



















Preview text:
BỘ ĐỀ CÂU HỎI THI VẤN ĐÁP DÂN SỰ 2 (PHẦN CÂU HỎI LÝ THUYẾT)
DÀNH CHO SINH VIÊN ÔN TẬP
1. Nêu và phân tích các căn cứ phát sinh nghĩa vụ? Cho ví dụ minh họa.
Nghĩa vụ dân sự phát sinh từ những căn cứ sau đây: – Hợp đồng dân sự
– Hành vi pháp lý đơn phương
– Thực hiện công việc không có ủy quyền
– Chiếm hữu, sử dụng tài sản hoặc được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật
– Gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật
– Những căn cứ khác do pháp luật quy định
Hợp đồng dân sự là căn cứ phổ biến làm phát sinh quan hệ nghĩa vụ dân sự. Tuy
nghiên, nghĩa vụ dân sự phát sinh từ hợp đồng dân sự còn tuỳ thuộc vào tính chất của mỗi
hợp đồng, theo đó nghĩa vụ dân sự được xác định là nghĩa vụ liên đới, nghĩa vụ chính hay
nghĩa vụ phụ, nghĩa vụ bổ sung. Căn cứ thoả thuận của các bên chủ thể trong quan hệ hợp
đồng là căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ của các bên.
Hành vi pháp lý đơn phương là hành vi thể hiện ý chí của một bên chủ thể nhằm
làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Hành vi pháp lý đơn phương
thường là các tuyên bố đơn phương.
Chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật: Việc
chiếm hữu, sử dụng tài sản của một người chỉ được pháp luật thừa nhận và bảo đảm nếu:
+ Người đó là chủ sở hữu của tài sản hoặc người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản.
+ Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp
với ý chí của chủ sở hữu;
+ Người có quyền chiếm hữu, sử dụng hay được xác lập quyền sở hữu đối với vật
bị chìm đắm, bỏ quên, chôn giấu phù hợp với các điều kiện do pháp luật quy định;
+ Chiếm hữu trên cơ sở quyết định của cơ quan NN có thẩm quyền
=> Khi những người chiếm hữu, sử dụng không có các căn cứ nêu trên thì được coi
là chiếm hữu, sử dụng không có căn cứ pháp luật và làm phát sinh quan hệ NVDS.
Người chiếm hữu, sử dụng không có căn cứ pháp luật sẽ có các nghĩa vụ sau:
+ Hòan trả tài sản cho người chiếm hữu, sử dụng tài sản hợp pháp, cho chủ sở hữu;
+ Hòan trả hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản chiếm hữu, sử dụng không có căn cứ
pháp lý từ thời điểm biết việc chiếm hữu là không có căn cứ pháp luật;
+ Nghĩa vụ BTTH nếu gây ra thiệt hại cho người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp, cho chủ sở hữu;
+ Người được lợi về tài sản phải hòan trả tài sản kể từ thời điểm biết mình được lợi
về tài sản không có căn cứ pháp luật.
Gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật: Khi một người thực hiện hành vi trái pháp
luật gây xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của người
khác sẽ làm phát sinh NVDS, cụ thể là nghĩa vụ bồi thường thiệt hại ngòai hợp đồng.
Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một người không có nghĩa vụ thực
hiện công việc, nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó vì lợi ích của người khác khi
người có công việc không biết hoặc biết mà không phản đối. Việc thực hiện công việc
không có ủy quyền làm phát sinh quy định NVDS giữa người thực hiện công việc với người
được thực hiện công việc, trong đó người được thực hiện công việc có nghĩa vụ thanh toán
các chi phí hợp lý mà người thực hiện công việc đã bỏ ra để thực hiện công việc, đồng thời
phải trả thù lao cho người thực hiện công việc.
2. Địa điểm và thời hạn thực hiện nghĩa vụ? Ý nghĩa pháp lý của việc xác định địa
điểm và thời hạn thực hiện nghĩa vụ? -
Địa điểm và thời hạn thực hiện nghĩa vụ: điều 277, 278 BLDS2015 -
Việc xác định địa điểm thực hiện NVDS có ý nghĩa quan trọng vì nó
là cơ sở để khẳng didnhj ai là người chịu chi phí vận chuyển cũng như chi phí tăng
lên do việc thay đổi nơi cư trú của bên có quyền. -
Ý nghĩa của việc thực hiện NVDS đúng thời hạn:
+ Xác định được thời hạn khởi kiện của các bên khi có tranh chấp về việc thực hiện nghĩa vụ.
+ Xác định hành vi vi phạm và trách nhiệm dân sự đối với người vi phạm NVDS.
+ Đáp ứng quyền lợi của các bên có quyền trong QHPLDS.
3. Căn cứ phát sinh nghĩa vụ liên đới và nội dung thực hiện nghĩa vụ liên đới?
Quy định tại Đ288, Đ289 BLDS 2015.
NVDS liên đới là loại NVDS nhiều người mà trong đó một trong số những người
có NVDS phải thực hiện tòan bộ nội dung NVDS hoặc chủ thể mang quyền có thể yêu cầu
một trong số các chủ thể NVDS thực hiện tòan bộ NVDS.
Căn cứ của NVDS liên đới:
+ Do các bên thỏa thuận;
+ Một số trường hợp do PL quy định
Bản chất của NVDS liên đới: là loại NVDS nhiều người trong đó người mang quyền
và người mang NVDS có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nội dung:
+ Người có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số người mang nghĩa vụ phải thực
hiện tòan bộ nghĩa vụ. Nếu một người mang nghĩa vụ chỉ thực hiện phần nghĩa vụ của mình
đối với người có quyền thì quan hẹ NVDS vẫn chưa chấm dứt.
+ Nếu một người đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ thì quan hệ NVDS đó hòan toàn
chấm dứt (kể cả với người chưa thực hiện NVDS). Sau đó, những người có nghĩa vụ phải
thực hiện nghĩa vụ hòan lại đối với người đã thực hiện toàn bộ NVDS.
+ Nếu người có quyền chỉ định một trong số những người có NVDS thực hiện toàn
bộ nội dung NVDS và sau đó miễn việc thực hiện NVDS đối với người đó thì NVDS chấm
dứt toàn bộ. Mặt khác, nếu người có quyền chỉ miễn việc thực hiện NVDS cho một trong
số những người mang NVDS thì phần của họ sẽ không phải thực hiện nhưng phần NVDS
của các chủ thể khác vẫn phải thực hiện.
+ Trong quan hệ NVDS có nhiều người có quyền thì họ được gọi là quyền liên đới.
Cho nên, một trong số những người có quyền đều có thể yêu cầu bên có NVDS phải thực
hiện tòan bộ NVDS mà không cần sự ủy quyền của những người có quyền liên đới khác.
4. Điều kiện và hậu quả pháp lý của việc chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển giao
nghĩa vụ? Cho ví dụ minh họa?
a. Chuyển giao quyền yêu cầu Quy định trong Đ365 BLDS
Chuyển giao quyền yêu cầu là sự thỏa thuận giữa người có quyền và người mang
NVDS với người thứ ba nhằm chuyển giao quyền yêu cầu tới người thứ ba (người thế
quyền) trở thành người có quyền mới có quyền yêu cầu người thứ 3 thực hiện nghĩa vụ cho mình.
Đặc điểm của chuyển giao quyền yêu cầu:
+ Việc chuyển giao quyền yêu cầu phải thông báo cho người có nghĩa vụ bằng văn bản.
+ Việc chuyển giao quyền yêu cầu không cần sự đồng ý của người mang nghĩa vụ
trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc các bên thỏa thuận không chuyển giao quyền
đó cho người thứ ba hoặc quyền đó luôn gắn với nhân thân
+ Kể từ khi chuyển giao quyền yêu cầu thì cũng phải chuyển giao các biện pháp bảo đảm.
+ Kể từ thời điểm chuyển quyền yêu cầu thì người đã chuyển quyền chấm dứt tư
cách chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ.
Người đã chuyển giao không phải chịu trách nhiệm trước người thế quyền về khả
năng thực hiện của người có nghĩa vụ.
Hình thức: bằng văn bản hoạc bằng lời nói.
Các trường hợp không được chuyển giao quyền yêu cầu:
+ Các quyền nhân thân: quyền yêu cầu cấp dưỡng, yêu cầu bồi thường thiệt hại khi
xâm phạm đến tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín…
+ Các bên thỏa thuận không chuyển giao quyền yêu cầu
+ PL quy định không được chuyển giao
b. Chuyển giao nghĩa vụ Quy định Đ370 BLDS
Chuyển giao NVDS là sự thỏa thuận giữa người có nghĩa vụ với người thứ ba trên
cơ sở đồng ý của người có quyền nhằm chuyển nghĩa vụ cho người thứ 3 (người thế vụ)
trở thành người có nghĩa vụ với người có quyền. Đặc điểm:
+ Việc chuyển giao nghĩa vụ phải được bên có quyền đồng ý => Mục đích nhằm
đảm bảo cho quyền và lợi ích của bên có quyền được đảm bảo tối đa khi người có quyền
hòan toàn nắm được chủ thể phải thực hiện nghĩa vụ cho mình.
+ Khi chuyển giao biện pháp bảo đảm kèm theo chấm dứt trừ trường hợp các bên thỏa thuận khác;
+ Kể từ thời điểm chuyển giao nghĩa vụ, bên đã chuyển giao chấm dứt tư cách chủ
thể trong quan hệ nghĩa vụ. Người có quyền chỉ được phép yêu cầu người thế vụ thực hiện nghĩa vụ cho mình.
Hình thức: Văn bản hoặc bằng lời nói.
Các trường hợp không được chuyển giao nghĩa vụ:
+ Nghĩa vụ gắn với nhân thân (nghĩa vụ cấp dưỡng…)
+ Pháp luật quy định không được chuyển giao nghĩa vụ.
5. Phân biệt chuyển giao quyền đòi nợ với bán quyền đòi nợ. Cho ví dụ minh họa?
a. Chuyển giao quyền đòi nợ
Theo quy định của pháp luật thì Quyền đòi nợ là một quyền về tài sản, theo đó bên
có quyền đòi nợ có thể yêu cầu bên mắc nợ phải trả nợ hoặc có quyền yêu cầu Cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền buộc bên mắc nợ phải trả nợ, đây là một quyền yêu cầu hợp pháp.
Quyền đòi nợ là một quyền yêu cầu do đó được phép chuyển giao theo quy định về
chuyển giao quyền yêu cầu, khi đó bên nhận thế quyền sẽ là bên có quyền đòi nợ đối với
bên có nghĩa vụ trả nợ.
Việc chuyển giao quyền đòi nợ sẽ theo các quy định như chuyển giao quyền yêu
cầu. Những quyền yêu cầu sau đây không được chuyển giao:
+ Quyền yêu cầu cấp dưỡng, yêu cầu bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín;
+ Bên có quyền và bên có nghĩa vụ có thỏa thuận là không được chuyển giao quyền yêu cầu;
+ Các trường hợp khác do pháp luật quy định.
Việc chuyển giao quyền yêu cầu không cần có sự đồng ý của bên có nghĩa vụ trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác. Tuy nhiên người chuyển giao quyền yêu cầu phải
báo cho bên có nghĩa vụ biết bằng văn bản về việc chuyển giao quyền yêu cầu.
Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không được thông báo về việc chuyển giao quyền
yêu cầu hoặc người thế quyền không chứng minh được tính xác thực của việc chuyển giao
quyền yêu cầu thì bên có nghĩa vụ có quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ đối với người thế
quyền. Trong trường hợp Bên có nghĩa vụ không được thông báo về việc chuyển giao
quyền yêu cầu mà đã thực hiện nghĩa vụ đối với người chuyển giao quyền yêu cầu thì người
thế quyền không được yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đối với mình nữa.
Trách nhiệm của người chuyển giao quyền yêu cầu:không chịu trách nhiệm sau khi
chuyển giao quyền yêu cầu: Người chuyển giao quyền yêu cầu không phải chịu trách nhiệm
về khả năng thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. b. Mua bán
Quyền đòi nợ còn xác định là đối tượng mua bán trong hợp đồng mua bán giữa các
bên. Thực tiễn có những doanh nghiệp kinh doanh hoạt động mua bán nợ.
Nhìn chung, các quy định của Bộ luật dân sự đã giải quyết được về cơ bản các vấn
đề pháp lý đặt ra đối với giao dịch này. Tuy vậy, các nhà làm luật chưa đề cập tới tính đối
kháng của các phương tiện phòng vệ (hủy hợp đồng, bù trừ nghĩa vụ,…) mà bên có nghĩa
vụ trả nợ có thể viện ra để từ chối thanh toán hay chỉ thanh toán một phần quyền đòi nợ đã được chuyển giao.
6. Phân biệt nghĩa vụ với trách nhiệm dân sự? Cho ví dụ minh họa?
Nếu quan hệ pháp luật dân sự đang trong giai đoạn mà cơ quan nhà nước không thể
áp dụng sức mạnh cưỡng chế đối với các chủ thể, thì được gọi là “nghĩa vụ dân sự”.
Nếu quan hệ pháp luật dân sự đang trong giai đoạn cơ quan nhà nước có thể áp dụng
sức mạnh cưỡng chế đối với các bên chủ thể, thì được gọi là “trách nhiệm dân sự”.
Trách nhiệm dân sự được gọi là “trách nhiệm bồi thường thiệt hại” khi hành vi trái
pháp luật của bên này đã gây ra thiệt hại cho bên kia.
Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng hoặc do không thực hiện một nghĩa vụ
khác giữa hai bên chủ thể, thì được gọi là “trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ”.
Trách nhiệm dân sự do hành vi gây thiệt hại không liên quan đến một hợp đồng đã
có trước giữa các bên sẽ được gọi là “trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”.
7. Phân biệt nghĩa vụ liên đới với nghĩa vụ riêng rẽ? Cho ví dụ minh họa? a. NVDS riêng rẽ Qđịnh tại Đ287 BLDS.
NVDS riêng rẽ là loại NVDS nhiều người mà trong số những người mang quyền
chỉ có quyền yêu cầu người mang nghĩa vụ thực hiện cho riêng phần quyền của mình; một
trong số những người mang NVDS chỉ phải thực hiện NVDS của riêng mình đối với người mang quyền.
Bản chất của loại NVDS này là loại NVDS nhiều người nhưng không có sự liên hệ
nào giữa những người mang NVDS. Người có NVDS sẽ chấm dứt NVDS khi họ thực hiện xong NVDS của mình b. NVDS liên đới Quy định tại Đ288 BLDS.
NVDS liên đới là loại NVDS nhiều người mà trong đó một trong số những người
có NVDS phải thực hiện tòan bộ nội dung NVDS hoặc chủ thể mang quyền có thể yêu cầu
một trong số các chủ thể NVDS thực hiện tòan bộ NVDS.
Căn cứ của NVDS liên đới:
+ Do các bên thỏa thuận;
+ Một số trường hợp do PL quy định
Bản chất của NVDS liên đới: là loại NVDS nhiều người trong đó người mang quyền
và người mang NVDS có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nội dung:
+ Người có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số người mang nghĩa vụ phải thực
hiện tòan bộ nghĩa vụ. Nếu một người mang nghĩa vụ chỉ thực hiện phần nghĩa vụ của mình
đối với người có quyền thì quan hẹ NVDS vẫn chưa chấm dứt.
+ Nếu một người đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ thì quan hệ NVDS đó hòan toàn
chấm dứt (kể cả với người chưa thực hiện NVDS). Sau đó, những người có nghĩa vụ phải
thực hiện nghĩa vụ hòan lại đối với người đã thực hiện toàn bộ NVDS.
+ Nếu người có quyền chỉ định một trong số những người có NVDS thực hiện toàn
bộ nội dung NVDS và sau đó miễn việc thực hiện NVDS đối với người đó thì NVDS chấm
dứt toàn bộ. Mặt khác, nếu người có quyền chỉ miễn việc thực hiện NVDS cho một trong
số những người mang NVDS thì phần của họ sẽ không phải thực hiện nhưng phần NVDS
của các chủ thể khác vẫn phải thực hiện.
+ Trong quan hệ NVDS có nhiều người có quyền thì họ được gọi là quyền liên đới.
Cho nên, một trong số những người có quyền đều có thể yêu cầu bên có NVDS phải thực
hiện tòan bộ NVDS mà không cần sự ủy quyền của những người có quyền liên đới khác.
8. Phân biệt thực hiện nghĩa vụ giao vật đặc định và thực hiện nghĩa vụ giao vật
cùng loại? Cho ví dụ minh họa?
Quy định tại điều 279 BLDS 2015.
Khi bên có nghĩa vụ phát sinh nghĩa vụ giao vật đặc định – vật phân biệt được với
các vật khác bằng những đặc điểm riêng vè ký hiệu, hình dáng, màu sắc, chất liệu, đặc tính,
vị trí thì phải giao đúng vật đó. Việc bàn giao vật đặc tính phải đúng tình trạng như đã cam kết.
Khi bên có nghĩa vụ phát sinh nghĩa vụ giao vật cùng loại – vật có cùng hình dáng,
tính chất, tính năng sử dụng và xác định được bằng những đơn vị đo lường thì phải giao
đúng số lượng, chất lượng như đã thỏa thuận. Nếu các bên không có thỏa thuận về chất
lượng thì phải giao vật đó với chất lượng trung bình.
9. Phân biệt căn cứ chấm dứt nghĩa vụ theo thỏa thuận của các bên và bên có quyền
miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho bên có nghĩa vụ? Cho ví dụ minh họa?
Chấm dứt nghĩa vụ theo thỏa thuận: quy định tại điều 375 BLDS 2015. Trên cơ sở
nguyên tắc cơ bản của pháp luật, điều luật cụ thể hóa và ghi nhận sự thỏa thuận của các
bên trong việc chấm dứt nghĩa vụ. Teo đó, ở bất kỳ giao đoạn nào trong việc thực hiện
nghĩa vụ kể từ khi nghĩa vụ được xác lập cho đến khi nghĩa vụ được hoàn thành, các bên
đều có thể thỏa thuận để chấm dứt nghĩa vụ đó, miễn là trong khuôn khổ pháp luật và mọi
sự thỏa thuận không gây hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi
ích hợp pháp của người khác.
Chấm dứt nghĩa vụ do được miễn thực hiện nghĩa vụ: quy định tại điều 376 BLDS
2015. Việc miễn thực hiện nghĩa vụ là sự thể hiện ý chí của bên có quyền trong quan hệ.
Do đó, khi bên có quyền đã thế hiện ý chí không yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa
vụ nữa thì nghĩa vụ đó chấm dứt dù cho bên có nghĩa vụ có mong muốn điều này hay
không. Khi nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm được miễn thì biện pháp bảo đảm cũng chấm
dứt. Bởi lẽ biện pháp bảo đảm đặt ra là để nhằm
bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa
vụ. Nay nghĩa vụ đã chấm dứt thì đương nhiên việc tồn tại biện pháp bảo đảm cũng không
còn cần thiết và ý nghĩa nữa. VD: Ngân hàng Chính sách cho nông dân A vay tiền nuôi tôm
và bảo đảm bằng quyền sử dụng đất ở của A. Tuy nhiên, do thiên tai khiến tôm bị chết.
Thực hiện chính sách của Nhà nước, Ngân hàng đã miễn và xóa việc trả nợ cho B. Trong
trường hợp này thì quan hệ thế chấp quyền sử dụng đất ở của A cũng đương nhiên chấm dứt.
10. Phân biệt hoãn thực hiện nghĩa vụ và gia hạn thực hiện nghĩa vụ? Cho ví dụminh họa?
Hoãn thực hiện nghĩa vụ: điều 354 BLDS2015. Hoãn thực hiện nghĩa vụ được hiểu
là tạm ngưng thực hiện nghĩa vụ trong một khoản thời gian nhất định. Việc hoãn thực hiện
nghĩa vụ khi có sự thỏa thuận của hai bên hoặc do pháp luật quy định (điều 411, 413, 438).
Khác với gia hạn thực hiện nghĩa vụ là các bên thỏa thuận ấn định sẵn một thời gian
mới; hoãn thực hiện nghĩa vụ các bên có thể chưa xác định được thời điểm nghĩa uvj sẽ
tiếp tục được thực hiện. Có thể sau khi hết thời hạn các bên mới xm xét đến khả năng thực
hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ để ấn định thời hạn thực hiện.
Bên cạnh đó, việc hoãn thực hiện nghĩa vụ thường chỉ xuất phát từ đề nghị của bên
có nghĩa vụ do bên bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được nghĩa vụ. Còn gia hạn thực
hiện nghĩa vụ có thể do nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan khác nhau.
11. Phân tích thời điểm giao kết và thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng vềquyền sử dụng đất.
Hợp đồng về quyền sử dụng đất là một loại hợp đồng dân sự.
Thời điểm giao kết hợp đồng được quy định tại điều 400 BLDS2015. Ngoài ra còn
tuân theo một số quy định khác của pháp luật (luật giao dịch điện tử 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành).
Thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng được quy định tại khoản 1 điều 401
BLDS 2015. Ngoài ra còn tuân theo một số quy định khác của pháp luật (Luật đất đai 2013
và các văn bản hướng dẫn thi hành).
12. So sánh biện pháp cầm cố tài sản với ký cược? Tiêu chí Cầm cố Ký quỹ Căn cứ pháp lý
Điều 309 – Điều 316 BLDS 2015 Điều 329 BLDS 2015 Mục đích
Đảm bảo nghĩa vụ phải thực hiện
Đảm bảo việc trả lại tài sản cho thuê Đối tượng dùng để bảo đảm Tài sản
Một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá
quý hoặc vật có giá trị khác -
Trường hợp không thực hiện -
Trường hợp không trả lại tài
đượcnghĩa vụ: tài sản thuộc về bên sản đãthuê: bên cho thuê có quyền nhận cầm cố. đòi lại tài sản. -
Trường hợp nghĩa vụ được -
Trường hợp tài sản thuê
bảođảm bằng cầm cố chấm dứt: tài không cònđể trả lại: tài sản ký cược
Hậu quả pháp lý sản cầm cố, giấy tờ liên quan đến tài thuộc về bên cho thuê
sản cầm cố được trả lại cho bên cầm
cố; hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản
cầm cố cũng được trả lại cho bên cầm -
Trường hợp tài sản thuê được
cố, trừ trường hợp có thỏa thuận trảlại: bên thuê được nhận lại tài sản khác.
ký cược sau khi đã trả tiền thuê.
13.Nêu các điều kiện của thực hiện công việc không có ủy quyền?
Điều 574 BLDS 2015. Việc thực hiện công việc không có ủy quyền phải đáp ứng các yêu cầu sau: -
Thứ 1, người thực hiện công việc hoàn toàn tự nguyện khi thực hiện
công việc.Nghĩa là việc thực hiện công việc không phải là nghĩa vụ bắt buộc của
người thực hiện công việc, họ thích thì thực hiện, không thích thì có thể không thực hiện. -
Thứ 2, việc thực hiện công việc phải hoàn toàn vì lợi ích của người
có công việc.Nghĩa là tại thời điểm thực hiện công việc, người thực hiện công việc
phải thể hiện ý chí thực hiện công việc để nhằm mang lại lợi ích hoặc ngăn chặn
thiệt hại cho người có công việc. Việc thực hiện công việc không được thực hiện
thường xuyên, tức là việc thực hiện công việc chỉ xảy ra tức thì. -
Thứ 3, người có công việc không biết hoặc biết mà không phản đối
về việc thựchiện công việc. -
Thứ 4, việc thực hiện công việc phải thật sự cần thiết. Sự cần thiết thể
hiện ở chỗnếu công việc không được thực hiện kịp thời sẽ gây thiệt hại cho người có công việc.
14.Nêu các điều kiện có hiệu lực của hơp đồng?
Về mặt tổng quan của giao dịch dân sự hợp đồng có hiệu lực khi đảm bảo:
Thứ nhất, các chủ thể ký kết hợp đồng phải hợp pháp. Hợp pháp ở đây chính là việc
các bên giao kết phải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự.
Thứ hai, các chủ thể ký kết hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện tức là xuất phát từ ý
chí thực, từ sự tự do ý chí của các bên trong các thỏa thuận hợp đồng đó. Sự ép buộc, giả
dối sẽ làm vô hiệu hợp đồng khi ký kết.
Thứ ba, nội dung của hợp đồng không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Đối tượng
của hợp đồng không thuộc hàng hóa cấm giao dịch, công việc cấm thực hiện. Bên cạnh đó,
nội dung của hợp đồng cần phải cụ thể, bởi vì việc xác lập nghĩa vụ trong hợp đồng phải
cụ thể và có tính khả thi. Những nghĩa vụ trong hợp đồng mà không thể thực hiện được thì
hợp đồng cũng không được coi là có hiệu lực pháp lý làm phát sinh quyền và nghĩa vụ.
Về mặt chuyên ngành thì hợp đồng có hiệu lực khi đảm bảo
Thứ nhất, thủ tục và hình thức của hợp đồng phải tuân theo những thể thức nhất định
phù hợp với những quy định của pháp luật đối với từng loại hợp đồng. Như hợp đồng mua
bán quyền sử dụng đất bắt buộc phải công chứng, chứng thực hoặc như hợp đồng hợp tác
đầu tư BCC với nhà đầu tư nước ngoài phải thực hiện việc kê khai và thông báo với các cơ quan quản lý đầu tư.
Thứ hai, hợp đồng phải có đủ nội dung theo hướng dẫn của luật chuyên ngành.
15.Phân tích thời điểm có hiệu lực của hợp đồng tặng cho tài sản?
Điều 457 BLDS2015. Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng tặng cho tài sản:
Do tính chất đặc biệt của hợp đồng tặng cho tài sản không mang tính đền bù tương
đương nên pháp luật dân sự có quy định riêng về thời điểm có hiệu lực như sau:
+ Hợp đồng tặng cho động sản có hiệu lực khi bên được tặng cho nhận tài sản;
đối với động sản mà pháp luật có quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng
cho có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký.
+ Tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực
hoặc phải đăng ký, nếu theo quy định của pháp luật bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu.
Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động
sản không phải đăng ký quvền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản.
16.Trình bày đặc điểm của các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ?
Về mặt khách quan là sự quy định của pháp luật (điều 292 BLDS 2015), cho phép
các chủ thể trong giao dịch dân sự hoặc các quan hệ dân sự khác áp dụng các biện pháp mà
pháp luật cho phép để bảo đảm cho một nghĩa vụ chính được thực hiện đồng thời xác định
và đảm bảo quyền, nghĩa vụ của các bên trong các biện pháp đó. Về mặt chủ quan là việc
thỏa thuận giữa các bên nhằm qua đó đặt ra các biện pháp tác động mang tính chất dự
phòng để đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ đồng thời ngăn ngừa và khắc phục những
hậu quả xấu do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ gây ra.
Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đều có những đặc điểm chung như sau:
Các biện pháp bảo đảm mang tính chất bổ sung cho nghĩa vụ chính: khi có quan
hệ nghĩa vụ chính thì các bên mới cùng nhau thiết lập một biện pháp bảo đảm.
Các biện pháp bảo đảm đều có mục đích nâng cao trách nhiệm của các bên trong
quan hệ nghĩa vụ dân sự.
Đối tượng của các biện pháp bảo đảm là những lợi ích vật chấ.: Lợi ích của các
bên trong nghĩa vụ dân sự có biện pháp bảo đảm là những lợi ích vật chất. Quy luật ngang
giá trong các quan hệ tài sản cho chúng ta thấy rằng chỉ có lợi ích vật chất mới bù đắp được
các lợi ích vật chất . Vì vậy các bên trong quan hệ nghĩa vụ không thể dùng quyền nhân
thân làm đối tượng của biện pháp bảo đảm. Lợi ích vật chất là đối tượng của các biện pháp
bảo đảm thường là một tài sản. Các đối tượng này phải có đủ các yếu tố mà pháp luật đã
yêu cầu đối với một đối tượng của nghĩa vụ dân sự nói chung.
Phạm vi bảo đảm của các biện pháp bảo đảm không vượt quá phạm vi nghĩa vụ đã
được xác định trong nội dung của quan hệ nghĩa vụ chính: Như vậy về nguyên tắc phạm
vi bảo đảm là toàn bộ nghĩa vụ khi các bên không thỏa thuận và pháp luật không quy định
khác nhưng cũng có thể chỉ là một phần nghĩa vụ.
Các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ chỉ được áp dụng khi có sự vi phạm nghĩa vụ:
Chức năng dự phòng của các biện pháp bảo đảm cho thấy các biện pháp bảo đảm chỉ được
áp dụng khi nghĩa vụ chính không được thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhằm qua
đó bảo đảm quyền lợi cho bên có quyền.
Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ sự thỏa thuận giữa các bên:
Nếu các nghĩa vụ dân sự phát sinh từ những căn cứ khác nhau thì biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ chỉ có thể phát sinh thông qua sự thỏa thuận của các bên trong một giao dịch
dân sự. Tuy nhiên, cách thức và toàn bộ nội dung của một biện pháp bảo đảm đều là kết
quả của sự thỏa thuận giữa các bên.
17.Trình bày các phương thức xử lý tài sản bảo đảm?
Điều 299 BLDS 2015 về các trường hợp xử lý tài sản bảo đảm.
Tại Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính Phủ về giao dịch bảo
đảm có quy định các phương thức để xử lý tài sản bảo đảm mà các bên trong hợp đồng có
thể thỏa thuận đó là:
*Phương pháp 1: Bán tài sản bảo đảm. Đây là phương pháp được áp dụng nhiều
nhất trên thực tế trong việc xử lý tài sản bảo đảm. Việc bán tài sản bảo đảm có thể được
tiến hành trên một trong hai cơ sở là bán đấu giấ hoặc bán riêng lẻ cho một hoặc một số
người mua tài sản bảo đảm không trên cơ sở đấu giá.
*Phương pháp 2: Nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa
vụ. Phương pháp này có thể được hiểu là việc chuyển quyền sở hữu tài sản bảo đảm từ bên
bảo đảm sang cho bên nhận bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm.
*Phương pháp 3: Nhận các khoản tiền hoặc tài sản khác liên quan liên quan đến
quyền đòi nợ từ bên thứ ba. Có thể hiểu về bản chất đây là việc chuyển nhượng quyền đòi
nợ từ bên bảo đảm sang bên nhận bảo đảm và giá trị của quyền đòi nợ có thể bù trừ với giá
trị của nghĩa vụ bảo đảm.
*/ Phương pháp 4: Các bên hoàn toàn có thể thỏa thuận bất kỳ một phương pháp xử
lý tài sản bảo đảm khác
18.Trình bày nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm?
19.Phân tích đối tượng của các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ?
Đối tượng của các biện pháp bảo đảm là những lợi ích vật chất.
Lợi ích vật chất là đối tượng chủ yếu của các biện pháp bảo đảm. Nghĩa vụ cần được
bảo đảm là nghĩa vụ mang tính chất tài sản, cho nên đối tượng của các biện pháp bảo đảm
cũng phải mang tính tài sản. Bởi chỉ có lợi ích vật chất hoặc tài sản mới bù đắp, khấu trừ
được các lợi ích vật chất bị mất mát, thiệt hại. Tuy nhiên trong BLDS2015 cũng quy định
về các biện pháp tín chấp, theo đó các tổ chức xã hội tại cơ sở được đứng ra bảo đảm cho
các thành viên của mình vay tiền tại các ngân hang chính sách xã hội thông qua việc xác
nhận các yếu tố nhân thân và kiểm soát các mục đích sử dụng tiền vay. Đây là một ngoại
lệ của các biện pháp bảo đảm được quy định trong BLDS nhằm thực hiện đường lối chính
sách xóa đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước.
20.Phân tích đặc điểm pháp lý của biện pháp ký quỹ; cho ví dụ minh họa.
Ký quỹ là một trong những biện pháp bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ dân sự, bồi
thường thiệt hại cho bên có quyền khi bên bảo đảm không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ; Được quy định tại điều 330 BLDS2015; Nghị định 163/2006/NĐCP; Nghị định 102/2017/NĐ-CP. –
Nội dung: Với biện pháp ký quỹ 2 bên có thể mở một tài khoản tại TCTD
nhưng không được dùng tài khoản khi chưa chấm dứt hợp đồng. Mặc dù vẫn là chủ của tài
khoản đó nhưng bên có nghĩa vụ không được thực hiện bất kỳ một giao dịch rút tiền nào
từ tài khoản đó bởi số tài khoản ký quỹ đó được xác định để bảo đảm việc thực hiện nghĩa
vụ trước bên có quyền.
Tài sản dùng để ký quỹ cũng tương tự như tài sản dùng để đặt cọc, ký cược đó là
tiền, kim khí quý, đá quý, giấy tờ có giá được bằng tiền. Khác với cầm cố tài sản đối với
ký quỹ, quyền tài sản không thể được dùng để ký quỹ.
Trong khi đặt cọc và ký cược thì tài sản bảo đảm được giao cho bên nhận bảo đảm
còn đối với ký quỹ, tài sản không được giao cho bên nhận bảo đảm. Việc ký quỹ có thể
được thực hiện trước khi xác định được bên có quyền. Bên ký quỹ có thể thực hiện việc ký
quỹ tài sản một lần hoặc nhiều lần tùy theo thỏa thuận của các bên hoặc pháp luật quy định.
Ký quỹ là giao dịch bảo đảm không bắt buộc phải đăng ký nếu không có yêu cầu
của các bên, vẫn có hiệu lực nếu các bên tuân thủ đúng các quy định của pháp luật. –
Mục đích: Trong ký quỹ bên bảo đảm là bên có nghĩa vụ cam kết bảo đảm
thựchiện nghĩa vụ dân sự, bên nhận bảo đảm là bên có quyền được TCTD thanh toán bồi
thường thiệt hại khi bên bảo đảm không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình. –
Hậu quả pháp lý: Nếu đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ
khôngthực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì ngân hàng nơi kí quỹ được dùng
tài khoản đó để thanh toán cho bên có quyền. Nếu bên có quyền bị thiệt hại do bên kia
không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ gây ra thì ngân hàng dùng
tài khoản đó để bồi thường thiệt hại. TCTD có quyền thu một khoản chi phí ngân hàng từ
tài khoản đó trước khi thực hiện thanh toán và bồi thường. Cụ thể quy định này Nghị định
163/2006/NĐ-CP quy định như sau:
TCTD nơi ký quỹ có vị trí:
+/ Là người trung gian giữ tài sản kí quỹ dưới hình thức là tài khoản phong tỏa trong
thời hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm.
+/ Là chủ thể chịu trách nhiệm đứng ra dùng tài sản kí quỹ của bên có nghĩa vụ để
bảo đảm quyền lợi cho bên có quyền là: thực hiện việc thanh toán giá trị nghĩa vụ cho bên
có quyền, trả tiền bồi thường thiệt hại cho bên có nghĩa vụ nếu có thiệt hại.
+/ Được hưởng phí dịch vụ theo quy định của pháp luật.
+/ Phải trả lại cho bên có nghĩa vụ phần tài sản còn lại sau khi đã trừ phí dịch vụ và
thực hiện việc thanh toán nghĩa vụ cho bên có quyền (bao gồm tiền gốc và lãi phát sinh).
Nếu tài sản ký quỹ không đủ để thực hiện các nghĩa vụ trên thì TCTD cũng không liên
quan và không phải chịu trách nhiệm.
21.Phân tích đặc điểm pháp lý của biện pháp cầm giữ và cho ví dụ minh hoạ.
Khái niệm được quy định tại điều 346 BLDS2015.
Cầm giữ có ba đặc điểm cơ bản: -
Thứ nhất: Đây là một biện pháp bảo đảm duy nhất trong số các biện pháp
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được áp dụng mà không dựa trên sự thoả thuận của các bên
liên quan. Vì đây là một biện pháp tự vệ trong quan hệ dân sự nhằm bảo vệ lợi ích chính
đáng của bên có quyền. Pháp luật là cơ sở trực tiếp phát sinh quyền được cầm giữ tài sản,
nếu như trước đó các bên không có thoả thuận không áp dụng biện pháp này. Song đây
không là hình thức “xiết nợ” thường gặp trong thực tiễn.
Ví dụ: A mang tivi đến cửa hàng của V để sửa chữa. Hai bên thỏa thuận 4 ngày sau
A sẽ đến lấy tivi và trả tiền sửa chữa. Đến thời gian hện, A tới cửa hàng của V để lấy tivi
nhưng lại chưa có tiền để thanh toán. Trong trường hợp này, V có quyền cầm giữ tài sản
của A là chiếc tivi cho đến khi A đến trả hết tiền sửa chữa mặc dù trước đó A và V không
hề thỏa thuận về việc này. -
Thứ hai: Quyền cầm giữ tài sản chỉ được thực hiện nếu đồng thời hội đủ ba yếu tố sau:
+ Vật cầm giữ đang được bên có quyền nắm giữ nhưng vật ấy thuộc sở hữu của bên
có nghĩa vụ, tức bên cầm giữ có nghĩa vụ phải chuyển giao cho chủ sở hữu (cho bên có
nghĩa vụ) hoặc cho bên thứ ba theo chỉ định của chủ sở hữu.
+ Nghĩa vụ được bảo đảm phải là nghĩa vụ của người chủ sở hữu vật ấy và nghĩa vụ
ấy phải phát sinh trực tiếp từ vật ấy.
+ Nghĩa vụ được bảo đảm bằng biện pháp cầm giữ tài sản chưa được thực hiện bởi
người có nghĩa vụ đúng hạn cam kết. -
Thứ ba: Chiếm giữ tài sản là một biện pháp có những nội dung pháp lý đồng
nhất với biện pháp cầm cố vì vậy các qui định về nghĩa vụ bảo quản tài sản trong cầm giữ,
xử lý tài sản để thực hiện nghĩa vụ chính… có thể dẩn chiếu sang các điều luật tương tự trong phần cầm cố.
Một số đặc điểm thường thấy trong thực tiễn: -
Cầm giữ tài sản áp dụng thông dụng trong trường hợp bên có nghĩa vụ không
thực hiện các nghĩa vụ của mình trong các quan hệ hợp đồng: vận tải, gia công, thuê, ký
gửi, ủy thác, sửa chữa tàu biển… -
Về tài sản được cầm giữ: có một số loại tài sản thường không được phép cầm
giữnhư một số loại tài sản dễ hư hỏng trong thời gian ngắn, các loại tài sản biến chất theo
thời gian, các loại tài sản phục vụ cho các việc cứu người khẩn cấp, công vụ khẩn và đang
trên đường thực hiện việc đó.
23.Phân biệt hiệu lực của các biện pháp bảo đảm với hiệu lực đối kháng của các biện pháp bảo đảm. Sự giống nhau:
Thứ nhất, việc phát sinh hiệu lực đều nhằm bảo đảm quyền cho bên nhận bảo đảm
đối với tài sản bảo đảm.
Thứ hai, trong nhiều trường hợp thời điểm phát sinh hiệu lực của các biện pháp bảo
đảm và thời điểm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba đều phát sinh từ thời điểm
đăng ký. Điều này được thể hiện trong các trường hợp mà pháp luật đã quy định như việc
thế chấp quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng,
tàu bay, tàu biển thì có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký thế chấp. Sự khác nhau:
Thứ nhất, đối với hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì đặc tính đối kháng của các
biện pháp bảo đảm được thể hiện ở chỗ mặc dù trong hầu hết các biện pháp bảo đảm đối
vật quyền của bên nhận bảo đảm được xác lập trên cơ sở hợp đồng bảo đảm (quan hệ trái
quyền) nhưng quyền của bên nhận bảo đảm không chỉ có hiệu lực với bên kia trong quan
hệ hợp đồng mà còn có hiệu lực đối kháng với người thứ ba không tham gia xác lập hợp
đồng bảo đảm. Trong khi đó, đối với hiệu lực của các biện pháp bảo đảm, khi xác lập giao
dịch bảo đảm hợp pháp thì quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong trong giao dịch bảo đảm
chỉ phát sinh đối với các chủ thể trực tiếp tham gia giao dịch, mà không có giá trị pháp lý
đối với cả người thứ ba.
Thứ hai, về thời điểm phát sinh hiệu lực: Theo quy định tại Điều 10 Nghị định số
163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm quy định giao dịch
bảo đảm được giao kết hợp pháp có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết, trừ các trường hợp
các bên có thoả thuận khác hoặc luật có quy định khác như cầm cố tài sản có hiệu lực kể
từ thời điểm chuyển giao tài sản cho bên nhận cầm cố; việc thế chấp quyền sử dụng đất,
quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng, tàu bay, tàu biển có hiệu
lực kể từ thời điểm đăng ký thế chấp và giao dịch bảo đảm có hiệu lực kể từ thời điểm công
chứng hoặc chứng thực trong trường hợp pháp luật có quy định.
Còn hiệu lực đối kháng với người thứ ba phát sinh từ thời điểm đăng ký biện pháp
bảo đảm hoặc bên nhận bảo đảm nắm giữ (trong quan hệ cầm cố tài sản) hoặc chiếm giữ
tài sản bảo đảm (trong quan hệ cầm giữ). Theo quy định của BLDS năm 2015 thì có hai
phương thức làm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện pháp bảo đảm là
đăng ký và nắm giữ hoặc chiếm giữ tài sản. Tùy từng hình thức bảo đảm và loại hình tài
sản bảo đảm (là bất động sản hay động sản) mà phương thức phát sinh hiệu lực đối kháng
với người thứ ba của biện pháp bảo đảm là khác nhau. Đối với thế chấp, cầm cố bất động
sản, bảo lưu quyền sở hữu thì phương thức phát sinh hiệu lực đối kháng là đăng ký biện
pháp bảo đảm; còn đối với cầm cố tài sản, cầm giữ thì phương thức phát sinh hiệu lực đối
kháng với người thứ ba là nắm giữ hoặc chiếm giữ tài sản.
Thứ ba, về hệ quả pháp lý khi phát sinh hiệu lực: Khác với hiệu lực của các biện
pháp bảo đảm, hiệu lực đối kháng với người thứ ba là căn cứ pháp lý xác định quyền truy
đòi tài sản bảo đảm và quyền được thanh toán của bên nhận bảo đảm trong trường hợp
nhiều người cùng có quyền đối với tài sản bảo đảm. Quyền truy đòi là hệ quả của hiệu lực
đối kháng, theo đó khi biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng mà tài sản do người
thứ ba đang chiếm hữu thì bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu người thứ ba giao lại tài
sản để xử lý. Trường hợp bên bảo đảm chuyển quyền sở hữu cho người thứ ba thông qua
các hợp đồng mua bán, trao đổi, vay tài sản mà không có sự đồng ý của bên nhận bảo đảm
thì bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu tòa án hủy hợp đồng và nhận lại tài sản để xử lý.
Dựa trên hiệu lực đối kháng, các biện pháp bảo đảm đã tạo cho bên nhận bảo đảm một đặc
quyền ưu tiên. Theo đó các biện pháp bảo đảm cho phép bên nhận bảo đảm được ưu tiên
thanh toán trước các chủ nợ khác và mở rộng hơn là trước các chủ thể có quyền, lợi ích
xung đột với bên nhận bảo đảm trên cùng một tài sản bảo đảm. Theo quy định của BLDS
năm 2015 thì trường hợp tài sản bị xử lý để thực hiện nghĩa vụ thì bên nhận bảo đảm có
quyền ưu tiên thanh toán trước những người có quyền khác theo quy định tại điều 308
BLDS năm 2015 và luật khác có liên quan.
24.So sánh biện pháp cầm cố tài sản với biện pháp thế chấp tài sản? Giống nhau:
Với vai trò là biện pháp bảo đảm trong giao dịch dân sự, cầm cố và thế chấp có
những điểm giống nhau cơ bản như sau: -
Đều là biện pháp bảo đảm trong quan hệ dân sự, tồn tại với mục đích
nâng caotrách nhiệm của các bên trong quan hệ nghĩa vụ dân sự trong phạm vi đã thỏa thuận. -
Hai biện pháp này đều có đối tượng là tài sản của bên bảo đảm. -
Là hợp đồng phụ, mang tính chất bổ sung cho nghĩa vụ ở hợp đồng chính. -
Đều là quan hệ đối nhân. -
Đối tượng tài sản của bên cầm cố và bên thế chấp đều có giá trị thanh toán cao. -
Có phương thức xử lý tài sản giống nhau. -
Bên cầm cố hoặc bên thế chấp là bên có nghĩa vụ hoặc là bên thứ ba. -
Có quyền được bán và thay thế tài sản cầm cố ( thế chấp ) trong một
sô trườnghợp luật định. -
Thời điểm chấm dứt: Khi nghĩa vụ bảo đảm chấm dứt. Khác nhau:
Là hai biện pháp bảo đảm khác biệt, tùy theo đối tượng, chủ thể, mục đích của chủ thể mà
cầm cố và thế chấp có những điểm khác nhau: Tiêu chí Cầm cố Thế chấp
Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây
Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây
gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở
gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc
hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa
Khái niệm quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau vụ dân sự đối với bên kia (sau đây gọi là
đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm bên nhận thế chấp) và không chuyển giao
thực hiện nghĩa vụ dân sự.
tài sản đó cho bên nhận thế chấp.
Đối tượng Có thể là vật hoặc quyền tài sản (không Là bất động sản, động sản, quyền tài sản phải bất động sản)
Dưới dạng văn bản, có thể là văn bản
riêng hoặc ghi lại trong hợp đồng chính.
Hình thức Dưới dạng văn bản, có thể là văn bản
riêng hoặc ghi lại trong hợp đồng chính Có thể cần công chứng, chứng thực hoặc
đăng ký theo quy định của pháp luật.
- Bắt buộc phải có sự chuyển giao tài sản -
Không yêu cầu sự chuyển giao tài - Dễ xảy ra tranh chấp
sản chỉ cần chuyển giao giấy tờ chứng Chuyển giao
minh tình trạng pháp lý của tài sản. tài sản -
Ít xảy ra tranh chấp hơn do bên thế
chấpphải chuyển giao tài sản thì mới được
nhận lợi ích từ bên nhận thế chấp. Thời điểm
hình thành Khi bên có nghĩa vụ chuyển giao tài sản Khi bên có nghĩa vụ nhận được lợi ích từ bên có quyền quan hệ
Hoa lợi, lợi Bên nhận cầm cố có thể hưởng hoa lợi, Bên nhận thế chấp không được hưởng
tức của tài lợi tức từ tài sản cầm cố
hoa lợi, lợi tức từ tài sản thế chấp sản
Không thực hiện nghĩa vụ gìn giữ, bảo
Không phải chịu rủi ro về vấn đề giấy tờ quản tài sản song lại phải chịu rủi ro về
Nghĩa vụ liên quan đến tài sản xong phải có trách
vấn đề giấy tờ liên quan đến tài sản ( giấy
nhiệm bảo quản, gìn giữ tài sản tờ giả,..)
25.Phân tích đặc điểm pháp lý của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu? Cho ví dụ minh họa. Điều 331 BLDS2015.
Thứ nhất, về quyền sở hữu tài sản:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 331 BLDS 2015, khi xác lập quan hệ mua bán, mặc
dù các bên đã thực hiện nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua, bên mua đã nhận vật nhưng
quyền sở hữu vật vẫn thuộc về bên bán. Chỉ khi bên mua thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thanh
toán thì bên bán mới thực hiện các thủ tục để chuyển quyền sở hữu cho bên mua. Nếu bên
mua không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thanh toán thì bên bán vẫn có quyền sở hữu tài sản.
Thứ hai, về cơ sở xác lập biện pháp bảo lưu quyền sở hữu
Bản thân việc “bảo lưu quyền sở hữu” phải được các bên thỏa thuận và và thỏa thuận
này phải “được lập thành văn bản riêng hoặc được ghi trong hợp đồng mua bán”. Nếu
không có thỏa thuận việc bảo lưu quyền sở hữu thì sẽ không có biện pháp bảo đảm.
Thứ ba, phạm vi áp dụng biện pháp bảo lưu quyền sở hữu
Theo quy định tại Điều 331 BLDS 2015, biện pháp bảo lưu quyền sở hữu chỉ được
áp dụng trong hợp đồng mua bán. Tuy nhiên với việc BLDS đánh đồng trao đổi tài sản với
mua bán tài sản nên cũng được áp dụng cho trao đổi tài sản. Cụ thể: Khoản 4 Điều 455 BLDS 2015.
Thứ tư, về hiệu lực đối kháng với người thứ ba
Bảo lưu quyền sở hữu có hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng
ký tài sản theo quy định tại khoản 3, Điều 331 BLDS 2015. Trên thực tế, có thể có bên thứ
ba có quyền lợi liên quan đến đối tượng của hợp đồng mua bán khi tài sản này đã được
chuyển giao cho bên mua. Như vậy, bên bán phải lưu ý để là bên có quyền lợi đối với tài
sản bảo đảm thì phải tiến hành đăng ký tài sản bảo đảm là đối tượng của hợp đồng mua bán này.
Thứ năm, về quyền và nghĩa vụ của bên mua tài sản
Điều 333 BLDS 2015 cho thấy bên mua tài sản là bên bảo đảm trong giao dịch bảo
đảm bảo lưu quyền sở hữu tài sàn. Khi nhận được tài sản mua bán, bên mua tài sản có
quyền sử dụng tài sản và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản trong thời hạn bảo lưu quyền sở
hữu có hiệu lực. Nếu việc khai thác, sử dụng tài sản mua bán làm hư hỏng, mất tài sản thì
trong trường hợp bên mua không thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ thanh toán thì bên mua
phải chịu rủi ro trong thời hạn bảo lưu quyền sở hữu. Bên mua phải có nghĩa vụ phải bồi
thường các thiệt hại nếu xảy ra thiệt hại đối với tài sản mua bán, trừ trường hợp các bên có
thỏa thuận là bên mua sẽ không phải chịu trách nhiệm đối với những rủi ro về tài sản mua bán đó.
Thứ sáu, về thời điểm chấm dứt biện pháp bảo đảm bảo lưu quyền sở hữu
Biện pháp bảo đảm bảo lưu quyền sở hữu chấm dứt nếu thuộc một trong các trường
hợp được quy định tại Điều 334 BLDS 2015.
26.Phân tích các đặc điểm pháp lý của hợp đồng dịch vụ?
– Đặc điểm chung của hợp đồng dịch vụ trong dân sự, đó là :
+ Là hợp đồng song vụ: Cả bên cung ứng dịch vụ và bên sử dụng dịch vụ đều có
quyền và nghĩa vụ của mình, trong đó quyền của bên này tương ứng với nghĩa vụ của bên kia và ngược lại.
+ Là hợp đồng ưng thuận: Có hiệu lực ngay từ thời điểm các bên thỏa thuận xong
các điều khoản chủ yếu của hợp đồng. – Đặc điểm riêng :
+ Đối tượng của hợp đồng dịch vụ trong thương mại là dịch vụ. Dịch vụ có thể là
mọi hành vi của chủ thể này thực hiện công việc mang lại hiệu quả có lợi cho chủ thể khác.
Dịch vụ là đối tượng của hợp đồng dịch vụ trong thương mại còn phải được thực hiện vì
mục đích sinh lời. Nhưng như vậy thì phạm vi của hợp đồng dịch vụ sẽ bao gồm cả những
hợp đồng khác như hợp đồng gia công, hợp đồng vận chuyển,…
Dịch vụ đó phải là dịch vụ có thể thực hiện được, không bị pháp luật cấm và không
trái đạo đức xã hội.
27.Phân tích các đặc điểm pháp lý của hợp đồng vận chuyển?
a. Hợp đồng vận chuyển hành khách:
- Hợp đồng vận chuyển hành khách có thể được xác lập bằng lời nói hoặc bằng văn
bản. Thông thường, vé là bằng chứng của việc giao kết giữa các bên trong hợp đồng. Đối
tượng của hợp đồng chính là hành vi của bên vận chuyển bằng phương tiện của mình
chuyên chở hành khách theo thoả thuận.
– Bên vận chuyển phải bảo đảm an toàn tuyệt đối cho tính mạng của hành khách
khi vận chuyển, còn hành khách phải có vé hợp lệ và tuân thủ các điều kiện vận chuyển
trên các phương tiện khác nhau do bên vận chuyển quy định. -
Trong trường hợp tính mạng, sức khoẻ của hành khách bị thiệt hại, bên vận
chuyển phải bồi thường theo quy định của BLDS. Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của
hành khách thì bên vận chuyển không phải bồi thường, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác. Nếu hành khách vi phạm điều kiện vận chuyển đã thoả thuận mà gây thiệt hại
cho bên vận chuyển hoặc người thứ ba thì hành khách phải bồi thường những thiệt hại đó. -
Các bên trong hợp đồng đều có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp
đồng trong các trường hợp theo quy định tại Điều 529 Bộ luật dân sự.
b. Hợp đồng vận chuyển tài sản: –
Hợp đồng vận chuyển tài sản có thể được giao kểt bằng lời nói hoặc bằng
văn bản. Trong trường hợp các bên có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định hợp đồng
phải được lập thành văn bản, thì các bên phải tuân theo hình thức đó. Trong hợp đồng vận
chuyển tài sản, nếu có vận đơn thì vận đơn là bằng chứng của việc giao kết họp đồng giữa