BUỔI HỌC CUỐI CÙNG - gbgffgbg
quản trị kinh doanh (Đại học Công nghiệp Thực phẩm Thành phố Hồ Chí Minh)
Scan to open on Studeersnel
Studocu is not sponsored or endorsed by any college or university
BUỔI HỌC CUỐI CÙNG - gbgffgbg
quản trị kinh doanh (Đại học Công nghiệp Thực phẩm Thành phố Hồ Chí Minh)
Scan to open on Studeersnel
Studocu is not sponsored or endorsed by any college or university
Downloaded by Nguyen Linh (vjt12@gmail.com)
lOMoARcPSD|60494438
BUỔI HỌC CUỐI CÙNG
(An-phông-xơ Đô-đê)
I. Khái quát
1. Tác giả
- An-phông-xơ Đô-đê (1840 – 1897) là nhà văn Pháp, tác giả của nhiều truyện
ngắn nổi tiếng.
- Ông sinh ra miền Nam nước Pháp trong một gia đình kinh doanh lụa.
Chưa học hết trung học ông đã đi dạy để kiếm sống bởi gia đình bị phá sản.
Năm lên 18, ông lên thủ đô Paris và bắt đầu tập trung viết văn.
- Truyện ngắn của ông thường nhẹ nhàng, giàu chất thơ, thể hiện tinh thần
nhân đạo sâu sắc đồng thời đả kích sâu cay hội sản Pháp cuối thể kỉ
XIX.
- Những tác phẩm tiêu biểu: Những bức thư viết từ cối xay gió (1869),
Tactaranh ở Taraxcông (1872), Tactaranh trên núi Anpơ (1885),…
2. Tác phẩm
a. Xuất xứ
Buổi học cuối cùng được viết vào nửa cuối thể kỉ XIX. Chuyện lấy bối cảnh từ
một biến cố lịch sử, đó là cuộc chiến tranh Pháp – Phổ, diễn ra từ năm 1870 đến
năm 1871, kết thúc với sự thất bại của Pháp. Theo hiệp ước kết thúc chiến tranh
được sau đó, Pháp phải nhượng lại cho Phổ hai vùng An-dát Lo-ren. Hai
vùng này trở thành đất của Phổ, một nhà nước phong kiến chuyên chế, nằm trên
toàn bộ lãnh thổ nước Đức ngày nay. thế, hai tỉnh này phải chịu sự điều
hành, phải sử dụng ngôn ngữ của Đức. Câu chuyện kể lại buổi học cuối cùng
bằng tiếng Pháp tại một ngôi trường làng thuộc vùng An-dát.
b. Thể loại: Truyện ngắn
Downloaded by Nguyen Linh (vjt12@gmail.com)
lOMoARcPSD|60494438
c. Bố cục
Chia làm ba phần:
- Phần 1: Từ đầu đến “mà vắng mặt con”: Quang cảnh trên đường đến trường
và cảnh ở trường qua sự quan sát của Phrăng.
- Phần 2: Tiếp theo tới “buổi học cuối cùng này”: Diễn biến của buổi học cuối
cùng.
- Phần 3: Còn lại: Cảnh kết thúc buổi học cuối cùng.
II. Kiến thức trọng tâm
1. Diễn biến tâm trạng nhân vật Phrăng
Nhân vật cậu Phrăng nhân vật trung tâm đóng vai người kể chuyện trong
tác phẩm. Những quan sát, cảm nhận, cảm xúc trong truyện đều được miêu tả
gần gũi, chân thành từ chính góc nhìn của cậu bé. Qua dòng tâm trạng của
Phrăng, tác giả đã khiến cho câu chuyện trở nên cảm động, sâu sắc, thấm thía
hơn khi đặt những vấn đề thiêng liêng của lịch sử, dân tộc vào trong cảm nhận
của một cậu ngây thơ còn đang tuổi đến trường. Không những vậy, đây còn
một góc nhìn sáng tạo, độc đáo khi kể lại một thời khắc trọng đại, thiêng
liêng qua cách cảm, cách nhìn mang tâm lí trẻ thơ.
a. Tớc buổi học
Cũng giống như như bao cậu học trò ham chơi khác, Phrăng thường ngày cũng
“trốn học rong chơi ngoài đồng nội”. Thế giới bên ngoài ấy với cậu thú vị
hấp dẫn hơn những bài học về ngữ pháp, “quy tắc về phân từ”. Nơi đó
bầu trời trong trẻo ấm áp, tiếng chim sáo hót véo von trên cánh đồng
Ríp-pe cả những điều lạ lẫm như việc bọn lính Phổ tập luyện. Buổi hôm
ấy, cậu còn đã trễ giờ đến lớp, sợ bị thầy quở mắng nữa nên cậu đã thoáng nghĩ
đến việc trốn học lại rong chơi ngoài đồng nội. Thế nhưng bên cạnh việc
Downloaded by Nguyen Linh (vjt12@gmail.com)
lOMoARcPSD|60494438
một đứa trẻ, Phrăng cũng một cậu học trò. lẽ vào giây phút cuối cùng,
Phrăng đã nhận thức được điều đó đã cưỡng lại mọi “cám dỗ” kia “ba
chân bốn cẳng” chạy đến trường. Thậm chí cậu còn quyết định dứt khoác đến
nổi không đứng lại xem bản dán cáo thị nhiều người đang tập trung
trước đó cũng thắc mắc: “Lại chuyện nữa đây?”. Cũng như vậy, cậu
cũng bỏ ngoài tai câu nói đầy ẩn ý của bác phó rèn cậu cho rằng đó một
lời nói nhạo: “Đừng vội thế cháu ơi, đến trường lúc nào cũng vẫn còn
sớm!”
b. Trong buổi học, khi được nghe thông báo không được học tiếng Pháp
nữa
Không khí của buổi học hôm nay khiến cho Phrăng cảm thấy cùng ngạc
nhiên bởi sự khác thường của nó. Khi đến lớp, cậu láu ấy đã chuẩn bị sẵn
kế hoạch sẽ len lỏi vào lớp nhân lúc lớp học còn đang ồn ào, hỗn độn còn thầy
Ha-men thì đang mải ổn định lũ học trò. Vậy như kế hoạch ấy của cậu đã
phá sản bởi lớp học hôm nay lặng im đến lạ thường còn thầy giáo thì cũng đang
đi đi lại lại với cây thước sắt “to khủng khiếp” kẹp sẵn dưới nách. với lẽ
thường tình, Phrăng nếu bước vào lớp trong hoàn cảnh này sẽ phải cùng xấu
hổ, thậm chí phải hứng chịu cơn giận dữ của thầy. Suy nghĩ ấy làm cho cậu
sợ. Vậy chung điều l lại tiếp diễn khi thầy Ha-men chẳng những không la
mắng thay vào đó mời cậu vào lớp với một giọng nói dịu dàng. Một điều
lạ khác nữa cậu nhận ra đó sự trang trọng đặc biệt của thầy giáo của
mình trong buổi học hôm ấy. Thầy của cậu hôm nay mặc một bộ lễ phục cầu
hơn mức bình thường cho một buổi dạy học với “áo ro-đanh-gốt màu xanh lục,
diềm lá sen gấp nếp mịn và đội cái mũ trong bằng lụa đen thêu”. Bộ trang phục
ấy vốn thầy chỉ dùng cho những hôm thanh tra hoặc phát phần thưởng.
Tuy nhiên, điều khiến cho Phrăng ngạc nhiên hơn cả cũng khó hiểu nhất
Downloaded by Nguyen Linh (vjt12@gmail.com)
lOMoARcPSD|60494438
lớp học ngày hôm nay chính sự xuất hiện bất thường của những người dân
làng ngồi phía cuối lớp, ai nấy đều mang vẻ mặt buồn rầu. Câu chuyện được
dẫn dắt người đọc đi theo từng sự phát hiện lạ lùng của Phrăng, khiến cho
không chỉ cậu cả người đọc cũng cảm thấy hồi hộp, trước những
điều lạ lùng vừa trông thấy.
Sự thắc mắc của Phrăng cũng nhanh chóng được giải đáp với lời nói của thầy
Ha-men, nhưng thay sự thích thú của một đứa tr được giải đáp những thắc
mắc, mò, thì cậu lại cảm thấy “choáng váng” trước lời thầy nói. Hóa ra
giọng nói dịu dàng, trang trọng của thầy Ha-men lại được dùng để thông báo về
một điều như thể đó lời trăng trối, lời từ biệt cuối cùng: “Các con ơi, đây
lần cuối cùng thầy dạy các con…”. Sự choáng váng ập đến tức thời với Phrăng
sau khi nghe thống báo đó. Cậu ờng như ngay lập tức hiểu ra cái vấn đề
nghiêm trọng được thông báo trên tờ cáo thị ở trụ sở xã, hiểu được nguyên nhân
của mọi sự bất thường hôm nay trong lớp học. quan trọng hơn cả, cậu nhận
thức được một điều thiêng liêng rằng buổi học ngày hôm ấy chính “buổi học
Pháp văn cuối cùng” của mình.
Sự kiện này đã tạo nên một sự thay đổi lớn lao trong tâm hồn, suy nghĩ của chú
Phrăng. khiến cậu học trò nhỏ ấy bước vào giờ học với những suy
chững chạc, trưởng thành đến ngạc nhiên. Sự trường thành trước hết đến từ sự
ăn năn, day dứt của cậu. Vốn là một cậu bé ham chơi, hay lêu lổng, giờ đây cậu
tự giận mình bởi đã quá lãng phí thời gian vào những trò chơi như bắt chim hay
trượt trên hồ để rồi giờ đây “mới chỉ biết viết tập toạng”. Cậu day dứt bởi cậu
tiếc nuối khi “sẽ chẳng bao giờ được học” tiếng Pháp nữa, thậm chí còn
thấy “đau lòng” khi những cuốn sách ngữ pháp, quyển thánh sứ chỉ vừa
mới đây thôi cậu còn thấy “nặng nề, chán ngán” nay đã sắp sửa trở thành
những người “bạn cố trí”. Sự tiếc nuối ấy trở thành tâm trạng chung của cả
Downloaded by Nguyen Linh (vjt12@gmail.com)
lOMoARcPSD|60494438
những người dân đến lớp học buổi hôm ấy. Giống như Phrăng, khi họ đến buổi
học cuối cùng này, chứng tỏ họ cũng tiếc đã không lui tới đây thường xuyên
hơn.
Sự tiếc nuối, xót xa của Phrăng càng được thể hiện rõ hơn qua chi tiết cậu bé cố
gắng đọc bài. Bởi trước nay cậu chẳng hề chuyên tâm học hành nên giờ rất
muốn nhưng cậu lại lúng túng, “lòng rầu rĩ, không dám ngẩng đầu lên” khi
được thầy gọi đọc bài. Cảm xúc này không chỉ do sự xấu hổ kém
còn cho thấy sự nuối tiếc, ân hận, thậm chí tội lỗi của cậu đã không chăm
chú học để rồi giờ đây khi muốn cũng đã trở nên quá muộn. Mặc cảm ấy
chính một biểu hiện tinh tế của lòng tự tôn dân tộc trong cậu. Tình cảm thắm
thiết của cậu dành cho tiếng Pháp lúc này đã trở nên mãnh liệt, được diễn tả qua
mong ước giản dị muốn “đọc được trót lọt cái quy tắc về phân từ hay ho ấy,
đọc thật to, thật dõng dạc, không phạm một lỗi nào”. Từ cậu học sinh ham
chơi, không hứng thú với việc học, vậy giờ cậu lại dám “đánh đổi cũng
cam” để có thể học tốt hơn.
Sự tiếc nuối của Phrăng cũng như những người dân làng gợi nhắc chúng ta về
một sự tâm thường con người: khi báu vật trong tay thì không mảy
may quan tâm, không biết giữ gìn, chỉ khi mất đi rồi mới biết trân trọng hối tiếc.
Ý thức đối với Tổ quốc Phrăng cũng theo đó lớn dần lên. Ý thức này ban
đầu sự phẫn uất quân thù khi mới nghe lời giải thích của thầy Ha-men: “A!
Quân khốn nạn…”. Sự uất ức với kẻ thù dần dần lại được chuyển hóa sang
thành tình cảm tự tôn, tự hào với đấtớc, với tiếng Pháp. Những lời phân tích
của thầy Ha-men sau khi Phrăng đứng dậy đọc bài đã thôi thúc lòng tự trọng
dân tộc lớn lao trong cơ thể bé nhỏ của cậu. Và cậu cảm thấy kinh ngạc khi thấy
buổi học hôm đó cậu lại “thấy sao mình lại hiểu đến thế”. Ý thức dân tộc cũng
khiến cậu những suy nghĩ sâu xa về tương lai dân tộc, ơng lai của tiếng
Downloaded by Nguyen Linh (vjt12@gmail.com)
lOMoARcPSD|60494438
Pháp, mặc đó suy nghĩ rất dỗi ngây ngô, trẻ con khi thắc mắc liệu những
con chim bồ câu cũng bị bắt phải hót bằng tiếng Đức không.
Trong buổi học hôm ấy, người mà Phrăng chú ý nhất chính là thầy giáo Ha-men
của mình. Nếu thấy tiếc nuối cho bản thân chưa học được tiếng Pháp bao
nhiêu thì cậu cũng thấy thương thầy của mình bấy nhiêu khi không còn được
dạy tiếng mẹ đẻ nữa. Nghĩ đến việc thầy sắp phải ra đi cậu quên hết những
ki niệm không vui khi thầy phạt hay vụt thước kẻ. Với người thầy của mình, lúc
này với cậu chỉ một cảm xúc trân trọng, yêu mến xen lẫn nuối tiếc.
Phrăng như trở nên tinh tế đến lạ lùng khi quan sát dáng đứng lặng im ánh
nhìn đăm đăm của thầy mình với những đồ vật xung quanh. Cậu hiểu rằng
đó ánh mắt lưu luyến hạn của một người đã dồn hết tình yêu, tâm huyết
của mình vào việc dạy học, nay đang đứng trước thời khắc sắp phải chia li
những thứ thân thuộc đã gắn đến bốn mươi năm. Sự thấu hiểu của cậu
dành cho thầy khiến cho cậu phải thốt lên: “Tội nghiệp thầy!”.
Sự thương cảm sau đó đã trở thành cảm xúc khâm phục, tự hào đối với thầy.
Cảm xúc ấy đã xuyên suốt trong buổi học hôm đó. Cậu cũng như những người
dân khác đến lớp hôm ấy đều thấy biết ơn người thầy “bốn mươi năm phụng
sự hết lòng”. Cảm xúc được dâng trào mạnh mẽ khi buổi học kết thúc. Trong
tâm trí của Phrăng, hình ảnh của thầy Ha-men khi ấy hiện lên thật đẹp: “Chưa
bao giờ tôi cảm thấy thầy lớn lao đến thế”. Đó cảm nhận thiêng liêng của
một cậu học trò dành cho người thầy tận tâm của mình với tất cả sự tôn trọng,
ngưỡng mộ và kính phục.
2. Thầy giáo Ha-men
Nhân vật thầy giáo Ha-men được đặt vào trong mối quan hệ trực tiếp với nhân
vật kể chuyện, thầy giáo của cậu học trò Phrăng. Trong buổi học hôm đó,
Downloaded by Nguyen Linh (vjt12@gmail.com)
lOMoARcPSD|60494438
thầy đóng vai trò trung tâm, là người chủ trì buổi học cuối cùng môn tiếng Pháp
ở vùng An-đát.
Trong lời kể của Phrăng, thầy Ha-men đã được miêu tả thầy giáo bốn
mươi năm tận tụy trong nghề, người rất tâm huyết với tiếng nói của dân tộc
mình. Nếu Phrăng thể hiện sự thức tỉnh tình yêu đối với tiếng mẹ đẻ thì thầy
Ha-men chính người đã thổi ngọn lửa tình yêu ấy đến với cậu với cả
những người dân làng An-đát trong buổi học bi tráng đó. Mọi hành động, lời
nói, cử chỉ cũng như cảm xúc của thầy đã được cậu học trò Phrăng quan sát,
miêu tả tỉ mỉ, cho thấy một tấm lòng yêu nước lớn lao thầy. Trong buổi dạy
cuối cùng của mình, thầy Ha-men đã mặc bộ trang phục trang trọng nhất của
thầy mà vốn dĩ thường ngày thầy không mấy sử dụng. Sự trịnh trọng đặc biệt ấy
ban đầu đã khiến Phrăng cảm thấy bối rối, khác lạ nhưng sau đó cậu cũng hiểu
ý nghĩa thiêng liêng trong việc làm của thầy “chính để tôn vinh buổi học
cuối cùng”.
Bên trong con người thầy Ha-men cũng những thay đổi lớn lao. Thái độ của
thầy đối với học sinh khác hẳn ngày thường. Hôm nay, thầy thật dịu dàng đa
cảm. Khi Phrăng đi học muộn giờ, mới đầu, như những diễn ra thường ngày,
cậu đã bắt đầu hình dung về sự giận dữ của thầy với cây gậy sắt kẹp dưới nách.
Thế nhưng, thầy Ha-men lại cùng dịu dàng nhắc nhở: “Phrăng, vào chỗ
nhanh lên con; lớp sắp bắt đầu học mà vắng mặt con”. Trong lời nói nhẹ nhàng
ấy phảng phất đó thật buồn của thầy. Vào buổi học hôm ấy thầy không hề
muốn bất cứ ai vắng mặt cả, sự hiện diện của một người trong buổi học đó đều
cùng quan trọng với thầy. Cách xưng thân mật, gọi trò “con” đã khiến
cho mối quan hệ thầy trò trở thành tình cảm cha con, biến giọng giáo huấn,
răn đe trở thành lời nhẹ nhàng, nhắc nhở. Với chất giọng nhẹ nhàng ấy kèm
theo cả sự trang trọng, thầy Ha-men đã thông báo một điều lẽ khó khăn
Downloaded by Nguyen Linh (vjt12@gmail.com)
lOMoARcPSD|60494438
nhất trong cuộc đời của thầy: “Các con ơi, đây lần cuối cùng thầy dạy các
con…Thầy mong các con hết sức chú ý”.
Tính chất của buổi học đã khiến cho thầy Ha-men trở nên nhẹ nhàng, kiên nhẫn
hơn hẳn với lũ học sinh bướng bỉnh hằng ngày. Khi Phrăng đang còn ấp úng
không trả lời được bài lười học, thầy khôn gay gắt, nặng lời mà ôn tồn phân
tích, chỉ ra cho mọi người cùng biết những sai lầm ai cũng đã từng mắc
phải, kể cả thầy khi vô tâm với tiếng Pháp, vô tâm với việc học mà không nhận
ra giá trị của mỗi giây phút đáng quý được học tập. Lời nói của thầy dường như
cũng là lời thú tội của Phrăng hay bất cứ ai trong làng An-đát. Xúc động hơn cả
khi thầy ca ngợi tiếng Pháp: “đó ngôn ngữ hay nhất thế giới, trong sáng
nhất, vững vàng nhất”. Thầy Ha-men nhắc nhở học sinh phải giữ gìn tiếng nói
của dân tộc mình: “phải giữ lấy trong chúng ta đừng quên lãng nó”. Lời
nói của thầy chất chứa, đong đầy cả một tấm lòng tự tôn dân tộc, một tình yêu
bờ đối với tiếng mẹ đẻ, với quê hương. Với thầy, ngôn ngữ chính cốt tủy,
giá trị thiêng liêng của một dân tộc: “khi một dân tộc rơi vào vòng lệ,
chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác nắm được
chìa khóa lao tù…”. Tiếng Pháp đã không chỉ còn một môn học đơn thuần,
tâm hồn Pháp, nhân cách Pháp, sức sống của dân tộc. Lời nói ấy
giống như một lời tuyên ngôn, là một chân không chỉ dành riêng cho người
dân Pháp mà còn cho mọi dân tộc khác nữa.
Dân tộc Việt Nam trải qua bao sóng gió, thăng trầm của lịch sử, vào những thời
khắc khó khăn, đã từng biết bao lần chịu đau thương mất mát bởi giặc ngoại
xâm nhưng vẫn hiên ngang vượt qua, vẫn giữ vững được cho mình thứ thiêng
liêng nhất chính tiếng Việt. Hẳn ta còn nhớ những lời nói hào hùng trong bài
diễn thuyết của Phạm Quỳnh: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn,
nước ta còn”. Bằng tình yêu lớn lao ấy, thầy đã kìm nén lại nỗi đau trong lòng
Downloaded by Nguyen Linh (vjt12@gmail.com)
lOMoARcPSD|60494438
để dành hết tâm huyết của mình cho giờ giảng cuối cùng. Chưa lúc nào thầy
kiên nhẫn giảng giải đến thế, như thể muốn truyền thụ toàn bộ tri thức của
mình, đưa ngay cùng một lúc tri thức ấy vào đầu học sinh của mình. Buổi học
đã được thầy chuẩn bị cùng càng với những tờ mẫu mới tinh, trên viết
những chữ trong thật đẹp: “Pháp, An-đát, Pháp, An-đát”. Thầy giáo Ha-men lúc
này như đại diện cho lương tâm nước Pháp, cho tiếng Pháp.
Hình ảnh người thầy giáo dạy tiếng Pháp vào cuối buổi học đọng lại trong tâm
hồn Phrăng thật đẹp và cảm động. Khi đồng hồ nhà thờ điểm mười hai giờ cùng
với âm thanh của tiếng chuông cầu nguyện buổi trưa, tiếng kèn bọn lính Phổ đi
tập về vang lên ngoài cửa sổ thì cũng là giây phút yếu lòng nhất của thầy Ha-
men, là khi tất cả những nổi đau kìm nén suốt buổi học của thầy dâng trào. Đây
những phút giây cuối cùng đứng trên bục giảng của thầy, giây phút cuối
cùng thực sự sống trọn vẹn với tiếng mẹ đẻ. Sự nghẹn ngào đến cực điểm khiến
thầy giáo “người tái nhợt”, không thể nói lên thành câu chỉ thể cầm hòn
phấn, dằn mạnh hết sức viết thật to: “NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM”. không
cất thành lời, nhưng những dòng chữ thầy viết trên bảng cũng đủ để khiến mọi
trái tim phải thổn thức xúc động, vừa đắng cay, vừa tự hào. Thầy giáo Ha-men
chính một biểu tượng lớn lao về nhân cách cao cả, một nhà giáo yêu nước
chân thành và sâu sắc.
Downloaded by Nguyen Linh (vjt12@gmail.com)
lOMoARcPSD|60494438

Preview text:

lOMoARcPSD|60494438
BUỔI HỌC CUỐI CÙNG - gbgffgbg
quản trị kinh doanh (Đại học Công nghiệp Thực phẩm Thành phố Hồ Chí Minh) Scan to open on Studeersnel
Studocu is not sponsored or endorsed by any college or university
Downloaded by Nguyen Linh (vjt12@gmail.com) lOMoARcPSD|60494438
BUỔI HỌC CUỐI CÙNG
(An-phông-xơ Đô-đê) I. Khái quát 1. Tác giả
- An-phông-xơ Đô-đê (1840 – 1897) là nhà văn Pháp, tác giả của nhiều truyện ngắn nổi tiếng.
- Ông sinh ra ở miền Nam nước Pháp trong một gia đình kinh doanh tơ lụa.
Chưa học hết trung học ông đã đi dạy để kiếm sống bởi gia đình bị phá sản.
Năm lên 18, ông lên thủ đô Paris và bắt đầu tập trung viết văn.
- Truyện ngắn của ông thường nhẹ nhàng, giàu chất thơ, thể hiện tinh thần
nhân đạo sâu sắc đồng thời đả kích sâu cay xã hội tư sản Pháp cuối thể kỉ XIX.
- Những tác phẩm tiêu biểu: Những bức thư viết từ cối xay gió (1869),
Tactaranh ở Taraxcông (1872), Tactaranh trên núi Anpơ (1885),… 2. Tác phẩm a. Xuất xứ
Buổi học cuối cùng được viết vào nửa cuối thể kỉ XIX. Chuyện lấy bối cảnh từ
một biến cố lịch sử, đó là cuộc chiến tranh Pháp – Phổ, diễn ra từ năm 1870 đến
năm 1871, kết thúc với sự thất bại của Pháp. Theo hiệp ước kết thúc chiến tranh
được kí sau đó, Pháp phải nhượng lại cho Phổ hai vùng An-dát và Lo-ren. Hai
vùng này trở thành đất của Phổ, một nhà nước phong kiến chuyên chế, nằm trên
toàn bộ lãnh thổ nước Đức ngày nay. Vì thế, hai tỉnh này phải chịu sự điều
hành, phải sử dụng ngôn ngữ của Đức. Câu chuyện kể lại buổi học cuối cùng
bằng tiếng Pháp tại một ngôi trường làng thuộc vùng An-dát.
b. Thể loại: Truyện ngắn
Downloaded by Nguyen Linh (vjt12@gmail.com) lOMoARcPSD|60494438 c. Bố cục Chia làm ba phần:
- Phần 1: Từ đầu đến “mà vắng mặt con”: Quang cảnh trên đường đến trường
và cảnh ở trường qua sự quan sát của Phrăng.
- Phần 2: Tiếp theo tới “buổi học cuối cùng này”: Diễn biến của buổi học cuối cùng.
- Phần 3: Còn lại: Cảnh kết thúc buổi học cuối cùng.
II. Kiến thức trọng tâm
1. Diễn biến tâm trạng nhân vật Phrăng
Nhân vật cậu bé Phrăng là nhân vật trung tâm đóng vai người kể chuyện trong
tác phẩm. Những quan sát, cảm nhận, cảm xúc ở trong truyện đều được miêu tả
gần gũi, chân thành từ chính góc nhìn của cậu bé. Qua dòng tâm trạng của
Phrăng, tác giả đã khiến cho câu chuyện trở nên cảm động, sâu sắc, thấm thía
hơn khi đặt những vấn đề thiêng liêng của lịch sử, dân tộc vào trong cảm nhận
của một cậu bé ngây thơ còn đang tuổi đến trường. Không những vậy, đây còn
là một góc nhìn sáng tạo, độc đáo khi kể lại một thời khắc trọng đại, thiêng
liêng qua cách cảm, cách nhìn mang tâm lí trẻ thơ.
a. Trước buổi học
Cũng giống như như bao cậu học trò ham chơi khác, Phrăng thường ngày cũng
“trốn học và rong chơi ngoài đồng nội”. Thế giới bên ngoài ấy với cậu thú vị
và hấp dẫn hơn là những bài học về ngữ pháp, “quy tắc về phân từ”. Nơi đó có
bầu trời trong trẻo và ấm áp, có tiếng chim sáo hót véo von trên cánh đồng có
Ríp-pe và có cả những điều lạ lẫm như việc bọn lính Phổ tập luyện. Buổi hôm
ấy, cậu còn đã trễ giờ đến lớp, sợ bị thầy quở mắng nữa nên cậu đã thoáng nghĩ
đến việc trốn học và lại rong chơi ngoài đồng nội. Thế nhưng bên cạnh việc là
Downloaded by Nguyen Linh (vjt12@gmail.com) lOMoARcPSD|60494438
một đứa trẻ, Phrăng cũng là một cậu học trò. Có lẽ vào giây phút cuối cùng,
Phrăng đã nhận thức được điều đó và đã cưỡng lại mọi “cám dỗ” kia mà “ba
chân bốn cẳng”
chạy đến trường. Thậm chí cậu còn quyết định dứt khoác đến
nổi không tò mò đứng lại xem bản dán cáo thị mà nhiều người đang tập trung
trước đó dù cũng thắc mắc: “Lại có chuyện gì nữa đây?”. Cũng như vậy, cậu
cũng bỏ ngoài tai câu nói đầy ẩn ý của bác phó rèn mà cậu cho rằng đó là một
lời nói nhạo: “Đừng vội vã thế cháu ơi, đến trường lúc nào cũng vẫn còn là sớm!”
b. Trong buổi học, khi được nghe thông báo không được học tiếng Pháp nữa
Không khí của buổi học hôm nay khiến cho Phrăng cảm thấy vô cùng ngạc
nhiên bởi sự khác thường của nó. Khi đến lớp, cậu bé láu cá ấy đã chuẩn bị sẵn
kế hoạch sẽ len lỏi vào lớp nhân lúc lớp học còn đang ồn ào, hỗn độn còn thầy
Ha-men thì đang mải mê ổn định lũ học trò. Vậy như kế hoạch ấy của cậu đã
phá sản bởi lớp học hôm nay lặng im đến lạ thường còn thầy giáo thì cũng đang
đi đi lại lại với cây thước sắt “to khủng khiếp” kẹp sẵn dưới nách. Và với lẽ
thường tình, Phrăng nếu bước vào lớp trong hoàn cảnh này sẽ phải vô cùng xấu
hổ, thậm chí là phải hứng chịu cơn giận dữ của thầy. Suy nghĩ ấy làm cho cậu
sợ. Vậy chung điều kì lạ lại tiếp diễn khi thầy Ha-men chẳng những không la
mắng mà thay vào đó là mời cậu vào lớp với một giọng nói dịu dàng. Một điều
kì lạ khác nữa mà cậu nhận ra đó là sự trang trọng đặc biệt của thầy giáo của
mình trong buổi học hôm ấy. Thầy của cậu hôm nay mặc một bộ lễ phục cầu kì
hơn mức bình thường cho một buổi dạy học với “áo ro-đanh-gốt màu xanh lục,
diềm lá sen gấp nếp mịn và đội cái mũ trong bằng lụa đen thêu”
. Bộ trang phục
ấy vốn dĩ thầy chỉ dùng cho những hôm có thanh tra hoặc phát phần thưởng.
Tuy nhiên, điều khiến cho Phrăng ngạc nhiên hơn cả và cũng khó hiểu nhất ở
Downloaded by Nguyen Linh (vjt12@gmail.com) lOMoARcPSD|60494438
lớp học ngày hôm nay chính là sự xuất hiện bất thường của những người dân
làng ngồi phía cuối lớp, ai nấy đều mang vẻ mặt buồn rầu. Câu chuyện được
dẫn dắt người đọc đi theo từng sự phát hiện lạ lùng của Phrăng, khiến cho
không chỉ cậu bé mà cả người đọc cũng cảm thấy hồi hộp, tò mò trước những
điều lạ lùng vừa trông thấy.
Sự thắc mắc của Phrăng cũng nhanh chóng được giải đáp với lời nói của thầy
Ha-men, nhưng thay vì sự thích thú của một đứa trẻ được giải đáp những thắc
mắc, tò mò, thì cậu lại cảm thấy “choáng váng” trước lời thầy nói. Hóa ra
giọng nói dịu dàng, trang trọng của thầy Ha-men lại được dùng để thông báo về
một điều như thể đó là lời trăng trối, lời từ biệt cuối cùng: “Các con ơi, đây là
lần cuối cùng thầy dạy các con…”
. Sự choáng váng ập đến tức thời với Phrăng
sau khi nghe thống báo đó. Cậu dường như ngay lập tức hiểu ra cái vấn đề
nghiêm trọng được thông báo trên tờ cáo thị ở trụ sở xã, hiểu được nguyên nhân
của mọi sự bất thường hôm nay trong lớp học. Và quan trọng hơn cả, cậu nhận
thức được một điều thiêng liêng rằng buổi học ngày hôm ấy chính là “buổi học
Pháp văn cuối cùng”
của mình.
Sự kiện này đã tạo nên một sự thay đổi lớn lao trong tâm hồn, suy nghĩ của chú
bé Phrăng. Nó khiến cậu học trò nhỏ ấy bước vào giờ học với những suy tư
chững chạc, trưởng thành đến ngạc nhiên. Sự trường thành trước hết đến từ sự
ăn năn, day dứt của cậu. Vốn là một cậu bé ham chơi, hay lêu lổng, giờ đây cậu
tự giận mình bởi đã quá lãng phí thời gian vào những trò chơi như bắt chim hay
trượt trên hồ để rồi giờ đây “mới chỉ biết viết tập toạng”. Cậu day dứt bởi cậu
tiếc nuối khi mà “sẽ chẳng bao giờ được học” tiếng Pháp nữa, thậm chí còn
thấy “đau lòng” khi mà những cuốn sách ngữ pháp, quyển thánh sứ chỉ vừa
mới đây thôi cậu còn thấy “nặng nề, chán ngán” nay đã sắp sửa trở thành
những người “bạn cố trí”. Sự tiếc nuối ấy trở thành tâm trạng chung của cả
Downloaded by Nguyen Linh (vjt12@gmail.com) lOMoARcPSD|60494438
những người dân đến lớp học buổi hôm ấy. Giống như Phrăng, khi họ đến buổi
học cuối cùng này, chứng tỏ họ cũng tiếc vì đã không lui tới đây thường xuyên hơn.
Sự tiếc nuối, xót xa của Phrăng càng được thể hiện rõ hơn qua chi tiết cậu bé cố
gắng đọc bài. Bởi trước nay cậu chẳng hề chuyên tâm học hành nên giờ dù rất
muốn nhưng cậu lại lúng túng, “lòng rầu rĩ, không dám ngẩng đầu lên” khi
được thầy gọi đọc bài. Cảm xúc này không chỉ là do sự xấu hổ vì kém mà nó
còn cho thấy sự nuối tiếc, ân hận, thậm chí tội lỗi của cậu bé vì đã không chăm
chú học để rồi giờ đây khi có muốn cũng đã trở nên quá muộn. Mặc cảm ấy
chính là một biểu hiện tinh tế của lòng tự tôn dân tộc trong cậu. Tình cảm thắm
thiết của cậu dành cho tiếng Pháp lúc này đã trở nên mãnh liệt, được diễn tả qua
mong ước giản dị muốn “đọc được trót lọt cái quy tắc về phân từ hay ho ấy,
đọc thật to, thật dõng dạc, không phạm một lỗi nào”
. Từ cậu học sinh ham
chơi, không hứng thú với việc học, vậy mà giờ cậu lại dám “đánh đổi gì cũng
cam”
để có thể học tốt hơn.
Sự tiếc nuối của Phrăng cũng như những người dân làng gợi nhắc chúng ta về
một sự vô tâm thường có ở con người: khi có báu vật trong tay thì không mảy
may quan tâm, không biết giữ gìn, chỉ khi mất đi rồi mới biết trân trọng hối tiếc.
Ý thức đối với Tổ quốc ở Phrăng cũng theo đó mà lớn dần lên. Ý thức này ban
đầu là sự phẫn uất quân thù khi mới nghe lời giải thích của thầy Ha-men: “A!
Quân khốn nạn…”
. Sự uất ức với kẻ thù dần dần lại được chuyển hóa sang
thành tình cảm tự tôn, tự hào với đất nước, với tiếng Pháp. Những lời phân tích
của thầy Ha-men sau khi Phrăng đứng dậy đọc bài đã thôi thúc lòng tự trọng
dân tộc lớn lao trong cơ thể bé nhỏ của cậu. Và cậu cảm thấy kinh ngạc khi thấy
buổi học hôm đó cậu lại “thấy sao mình lại hiểu đến thế”. Ý thức dân tộc cũng
khiến cậu có những suy nghĩ sâu xa về tương lai dân tộc, tương lai của tiếng
Downloaded by Nguyen Linh (vjt12@gmail.com) lOMoARcPSD|60494438
Pháp, mặc dù đó là suy nghĩ rất dỗi ngây ngô, trẻ con khi thắc mắc liệu những
con chim bồ câu cũng bị bắt phải hót bằng tiếng Đức không.
Trong buổi học hôm ấy, người mà Phrăng chú ý nhất chính là thầy giáo Ha-men
của mình. Nếu thấy tiếc nuối cho bản thân vì chưa học được tiếng Pháp bao
nhiêu thì cậu cũng thấy thương thầy của mình bấy nhiêu khi không còn được
dạy tiếng mẹ đẻ nữa. Nghĩ đến việc thầy sắp phải ra đi mà cậu quên hết những
ki niệm không vui khi thầy phạt hay vụt thước kẻ. Với người thầy của mình, lúc
này với cậu chỉ có một cảm xúc trân trọng, yêu mến và xen lẫn nuối tiếc.
Phrăng như trở nên tinh tế đến lạ lùng khi quan sát dáng đứng lặng im và ánh
nhìn đăm đăm của thầy mình với những đồ vật xung quanh. Cậu bé hiểu rằng
đó là ánh mắt lưu luyến vô hạn của một người đã dồn hết tình yêu, tâm huyết
của mình vào việc dạy học, nay đang đứng trước thời khắc sắp phải chia li
những thứ thân thuộc đã gắn bó đến bốn mươi năm. Sự thấu hiểu của cậu bé
dành cho thầy khiến cho cậu phải thốt lên: “Tội nghiệp thầy!”.
Sự thương cảm sau đó đã trở thành cảm xúc khâm phục, tự hào đối với thầy.
Cảm xúc ấy đã xuyên suốt trong buổi học hôm đó. Cậu cũng như những người
dân khác đến lớp hôm ấy đều thấy biết ơn người thầy “bốn mươi năm phụng
sự hết lòng”
. Cảm xúc được dâng trào mạnh mẽ khi buổi học kết thúc. Trong
tâm trí của Phrăng, hình ảnh của thầy Ha-men khi ấy hiện lên thật đẹp: “Chưa
bao giờ tôi cảm thấy thầy lớn lao đến thế”
. Đó là cảm nhận thiêng liêng của
một cậu học trò dành cho người thầy tận tâm của mình với tất cả sự tôn trọng,
ngưỡng mộ và kính phục. 2. Thầy giáo Ha-men
Nhân vật thầy giáo Ha-men được đặt vào trong mối quan hệ trực tiếp với nhân
vật kể chuyện, là thầy giáo của cậu học trò Phrăng. Trong buổi học hôm đó,
Downloaded by Nguyen Linh (vjt12@gmail.com) lOMoARcPSD|60494438
thầy đóng vai trò trung tâm, là người chủ trì buổi học cuối cùng môn tiếng Pháp ở vùng An-đát.
Trong lời kể của Phrăng, thầy Ha-men đã được miêu tả là thầy giáo có bốn
mươi năm tận tụy trong nghề, là người rất tâm huyết với tiếng nói của dân tộc
mình. Nếu Phrăng thể hiện sự thức tỉnh tình yêu đối với tiếng mẹ đẻ thì thầy
Ha-men chính là người đã thổi ngọn lửa tình yêu ấy đến với cậu và với cả
những người dân làng An-đát trong buổi học bi tráng đó. Mọi hành động, lời
nói, cử chỉ cũng như cảm xúc của thầy đã được cậu học trò Phrăng quan sát,
miêu tả tỉ mỉ, cho thấy một tấm lòng yêu nước lớn lao ở thầy. Trong buổi dạy
cuối cùng của mình, thầy Ha-men đã mặc bộ trang phục trang trọng nhất của
thầy mà vốn dĩ thường ngày thầy không mấy sử dụng. Sự trịnh trọng đặc biệt ấy
ban đầu đã khiến Phrăng cảm thấy bối rối, khác lạ nhưng sau đó cậu cũng hiểu
ý nghĩa thiêng liêng trong việc làm của thầy “chính là để tôn vinh buổi học cuối cùng”.
Bên trong con người thầy Ha-men cũng có những thay đổi lớn lao. Thái độ của
thầy đối với học sinh khác hẳn ngày thường. Hôm nay, thầy thật dịu dàng và đa
cảm. Khi Phrăng đi học muộn giờ, mới đầu, như những gì diễn ra thường ngày,
cậu đã bắt đầu hình dung về sự giận dữ của thầy với cây gậy sắt kẹp dưới nách.
Thế nhưng, thầy Ha-men lại vô cùng dịu dàng nhắc nhở: “Phrăng, vào chỗ
nhanh lên con; lớp sắp bắt đầu học mà vắng mặt con”
. Trong lời nói nhẹ nhàng
ấy có phảng phất gì đó thật buồn của thầy. Vào buổi học hôm ấy thầy không hề
muốn bất cứ ai vắng mặt cả, sự hiện diện của một người trong buổi học đó đều
vô cùng quan trọng với thầy. Cách xưng hô thân mật, gọi trò là “con” đã khiến
cho mối quan hệ thầy – trò trở thành tình cảm cha con, biến giọng giáo huấn,
răn đe trở thành lời nhẹ nhàng, nhắc nhở. Với chất giọng nhẹ nhàng ấy kèm
theo cả sự trang trọng, thầy Ha-men đã thông báo một điều có lẽ là khó khăn
Downloaded by Nguyen Linh (vjt12@gmail.com) lOMoARcPSD|60494438
nhất trong cuộc đời của thầy: “Các con ơi, đây là lần cuối cùng thầy dạy các
con…Thầy mong các con hết sức chú ý”
.
Tính chất của buổi học đã khiến cho thầy Ha-men trở nên nhẹ nhàng, kiên nhẫn
hơn hẳn với lũ học sinh bướng bỉnh hằng ngày. Khi Phrăng đang còn ấp úng
không trả lời được bài vì lười học, thầy khôn gay gắt, nặng lời mà ôn tồn phân
tích, chỉ ra cho mọi người cùng biết những sai lầm mà ai cũng đã từng mắc
phải, kể cả thầy khi vô tâm với tiếng Pháp, vô tâm với việc học mà không nhận
ra giá trị của mỗi giây phút đáng quý được học tập. Lời nói của thầy dường như
cũng là lời thú tội của Phrăng hay bất cứ ai trong làng An-đát. Xúc động hơn cả
khi thầy ca ngợi tiếng Pháp: “đó là ngôn ngữ hay nhất thế giới, trong sáng
nhất, vững vàng nhất”
. Thầy Ha-men nhắc nhở học sinh phải giữ gìn tiếng nói
của dân tộc mình: “phải giữ lấy nó trong chúng ta và đừng quên lãng nó”. Lời
nói của thầy chất chứa, đong đầy cả một tấm lòng tự tôn dân tộc, một tình yêu
vô bờ đối với tiếng mẹ đẻ, với quê hương. Với thầy, ngôn ngữ chính là cốt tủy,
là giá trị thiêng liêng của một dân tộc: “khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ,
chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được
chìa khóa lao tù…”
. Tiếng Pháp đã không chỉ còn là một môn học đơn thuần,
nó là tâm hồn Pháp, là nhân cách Pháp, là sức sống của dân tộc. Lời nói ấy
giống như một lời tuyên ngôn, là một chân lí không chỉ dành riêng cho người
dân Pháp mà còn cho mọi dân tộc khác nữa.
Dân tộc Việt Nam trải qua bao sóng gió, thăng trầm của lịch sử, vào những thời
khắc khó khăn, đã từng biết bao lần chịu đau thương mất mát bởi giặc ngoại
xâm nhưng vẫn hiên ngang vượt qua, vẫn giữ vững được cho mình thứ thiêng
liêng nhất chính là tiếng Việt. Hẳn ta còn nhớ những lời nói hào hùng trong bài
diễn thuyết của Phạm Quỳnh: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn,
nước ta còn”
. Bằng tình yêu lớn lao ấy, thầy đã kìm nén lại nỗi đau trong lòng
Downloaded by Nguyen Linh (vjt12@gmail.com) lOMoARcPSD|60494438
để dành hết tâm huyết của mình cho giờ giảng cuối cùng. Chưa lúc nào thầy
kiên nhẫn giảng giải đến thế, như thể muốn truyền thụ toàn bộ tri thức của
mình, đưa ngay cùng một lúc tri thức ấy vào đầu học sinh của mình. Buổi học
đã được thầy chuẩn bị vô cùng kĩ càng với những tờ mẫu mới tinh, trên có viết
những chữ trong thật đẹp: “Pháp, An-đát, Pháp, An-đát”. Thầy giáo Ha-men lúc
này như đại diện cho lương tâm nước Pháp, cho tiếng Pháp.
Hình ảnh người thầy giáo dạy tiếng Pháp vào cuối buổi học đọng lại trong tâm
hồn Phrăng thật đẹp và cảm động. Khi đồng hồ nhà thờ điểm mười hai giờ cùng
với âm thanh của tiếng chuông cầu nguyện buổi trưa, tiếng kèn bọn lính Phổ đi
tập về vang lên ngoài cửa sổ thì cũng là giây phút yếu lòng nhất của thầy Ha-
men, là khi tất cả những nổi đau kìm nén suốt buổi học của thầy dâng trào. Đây
là những phút giây cuối cùng đứng trên bục giảng của thầy, là giây phút cuối
cùng thực sự sống trọn vẹn với tiếng mẹ đẻ. Sự nghẹn ngào đến cực điểm khiến
thầy giáo “người tái nhợt”, không thể nói lên thành câu mà chỉ có thể cầm hòn
phấn, dằn mạnh hết sức viết thật to: “NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM”. Dù không
cất thành lời, nhưng những dòng chữ thầy viết trên bảng cũng đủ để khiến mọi
trái tim phải thổn thức xúc động, vừa đắng cay, vừa tự hào. Thầy giáo Ha-men
chính là một biểu tượng lớn lao về nhân cách cao cả, một nhà giáo yêu nước chân thành và sâu sắc.
Downloaded by Nguyen Linh (vjt12@gmail.com)