Các bước đột phá trong quá trình tìm tòi, đổi mới về kinh tế của Đảng trong những năm 1975-1986 | Tiểu luận Lịch sử đảng

Với đại thắng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, ngày 30 tháng 4 năm 1975 Miền Nam được hoàn toàn giải phóng, lịch sử Việt Nam chính thức bước vào kỉ nguyễn mới- Kỷ nguyễn của độc lập, thống nhất và Chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Môn:
Thông tin:
20 trang 2 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Các bước đột phá trong quá trình tìm tòi, đổi mới về kinh tế của Đảng trong những năm 1975-1986 | Tiểu luận Lịch sử đảng

Với đại thắng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, ngày 30 tháng 4 năm 1975 Miền Nam được hoàn toàn giải phóng, lịch sử Việt Nam chính thức bước vào kỉ nguyễn mới- Kỷ nguyễn của độc lập, thống nhất và Chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

19 10 lượt tải Tải xuống
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
----------
TIỂU LUẬN
MÔN: LỊCH SỬ ĐẢNG
Đề tài: Các bước đột phá trong quá trình tìm tòi, đổi mới về kinh
tế của Đảng trong những năm 1975-1986
Sinh viên : Nguyễn Thu Hiền
MSSV : 2055270071
Mã lớp : QLKT - A2 K40
Khoa : Kinh tế chính trị
1 | H à N i 2 0 / 5 / 2 0 2 1
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu.
3. Phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: Khái quát kinh tế Việt Nam trước 1975
- Thời kỳ từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến năm 1954
- Thời kỳ từ năm 1955 đến năm 1975
CHƯƠNG 2: Các bước đột phá trong quá trình tìm tòi, đổi mới về kinh tế của
Đảng trong những năm 1975-1986
1. Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (8/1979)
2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng và các bước đột phá tiếp tục
đổi mới kinh tế
a. Ðại hội toàn quốc lần thứ V của Ðảng (3-1982)
b. Các bước đột phá tiếp tục đổi mới kinh tế
PHẦN KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
2 | H à N i 2 0 / 5 / 2 0 2 1
PHẦN MỞ ĐẨU
1. Lý do chọn đề tài
Với đại thắng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, ngày 30 tháng 4 năm 1975 Miền
Nam được hoàn toàn giải phóng, lịch sử Việt Nam chính thức bước vào kỉ nguyễn
mới- Kỷ nguyễn của độc lập, thống nhất và Chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
Trong 10 năm đầu sau khi đất nước được thống nhất, song song với nhiện vụ hàng
đầu là hàn gắn những vết thương chiến tranh thì nhiệm vụ cải tạo, xây dựng và
phát triển kinh tế cũng đặt ra những yếu tố cấp bách.
Với tinh thần ‘’ cách mạng tiến công không ngừng ‘’ của những năm kháng
chiến, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã tiến công vào ‘’ mặt trận kinh tế ‘’
với khí thế hết sức sôi nổi.
Vận dụng mô hình và kinh nghiệm trong cải tạo, phát triển ở Miền Bắc trong
20 năm trước, Đảng và nhà nước ta đã chủ trương thực hiện mô hình kinh tế kế
hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp trên phạm vi cả nước, đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hóa hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa theo hướng ưu tiên phát tiển công
nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ
nhằm đưa nước ta tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội.
Với tinh thần ấy, sau 10 năm thực hiện ( 1975-1986), nền kinh tế nước ta đã
đạt được những thành tự quan trọng đồng thời cũng có nhiều khó khăn thách thức
to lớn. Đến cuối những năm 70 và đầu những năm 80 của thế kỉ trước nước ta rơi
vào cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội. Thực tiễn đó đã cho chúng ta thấy ‘’ mặt
trận kinh tế ‘’ cũng gay go và không kém phần quyết liệt so với chiến tranh giải
phóng. Chỉ với 10 năm phát triển kinh tế xã hội nhưng đã để lại cho chúng ta rất
nhiều bài học sâu sắc và đắt giá. Đó chính là cơ sở thực tiễn quan trọng để Đảng ta
quyết định phải đổi mới toàn diện mà trước hết là đổi mới về kinh tế.
3 | H à N i 2 0 / 5 / 2 0 2 1
Với ý nghĩa đó, việc phân tích làm rõ sự phát triển kinh tế nước ta thời kì
1975-1986, chỉ thực trạng, nguyên nhân và những bài học kinh nghiệm có í nghĩa
to lớn cả về lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu về quá trình, tìm tỏi của Đảng trong các hội nghị trong những năm
1975-1986 để nền kinh tế lạc hậu của Việt Nam đi lên.
3. Phạm vi nghiên cứu
Bài tiểu luận chỉ tìm hiểu hoạt động của Đảng trong giai đoạn 1975-1986
4. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận được nghiên cứu dựa trên hai phương pháp chính: nghiên cứu lịch
sử kết hợp với việc so sánh đối chiếu.
PHẦN NỘI DUNG
4 | H à N i 2 0 / 5 / 2 0 2 1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT NỀN KINH TẾ VIỆT NAM TRƯỚC 1975
- : Đẩy mạnh Thời kỳ từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến năm 1954
sản xuất, xây dựng và phát triển kinh tế kháng chiến Đặc trưng của nền kinh tế Việt
Nam thời kỳ này là nền kinh tế nông thôn, quy mô kinh tế rất thấp, tiềm lực yếu
kém. Trong đo, kinh tế nông thôn và sản xuất nông nghiệp có vị trí đặc biệt quan
trọng.
- : Khôi phục và phát triển kinh tế sau chiếnThời kỳ từ năm 1955 đến năm 1975
tranh, thực hiện các chỉ tiêu trong Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm lần
thứ nhất Trong thời kỳ này, Chính phủ đã phê duyệt Kế hoạch phát triển kinh tế –
xã hội 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) nhằm phấn đấu xây dựng bước đầu cơ sở
vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hoá xã
hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của các ngành kinh tế quốc dân,
trước hết là các ngành công nghiệp và nông nghiệp. Sản xuất công nghiệp từng
bước được khôi phục và phát triển với đường lối công nghiệp hóa, nhiều cơ sở sản
xuất công nghiệp được phục hồi và xây dựng. Thương nghiệp quốc doanh được
nhà nước quan tâm và có sự phát triển nhanh chóng, làm nhiệm vụ hậu cần cho sản
xuất và chiến đấu.
=> Kết luận: Nền kinh tế Việt Nam trước năm 1975 vẫn còn non trẻ, mới bước
đầu thoát khỏi nền kinh tế nông thôn nghèo nàn, lạc hậu. Kinh tế cho thấy những
dấu hiệu khởi sắc nhất định, đảm bảo phần lớn cho đời sống nhân dân và làm hậu
phương kháng chiến cho đất nước ta đi đến ngày toàn thắng, thống nhất hai miền
Nam - Bắc. Giai đoạn 1976-1986, nước ta ở trong thời bao cấp. Thời bao cấp là tên
gọi được sử dụng tại Việt Nam để chỉ một giai đoạn mà hầu hết sinh hoạt kinh tế
đều được Nhà nước bao cấp, diễn ra dưới nền kinh tế kế hoạch hóa, một đặc điểm
của nền kinh tế theo chủ nghĩa cộng sản. Theo đó thì kinh tế tư nhân dần bị xóa bỏ,
nhường chỗ cho kinh tế do nhà nước chỉ huy. Trong nền kinh tế kế hoạch, thương
nghiệp tư nhân bị loại bỏ, hàng hóa được phân phối theo chế độ tem phiếu do nhà
nước nắm toàn quyền điều hành, hạn chế đến thủ tiêu việc mua bán trên thị trường
hoặc vận chuyển tự do hàng hoá từ địa phương này sang địa phương khác. Nhà
nước có độc quyền phân phối hàng hóa, hạn chế trao 3 đổi bằng tiền mặt. Chế độ
hộ khẩu được thiết lập trong thời kỳ này để phân phối lương thực, thực phẩm theo
đầu người, tiêu biểu nhất là sổ gạo ấn định số lượng và mặt hàng được phép mua.
5 | H à N i 2 0 / 5 / 2 0 2 1
CHƯƠNG 2: CÁC BƯỚC ĐỘT PHÁ TRONG QUÁ TRÌNH TÌM TÒI,
ĐỔI MỚI VỀ KINH TẾ CỦA ĐẢNG TRONG NHỮNG NĂM 1975-1986
6 | H à N i 2 0 / 5 / 2 0 2 1
Trong giai đoạn những năm 1975-1986, có 3 bước đột phá lớn trong quá trình
tìm tòi, đổi mới về kinh tế của Đảng, được thể hiện trong các Hội nghị:
- Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (8/1979)
- Hội nghị Trung ương 8 khóa V (6/1985)
- Hội nghị Bộ Chính trị khóa V (8/1986)
1. Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (8/1979)
a. Hoàn cảnh:
Trong giai đoạn này, sau những nỗ lực phát triển kinh tế theo đường lối công
nghiệp hoá trên, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng chậm, thậm chí vào cuối thời kỳ
kế hoạch 5 năm lần thứ II những năm 1979-1980, sản xuất công nghiệp lâm vào trì
trệ, suy thoái. Nền kinh tế nước ta vốn đã thấp kém, thiên tai dồn dập, dự trữ
nguyên liệu đang bị cạn kiệt, viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa giảm sút,
chiến tranh hai đầu biên giới xảy ra, đế quốc Mỹ và các thế lực chống đối Việt
Nam bao vây, cấm vận kinh tế, đã làm cho cuộc khung hoảng kinh tế - xã hội bắt
đầu xuất hiện.
Trong bối cảnh đó, tháng 8 – 1979, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành
Trung ương Đảng đã được triệu tập, nhằm đánh giá về thực trạng đất nước, tập
trung bàn về phương hướng phát triển hàng tiêu dùng và công nghiệp địa phương
nhằm khắc phục tình trạng khan hiếm nghiêm trọng các mặt hàng tiêu dùng thiết
yếu. Đại hội IV
b. Nội dung:
Hội nghị Trung ương 6 (8-1979) được coi là bước đột phá đầu tiên đổi mới
kinh tế của Đảng với chủ trương khắc phục những khuyết điểm, sai lầm trong quản
lý kinh tế, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, phá bỏ những rào cản để cho “sản xuất
bung ra”.
- Hội nghị đã tập trung vào những biện pháp nhằm khắc phục những yếu kém
trong quản lý kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa; điều chỉnh những chủ trương,
chính sách kinh tế, phá bỏ rào cản, mở đường cho sản xuất phát triển: ổn định
nghĩa vụ lương thực trong 5 năm, phần dôi ra được bán cho Nhà nước hoặc lưu
7 | H à N i 2 0 / 5 / 2 0 2 1
thông tự do; khuyến khích mọi người tận dụng ao hồ, ruộng đất hoang hoá; đẩy
mạnh chăn nuôi gia súc dưới mọi hình thức (quốc doanh, tập thể, gia đình); sửa lại
thuế lương thực, giá lương thực để khuyến khích sản xuất; sửa lại chế độ phân phối
trong nội bộ hợp tác xã nông nghiệp, bỏ lối phân phối theo định suất, định lượng
để khuyến khích tính tích cực của người lao động,...
Theo đó, Hội đồng Chính phủ ra quyết định (10/1979) về việc tận dụng đất
đai nông nghiệp để khai hoang, phục hóa được miễn thuế, trả thù lao và được sử
dụng toàn bộ sản phẩm; quyết định xóa bỏ những trạm kiểm soát để người sản xuất
có quyền tự do đưa sản phẩm ra trao đổi ngoài thị trường.
=> Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 đã nhanh chóng được nhân dân cả nước đón
nhận và biến thành hành động cụ thể trong thực tiễn kinh tế. Chỉ một thời gian
ngắn, trong cả nước đã xuất hiện rất nhiều điển hình về cách làm ăn mới.
- Trước hiện tượng “khoán chui” trong hợp tác xã nông nghiệp ở một số địa
phương, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị 100-CT/TW (năm 1981) về khoán sản
phẩm đến nhóm và người lao động trong các hợp tác xã nông nghiệp. Theo chỉ thị,
mỗi xã viên nhận mức khoán theo diện tích và tự mình làm các khâu, cấy, chăm
sóc và thu hoạch, còn những khâu khác do hợp tác xã đảm nhiệm. Thu hoạch vượt
mức khoán sẽ được hưởng và tự do mua bán.
=> Tác động:
Chủ trương đó được nông dân cả nước ủng hộ, nhanh chóng thành phong trào
quần chúng sâu rộng. Chỉ thị đó làm cho người lao động thực sự gắn bó với sản
phẩm cuối cùng, do đó đem hết nhiệt tình lao động và khả năng ra sản xuất, bước
đầu tạo ra một động lực mới trong sản xuất nông nghiệp.
Sản lượng lương thực bình quân từ 13,4 triệu tấn/năm thời kỳ 1976-1980 tăng
lên 17 triệu tấn/năm thời kỳ 1981-1985. Những hiện tượng tiêu cực, lãng phí trong
sản xuất nông nghiệp giảm đi đáng kể.
- Trong lĩnh vực công nghiệp, trước các hiện tượng “xé rào” bù giá vào lương
ở TP Hồ Chí Minh và tỉnh Long An, Chính phủ ban hành Quyết định số 25-CP
(1/1981) về quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh và Quyết định
số 26-CP vềviệc mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng
hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh doanh của Nhà nước.
8 | H à N i 2 0 / 5 / 2 0 2 1
=> Tác động: Bước đầu tạo ra động lực mới, góp phần thúc đẩy sản xuất công
nghiệp đạt kế hoạch, riêng công nghiệp địa phương vượt kế hoạch 7,5%. Đến năm
1985, toàn ngành công nghiệp đã sản xuất được 105 tỷ đồng, tăng trên 61,3% so
với năm 1976 và 57,4% so với năm 1980. Trong thời kỳ 1981-1985, tốc độ tăng
bình quân hàng năm đạt 9,5%.
“Từ năm 1979 đã có một số mũi đột phá táo bạo trong kinh tế, mà thời đó
thường gọi là “phá rào”. Kết quả của những cuộc “phá rào” đó đã dội vào tư duy
kinh tế của nhiều nhà lãnh đạo, làm cho họ từng bước nhận thấy cần và có thể chọn
một hướng đi khác trước... Tiêu biểu là những trường hợp sau: Khoán ở Hải Phòng
năm 1980; khoán ở Xí nghiệp Đánh cá Côn Đảo, Vũng Tàu; khoán ở Công ty Xe
khách miền Đông Nam Bộ; thu mua lương thực ở Công ty Kinh doanh Lương thực
TP Hồ Chí Minh; phá giá thu mua lúa ở An Giang; áp dụng cơ chế giá thị trường ở
Long An...”.(Cố GS lịch sử kinh tế ĐẶNG PHONG)
: c. Nhận xét
Có thể nhìn thấy những tư duy đột phá về kinh tế được thể hiện trong
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa khóa IV và trong các quyết định của
Chính phủ thời kỳ này.
- Đó là những tư duy kinh tế ban đầu, tuy còn sơ khai, cơ bản và chưa
toàn diện nhưng là bước mở đầu có ý nghĩa quan trọng.
- Tư duy nổi bật trong những tìm tòi đó là “cởi trói”, “giải phóng lực
lượng sản xuất”, “làm cho sản xuất bung ra”, trên cơ sở khắc phục những khuyết
điểm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, tạo ra động lực cho sản
xuất. Những tư duy kinh tế ban đầu đó đã đặt những cơ sở đầu tiên cho quá trình
đổi mới sau này.
- Tuy nhiên, do những khó khăn bởi chiến tranh biên giới phía Bắc và
Tây Nam gây ra, do thiếu đồng bộ của tư tưởng đổi mới và chưa có đủ thời gian để
những chủ trương đổi mới phát huy tác dụng, những tìm tòi đổi mới ban đầu đó đã
phải trải qua các thử thách rất phức tạp. Tư duy cũ về kinh tế hiện vật còn ăn sâu,
bám rễ trong nhiều người.
Bên cạnh những tư duy cũ trên đây, trước đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống,
cũng đã xuất hiện khuynh hướng muốn đổi mới mạnh mẽ hơn, tiếp tục đẩy tới tư
9 | H à N i 2 0 / 5 / 2 0 2 1
duy thừa nhận sản xuất hàng hoá và những quy luật của sản xuất hàng hoá trong
chủ nghĩa xã hội.
2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng và các bước đột phá tiếp
tục đổi mới kinh tế
a. Ðại hội toàn quốc lần thứ V của Ðảng (3-1982)
Ðại hội toàn quốc lần thứ V của Ðảng (3-1982) đã có những bước phát triển
nhân thức mới, tìm tòi đổi mới trong bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trước hết là
về mặt kinh tế.
Đại hội đã phát triển thêm một bước, đánh giá một cách khách quan thành
tựu và hạn chế trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, đã chỉ ra nguyên nhân chủ quan
gây nên sự sa sút của nền kinh tế là những khuyết điểm, sai lầm về lãnh đạo và
quản lý. Ðể góp phần khắc phục tư tưởng nóng vội, Ðại hội đưa ra khái niệm về
"chặng đường trước mắt" của thời kỳ quá độ và xác định trong chặng đường này,
nội dung chính của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là "coi nông nghiệp là mặt
trận hàng đầu, kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp
nặng trong một cơ cấu hợp lý". Ðại hội cũng khẳng định sự tồn tại 5 thành phần
kinh tế trong một thời gian nhất định ở miền Nam.
Tuy nhiên, sau đó, Hội nghị Trung ương 5 khóa V (12-1983) lại cho rằng sự
chậm chạp trong cải tạo xã hội chủ nghĩa là một trong những nguyên nhân của tình
trạng khó khăn về kinh tế, xã hội. Từ đó, chủ trương để ổn định tình hình, phải đẩy
mạnh hơn nữa sự cải tạo xã hội chủ nghĩa; Nhà nước phải nắm hàng, nắm tiền, xóa
bỏ thị trường tự do về lương thực và các nông hải sản quan trọng, thống nhất quản
lý giá,...
b. Các bước đột phá tiếp tục đổi mới kinh tế
Sau Đại hội V, Trung ương Đảng có nhiều Hội nghị cụ thể hóa, thực hiện
Nghị quyết Đại hội: Hội nghị Trung ương 6 (7/1984), Hội nghị Trung ương 7
(12/1984) và nổi bật nhất là Hội nghị Trung ương 8 khóa V (6-1985).
Hội nghị Trung ương 8 khóa V (6-1985) là bước đột phá thứ hai trong quá
trình tìm tòi, đổi mới kinh tế của Đảng.
* Hoàn cảnh:
10 | H à N i 2 0 / 5 / 2 0 2 1
Từ sau Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá IV
(tháng 9-1979), Đảng và Nhà nước đã đề ra một số chủ trương, chính sách về sản
xuất và phân phối lưu thông; một số ngành, địa phương và cơ sở đã mạnh dạn áp
dụng những cách làm mới nhằm tháo gỡ vướng mắc, thúc đẩy sản xuất phát triển,
đẩy mạnh thu mua nắm hàng, cải thiện một bước nền tài chính quốc gia, giải quyết
một số vấn đề cấp bách về giá và lương. Tuy nhiên, các nghị quyết, chỉ thị của
Đảng và Nhà nước về vấn đề phân phối lưu thông còn có những mặt hạn chế rất cơ
bản:
- Vẫn giải quyết các vấn đề giá, lương và các vấn đề kinh tế khác trên cơ sở tiếp
tục duy trì cơ chế quản lý tập trung quan liêu - bao cấp.
- Hệ thống giá thấp của Nhà nước đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng: Thu
nhập của khu vực kinh tế quốc doanh chỉ đủ trả lương công nhân, viên chức của
bản thân nó ở mức rất thấp; Máy móc, thiết bị, nhà xưởng ngày càng hao mòn, hư
hỏng; thu về khấu hao tài sản cố định không đủ chi cho sửa chữa; Việc cấp vật tư
với giá thấp, bù lỗ về hàng cung cấp cho công nhân để đổi lại việc giao nộp sản
phẩm theo giá thấp làm cho giá thành và giá tiêu thụ sản phẩm thấp xa so với giá
trị thực của nó; Xuất khẩu càng nhiều thì ngân sách phải bù lỗ càng lớn; Duy trì giá
mua và giá bán thấp mang tính chất bao cấp làm cho Nhà nước khó nắm hàng, nắm
tiền, đó là nguồn gốc gây ra nhiều hiện tượng tiêu cực, rối ren trong xã hội.
- Tiền lương của cán bộ, công nhân, viên chức không được điều chỉnh tương ứng
với mức tăng giá năm 1981-1982, và sau đó phụ cấp lương không tăng kịp thời và
thoả đáng, trong lúc giá Nhà nước có điều chỉnh (từ cuối 1984) và nhất là giá thị
trường biến động mạnh. Chế độ lương hiện vật gây ra nhiều lãng phí và tiêu cực, vi
phạm nghiêm trọng quyền làm chủ của người lao động đối với đồng lương và thu
nhập của mình.
* Nội dung:
Hội nghị chủ trương xóa quan liêu bao cấp trong giá và lương là yêu cầu hết
sức cấp bách, là khâu đột phá có tính quyết định để chuyển hẳn nền kinh tế sang
hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Nội dung xóa quan liêu, bao cấp trong giá và lương là tính đủ chi phí hợp lý
trong giá thành sản phẩm; giá cả bảo đảm bù đắp chi phí thực tế hợp lý, người sản
xuất có lợi nhuận thỏa đáng và Nhà nước từng bước có tích lũy; xóa bỏ tình trạng
11 | H à N i 2 0 / 5 / 2 0 2 1
Nhà nước mua thấp, bán thấp và bù lỗ; thực hiện cơ chế một giá trong toàn bộ hệ
thông, khắc phục tình trạng thả nổi trong việc định giá và quản lý giá.
Thực hiện cơ chế một giá, xóa bỏ chế độ bao cấp bằng hiện vật theo giá thấp,
chuyển mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ
nghĩa.
Giá, lương, tiền coi là khâu đột phá để chuyển đổi cơ chế. Thực hiện trả
lương bằng tiền có hàng hóa đảm bảo, xóa bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá
thấp, thoát ly giá trị hàng hóa. Xóa bỏ các khoản chi của ngân sách trung ương, địa
phương mang tính chất bao cấp tràn lan. Nhanh chóng chuyển thẳng công tác ngân
hàng sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
- Về giá cả:
Việc điều chỉnh mặt bằng giá cả và cơ chế quản lý giá phải dựa trên các
nguyên tắc: Xác định giá phù hợp với giá trị và với sức mua thực tế của đồng tiền;
Định giá trên cơ sở lấy kế hoạch làm trung tâm, thực hiện hạch toán kinh tế và kinh
doanh xã hội chủ nghĩa, chủ động vận dụng quy luật giá trị và quan hệ cung - cầu;
Trong điều kiện nước ta đi từ một nền kinh tế mà tiểu sản xuất hàng hoá còn phổ
biến tiến thẳng lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, theo chủ trương của Đảng coi
nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, phải lấy giá thóc làm chuẩn để tính toán các loại
giá khác và toàn bộ mặt bằng giá; Quản lý giá cả phải có phân công, phân cấp hợp
lý theo nguyên tắc tập trung dân chủ, phù hợp với thực tế.
Giá mua lương thực và nông sản:
Giá mua lương thực và nông sản phải thể hiện và góp phần thực hiện
đường lối phát triển nông nghiệp nhằm hình thành cơ cấu công - nông nghiệp hợp
lý, thể hiện quan hệ công - nông cùng làm chủ, cả công nghiệp và nông nghiệp đều
phát triển và đóng góp đúng mức cho Nhà nước, đời sống công nhân, nông dân đều
được cải thiện.
Xác định giá mua lương thực và nông sản trên cơ sở thoả thuận giữa Nhà
nước và nông dân, bảo đảm cho người sản xuất bù đắp đủ chi phí, có lãi hợp lý
nhằm khuyến khích nông dân hăng hái sản xuất.
Thực hiện Nhà nước thống nhất quản lý, độc quyền kinh doanh lương
thực và các nông sản chủ yếu, bằng chính sách giá và phương thức mua hợp lý.
12 | H à N i 2 0 / 5 / 2 0 2 1
Áp dụng cơ chế một giá mua trên cơ sở thoả thuận giữa Nhà nước và nông
dân. Thông qua hợp đồng kinh tế, Nhà nước nắm hầu hết lương thực hàng hoá và
đại bộ phận nông sản hàng hoá quan trọng.
Tính đủ các yếu tố chi phí và xác định đúng giá thành sản phẩm công
nghiệp:
Xác định đúng tỷ giá kết toán nội bộ nhằm bảo đảm kinh doanh xuất -
nhập khẩu bình thường có lãi; có chính sách đúng đắn về thu bù chênh lệch ngoại
thương và thực hiện thuế xuất - nhập khẩu.
Tỷ giá hối đoái do Nhà nước trung ương định, từng thời kỳ có điều chỉnh
cho phù hợp; các ngành, các cấp không được tự tiện thay đổi.
(vật tư và hàng tiêu dùng) trên Điều chỉnh giá bán buôn hàng công nghiệp
cơ sở giá thành tính đủ chi phí, có lãi thoả đáng cho người sản xuất và thể hiện
chính sách kinh tế của Nhà nước, bảo đảm tính chung có tích luỹ cho Nhà nước.
: được xác định trên cơ sở giá trị hàng hoá, có tính đến quan hệ Giá bán lẻ
cung - cầu, tiền - hàng, và phải thể hiện chính sách kinh tế - xã hội của Đảng và
Nhà nước. Việc thực hiện chính sách và cơ chế giá bán lẻ đòi hỏi tính toán, cân đối
quỹ hàng hoá xã hội và khối lượng tiền lưu thông trên từng địa phương và khu vực;
đẩy mạnh cải tạo và quản lý chặt chẽ thị trường tự do, nghiêm trị đầu cơ, buôn lậu;
bảo đảm tiền lương thực tế cho công nhân, viên chức và lực lượng vũ trang.
- Chủ trương, chính sách về lương: Chính sách tiền lương phải quán triệt
nguyên tắc phân phối theo lao động, xoá bỏ bao cấp, từng bước khắc phục tính
chất bình quân, chênh lệch bất hợp lý; phải nhằm ổn định và từng bước cải thiện
đời sống của công nhân, viên chức và các lực lượng vũ trang; phải khôi phục lại
trật tự về tiền lương, tiền thưởng trong phạm vi cả nước.
Bãi bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá bù lỗ, chuyển sang chế độ trả
lương bằng tiền; xác định lại hệ thống lương cơ bản thống nhất cả nước.
Tiền lương phải bảo đảm tái sản xuất sức lao động. Mức lương tối thiểu phải
bảo đảm cung cấp cho người lao động ít nhất 2.000 calo/ngày với mức chi về ăn
chiếm khoảng 70% tiền lương.
13 | H à N i 2 0 / 5 / 2 0 2 1
Bãi bỏ chế độ tem phiếu. Riêng về gạo, ở những nơi Nhà nước chưa đủ lực
lượng hàng hoá để bán lẻ bình thường cho mọi nhu cầu thì tạm thời còn cấp sổ
hoặc phiếu mua hàng cho công nhân, viên chức.
. Sắp xếp lại các mức lương, thang lương, phụ cấp, tiền thưởng
Bố trí mức lương tối đa bằng 3,5 lần mức lương tối thiểu. Sắp xếp lại các
thang lương, bậc lương phù hợp với trình độ, trách nhiệm và cống hiến của các loại
công nhân, viên chức; sắp xếp hệ thống phụ cấp khu vực căn cứ vào điều kiện khí
hậu và mức độ xa xôi hẻo lánh, đi lại khó khăn, điều kiện sinh hoạt vật chất và văn
hoá thiếu thốn; sắp xếp các khoản phụ cấp và tiền thưởng từ quỹ lương, làm cho
lương cơ bản trong khu vực sản xuất kinh doanh chiếm khoảng 70% thu nhập về
tiền lương.
: Để bảo đảm tiền lương thực tế cho công nhân, viên chức, Phụ cấp đắt đỏ
cần xem xét tình hình giá cả từng quý để định phụ cấp đắt đỏ. Phụ cấp đắt đỏ được
hạch toán vào quỹ lương và vào giá thành sản phẩm.
: Tính lại trợ cấp hưu trí căn cứ vào mức Điều chỉnh chế độ trợ cấp xã hội
lương cũ chuyển đổi sang mức lương mới. Bãi bỏ chế độ cung cấp hiện vật cho
người ăn theo. Đối với công nhân, viên chức có nhiều người phải nuôi dưỡng mà
gặp khó khăn, thì dùng quỹ trợ cấp xã hội để trợ cấp bằng tiền.
- Chủ trương, chính sách về tài chính, tiền tệ: Cùng với việc điều chỉnh giá
và lương, cần cải tiến công tác tài chính và lưu thông tiền tệ.
Nắm chắc và huy động mạnh mẽ các nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Cải
tiến chế độ thu quốc doanh và các loại thuế. Thực hiện tiết kiệm chi một cách
nghiêm ngặt.
Thực hiện chế độ tự chủ tài chính của xí nghiệp, phát huy đầy đủ chức năng
đòn bẩy kinh tế, kích thích và đòi hỏi các đơn vị kinh tế phát triển sản xuất, mở
rộng kinh doanh xã hội chủ nghĩa, cải tiến kỹ thuật, làm ăn có hiệu quả. Chuyển
đại bộ phận vốn đầu tư và toàn bộ vốn lưu động của xí nghiệp sang hình thức tín
dụng.
Điều chỉnh mối quan hệ giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa
phương, thực hiện chế độ phân cấp ngân sách trên cơ sở ba cấp cùng làm chủ, bảo
14 | H à N i 2 0 / 5 / 2 0 2 1
đảm sự nhất trí giữa ba lợi ích; tạo điều kiện cho địa phương chủ động hơn nữa
trong việc khai thác các tiềm năng để phát triển kinh tế địa phương.
Áp dụng các biện pháp có hiệu lực để cải tiến lưu thông tiền tệ, thu hút tiền
nhàn rỗi, đẩy nhanh nhịp độ quay vòng đồng tiền. Chuyển mạnh hoạt động của
ngân hàng sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Tăng cường sự kiểm soát bằng đồng tiền và kỷ luật về tài chính và tiền mặt.
Sửa đổi chế độ chi tiêu phù hợp với cơ chế mới; trên cơ sở đó, nghiêm cấm mọi sự
chi tiêu sai chế độ; chống lãng phí; nghiêm trị mọi hành vi tham ô, lập quỹ đen.
=> Điểm quan trọng là Hội nghị này đã thừa nhận sản xuất hàng hoá và những
quy luật sản xuất hàng hoá trong nền kinh tế quốc dân.
Hội nghị Bộ Chính trị khóa V (8-1986) đưa ra “Kết luận đối với một số
vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế”. Đây là bước đột phá thứ ba về đổi mới kinh
tế, đồng thời cũng là bước quyết định cho sự ra đời của đường lối đổi mới của
Đảng
Trong quá trình tổ chức sản xuất thực hiện theo các chủ trương của Hội nghị
Trung ương 8 đã mắc một số sai lầm dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội trầm
trọng. Do đó, Nhà nước ta đã tiến hành họp Hội nghị Bộ Chính trị khóa 6 tháng
8/1986. Đây là bước đột phá thứ ba về đổi mới kinh tế và cũng là bước quyết định
cho sự ra đời đường lối đổi mới của Đảng.
Nội dung của Hội nghị:
* Về cơ cấu sản xuất:
- Hội nghị chỉ ra nguyên nhân dẫn đến nền kinh tế trong 5 năm trở lại luôn bị trì
trệ, năng suất thấp, chi phí sản xuất cao là do những chủ trương quá lớn về quy mô,
quá cao về nhịp độ xây dựnng cơ bản và phát triển sản xuất. Đây cũng là nguyên
nhân dẫn 13 đến sự chậm trễ trong việc giải quyết vấn đề lương thực, hàng tiêu
dùng thiết yếu và tạo nguồn hàng xuất khẩu.
- Giải pháp:
15 | H à N i 2 0 / 5 / 2 0 2 1
Cần tiến hành một cuộc điều chỉnh cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư theo
hướng đặt nông nghiệp lên hàng đầu, tập trung phát triển công nghiệp nhẹ, việc
phát triển công nghiệp nặng phải có lựa chon cả về quy mô và nhịp độ, chú trọng
quy mô vừa và nhỏ, phát huy hiệu quả nhanh nhằm phục vụ đắc lực yêu cầu phát
triển nông nghiệp, công nghiệp nhẹ và xuất khẩu.
Cần tập trung lực lượng, trước hết là vốn và vật tư, thực hiện cho được ba
chương trình quan trọng nhất về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu
và hàng xuất khẩu.
* Về cải tạo xã hội chủ nghĩa:
- Hội nghị cho rằng trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội, do chưa nắm
vững quy luật đẩy mạnh cải tạo xã hội nên phạm nhiều khuyết điểm trong cải tạo
xã hội.
- Giải pháp:
Phải biết lựa chọn bước đi và hình thức thích hợp đối với quy mô cả nước
cũng như từng vùng, từng lĩnh vực, phải đi qua nhưng bước trung gian, quá độ từ
thấp đến cao, từ quy mô nhỏ đến trung bình rồi tiến lên quy mô lớn;
Phải nhận thức đúng đắn về đặc trưng của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần để phát triển lực lượng sản xuất, tận
dụng các tiềm năng, tạo thêm việc làm cho người lao động, sử dụng đúng đắn các
thành phần kinh tế;
Cải tạo xã hội chủ nghĩa không chỉ là sự thay đổi chế độ sở hữu mà còn
thay đổi chế độ quản lý, chế độ phân phối...
* Về cơ chế quản lý kinh tế:
16 | H à N i 2 0 / 5 / 2 0 2 1
- Hội nghị cho rằng bố trí lại cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là
hai mặt ăn khớp với nhau để tạo ra động lực mới thúc đẩy sản xuất phát triển
- Giải pháp: Đổi mới kế hoạch hóa theo nguyên tắc phát huy vai trò chủ đạo của
các quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời sử dụng đúng đắn các quy luật của
quan hệ hàng hoá-tiền tệ; làm cho các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ trong sản
xuất, kinh doanh; phân biệt chức năng quản lý hành chính của Nhà nước với chức
năng quản lý sản xuất, kinh doanh của các đơn vị kinh tế; phân công, phân cấp bảo
đảm các quyền tập trung thống nhất của Trung ương trong những khâu then chốt,
quyền chủ động của địa phương trên địa bàn lãnh thổ, quyền tự chủ sản xuất kinh
doanh của cơ sở.
=> Nhận xét: Những kết luận trên là kết quả tổng hợp của cả quá trình tìm
tòi, thử nghiệm, đấu tranh giữa quan điểm mới và quan điểm cũ, đặc biệt trên lĩnh
vực kinh tế. Kết luận của Bộ Chính trị có ý nghĩa to lớn trong việc định hướng
soạn thảo lại một cách căn bản Dự thảo Báo cáo chính trị trình Ðại hội VI của
Ðảng.
Nhìn một cách khái quát, những đổi mới tư duy kinh tế trên đây là những
nhận thức về sự cần thiết phải giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất, sự cần thiết
phải tạo ra động lực thiết thực cho người lao động - đó là quan tâm đến lợi ích kinh
tế, lợi ích vật chất thiết thân của người lao động,... Những tư duy đổi mới về kinh
tế đó tuy mới mang tính chất từng mặt, từng bộ phận, chưa cơ bản và toàn diện,
nhưng lại là những bước chuẩn bị quan trọng, tạo tiền đề cho bước phát triển nhảy
vọt ở Đại hội VI.
Tổng kết 10 năm 1975-1986, nước ta đạt được 3 thành tựu nổi bật: Thực
hiện thắng lợi chủ trương thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước, đạt được những
17 | H à N i 2 0 / 5 / 2 0 2 1
thành tựu quan trọng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội; giành thắng lợi to lớn trong
sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế.
Tuy nhiên, sai lầm, khuyết điểm nổi bật là không hoàn thành các mực tiêu
do Đại hội IV và Đại hội V đề ra. Đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội
kéo dài; sản xuất tăng chậm và không ổn định, nền kinh tế luôn trong tình trạng
thiếu hụt, không có tích lũy; lạm phát tăng cao và kéo dài. “Tuy có hình thức khoán
nhưng cơ chế tập trung quan liêu vẫn tồn tại trong hợp tác xã. Mức khoán cao,
80% sản phẩm làm ra chúng tôi phải nộp cho hợp tác xã. Chỗ còn lại dùng để đóng
đủ loại thuế nên cuối cùng xã viên được hưởng chẳng là bao. Động lực lao động
dần bị triệt tiêu”
Nguyên nhân khách quan dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội do xây
dựng đất nước từ nền kinh tế nghèo nàn, lại hậu, sản xuất nhỏ là bị bao vây, cấm
vận nhiều năm; hậu quả nặng nề của 30 năm chiến tranh chưa kịp hàn gắn thì chiến
tranh biên giới ở hai đầu đất nước làm nảy sinh những khó khăn mới.
Về chủ quan là do những sai lầm của Đảng trong quá trình đánh giá tình
hình, xác định mục tiêu, bước đi, sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế; sai lầm trong
cải tạo xã hội chủ nghĩa, trong lĩnh vực phân phối, lưu thông; duy trì quá lâu cơ
chế tập trung, quan liêu, bao cấp; buông lỏng chuyên chính vô sản trong quản lý
kinh tế, quản lý xã hội và trong đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn của địch.
PHẦN KẾT LUẬN
18 | H à N i 2 0 / 5 / 2 0 2 1
Tóm lại, từ những bài học của cách mạng Việt Nam trong mấy chục năm qua,
nhất là những kinh nghiệm thu được trong những năm đổi mới, chúng ta có cơ sở
khoa học để tin tưởng rằng: Với chủ nghĩa yêu nước, truyền thống quý báu của dân
tộc ta, với tinh thần chủ động sáng tạo, ý chí tự lực tự cường của nhân dân ta, lại có
sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng cách mạng kiên cường, với sự giúp đỡ và hợp tác
của bạn bè quốc tế, nhân dân ta có đủ khả năng xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội trên đất nước ta, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì
hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội…
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
19 | H à N i 2 0 / 5 / 2 0 2 1
- Theo Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 25/2020
- Khái niệm ‘’ Thời bao cấp ‘’ – wiki
- Chương 3 – Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
- Đổi mới bắt đầu từ đâu? – Báo Nhân Dân – Hà Đăng
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa V) về giá
- lương - tiền
20 | H à N i 2 0 / 5 / 2 0 2 1
| 1/20

Preview text:

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN ----- ----- TIỂU LUẬN MÔN: LỊCH SỬ ĐẢNG
Đề tài: Các bước đột phá trong quá trình tìm tòi, đổi mới về kinh
tế của Đảng trong những năm 1975-1986
Sinh viên : Nguyễn Thu Hiền MSSV : 2055270071 Mã lớp : QLKT - A2 K40
Khoa : Kinh tế chính trị
1 | H à N ộ i 2 0 / 5 / 2 0 2 1 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu. 3. Phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: Khái quát kinh tế Việt Nam trước 1975
- Thời kỳ từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến năm 1954
- Thời kỳ từ năm 1955 đến năm 1975
CHƯƠNG 2: Các bước đột phá trong quá trình tìm tòi, đổi mới về kinh tế của
Đảng trong những năm 1975-1986
1. Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (8/1979)
2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng và các bước đột phá tiếp tục đổi mới kinh tế
a. Ðại hội toàn quốc lần thứ V của Ðảng (3-1982)
b. Các bước đột phá tiếp tục đổi mới kinh tế PHẦN KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
2 | H à N ộ i 2 0 / 5 / 2 0 2 1 PHẦN MỞ ĐẨU 1. Lý do chọn đề tài
Với đại thắng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, ngày 30 tháng 4 năm 1975 Miền
Nam được hoàn toàn giải phóng, lịch sử Việt Nam chính thức bước vào kỉ nguyễn
mới- Kỷ nguyễn của độc lập, thống nhất và Chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
Trong 10 năm đầu sau khi đất nước được thống nhất, song song với nhiện vụ hàng
đầu là hàn gắn những vết thương chiến tranh thì nhiệm vụ cải tạo, xây dựng và
phát triển kinh tế cũng đặt ra những yếu tố cấp bách.
Với tinh thần ‘’ cách mạng tiến công không ngừng ‘’ của những năm kháng
chiến, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã tiến công vào ‘’ mặt trận kinh tế ‘’
với khí thế hết sức sôi nổi.
Vận dụng mô hình và kinh nghiệm trong cải tạo, phát triển ở Miền Bắc trong
20 năm trước, Đảng và nhà nước ta đã chủ trương thực hiện mô hình kinh tế kế
hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp trên phạm vi cả nước, đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hóa hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa theo hướng ưu tiên phát tiển công
nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ
nhằm đưa nước ta tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội.
Với tinh thần ấy, sau 10 năm thực hiện ( 1975-1986), nền kinh tế nước ta đã
đạt được những thành tự quan trọng đồng thời cũng có nhiều khó khăn thách thức
to lớn. Đến cuối những năm 70 và đầu những năm 80 của thế kỉ trước nước ta rơi
vào cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội. Thực tiễn đó đã cho chúng ta thấy ‘’ mặt
trận kinh tế ‘’ cũng gay go và không kém phần quyết liệt so với chiến tranh giải
phóng. Chỉ với 10 năm phát triển kinh tế xã hội nhưng đã để lại cho chúng ta rất
nhiều bài học sâu sắc và đắt giá. Đó chính là cơ sở thực tiễn quan trọng để Đảng ta
quyết định phải đổi mới toàn diện mà trước hết là đổi mới về kinh tế.
3 | H à N ộ i 2 0 / 5 / 2 0 2 1
Với ý nghĩa đó, việc phân tích làm rõ sự phát triển kinh tế nước ta thời kì
1975-1986, chỉ thực trạng, nguyên nhân và những bài học kinh nghiệm có í nghĩa
to lớn cả về lý luận và thực tiễn. 2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu về quá trình, tìm tỏi của Đảng trong các hội nghị trong những năm
1975-1986 để nền kinh tế lạc hậu của Việt Nam đi lên. 3. Phạm vi nghiên cứu
Bài tiểu luận chỉ tìm hiểu hoạt động của Đảng trong giai đoạn 1975-1986
4. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận được nghiên cứu dựa trên hai phương pháp chính: nghiên cứu lịch
sử kết hợp với việc so sánh đối chiếu. PHẦN NỘI DUNG
4 | H à N ộ i 2 0 / 5 / 2 0 2 1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT NỀN KINH TẾ VIỆT NAM TRƯỚC 1975
- Thời kỳ từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến năm 1954 : Đẩy mạnh
sản xuất, xây dựng và phát triển kinh tế kháng chiến Đặc trưng của nền kinh tế Việt
Nam thời kỳ này là nền kinh tế nông thôn, quy mô kinh tế rất thấp, tiềm lực yếu
kém. Trong đo, kinh tế nông thôn và sản xuất nông nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng.
- Thời kỳ từ năm 1955 đến năm 1975: Khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến
tranh, thực hiện các chỉ tiêu trong Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm lần
thứ nhất Trong thời kỳ này, Chính phủ đã phê duyệt Kế hoạch phát triển kinh tế –
xã hội 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) nhằm phấn đấu xây dựng bước đầu cơ sở
vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hoá xã
hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của các ngành kinh tế quốc dân,
trước hết là các ngành công nghiệp và nông nghiệp. Sản xuất công nghiệp từng
bước được khôi phục và phát triển với đường lối công nghiệp hóa, nhiều cơ sở sản
xuất công nghiệp được phục hồi và xây dựng. Thương nghiệp quốc doanh được
nhà nước quan tâm và có sự phát triển nhanh chóng, làm nhiệm vụ hậu cần cho sản xuất và chiến đấu.
=> Kết luận: Nền kinh tế Việt Nam trước năm 1975 vẫn còn non trẻ, mới bước
đầu thoát khỏi nền kinh tế nông thôn nghèo nàn, lạc hậu. Kinh tế cho thấy những
dấu hiệu khởi sắc nhất định, đảm bảo phần lớn cho đời sống nhân dân và làm hậu
phương kháng chiến cho đất nước ta đi đến ngày toàn thắng, thống nhất hai miền
Nam - Bắc. Giai đoạn 1976-1986, nước ta ở trong thời bao cấp. Thời bao cấp là tên
gọi được sử dụng tại Việt Nam để chỉ một giai đoạn mà hầu hết sinh hoạt kinh tế
đều được Nhà nước bao cấp, diễn ra dưới nền kinh tế kế hoạch hóa, một đặc điểm
của nền kinh tế theo chủ nghĩa cộng sản. Theo đó thì kinh tế tư nhân dần bị xóa bỏ,
nhường chỗ cho kinh tế do nhà nước chỉ huy. Trong nền kinh tế kế hoạch, thương
nghiệp tư nhân bị loại bỏ, hàng hóa được phân phối theo chế độ tem phiếu do nhà
nước nắm toàn quyền điều hành, hạn chế đến thủ tiêu việc mua bán trên thị trường
hoặc vận chuyển tự do hàng hoá từ địa phương này sang địa phương khác. Nhà
nước có độc quyền phân phối hàng hóa, hạn chế trao 3 đổi bằng tiền mặt. Chế độ
hộ khẩu được thiết lập trong thời kỳ này để phân phối lương thực, thực phẩm theo
đầu người, tiêu biểu nhất là sổ gạo ấn định số lượng và mặt hàng được phép mua.
5 | H à N ộ i 2 0 / 5 / 2 0 2 1
CHƯƠNG 2: CÁC BƯỚC ĐỘT PHÁ TRONG QUÁ TRÌNH TÌM TÒI,
ĐỔI MỚI VỀ KINH TẾ CỦA ĐẢNG TRONG NHỮNG NĂM 1975-1986
6 | H à N ộ i 2 0 / 5 / 2 0 2 1
Trong giai đoạn những năm 1975-1986, có 3 bước đột phá lớn trong quá trình
tìm tòi, đổi mới về kinh tế của Đảng, được thể hiện trong các Hội nghị:
- Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (8/1979)
- Hội nghị Trung ương 8 khóa V (6/1985)
- Hội nghị Bộ Chính trị khóa V (8/1986)
1. Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (8/1979) a. Hoàn cảnh:
Trong giai đoạn này, sau những nỗ lực phát triển kinh tế theo đường lối công
nghiệp hoá trên, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng chậm, thậm chí vào cuối thời kỳ
kế hoạch 5 năm lần thứ II những năm 1979-1980, sản xuất công nghiệp lâm vào trì
trệ, suy thoái. Nền kinh tế nước ta vốn đã thấp kém, thiên tai dồn dập, dự trữ
nguyên liệu đang bị cạn kiệt, viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa giảm sút,
chiến tranh hai đầu biên giới xảy ra, đế quốc Mỹ và các thế lực chống đối Việt
Nam bao vây, cấm vận kinh tế, đã làm cho cuộc khung hoảng kinh tế - xã hội bắt đầu xuất hiện.
Trong bối cảnh đó, tháng 8 – 1979, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành
Trung ương Đảng đã được triệu tập, nhằm đánh giá về thực trạng đất nước, tập
trung bàn về phương hướng phát triển hàng tiêu dùng và công nghiệp địa phương
nhằm khắc phục tình trạng khan hiếm nghiêm trọng các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu. Đại hội IV b. Nội dung:
Hội nghị Trung ương 6 (8-1979) được coi là bước đột phá đầu tiên đổi mới
kinh tế của Đảng với chủ trương khắc phục những khuyết điểm, sai lầm trong quản
lý kinh tế, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, phá bỏ những rào cản để cho “sản xuất bung ra”.
- Hội nghị đã tập trung vào những biện pháp nhằm khắc phục những yếu kém
trong quản lý kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa; điều chỉnh những chủ trương,
chính sách kinh tế, phá bỏ rào cản, mở đường cho sản xuất phát triển: ổn định
nghĩa vụ lương thực trong 5 năm, phần dôi ra được bán cho Nhà nước hoặc lưu
7 | H à N ộ i 2 0 / 5 / 2 0 2 1
thông tự do; khuyến khích mọi người tận dụng ao hồ, ruộng đất hoang hoá; đẩy
mạnh chăn nuôi gia súc dưới mọi hình thức (quốc doanh, tập thể, gia đình); sửa lại
thuế lương thực, giá lương thực để khuyến khích sản xuất; sửa lại chế độ phân phối
trong nội bộ hợp tác xã nông nghiệp, bỏ lối phân phối theo định suất, định lượng
để khuyến khích tính tích cực của người lao động,...
Theo đó, Hội đồng Chính phủ ra quyết định (10/1979) về việc tận dụng đất
đai nông nghiệp để khai hoang, phục hóa được miễn thuế, trả thù lao và được sử
dụng toàn bộ sản phẩm; quyết định xóa bỏ những trạm kiểm soát để người sản xuất
có quyền tự do đưa sản phẩm ra trao đổi ngoài thị trường.
=> Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 đã nhanh chóng được nhân dân cả nước đón
nhận và biến thành hành động cụ thể trong thực tiễn kinh tế. Chỉ một thời gian
ngắn, trong cả nước đã xuất hiện rất nhiều điển hình về cách làm ăn mới.
- Trước hiện tượng “khoán chui” trong hợp tác xã nông nghiệp ở một số địa
phương, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị 100-CT/TW (năm 1981) về khoán sản
phẩm đến nhóm và người lao động trong các hợp tác xã nông nghiệp. Theo chỉ thị,
mỗi xã viên nhận mức khoán theo diện tích và tự mình làm các khâu, cấy, chăm
sóc và thu hoạch, còn những khâu khác do hợp tác xã đảm nhiệm. Thu hoạch vượt
mức khoán sẽ được hưởng và tự do mua bán. => Tác động:
Chủ trương đó được nông dân cả nước ủng hộ, nhanh chóng thành phong trào
quần chúng sâu rộng. Chỉ thị đó làm cho người lao động thực sự gắn bó với sản
phẩm cuối cùng, do đó đem hết nhiệt tình lao động và khả năng ra sản xuất, bước
đầu tạo ra một động lực mới trong sản xuất nông nghiệp.
Sản lượng lương thực bình quân từ 13,4 triệu tấn/năm thời kỳ 1976-1980 tăng
lên 17 triệu tấn/năm thời kỳ 1981-1985. Những hiện tượng tiêu cực, lãng phí trong
sản xuất nông nghiệp giảm đi đáng kể.
- Trong lĩnh vực công nghiệp, trước các hiện tượng “xé rào” bù giá vào lương
ở TP Hồ Chí Minh và tỉnh Long An, Chính phủ ban hành Quyết định số 25-CP
(1/1981) về quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh và Quyết định
số 26-CP vềviệc mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng
hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh doanh của Nhà nước.
8 | H à N ộ i 2 0 / 5 / 2 0 2 1
=> Tác động: Bước đầu tạo ra động lực mới, góp phần thúc đẩy sản xuất công
nghiệp đạt kế hoạch, riêng công nghiệp địa phương vượt kế hoạch 7,5%. Đến năm
1985, toàn ngành công nghiệp đã sản xuất được 105 tỷ đồng, tăng trên 61,3% so
với năm 1976 và 57,4% so với năm 1980. Trong thời kỳ 1981-1985, tốc độ tăng
bình quân hàng năm đạt 9,5%.
“Từ năm 1979 đã có một số mũi đột phá táo bạo trong kinh tế, mà thời đó
thường gọi là “phá rào”. Kết quả của những cuộc “phá rào” đó đã dội vào tư duy
kinh tế của nhiều nhà lãnh đạo, làm cho họ từng bước nhận thấy cần và có thể chọn
một hướng đi khác trước... Tiêu biểu là những trường hợp sau: Khoán ở Hải Phòng
năm 1980; khoán ở Xí nghiệp Đánh cá Côn Đảo, Vũng Tàu; khoán ở Công ty Xe
khách miền Đông Nam Bộ; thu mua lương thực ở Công ty Kinh doanh Lương thực
TP Hồ Chí Minh; phá giá thu mua lúa ở An Giang; áp dụng cơ chế giá thị trường ở
Long An...”.(Cố GS lịch sử kinh tế ĐẶNG PHONG) c. Nhận xét:
Có thể nhìn thấy những tư duy đột phá về kinh tế được thể hiện trong
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa khóa IV và trong các quyết định của Chính phủ thời kỳ này.
- Đó là những tư duy kinh tế ban đầu, tuy còn sơ khai, cơ bản và chưa
toàn diện nhưng là bước mở đầu có ý nghĩa quan trọng.
- Tư duy nổi bật trong những tìm tòi đó là “cởi trói”, “giải phóng lực
lượng sản xuất”, “làm cho sản xuất bung ra”, trên cơ sở khắc phục những khuyết
điểm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, tạo ra động lực cho sản
xuất. Những tư duy kinh tế ban đầu đó đã đặt những cơ sở đầu tiên cho quá trình đổi mới sau này.
- Tuy nhiên, do những khó khăn bởi chiến tranh biên giới phía Bắc và
Tây Nam gây ra, do thiếu đồng bộ của tư tưởng đổi mới và chưa có đủ thời gian để
những chủ trương đổi mới phát huy tác dụng, những tìm tòi đổi mới ban đầu đó đã
phải trải qua các thử thách rất phức tạp. Tư duy cũ về kinh tế hiện vật còn ăn sâu,
bám rễ trong nhiều người.
Bên cạnh những tư duy cũ trên đây, trước đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống,
cũng đã xuất hiện khuynh hướng muốn đổi mới mạnh mẽ hơn, tiếp tục đẩy tới tư
9 | H à N ộ i 2 0 / 5 / 2 0 2 1
duy thừa nhận sản xuất hàng hoá và những quy luật của sản xuất hàng hoá trong chủ nghĩa xã hội.
2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng và các bước đột phá tiếp tục đổi mới kinh tế
a. Ðại hội toàn quốc lần thứ V của Ðảng (3-1982)
Ðại hội toàn quốc lần thứ V của Ðảng (3-1982) đã có những bước phát triển
nhân thức mới, tìm tòi đổi mới trong bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trước hết là về mặt kinh tế.
Đại hội đã phát triển thêm một bước, đánh giá một cách khách quan thành
tựu và hạn chế trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, đã chỉ ra nguyên nhân chủ quan
gây nên sự sa sút của nền kinh tế là những khuyết điểm, sai lầm về lãnh đạo và
quản lý. Ðể góp phần khắc phục tư tưởng nóng vội, Ðại hội đưa ra khái niệm về
"chặng đường trước mắt" của thời kỳ quá độ và xác định trong chặng đường này,
nội dung chính của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là "coi nông nghiệp là mặt
trận hàng đầu, kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp
nặng trong một cơ cấu hợp lý". Ðại hội cũng khẳng định sự tồn tại 5 thành phần
kinh tế trong một thời gian nhất định ở miền Nam.
Tuy nhiên, sau đó, Hội nghị Trung ương 5 khóa V (12-1983) lại cho rằng sự
chậm chạp trong cải tạo xã hội chủ nghĩa là một trong những nguyên nhân của tình
trạng khó khăn về kinh tế, xã hội. Từ đó, chủ trương để ổn định tình hình, phải đẩy
mạnh hơn nữa sự cải tạo xã hội chủ nghĩa; Nhà nước phải nắm hàng, nắm tiền, xóa
bỏ thị trường tự do về lương thực và các nông hải sản quan trọng, thống nhất quản lý giá,...
b. Các bước đột phá tiếp tục đổi mới kinh tế
Sau Đại hội V, Trung ương Đảng có nhiều Hội nghị cụ thể hóa, thực hiện
Nghị quyết Đại hội: Hội nghị Trung ương 6 (7/1984), Hội nghị Trung ương 7
(12/1984) và nổi bật nhất là Hội nghị Trung ương 8 khóa V (6-1985).
Hội nghị Trung ương 8 khóa V (6-1985) là bước đột phá thứ hai trong quá
trình tìm tòi, đổi mới kinh tế của Đảng. * Hoàn cảnh:
10 | H à N ộ i 2 0 / 5 / 2 0 2 1
Từ sau Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá IV
(tháng 9-1979), Đảng và Nhà nước đã đề ra một số chủ trương, chính sách về sản
xuất và phân phối lưu thông; một số ngành, địa phương và cơ sở đã mạnh dạn áp
dụng những cách làm mới nhằm tháo gỡ vướng mắc, thúc đẩy sản xuất phát triển,
đẩy mạnh thu mua nắm hàng, cải thiện một bước nền tài chính quốc gia, giải quyết
một số vấn đề cấp bách về giá và lương. Tuy nhiên, các nghị quyết, chỉ thị của
Đảng và Nhà nước về vấn đề phân phối lưu thông còn có những mặt hạn chế rất cơ bản:
- Vẫn giải quyết các vấn đề giá, lương và các vấn đề kinh tế khác trên cơ sở tiếp
tục duy trì cơ chế quản lý tập trung quan liêu - bao cấp.
- Hệ thống giá thấp của Nhà nước đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng: Thu
nhập của khu vực kinh tế quốc doanh chỉ đủ trả lương công nhân, viên chức của
bản thân nó ở mức rất thấp; Máy móc, thiết bị, nhà xưởng ngày càng hao mòn, hư
hỏng; thu về khấu hao tài sản cố định không đủ chi cho sửa chữa; Việc cấp vật tư
với giá thấp, bù lỗ về hàng cung cấp cho công nhân để đổi lại việc giao nộp sản
phẩm theo giá thấp làm cho giá thành và giá tiêu thụ sản phẩm thấp xa so với giá
trị thực của nó; Xuất khẩu càng nhiều thì ngân sách phải bù lỗ càng lớn; Duy trì giá
mua và giá bán thấp mang tính chất bao cấp làm cho Nhà nước khó nắm hàng, nắm
tiền, đó là nguồn gốc gây ra nhiều hiện tượng tiêu cực, rối ren trong xã hội.
- Tiền lương của cán bộ, công nhân, viên chức không được điều chỉnh tương ứng
với mức tăng giá năm 1981-1982, và sau đó phụ cấp lương không tăng kịp thời và
thoả đáng, trong lúc giá Nhà nước có điều chỉnh (từ cuối 1984) và nhất là giá thị
trường biến động mạnh. Chế độ lương hiện vật gây ra nhiều lãng phí và tiêu cực, vi
phạm nghiêm trọng quyền làm chủ của người lao động đối với đồng lương và thu nhập của mình. * Nội dung:
Hội nghị chủ trương xóa quan liêu bao cấp trong giá và lương là yêu cầu hết
sức cấp bách, là khâu đột phá có tính quyết định để chuyển hẳn nền kinh tế sang
hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Nội dung xóa quan liêu, bao cấp trong giá và lương là tính đủ chi phí hợp lý
trong giá thành sản phẩm; giá cả bảo đảm bù đắp chi phí thực tế hợp lý, người sản
xuất có lợi nhuận thỏa đáng và Nhà nước từng bước có tích lũy; xóa bỏ tình trạng
11 | H à N ộ i 2 0 / 5 / 2 0 2 1
Nhà nước mua thấp, bán thấp và bù lỗ; thực hiện cơ chế một giá trong toàn bộ hệ
thông, khắc phục tình trạng thả nổi trong việc định giá và quản lý giá.
Thực hiện cơ chế một giá, xóa bỏ chế độ bao cấp bằng hiện vật theo giá thấp,
chuyển mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Giá, lương, tiền coi là khâu đột phá để chuyển đổi cơ chế. Thực hiện trả
lương bằng tiền có hàng hóa đảm bảo, xóa bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá
thấp, thoát ly giá trị hàng hóa. Xóa bỏ các khoản chi của ngân sách trung ương, địa
phương mang tính chất bao cấp tràn lan. Nhanh chóng chuyển thẳng công tác ngân
hàng sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa. - Về giá cả:
Việc điều chỉnh mặt bằng giá cả và cơ chế quản lý giá phải dựa trên các
nguyên tắc: Xác định giá phù hợp với giá trị và với sức mua thực tế của đồng tiền;
Định giá trên cơ sở lấy kế hoạch làm trung tâm, thực hiện hạch toán kinh tế và kinh
doanh xã hội chủ nghĩa, chủ động vận dụng quy luật giá trị và quan hệ cung - cầu;
Trong điều kiện nước ta đi từ một nền kinh tế mà tiểu sản xuất hàng hoá còn phổ
biến tiến thẳng lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, theo chủ trương của Đảng coi
nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, phải lấy giá thóc làm chuẩn để tính toán các loại
giá khác và toàn bộ mặt bằng giá; Quản lý giá cả phải có phân công, phân cấp hợp
lý theo nguyên tắc tập trung dân chủ, phù hợp với thực tế.
Giá mua lương thực và nông sản:
Giá mua lương thực và nông sản phải thể hiện và góp phần thực hiện
đường lối phát triển nông nghiệp nhằm hình thành cơ cấu công - nông nghiệp hợp
lý, thể hiện quan hệ công - nông cùng làm chủ, cả công nghiệp và nông nghiệp đều
phát triển và đóng góp đúng mức cho Nhà nước, đời sống công nhân, nông dân đều được cải thiện.
Xác định giá mua lương thực và nông sản trên cơ sở thoả thuận giữa Nhà
nước và nông dân, bảo đảm cho người sản xuất bù đắp đủ chi phí, có lãi hợp lý
nhằm khuyến khích nông dân hăng hái sản xuất.
Thực hiện Nhà nước thống nhất quản lý, độc quyền kinh doanh lương
thực và các nông sản chủ yếu, bằng chính sách giá và phương thức mua hợp lý.
12 | H à N ộ i 2 0 / 5 / 2 0 2 1
Áp dụng cơ chế một giá mua trên cơ sở thoả thuận giữa Nhà nước và nông
dân. Thông qua hợp đồng kinh tế, Nhà nước nắm hầu hết lương thực hàng hoá và
đại bộ phận nông sản hàng hoá quan trọng.
Tính đủ các yếu tố chi phí và xác định đúng giá thành sản phẩm công nghiệp:
Xác định đúng tỷ giá kết toán nội bộ nhằm bảo đảm kinh doanh xuất -
nhập khẩu bình thường có lãi; có chính sách đúng đắn về thu bù chênh lệch ngoại
thương và thực hiện thuế xuất - nhập khẩu.
Tỷ giá hối đoái do Nhà nước trung ương định, từng thời kỳ có điều chỉnh
cho phù hợp; các ngành, các cấp không được tự tiện thay đổi.
Điều chỉnh giá bán buôn hàng công nghiệp (vật tư và hàng tiêu dùng) trên
cơ sở giá thành tính đủ chi phí, có lãi thoả đáng cho người sản xuất và thể hiện
chính sách kinh tế của Nhà nước, bảo đảm tính chung có tích luỹ cho Nhà nước.
: được xác định trên cơ sở giá trị hàng hoá, có tính đến quan hệ Giá bán lẻ
cung - cầu, tiền - hàng, và phải thể hiện chính sách kinh tế - xã hội của Đảng và
Nhà nước. Việc thực hiện chính sách và cơ chế giá bán lẻ đòi hỏi tính toán, cân đối
quỹ hàng hoá xã hội và khối lượng tiền lưu thông trên từng địa phương và khu vực;
đẩy mạnh cải tạo và quản lý chặt chẽ thị trường tự do, nghiêm trị đầu cơ, buôn lậu;
bảo đảm tiền lương thực tế cho công nhân, viên chức và lực lượng vũ trang.
- Chủ trương, chính sách về lương: Chính sách tiền lương phải quán triệt
nguyên tắc phân phối theo lao động, xoá bỏ bao cấp, từng bước khắc phục tính
chất bình quân, chênh lệch bất hợp lý; phải nhằm ổn định và từng bước cải thiện
đời sống của công nhân, viên chức và các lực lượng vũ trang; phải khôi phục lại
trật tự về tiền lương, tiền thưởng trong phạm vi cả nước.
Bãi bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá bù lỗ, chuyển sang chế độ trả
lương bằng tiền; xác định lại hệ thống lương cơ bản thống nhất cả nước.
Tiền lương phải bảo đảm tái sản xuất sức lao động. Mức lương tối thiểu phải
bảo đảm cung cấp cho người lao động ít nhất 2.000 calo/ngày với mức chi về ăn
chiếm khoảng 70% tiền lương.
13 | H à N ộ i 2 0 / 5 / 2 0 2 1
Bãi bỏ chế độ tem phiếu. Riêng về gạo, ở những nơi Nhà nước chưa đủ lực
lượng hàng hoá để bán lẻ bình thường cho mọi nhu cầu thì tạm thời còn cấp sổ
hoặc phiếu mua hàng cho công nhân, viên chức.
Sắp xếp lại các mức lương, thang lương, phụ cấp, tiền thưởng.
Bố trí mức lương tối đa bằng 3,5 lần mức lương tối thiểu. Sắp xếp lại các
thang lương, bậc lương phù hợp với trình độ, trách nhiệm và cống hiến của các loại
công nhân, viên chức; sắp xếp hệ thống phụ cấp khu vực căn cứ vào điều kiện khí
hậu và mức độ xa xôi hẻo lánh, đi lại khó khăn, điều kiện sinh hoạt vật chất và văn
hoá thiếu thốn; sắp xếp các khoản phụ cấp và tiền thưởng từ quỹ lương, làm cho
lương cơ bản trong khu vực sản xuất kinh doanh chiếm khoảng 70% thu nhập về tiền lương.
Phụ cấp đắt đỏ: Để bảo đảm tiền lương thực tế cho công nhân, viên chức,
cần xem xét tình hình giá cả từng quý để định phụ cấp đắt đỏ. Phụ cấp đắt đỏ được
hạch toán vào quỹ lương và vào giá thành sản phẩm.
Điều chỉnh chế độ trợ cấp xã hội: Tính lại trợ cấp hưu trí căn cứ vào mức
lương cũ chuyển đổi sang mức lương mới. Bãi bỏ chế độ cung cấp hiện vật cho
người ăn theo. Đối với công nhân, viên chức có nhiều người phải nuôi dưỡng mà
gặp khó khăn, thì dùng quỹ trợ cấp xã hội để trợ cấp bằng tiền.
- Chủ trương, chính sách về tài chính, tiền tệ: Cùng với việc điều chỉnh giá
và lương, cần cải tiến công tác tài chính và lưu thông tiền tệ.
Nắm chắc và huy động mạnh mẽ các nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Cải
tiến chế độ thu quốc doanh và các loại thuế. Thực hiện tiết kiệm chi một cách nghiêm ngặt.
Thực hiện chế độ tự chủ tài chính của xí nghiệp, phát huy đầy đủ chức năng
đòn bẩy kinh tế, kích thích và đòi hỏi các đơn vị kinh tế phát triển sản xuất, mở
rộng kinh doanh xã hội chủ nghĩa, cải tiến kỹ thuật, làm ăn có hiệu quả. Chuyển
đại bộ phận vốn đầu tư và toàn bộ vốn lưu động của xí nghiệp sang hình thức tín dụng.
Điều chỉnh mối quan hệ giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa
phương, thực hiện chế độ phân cấp ngân sách trên cơ sở ba cấp cùng làm chủ, bảo
14 | H à N ộ i 2 0 / 5 / 2 0 2 1
đảm sự nhất trí giữa ba lợi ích; tạo điều kiện cho địa phương chủ động hơn nữa
trong việc khai thác các tiềm năng để phát triển kinh tế địa phương.
Áp dụng các biện pháp có hiệu lực để cải tiến lưu thông tiền tệ, thu hút tiền
nhàn rỗi, đẩy nhanh nhịp độ quay vòng đồng tiền. Chuyển mạnh hoạt động của
ngân hàng sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Tăng cường sự kiểm soát bằng đồng tiền và kỷ luật về tài chính và tiền mặt.
Sửa đổi chế độ chi tiêu phù hợp với cơ chế mới; trên cơ sở đó, nghiêm cấm mọi sự
chi tiêu sai chế độ; chống lãng phí; nghiêm trị mọi hành vi tham ô, lập quỹ đen.
=> Điểm quan trọng là Hội nghị này đã thừa nhận sản xuất hàng hoá và những
quy luật sản xuất hàng hoá trong nền kinh tế quốc dân.
Hội nghị Bộ Chính trị khóa V (8-1986) đưa ra “Kết luận đối với một số
vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế”. Đây là bước đột phá thứ ba về đổi mới kinh
tế, đồng thời cũng là bước quyết định cho sự ra đời của đường lối đổi mới của Đảng
Trong quá trình tổ chức sản xuất thực hiện theo các chủ trương của Hội nghị
Trung ương 8 đã mắc một số sai lầm dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội trầm
trọng. Do đó, Nhà nước ta đã tiến hành họp Hội nghị Bộ Chính trị khóa 6 tháng
8/1986. Đây là bước đột phá thứ ba về đổi mới kinh tế và cũng là bước quyết định
cho sự ra đời đường lối đổi mới của Đảng.
Nội dung của Hội nghị:
* Về cơ cấu sản xuất:
- Hội nghị chỉ ra nguyên nhân dẫn đến nền kinh tế trong 5 năm trở lại luôn bị trì
trệ, năng suất thấp, chi phí sản xuất cao là do những chủ trương quá lớn về quy mô,
quá cao về nhịp độ xây dựnng cơ bản và phát triển sản xuất. Đây cũng là nguyên
nhân dẫn 13 đến sự chậm trễ trong việc giải quyết vấn đề lương thực, hàng tiêu
dùng thiết yếu và tạo nguồn hàng xuất khẩu. - Giải pháp:
15 | H à N ộ i 2 0 / 5 / 2 0 2 1
Cần tiến hành một cuộc điều chỉnh cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư theo
hướng đặt nông nghiệp lên hàng đầu, tập trung phát triển công nghiệp nhẹ, việc
phát triển công nghiệp nặng phải có lựa chon cả về quy mô và nhịp độ, chú trọng
quy mô vừa và nhỏ, phát huy hiệu quả nhanh nhằm phục vụ đắc lực yêu cầu phát
triển nông nghiệp, công nghiệp nhẹ và xuất khẩu.
Cần tập trung lực lượng, trước hết là vốn và vật tư, thực hiện cho được ba
chương trình quan trọng nhất về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu và hàng xuất khẩu.
* Về cải tạo xã hội chủ nghĩa:
- Hội nghị cho rằng trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội, do chưa nắm
vững quy luật đẩy mạnh cải tạo xã hội nên phạm nhiều khuyết điểm trong cải tạo xã hội. - Giải pháp:
Phải biết lựa chọn bước đi và hình thức thích hợp đối với quy mô cả nước
cũng như từng vùng, từng lĩnh vực, phải đi qua nhưng bước trung gian, quá độ từ
thấp đến cao, từ quy mô nhỏ đến trung bình rồi tiến lên quy mô lớn;
Phải nhận thức đúng đắn về đặc trưng của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần để phát triển lực lượng sản xuất, tận
dụng các tiềm năng, tạo thêm việc làm cho người lao động, sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế;
Cải tạo xã hội chủ nghĩa không chỉ là sự thay đổi chế độ sở hữu mà còn
thay đổi chế độ quản lý, chế độ phân phối...
* Về cơ chế quản lý kinh tế:
16 | H à N ộ i 2 0 / 5 / 2 0 2 1
- Hội nghị cho rằng bố trí lại cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là
hai mặt ăn khớp với nhau để tạo ra động lực mới thúc đẩy sản xuất phát triển
- Giải pháp: Đổi mới kế hoạch hóa theo nguyên tắc phát huy vai trò chủ đạo của
các quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời sử dụng đúng đắn các quy luật của
quan hệ hàng hoá-tiền tệ; làm cho các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ trong sản
xuất, kinh doanh; phân biệt chức năng quản lý hành chính của Nhà nước với chức
năng quản lý sản xuất, kinh doanh của các đơn vị kinh tế; phân công, phân cấp bảo
đảm các quyền tập trung thống nhất của Trung ương trong những khâu then chốt,
quyền chủ động của địa phương trên địa bàn lãnh thổ, quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của cơ sở.
=> Nhận xét: Những kết luận trên là kết quả tổng hợp của cả quá trình tìm
tòi, thử nghiệm, đấu tranh giữa quan điểm mới và quan điểm cũ, đặc biệt trên lĩnh
vực kinh tế. Kết luận của Bộ Chính trị có ý nghĩa to lớn trong việc định hướng
soạn thảo lại một cách căn bản Dự thảo Báo cáo chính trị trình Ðại hội VI của Ðảng.
Nhìn một cách khái quát, những đổi mới tư duy kinh tế trên đây là những
nhận thức về sự cần thiết phải giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất, sự cần thiết
phải tạo ra động lực thiết thực cho người lao động - đó là quan tâm đến lợi ích kinh
tế, lợi ích vật chất thiết thân của người lao động,... Những tư duy đổi mới về kinh
tế đó tuy mới mang tính chất từng mặt, từng bộ phận, chưa cơ bản và toàn diện,
nhưng lại là những bước chuẩn bị quan trọng, tạo tiền đề cho bước phát triển nhảy vọt ở Đại hội VI.
Tổng kết 10 năm 1975-1986, nước ta đạt được 3 thành tựu nổi bật: Thực
hiện thắng lợi chủ trương thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước, đạt được những
17 | H à N ộ i 2 0 / 5 / 2 0 2 1
thành tựu quan trọng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội; giành thắng lợi to lớn trong
sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế.
Tuy nhiên, sai lầm, khuyết điểm nổi bật là không hoàn thành các mực tiêu
do Đại hội IV và Đại hội V đề ra. Đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội
kéo dài; sản xuất tăng chậm và không ổn định, nền kinh tế luôn trong tình trạng
thiếu hụt, không có tích lũy; lạm phát tăng cao và kéo dài. “Tuy có hình thức khoán
nhưng cơ chế tập trung quan liêu vẫn tồn tại trong hợp tác xã. Mức khoán cao,
80% sản phẩm làm ra chúng tôi phải nộp cho hợp tác xã. Chỗ còn lại dùng để đóng
đủ loại thuế nên cuối cùng xã viên được hưởng chẳng là bao. Động lực lao động dần bị triệt tiêu”
Nguyên nhân khách quan dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội do xây
dựng đất nước từ nền kinh tế nghèo nàn, lại hậu, sản xuất nhỏ là bị bao vây, cấm
vận nhiều năm; hậu quả nặng nề của 30 năm chiến tranh chưa kịp hàn gắn thì chiến
tranh biên giới ở hai đầu đất nước làm nảy sinh những khó khăn mới.
Về chủ quan là do những sai lầm của Đảng trong quá trình đánh giá tình
hình, xác định mục tiêu, bước đi, sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế; sai lầm trong
cải tạo xã hội chủ nghĩa, trong lĩnh vực phân phối, lưu thông; duy trì quá lâu cơ
chế tập trung, quan liêu, bao cấp; buông lỏng chuyên chính vô sản trong quản lý
kinh tế, quản lý xã hội và trong đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn của địch. PHẦN KẾT LUẬN
18 | H à N ộ i 2 0 / 5 / 2 0 2 1
Tóm lại, từ những bài học của cách mạng Việt Nam trong mấy chục năm qua,
nhất là những kinh nghiệm thu được trong những năm đổi mới, chúng ta có cơ sở
khoa học để tin tưởng rằng: Với chủ nghĩa yêu nước, truyền thống quý báu của dân
tộc ta, với tinh thần chủ động sáng tạo, ý chí tự lực tự cường của nhân dân ta, lại có
sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng cách mạng kiên cường, với sự giúp đỡ và hợp tác
của bạn bè quốc tế, nhân dân ta có đủ khả năng xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội trên đất nước ta, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì
hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội…
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
19 | H à N ộ i 2 0 / 5 / 2 0 2 1
- Theo Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 25/2020
- Khái niệm ‘’ Thời bao cấp ‘’ – wiki
- Chương 3 – Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
- Đổi mới bắt đầu từ đâu? – Báo Nhân Dân – Hà Đăng
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa V) về giá - lương - tiền
20 | H à N ộ i 2 0 / 5 / 2 0 2 1