết chị N
đã có bạn trai mới và sẽ đi lấy chồng nên nảy sinh ý định giết chết chị N.
- Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 1/6/2018, H dùng tay trái bịt miệng chị N và
dùng tay phải vòng qua cổ chị N rồi siết chặt, đồng thời lăn theo hướng từ 5
phải qua trái lật chị N nằm ngửa trên người của H và dùng hai chân kẹp hai
chân của chị N lại không cho chị N vùng vẫy, cho đến khi chị N chết.
- Khoảng 10 giờ sáng ngày 01/6/2018: 
Bộ phận sinh dục của chị N tiết ra dịch có mùi hôi thối và thấm vào
nệm, H sợ mọi người xung quanh phát hiện nên đã nảy sinh ý định phân xác. 
H lần lượt cắt hai khuỷu tay, hai chân từ khớp gối trở xuống, cắt phần
đầu rồi bỏ vào trong các túi nilon màu đen; rồi tiếp tục dùng dao lóc
phần thịt hai chân từ đầu gối lên tới mông, lóc thịt hai cánh tay lên tới
bả vai cho vào 04 túi nilon; tháo khớp bả vai lấy 02 xương cánh tay
còn lại cho vào một túi nilon. 
H mang phần xương và thịt vừa cắt ra xuống tầng trệt cho vào tủ lạnh,
còn phần thân của chị N, H bỏ vào trong chiếc xô nhựa rồi mang
xuống nhà vệ sinh ở tầng trệt. 
H tiếp tục dùng dao mổ phần bụng của chị N lấy nội tạng ra cắt nhỏ
cho vào bồn cầu vệ sinh rồi dội nước cho trôi xuống hầm cầu (khoảng
4 - 5 lần). cho vào túi nilon. - Ngày 04/6/2018: 
Khoảng 00 giờ 10 phút, H dọn quần áo và lấy những phần thi thể của
chị N từ trong tủ lạnh ra bỏ vào trong vali, thùng carton, bịch nylon để
lên xe gắn máy hiệu Suzuki Smash Revo và cột lại rồi điều khiển xe
đến nhà anh Trần Thanh R ở tỉnh Tây Ninh. 
Khoảng 09 giờ 00 phút, H để lại một số đồ vật, quần áo tại nhà anh R
và dùng xe Suzuki Smash Revo chở theo vali, thùng carton, bịch nilon
chứa những phần thi thể chị N đi vứt tại bãi đất trống ở tỉnh Tây Ninh.
1.2.2. Về tội cướp tài sản:
- Vào khoảng 22 giờ ngày 01/6/2018, sau khi phân xác chị N, H lấy bọc đựng
quần áo cùng một số vật dụng cá nhân của chị N bỏ vào cốp xe Honda
Airblade của chị N, rồi điều khiển chiếc xe này đến nhà anh Trần Thanh R ở tỉnh Tây Ninh. 6
- Buổi sáng ngày 02/6/2018, H điều khiển xe máy đi đến khu vực bãi đất trống
ở tỉnh Tây Ninh, để vứt bọc đựng quần áo đồng phục cùng một số vật dụng cá nhân của chị N.
- Sáng ngày 03/06/2018, H gửi lại chiếc xe máy Honda AirBlade của chị N ở
nhà anh R và nói anh R kiếm người bán xe để lấy tiền làm ăn rồi đi xe buýt
về lại thành phố Hồ Chí Minh.
- Khoảng 00 giờ 10 phút ngày 04/6/2018, H đi bộ về nhà thuê của H. Tại đây,
H lấy 02 điện thoại di động, một số giấy tờ cá nhân và đồng hồ đeo tay của chị N. 1.3. Tại phiên tòa
- Bị cáo Vũ Ngọc H khai nhận hành vi phạm tội.
- H khai do sử dụng ma túy trước đó và chỉ dán băng keo khiến nạn nhân ngạt thở, không có giết.
- H cũng không lý giải được lý do vì sao lại phân xác nạn nhân.
1.4. Nhận định của tòa án
- Hội đồng xét xử nhận định như sau: 
Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, Cơ quan Cảnh sát điều tra
Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Cán bộ điều tra,
Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên đã
thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, luật sư bào chữa đã
thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Do vậy,
các hành vi, các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng và người bào chữa là hợp pháp. 
Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các kết luận giám định, kết luận
định giá, biên bản khám nghiệm hiện trường cùng các tài liệu, chứng
cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đã đủ cơ sở xác định tội danh của bị cáo.
- Tại Bản Kết luận Giám định pháp y tử thi và Kết luận giám định pháp y tử
thi bổ sung của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã 7
xác định: Nạn nhân Đàm Ý N chết do ngạt cơ học do chẹn đường hô hấp ở
vùng cổ; sau chết, nạn nhân bị cắt, phân xác làm nhiều mảnh.
- Tại Kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên
trong tố tụng hình sự cấp thành phố ngày 26/11/2018 đã kết luận tổng giá trị
của số tài sản của nạn nhân là 87.661.193 đồng (số tài sản này đã thu hồi và
trả lại cho phía bị hại).
- Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã có đủ cơ sở kết luận bị
cáo Vũ Ngọc H phạm tội “Giết người” và tội “Cướp tài sản”
1.5. Quyết định của tòa án
- Ngày 17/10/2019, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên phạt Vũ
Ngọc Hiếu mức án tử hình về tội giết người và 8 năm tù về tội cướp tài sản.
Tổng hình phạt chung bị cáo này phải chấp hành là tử hình.
- Buộc Vũ Ngọc H phải bồi thường cho ông Đàm Anh D và bà Huỳnh Thị
Kim A chi phí mai táng và tổn thất tinh thần với tổng số tiền là 400.000.000
đồng (bốn trăm triệu đồng). 2.
Phân tích cấu thành tội phạm 2.1. Khách thể
- Xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của con người (hành vi giết người)
- Xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân (hành vi cướp tài sản) 2.2. Mặt khách quan
2.2.1. Về tội giết người - Hành vi: 
H dùng tay trái bịt miệng chị N và dùng tay phải vòng qua cổ chị N
rồi siết chặt, đồng thời lăn theo hướng từ phải qua trái lật chị N nằm
ngửa trên người của H và dùng hai chân kẹp hai chân của chị N lại
không cho chị N vùng vẫy, cho đến khi chị N chết. Đây là một loạt
các hành vi gây chết bị hại của Hiếu. 
H cắt hai khuỷu tay; hai chân từ khớp gối trở xuống; cắt phần đầu của
nạn nhân; dùng dao lóc phần thịt hai chân từ đầu gối lên tới mông; lóc
thịt hai cánh tay lên tới bả vai cho; tháo khớp bả vai; dùng dao mổ 8
phần bụng của chị N, lấy nội tạng ra cắt nhỏ cho vào bồn cầu vệ sinh
rồi dội nước cho trôi xuống hầm cầu (khoảng 4 - 5 lần). Hành vi này
đã phạm vào điểm i khoản 1 điều 123 BLHS 2015.
- Hậu quả: Hành vi của bị cáo làm chết bị hại
- Thời gian: khoảng 00 giờ 30 phút ngày 1/6/2018
- Địa điểm: tại nhà thuê của bị cáo ở quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh - Hung khí: 
Bị cáo không sử dụng hung khí gây chết bị hại 
02 dao găm có bao ốp (dài khoảng 40cm và khoảng 30cm) để phân xác
Tại Bản Kết luận Giám định pháp y tử thi số 547-18/KLGĐ-PY ngày
04/9/2018 và Kết luận giám định pháp y tử thi bổ sung số 1477-19/KLGĐBS-PY
ngày 18/9/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh đối
với nạn nhân Đàm Ý Nhi, kết luận: Nạn nhân Đàm Ý Nhi chết do ngạt cơ học do
chẹn đường hô hấp ở vùng cổ. Sau chết, nạn nhân bị cắt, phân xác làm nhiều mảnh.
Tại Bản Kết luận Giám định số 774/KLGĐ-TT ngày 11/6/2018 của Phòng
Kỹ thuật Hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: “Dấu vân tay của nữ
giới chưa rõ tung tích thu giữ khi Giải phẫu tử thi vào ngày 05/6/2018 trùng với dấu
vân tay trên phần thu thập thông tin Căn cước công dân mang tên Đàm Ý Nhi”.
2.2.2. Về tội cướp tài sản - Hành vi: 
Hành vi chuyển phần tài sản của bị hại gồm: 01 (một) xe Honda
Airblade màu đỏ đen, biển số: 59N2-257.88; 01 (một) điện thoại di
động Iphone 6S (dung lượng 64G); 01 (một) điện thoại di động
Iphone 8 Plus (dung lượng 64G); 01 (một) đồng hồ đeo tay màu
đen có hiệu “Casio Baby G”; 01 (một) đôi bông tai bằng kim loại màu
trắng, bên trên có gắn hạt đá. Tổng giá trị tài sản được định giá là
87.661.193 đồng của bị cáo có thể nói là muốn giữ tài sản này lại để
bán lấy tiền” đã cấu thành tội “cướp tài sản” theo điểm đ khoản 2
Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015. 9
- Hậu quả: Hành vi cướp tài sản của bị cáo gây thiệt hại về mặt vật chất to lớn
cho bị hại và gia đình của bị hại - Thời gian: Ngày 4/6/2018
- Địa điểm: tại nhà thuê của bị cáo ở quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh
Tại Kết luận định giá tài sản số: 8046/KL-HĐĐGTS của Hội đồng định giá
tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự cấp thành phố ngày 26/11/2018 đã kết
luận: 01 xe Honda Airblade nhập khẩu Thái, đăng ký lần đầu năm 2012; 01 điện
thoại di động Iphone 6S 64GB đã qua sử dụng, màu vàng trắng; 01 điện thoại di
động Iphone 8 Plus 64GB đã qua sử dụng, màu đen; 01 đồng hồ đeo tay hiệu Casio
Baby G đã qua sử dụng, màu đen; 01 đôi bông tai bằng kim loại màu trắng bên trên
có gắn hạt đá: hạt đá là kim cương 3 ly 6, màu F, số lượng 02 viên, vỏ kim loại bằng
bạch kim tại thời điểm tháng 6/2018 có tổng giá trị là 87.661.193 đồng. 2.3. Chủ thể:
Vũ Ngọc Hiếu có năng lực chịu trách nhiệm pháp lý (30 tuổi, nhận thức bình thường) 2.4. Mặt chủ quan
2.4.1. Về tội giết người
- Lỗi: Được phân tích theo hai trường hợp sau
Trường hợp 1: Hiếu siết cổ chị N để đe dọa chị N nhưng không ngờ chị N chết.
Nếu xét theo trường hợp này thì Vũ Ngọc Hiếu phạm lỗi vô ý phạm tội theo khoản 1 điều 11 BLHS 2015. 
Xét về lý trí: Hiếu thấy trước hành vi siết cổ có thể gây nguy hiểm cho tính mạng của chị N. 
Xét về ý chí: Hiếu cho rằng mình chỉ siết cổ để cảnh cáo, đe dọa chị N
quay lại làm người yêu mình và trả số tiền 400 triệu Việt Nam đồng.
Hiếu cho rằng hậu quả chết người sẽ không xảy ra và Hiếu có thể
ngăn ngừa việc khiến chị N mất mạng được nhưng cuối cùng lại lỡ tay
siết quá lâu khiến chị N chết.
Trường hợp 1 được nhóm xem xét và đưa vào bài viết vì trước đó, tại phiên
tòa, Hiếu đã đổi lời khai rằng mình và bị hại đã sử dụng ma túy và Hiếu không kiểm 10
soát được hành vi của mình nên mới vô tình gây án trong trạng thái tinh thần không tỉnh táo.
Trường hợp 2: Hiếu siết cổ chị N vì ghen tuông mù quáng, nghĩ rằng nếu chị N
không thuộc về Hiếu thì chị N phải chết để chị N chỉ thuộc về mình Hiếu. Nếu xét
theo trường hợp này thì Vũ Ngọc Hiếu phạm lỗi cố ý trực tiếp theo khoản 1 Điều 10 BLHS 2015. 
Về lý trí: Hiếu nhận thức rõ hành vi siết cổ là hành vi nguy hiểm.
Hiếu thấy trước hậu quả mà hành vi đó có thể gây ra là chắc chắn sẽ gây chết người. 
Về ý chí: Hiếu nhìn thấy trước hậu quả nhưng vẫn làm và mong muốn
hậu quả xảy ra: Hiếu cố tình siết cổ đến khi chị N chết mới buông ra
- Động cơ: Theo bản án, do nghe chị N thông báo đã có bạn trai mới và sẽ lấy
người đó làm chồng nên Hiếu sợ bị chị N bỏ rơi, ghen tuông mù quáng mà
nảy sinh ý định giết chị N. Đây là một động cơ đê hèn và là tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự của Hiếu theo khoản q điều 123 BLHS 2015.
- Mục đích: Muốn giết người yêu cũ vì ghen tuông mù quáng, muốn người yêu cũ thuộc về riêng mình.
5.4.2 Về tội cướp tài sản
- Lỗi: được phân tích theo hai trường hợp sau
Trường hợp 1: Hiếu để người khác bán tài sản của bị hại, để người khác lấy tiền
làm ăn. Tuy không có ý định lấy tiền từ việc bán tài sản của bị hại nhưng
Hiếu vẫn để mặc người khác bán tài sản của bị hại.
 Về lý trí: Hiếu nhận thức rõ hành vi lấy tài sản của bị hại và đưa cho
người khác đem bán là sai nhưng vẫn để mặc cho người khác làm.
 Về ý chí: Tuy không có ý định lấy tiền từ việc để người khác bán tài
sản của bị hại nhưng Hiếu vẫn đưa tài sản của bị hại cho người khác
và đề mặc cho tài sản bị bán đi.
Xét theo trường hợp này thì hành vi của Hiếu đã phạm lỗi cố ý gián tiếp theo
khoản 2 điều 10 BLHS 2015. 11
Trường hợp 2: Hiếu muốn che dấu chứng cứ phạm tội, tránh việc bị phát hiện
mang theo tài sản và sau đó có suy nghĩ bán tài sản là chiếc xe hiệu Airblade
của bị hại để tiêu thụ và phục vụ cho việc bỏ trốn.
 Về lý trí: Hiếu không biết hành vi của mình phạm tội cướp mặc dù số
tài sản của chị N có giá trị lớn.
 Về ý chí: Hiếu không thấy trước hành vi của mình là hành vi có thể
gây nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
Xét theo trường hợp này thì hành vi của Hiếu đã phạm lỗi vô ý do cẩu thả
theo khoản 2 điều 11 BLHS 2015. Đồng thời những hành vi này của Hiếu cũng đã
cấu thành tội cướp tài sản theo điều 168 BLHS 2015.
- Động cơ: Theo bản án và lời khai của Hiếu thì việc Hiếu lấy tài sản của bị
hại là do muốn che giấu chứng cứ phạm tội.
- Mục đích: Không có mục đích từ trước, phát sinh sau khi đạt được mục đích
chính của hành vi phạm tội của mình. 3. Bình luận bản án
3.1 Những điểm đúng trong bản án
3.1.1 Nhận định của Viện kiểm sát
Tại Cáo trạng số 290/CT-VKS-P2 ngày 23/7/2019 của Viện Kiểm sát nhân
dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố Vũ Ngọc H về tội “Giết người” theo các điểm e,
i, q khoản 1 Điều 123 và tội “Cướp tài sản” theo điểm đ khoản 2 Điều 168 Bộ luật
Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là hoàn toàn xác đáng.
3.1.2 Nhận định của Tòa án
Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an
Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Viện kiểm sát nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ
tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Việc Hội đồng xét xử cho rằng lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các kết
luận giám định, kết luận định giá, biên bản khám nghiệm hiện trường cùng các tài
liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án là hoàn toàn hợp lý. Qua đó, đã đủ cơ sở 12
kết luận bị cáo H đã có hành vi phạm tội “Giết người” và “Cướp tài sản” được quy
định tại Điều 123 và 168 BLHS 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tòa án đã đưa ra căn cứ để chấp nhận lời trình bày của đại diện Viện kiểm
sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và chấp nhận một phần lời trình bày của luật
sư tại phiên tòa. Việc Hội đồng xét xử xem xét đến các tình tiết tăng nặng, tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hoàn cảnh và nhân thân của bị cáo trước khi ra quyết
định hình phạt là hoàn toàn cần thiết và hợp tình, hợp lý.
Áp dụng đúng quy định về tổng hợp hình phạt được tại Điều 55 BLHS.
Đảm bảo nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam khi tôn trọng thỏa thuận
của các bên về việc bồi thường chi phí mai táng và tổn thất tinh thần với tổng số
tiền là 400.000.000 đồng khi xét thấy việc thống nhất và thỏa thuận này là hoàn
toàn tự nguyện, không vi phạm pháp luật (điều 592.2 BLDS 2015).
Hội đồng xét xử đã thực hiện việc xử lý vật chứng đúng theo quy định tại
Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.
3.2. Những điểm hạn chế trong bản án
Điểm hạn chế thứ nhất là việc tòa án chưa làm rõ nguyên nhân dẫn đến hành
vi phạm tội của bị cáo. Bị cáo Hiếu khai nhận do không muốn người yêu chia tay và
đi lấy chồng nên đã sát hại cô gái. Tuy nhiên, nguyên nhân sâu xa của hành vi này
có thể là do bị cáo có tâm lý bất ổn, thiếu kiểm soát bản thân, hoặc do bị cáo dùng
ma túy. Việc làm rõ nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội sẽ giúp cho việc xử lý
tội phạm đạt hiệu quả hơn.
Điểm hạn chế thứ hai là việc tòa án chưa xem xét đầy đủ các tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Bị cáo Hiếu có một số tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự như: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình có công với cách
mạng. Tuy nhiên, tòa án chỉ xem xét và áp dụng một tình tiết giảm nhẹ là "thành
khẩn khai báo". Việc không xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự có thể dẫn đến hình phạt đối với bị cáo chưa được tương xứng với tính chất, mức
độ của hành vi phạm tội.
3.3. Bình luận bản án
Qua quá trình điều tra và tại phiên tòa, luật sư bào chữa đã thực hiện đúng
quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Lời khai nhận của bị cáo hoàn toàn 13
phù hợp với các kết luận giám định, kết luận định giá, biên bản khám nghiệm hiện
trường cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đã đủ cơ sở xác định.
Do đó, việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đối với bị
cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Nghiên cứu diễn biến sự việc xảy ra, đối chiếu với các quy định của pháp
luật, chúng tôi đồng tình với quan điểm của Hội đồng xét xử, vì lẽ: Hành vi của bị
cáo Vũ Ngọc H là đặc biệt nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp
xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng và tài sản thuộc sở hữu của người khác được
pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự an toàn xã hội, do vậy cần phải được xử lý nghiêm
để cải tạo, giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung. Căn cứ lời khai của bị cáo
tại Tòa, Hồ sơ tài liệu chứng cứ trong vụ án và đề nghị của Viện kiểm sát; Dựa trên
các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ. Việc Hội đồng xét xử tuyên phạt tử hình bị cáo Vũ
Ngọc Hiếu về tội Giết người Cướp tài sản theo quy định tại các Điều 123 và
Điều 168 Bộ luật hình sự là hoàn toàn hợp lý theo quy định pháp luật. 4.
Quan điểm của nhóm
4.1 Đồng ý với quan điểm của tòa án
Đồng ý rằng Vũ Ngọc Hiếu phải chịu án "tử hình" để trả giá cho tội ác của
mình. Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã chứng minh được tính khách
quan và công bằng của mình trong việc xử lý vụ án man rợ kinh hoàng của Vũ
Ngọc Hiếu. Hành vi tàn bạo của hắn - giết người yêu cũ (sự vô tâm và ích kỷ xuất
phát từ suy nghĩ của một người bị bỏ rơi - khi chị N quyết định rời xa hắn và để
cưới chồng. Hắn đã xuống tay cướp đi mạng sống của chị N). Vì vậy, chúng tôi cho
rằng quyết định áp dụng hình phạt tử hình của tòa án là hoàn toàn chính đáng và cần
thiết, nhằm đảm bảo sự minh bạch, công bằng trong các vụ án pháp lý.
Trong vụ án này, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây
là các tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 cần
áp dụng cho bị cáo. Mặc dù bị cáo có tình tiết giảm nhẹ như đã nêu trên, nhưng với
tội ác mà bị cáo đã gây ra là đặc biệt nghiêm trọng, hậu quả xảy ra là không có gì bù
đắp nổi nên cần phải loại bỏ vĩnh viễn bị cáo ra khỏi đời sống xã hội đối với tội
“Giết người” và áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với tội “Cướp tài sản” mới 14
tránh được mối nguy hại sau này, đồng thời cũng đảm bảo tính giáo dục, răn đe và
phòng ngừa chung cho xã hội.
4.2. Không đồng ý với quan điểm của tòa án
Bị cáo Vũ Ngọc Hiếu liên tục thay đổi lời khai, không nhận ra những hành
động của mình đã dẫn đến một sự việc đáng trách, gây ảnh hưởng xấu đến toàn xã
hội. Nhưng nếu lời khai của Vũ Ngọc Hiếu trước tòa là đúng sự thật thì tòa phải
hoãn phiên tòa và thu thập chứng cứ chứng minh việc sử dụng ma túy có liên quan
đến vụ án giết người. Tuy nhiên, tòa không chấp nhận lời khai của Vũ Ngọc Hiếu,
cho rằng “thực tế ảo tưởng do ma túy gây ra không phải là căn cứ giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự cho bị cáo”. Dù thiếu bằng chứng rõ ràng nhưng tòa án đã kết luận
tội ác của Vũ Ngọc Hiếu được thực hiện là do ghen tuông và ích kỷ.
Thêm vào đó, tại phiên tòa, Hiếu có thay đổi lời khai rằng Hiếu cho chị N
mượn 400 triệu để làm ăn và trước khi gây án Hiếu và N có sử dụng ma túy. Người
sử dụng chất ma túy thông thường sẽ không thể kiểm soát hành vi của bản thân.
Hiếu đã tin tưởng giao cho chị N một số tiền lớn như vậy, hiện tại đang không có
việc làm và gặp khó khăn về tài chính và đã đòi nợ nhiều lần nhưng chị N không trả,
có thể thấy nếu lời khai này là đúng thì chị N đã có hành vi trái pháp luật. Hơn nữa,
việc chị N thông báo sắp đi lấy chồng là việc có thể kích động rất mạnh đến trạng
thái tinh thần của Hiếu. Nếu sự việc hoàn toàn đúng như lời khai của bị cáo và có
đầy đủ bằng chứng thì đây có thể là một tình tiết vô cùng quan trọng trong việc xác
định tội danh của Hiếu. Qua đó, có thể thấy trong quá trình điều tra đã có thiếu sót
trong việc giám định pháp y tâm thần và trạng thái tinh thần của Hiếu trong lúc gây
án, dẫn đến những khó khăn sau này trong việc giải quyết vụ án. Tóm lại, việc kiểm
tra cẩn thận và kỹ lưỡng tất cả các bằng chứng, bao gồm lời khai của nhân chứng và
phân tích pháp y, là hoàn toàn cần thiết để đảm bảo đạt được công lý trong vụ án này.
Do đó, điều bắt buộc là tòa án phải xem xét tất cả các thông tin liên quan trước khi
ấn định cáo buộc thích hợp và đánh giá trách nhiệm hình sự. 15