












Preview text:
CÁC CUỘC PHÁT KIẾN ĐỊA LÝ LỚN
NGUỒN TÀI LIỆU THAM KHÃO:
2 Lê Phụng Hoàng(2000) ,Lịch sử văn minh thế giới, nxb giáo dục
3 PGS.TS.Hoàng thị Minh Hoa, TS. Đinh Thị Lan (2004),Lịch sử văn minh thế giới,
Đại hoc sư phạm Huế.
4 Vũ Dương Ninh chủ biên ( chủ biên), lịch sử văn minh thế giới , nxb giáo dục
5 Ngyễn Gia Phu, Nguyễn Văn Ánh, Đỗ Dình Hãng, Trần Văn La , Lịch sử thế giới
trung đại, nxb giáo dục
I. Bối cảnh lịch sử thế giới vào thời gian hậu kỳ trung đại
- Chế độ phong kiến lâm vào tình trạng khủng hoảng suy vong và quan hệ tư bản nảy
sinh từ tầng lớp thị dân trung đại. Ðây cũng là thời kỳ bắt đầu những cuộc cách mạng
về tư tưởng và văn hóa sâu sắc (Đấu tranh giữa hai ý thức hệ tôn giáo phản động và ý
thức hệ tư sản tiến bộ), biểu hiện qua các phong trào cải cách tôn giáo, văn hóa phục
hưng. Trong giai đoạn này, do tác động của những điều kiện kinh tế - xã hội và tư
tưởng mới, phong trào của nông dân và thị dân nổ ra rất mạnh mẽ, biến thành cuộc
chiến tranh nông dân thực sự, mang tính chất hoàn toàn mới là thủ tiêu chế độ phong
kiến và vương quyền. Tất cả những điều đó đã làm cho giai đọan các thế kỷ XVI - XVII
được mở đầu bằng các cuộc phát kiến lớn về địa lý. Bởi vì phát kiến địa lý mở đường
cho sự ra đời của CNTB và mở đầu cho sự ra đời của chủ nghĩa thực dân cận đại. Qui
luật những quan hệ sản xuất tất yếu phải phù hợp với tính chất của lực lượng sản xuất
đã biểu hiện rất rõ ràng và đẩy nhanh sự tan rã của chế độ phong kiến.
- Phát kiến là tìm ra những gì còn xa lạ chưa biết tới để phục vụ cho nhu cầu khám phá
khoa học, lợi ích kinh tê, tìm hiểu văn hóa, tôn giáo, hoạt động chính trị.
- Phát kiến địa lý là tìm ra những vùng đất mới, chưa từng có con người đặt chân đến
hay xa lạ chưa được biết tới, để phục vụ cho nhu cầu khám phá thế giới, mở rộng thị
trường, giao lưu quốc tế, trao đổi văn hóa giữa những nền văn minh phương Đông và
phương Tây. Và từ đó, người ta cũng bổ sung, hoàn chỉnh vào bản đồ địa lý thế giới.
I . Nguyên nhân và điều kiện dẫn đến các cuộc phát kiến địa lí
1. Nguyên nhân:
- Từ thế kỉ XIII, với những phát minh đột phá trong các lĩnh vực như : xa quay sợi tự
động , các loại máy chuyển động bằng sức nước sức gió , chế tạo các loại vũ khí như
pháo , súng tay.. phát triển mạnh mẽ khoa học kĩ thuật -> phát triển của lực lượng sản
suất . Cuộc phát kiến địa lí nổ ra do mâu thuẫn về kinh tế xã hội nảy sinh trong quá
trình phát triển của sức sản xuất trong hoàn cảnh lịch sử của Tây Âu bước vào thời kì
quá độ từ CNPK sang CNTB. Cụ thể là do nhu cầu về hương liệu , vàng bạc, thị trường
, hàng hóa … ngày một tăng cao.
- Từ cuối thế kỉ XV, con đường buôn bán trực tiếp sang phương Đông của người Châu
Âu gặp nhiều trắc trở hầu như không thể khắc phục được. Do đó hàng hóa trở nên
khan hiếm và có giá cả đắt đỏ. Có 2 con đường chủ yếu để người Châu Âu giao
thương với phương Đông nhưng đều bị chặn: Con đường qua Địa Trung Hải: Người Ả
Rập hầu như đã kiểm soát hết con đường này, dựng lên hàng rào bất khả xâm phạm
giữa Châu Âu và Ấn Độ. Con đường xuyên qua đại lục Châu Á đến Trung Quốc cũng bị
mất tác dụng do người Thổ Nhĩ Kì chiếm con đường qua Hắc Hải , cướp đoạt những
thương nhân một cách vô lí . Con đường buôn bán với phương Đông trở nên tuyệt
vọng dẫn đến tình trạng cấp thiết tìm đường biển mới sang phương Đông.
- Nguyên nhân khác là do lòng tham vàng của quý tộc và thương nhân Châu Âu.
Phương Đông đối với họ, đặc biệt là Ấn Độ và Trung Quốc là xứ sở giàu hương liệu,
gia vị, tơ lụa và đặc biệt là vàng - điều mà họ rất cần để phát triển kinh tế
- Động lực: Việc thám hiểm được coi là những khoản thu nhập quan trọng nhất và
được xem là một trong những nhiệm vụ trong chính sách của nhà nước chuyên chế,
trong việc củng cố sự vững mạnh của nhà nước chuyên chế.
2. Điều kiện
- Về khoa học kĩ thuật có sự phát triển tiến bộ, đạt được rất nhiều thành tựu . Đây chính
là tiền đề cho các cuộc phát kiến địa lí . Đặc biệt là kĩ thuật hàng hải, kĩ thuật đóng tàu
có bước tiến mới, đã đóng được những con tàu dài và đẹp, thích hợp với sóng gió đại
dương hơn, có bánh lái và hệ thống buồm lớn. Loại tàu này được gọi là Caraven - tàu
vượt đại dương đầu tiên trong lịch sử. Người Châu Âu bấy giờ đã biết tới địa bàn nam
châm - được dùng để đi biển khi không có mặt trời hay trăng sao.
- Về kiến thức địa lí: Quan niệm đúng đắn về hình dạng trái đất: hình tròn, có những
hiểu biết về đại dương. Vẽ được nhiều bản đồ, hải đồ ghi rõ các vùng đất, các hòn đảo
có cư dân. Máy đo góc thiên văn và la bàn được sử dụng.
- Về kinh tế (điều kiện tiên quyết): Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất cũng
như chủ nghĩa chuyên chế Tây Âu đã tạo ra điều kiện vật chất quan trọng, nguồn của
cải to lớn trong việc thực hiện cuộc thám hiểm. Bởi vì tiêu hao về vật chất của những
cuộc thám hiểm trên biển là rất lớn , vượt quá xa khả năng kinh tế của chúa phong kiến
bình thường cũng như các công tước và bá tước.
- Ngoài ra còn có các điều kiện về tinh thần: luôn khao khát mãnh liệt tìm hiểu và hoàn
thiện bản đồ thế giới, được giao thương trên toàn thế giới
Họ lên đường bất chấp
nguy hiểm với niềm hi vọng tìm thấy “mảnh đất có vàng “.
I I. Các cuộc phát kiến lớn về địa lý
1.Phát kiến của người Bồ Đào Nha
- 1415 Henri thành lập trường hàng hải tại Sagres, miền nam Portugal. Tụ tập chung
quanh mình 1 số học giả và những người đi biển. Thành lập các toán chuyên về hàng
hải, thiên văn, địa lý. Vẽ bản đồ mới. Xây cất 1 đài thiên văn để giúp các nhà thủy thủ
lái tàu bằng cách xác định vị trí nhờ các vì sao.
- Dưới thời Henri, người Bồ Đào Nha đã tiến hành một vài phát hiện địa lý nhỏ. 1419,
phát hiện quần đảo Madora. 1432, phát hiện quần đảo Axo. 1434, đi qua Poatooc.
Nhưng năm 70 của thế kỉ XV, tìm ra Ghine
- Sau Henri, Bồ Đào Nha còn tiến hành nhiều cuộc thám hiểm nữa: 1471, tới vùng xích
đạo. 1472, đến Cap Vert. 1472, tới Ghine. 1484, đến cửa sông Côngo. 8/1484,
Bartolomeu Dias thám hiểm xuống vùng biển nam châu Phi
- Từ 1416, mỗi năm ông đều cho đoàn thám hiểm tìm hiểu đại dương, xuất phát từ
Sagres đi về hướng Nam. Nhưng mỗi năm, đoàn mới chỉ đi xa hơn đoàn trước một ít
rồi lại trở về. Mất 82 năm (1416-1498) mới sang được đến Ấn Độ. Trong đó có 2 cuộc
thám hiểm lớn là của B.Dias (1450-1500) và Vasco da Gama (1496-1524)
1.1Các chuyến đi của Bartolomeu Dias1 (1450-1500)
- 10/10/1486, vua John II của Bồ Đào Nha bổ nhiệm Bartolomeu Dias vào 1 đoàn thám
hiểm với hi vọng tìm ra 1 tuyến đường thương mại sang Ấn Độ.
- 1487, Dias chuẩn bị rời Lisbon với 2 caravels vũ trang, mỗi caravels 50 tấn, 6 người
châu Phi đã từng đi thám hiểm trước đó. Dias cho 6 người châu Phi ăn uống tử tế -> rải
họ ở 1 số nơi dọc bờ biển cùng vàng, bạc, gia vị ,…, dùng họ kiểu “ buôn bán câm” 2.
Sau đó, các con tàu của Dias gặp phải 1 cơn bão chuyển thành 1 cuồng phong dữ dội.
Hạ buồm chạy trước gió bắc 13 ngày -> bị gió đưa đi xa ra ngoài khơi rồi xuống phía
Nam của biển cả. Nóng của xích đạo + hoảng loạn + lạnh của biển cả => họ chỉ nằm
chờ chết. Bão qua, căng buồm quay về phía Đông, vẫn không thấy đất đâu cả -> quay
lên phía Bắc 150 hải lý, Dias bất ngờ thấy dãy núi cao
- 3/2/1488, bỏ neo ở vịnh Mossel, cơn bão đưa Dias vòng qua mũi cực nam của châu
Phi. Đoàn thám hiểm lên bờ, bị dân bản xứ đuổi. Dias dùng cung bắn chết 1 người bản
xứ khiến họ phải bỏ đi. Đi theo bờ biển, 300 dặm nữa đến cửa Great Fish River và vào
vịnh Algoa. Dias muốn đi tiếp vào Ấn Độ Dương nhưng đoàn thủy thủ không muốn ->
Dias đồng ý quay về. Trên đường về, họ trở lại chiếc tàu lương thực mà họ đã để lại 9
tháng trước với 9 người trên đó. 3 người sống sót còn lại và 1 trong 3 người này đã
chết đột ngột ngay khi gặp lại đồng nghiệp vì quá vui và kiệt sức.
- 12/1488, sau 16 tháng 17 ngày lênh đênh trên biển, 2 chiếc tàu caravel tan nát, đoàn
thám hiểm trở về Bồ Đào Nha, Christopher Colombo đã có mặt ở đó để đợi
1.2. Các chuyến đi của Christopher Colombus (1451-1506)3
- 3/8/1492, Columbus bước lên tàu Santa Maria. Lên đường sang phía Tây với 3 chiếc
thuyền lớn cùng 90 thủy thủ rời cảng Panot đi về đảo Cana.
- 2h sáng 12/10, sau hơn 70 ngày lênh đênh, họ đã tìm thấy vùng đất mới và là những
người châu Âu đầu tiên đặt chân lên quần dảo Caribe, hòn đảo đó là đảo Walting,
thuộc Bahama của Salvador. (thổ dân ở đây gọi là Goanakhani)
- Sau đó tiếp tục ra khơi và dừng lại tại các hòn đảo mà ông đặt tên là Santa Marie de
la Conception, Fernandia và Isabel a… Ở phía nam đảo Goanakhani có 1 hòn đảo
tương đối lớn ông đặt tên là Phecdinan. Tại đây, lần đầu tiên thủy thủ Tây Ban Nha vào
thăm nhà cả thổ dân và lấy mẫu trái cây lạ mang về
- 28/10/1942, Colombus đến đảo rất lớn ở phía Nam đảo Ixabenla- hòn đảo cuối cùng
của quần đảo Baham. Đó là Cuba nhưng Columbus nhầm đây là đất đai thuộc phía ĐNA
1 Bactôlômêu Điaxơ (Bartolomeu Đias) - nhà thám hiểm Bồ Đào Nha đầu tiên đi vòng quanh bờ biển phía tây châu
Phi đến được mũi Hảo Vọng.
2 “buôn bán câm”: buốn bán không dùng tiếng nói, chỉ cho những người bản xứ biết người Bồ Đào Nha cần những loại hàng hóa nào,
3 Về ngày sinh của Lolumbus có nhiều tài liệu mâu thuẫn. Một số cho rằng ông sinh khoảng năm 1435-1437. Một số
khác lại cho rằng ông sinh vào khoảng những năm 1455-1456 hoặc có tài liệu ghi ông sinh năm 1451.
- Colombus đi xa hơn nữa về phía bắc dọc bờ biển Cuba. Ông tin đây là bờ biển nghèo nàn của Trung Quốc
- Tiếp tục thám hiểm về phía Đông và phát hiện ra hòn đảo Haiti, ở đây nhiều vàng hơn các hòn đảo khác
- 6/12/1492, đoàn tàu dừng lại tại bờ biển phía bắc của đảo Hispaniola
- 4/1/1493, Columbus quyết định cho tàu quay về cùng vàng bạc, nữ trang, thổ dân bị bắt cóc.
- 15/3/1493, tàu Nina và Pita cập cảng Palos, Christopher Columbus được vua và nữ
hoàng Tây Ban Nha đón tiếp tại triều đình Barcelona
- Sau này, Columbus còn tổ chức 3 cuộc thám hiểm nữa. 9/1493, Columbus ra đi lần
thứ 2, sau 21 ngày, tới phía bắc quần đảo Windward mà ông đặt tên là Dominica. Đi
theo đường vòng cung của các đảo Leeward tới tận Puerto Rico và đặt tên các đảo là
Santa Maria de Guadalupe, Santa Maria de Monserrate, Santa Cruz, Jamaica. Mùa
xuân 1946, đoàn tàu về Tây Ban Nha. 5/1498, Columbus lại rời TBN, đi về hướng nam,
tới đảo Trinidad, Orinoco, tiến hành khảo sát vịnh Paria, tới vùng bờ biển Nam Mỹ.
Mùa hè 1502, tới Honduras (ông tưởng là bán đảo Mã Lai). Để tranh đua với Vasco da
Gama của Bồ Đào Nha khi đó đã tìm ra Ấn Độ, Columbus cho tàu về phía nam và vỡ lẽ
không có eo biển đi sang Ấn Độ Dương. Ông chán nản vì thất bại, quay trở về Tây Ban Nha vào 7/10/1504.
2. Vasco da Gama (1460-1524) 2.1. Tiểu sử
- Vasco da Gama sinh khoảng năm 1460 hoặc 1469 tại Sines ở bờ biển phía Tây Nam
của Bồ Đào Nha. Người ta biết rất ít về cuộc đời Vasco da Gama khi còn nhỏ, có giả
thiết cho rằng ông học trong một thị trấn trên đất liền ở Évora, ở đó có lẽ ông đã học
Toán học và nghề hàng hải, người ta cũng biết rằng da Gama hiểu biết sâu về Thiên
văn học là nhờ được học từ nhà thiên văn nổi tiếng Abraham Zacuto.
-Năm 1492 vua João II của Bồ Đào Nha phái ông tới cảng Setúbal, phía Nam Lisbon,
và tới Algarve, tỉnh cực Nam của Bồ Đào Nha để chiếm lấy những con tàu Pháp nhằm
trả đũa việc cướp bóc tàu thuyền Bồ Đào Nha trong thời bình, Vasco da Gama đã hoàn
thành rất nhanh chóng và hiệu quả công việc được giao. Vasco da Gama là bá tước
thứ nhất của Vidigueira, là một nhà thám hiểm người Bồ Đào Nha, một trong những
nhà hàng hải châu Âu thành công nhất của Kỷ nguyên khám phá và là thuyền trưởng
hạm đội đầu tiên đi thẳng từ châu Âu đến Ấn Độ.
2.2 Chuyến du hành đầu tiên (1497 - 1499)
- Ngày 8 tháng 7 năm 1497 hạm đội 4 khoảng 160 thủy thủ đạt dưới sự chỉ huy của
Gama, lúc ấy mới 28 tuổi. Tàu của Vasco da Gama rời cảng Lisbon đi vào mũi hảo
vọng, 4 tàu bao gồm: Chiếc São Gabriel: do đích thân Vasco da Gama làm thuyền
trưởng, một chiếc carrack nặng 178 tấn, dài 27 mét, rộng 8,5 mét, buồm rộng 372 mét
vuông, 150 thủy thủ. Chiếc São Rafael: do Paulo da Gama anh trai của Vasco da Gama
làm thuyền trưởng; kích thước tương tự chiếc São Gabriel. Chiếc caravel Berrio: nhỏ
hơn một chút so với hai chiếc đầu, do Nicolau Coelho làm thuyền trưởng. Một chiếc tàu
dự trữ không rõ tên: do Gonçalo Nunes làm thuyền trưởng, sau đó mất tích gần vịnh
São Brás, dọc bờ biển phía Đông châu Phi. Có lẽ do lời khuyên của Dias, hải trình kỳ
này đã không theo sát bờ biển của miền tây châu Phi mà vòng ra xa để tránh các dòng
nước không thuận tiện và các bãi đất ngầm. Da Gama đã lợi dụng được luồng gió mùa
và sau ba tháng, vượt hơn 4,000 dặm, đoàn tàu đã tới được bờ biển châu Phi tại vịnh
St. Helena, phía bắc của Cape Town. Sau đó đoàn thám hiểm tiếp tục đi qua Cape
Agulhas, tới vịnh Mossel. Tại vịnh này, Da Gama cho đóng một cột ghi dấu rồi lại tiếp
tục dương buồm về hướng đông.
- Trên đường đi, Da Gama đã đặt tên cho các địa điểm như Natal với ý nghĩa là Ngày
Sinh của Chúa, hay dòng sông "Các Điềm Lành" (the River of Good Omens). Khi tới hải
cảng Mozambique, Da Gama đã gặp các thương nhân có hình dáng kỳ dị, các người Ả
Rập và thổ dân buôn bán trên bến cảng. Sau đó, đoàn thám hiểm tới Mombasa, một
hải cảng Ả Rập sầm uất rồi tới Malindi, nơi đã có một cộng đồng người Ấn Độ cư ngụ.
Một số người theo Thiên Chúa giáo tại nơi này đã khiến cho Da Gama tin rằng Vua
Giáo Sĩ Prester John ở không xa đó, sâu vào trong đất liền.
2.2.1 Vòng qua mũi Hảo Vọng
- Ngày 16 tháng 12 năm 1497, hạm đội vượt qua sông White (Nam Phi) nơi Dias đã
quay trở lại, họ tiếp tục đi vào một vùng nước người châu Âu chưa hề biết tới. Vì gần
đến Lễ Giáng sinh, họ đặt tên cho bờ biển này cái tên Natal. Những vùng đất do người
Người Ả rập kiểm soát nằm trên bờ biển phía Đông châu Phi là một phần của con
đường thương mại trên Ấn Độ Dương. Lo sợ những người địa phương có thể sẽ căm
ghét người theo đạo Thiên chúa giáo, da Gama đã giả làm một người Hồi giáo để tiếp
kiến Sultan của Mozambique. Chỉ mang theo những hàng hóa tầm thường, Vasco da
Gama đã không thể chuẩn bị được cống vật cần thiết và người dân địa phương bắt đầu
nhận ra trò lừa bịp của da Gama. Bị buộc phải rời khỏi Mozambique, da Gama rời khỏi
cảng và bắn đại bác vào thành phố để trả đũa. 2.2.2 Mombasa
- Khi tới gần địa phận nước Kenya ngày nay, đoàn thám hiểm phải dùng tới biện pháp
cướp bóc những tàu buôn Ả rập vốn ít khi được trang bị đại bác. Họ trở thành những
người châu Âu đầu tiên đặt chân đến cảng Mombasa nhưng lại gặp phải sự căm ghét
của dân địa phương và phải nhanh chóng rời bến. 2.2.3 Malindi
- Tháng 2 năm 1498, Vasco da Gama tiếp tục đi theo hướng Bắc, hạm đội của ông ghé
vào cảng Malindi, người dân ở đây có vẻ thân thiện hơn vì họ đang có xung đột với
Mombasa và ở đây lần đầu tiên đoàn thám hiểm ghi nhận được sự có mặt của những
nhà buôn Ấn Độ. Họ thuê một nhà hàng hải và vẽ bản đồ người Ả rập hiểu biết về gió
mùa, người này đã giúp hạm đội đi nốt phần đường còn lại đến Calicut (nay là
Kozhikode) ở bờ biển phía Tây Nam Ấn Độ. Vasco da Gama đặt chân đến Calicut ngày 20 tháng 5 năm 1498 2.2.4 Calicut, India
- Đoàn thám hiểm đến Calicut ngày 20 tháng 5 năm 1498. Đôi khi họ phải đụng độ dữ
dội với những nhà buôn người Ả rập để có thể thương lượng với nhà cầm quyền địa
phương. Cuối cùng thì da Gama cũng có thể kiếm được một lá thư nhượng quyền trao
đổi hàng hóa, nhưng ngay sau đó ông cùng hạm đội phải rời bến vì nhà cầm quyền cho
rằng hàng hóa trên tàu của da Gama là đồ phạm pháp. Vasco da Gama giữ được hàng
hóa của mình nhưng phải để lại vài người Bồ Đào Nha với mục đích mở một điểm giao dịch. 2.2.5 Trở về
- Ngày 30 tháng 9 năm 1498, Vasco da Gama quyết định cho đoàn tàu rời Calicut, và
bắt đầu nă đạn và đại bác váo thành phố này. Dọc đường trở về người Bồ Đào Nha
cướp sạch thuyền bè của người Ấn Độ giết sạch những người trên thuyền để trở về Bồ
Đào Nha. Hải trình qua Ấn Độ Dương kéo dài 89 ngày và nhiều thủy thủ đã mắc bệnh
hoại huyết. Vì không đủ người, Da Gama đành phải hủy bỏ con tàu Sao Raphael gần
Mombasa, rồi cuộc trở về đã không gặp khó khăn.Ngày 10-3 1499 họ về tới mũi Hảo
Vọng và cuối cùng ngày 18 tháng 9 năm 1499, đoàn tàu của Vasco da Gama đã về tới
bến cảng Lisbon sau hơn hai năm đi biển, vượt qua được 24,000 hải lý với 44 thủy thủ
sống sót trong số khoảng 160 người đã ra đi. Đoàn thám hiểm đã đem về một số lượng
hàng hóa như gia vị, tơ lụa, đá quý, ngà voi… trị giá gấp 60 lần tiền dùng cho cuộc viễn chinh.
- Paulo da Gama chết trên đường về ở vùng Azores còn Vasco da Gama đã quay lại
được Bồ Đào Nha vào tháng 9 năm 1499, ông được thưởng hậu hĩnh nhờ việc hoàn
thành tấm bản đồ mà những nhà thám hiểm Bồ đã phải vẽ trong 80 năm. da Gama
được phong "Đô đốc Ấn Độ Dương" và được quyền cai quản vùng Sines. Vua Manuel I
cũng ban tước Quý ngài vĩnh viễn cho da Gama, các anh chị em của ông và tất cả con
cháu. Ông trở thành bá tước của Vidigueira, người Bồ Đào Nha đầu tiên không mang
dòng máu hoàng tộc được phong chức này.
- Chuyến du hành của Vasco da Gama cho thấy rõ rằng bờ biển phía Đông của châu
Phi, vùng Contra Costa là cực kì quan trọng cho lợi ích sau này của Bồ Đào Nha, các
hải cảng ở vùng này cung cấp nước ngọt, lương thực dự trữ, bến tàu và xưởng mộc để
sửa chữa thuyền, và nơi trú chân khi thời tiết không thuận lợi. Ngoài ra, việc trao đổi
hương liệu cũng sẽ đóng góp chủ yếu cho kinh tế của Bồ Đào Nha. Thế là giấc mơ
phát hiện ra đường biển sang Ấn Độ như thần thoại, cuối cùng đã được thực hiện. Sau
đó người Bồ Đào Nha giữ độc quyền con đường biển này trong gấn 1 thế kỷ, đã tổ
chức nhiều cuộc hàng hải mới. Năm 1517 họ biết đến Trung Quốc ,năm 1542 họ biết đến Nhật Bản
2.3 Chuyến du hành thứ hai
- Ngày 12 tháng 2 năm 1502, một lần nữa da Gama cùng hạm đội tàu chiến 20 chiếc
khởi hành. Pedro Álvares Cabral đã được phái đến Ấn Độ hai năm trước đó và phát
hiện ra rằng những người Bồ được da Gama gửi lại đã bị giết chết, bản thân Cabral
cũng bị tấn công và ông ta phải bắn phá Calicut trước khi khởi hành tới Cochin, một
vương quốc nhỏ đã đón tiếp Cabral rất nồng hậu. Khi quay trở về vào tháng 9 năm 1503,
da Gama được trao thêm quyền quản lý cả Vidigueira và Vila dos Frades. 2.4 Chuyến du hành thứ ba
- Vasco da Gama được phái đến Ấn Độ lần thứ ba vào năm 1524 để giải quyết những
khó khăn của người Bồ Đào Nha ở đây. Ban đầu da Gama được chỉ định để thay thế
Eduardo de Menezes trong vai trò người đại diện của thuộc địa Bồ Đào Nha trên đất Ấn
Độ, nhưng ông đã mắc bệnh sốt rét không lâu sau khi đến Goa và chết ở Cochin vào đêm Giáng sinh năm 1524.
- Đầu tiên, da Gama được chôn ở nhà thờ St. Francis thuộc Kochi, sau đó hài cốt của
ông được chuyển về Bồ Đào Nha và cải táng trong một ngôi mộ lớn ở Vidigueira. Đường tới Ấn Độ 2.5 Thành quả
- Vasco da Gama là người đã khởi đầu "kỷ nguyên vàng" cho Bồ Đào Nha. Hải cảng
Vasco da Gama ở Goa được đặt theo tên của ông, tên ông cũng được đặt cho một
miệng núi lửa lớn trên Mặt Trăng. Có tới 3 câu lạc bộ bóng đá ở Brazil mang tên của
ông, câu lạc bộ Vasco Sports Club ở Goa cũng được lấy theo tên nhà hàng hải này. Da
Gama được xếp thứ 86 trong danh sách 100 nhân vật ảnh hưởng nhất của lịch sử.
Thành quả của Vasco da Gama trong chuyến đi vòng qua phía nam của châu Phi để tới
Ấn Độ đã khiến cho nhà hàng hải này được xếp hàng đầu trong các nhà thám hiểm của
mọi thời đại. Các khó khăn gặp phải và các may rủi đòi hỏi tới lòng cam đảm và tài
năng của một thuyền trưởng đã khiến cho Vasco da Gama được ca tụng tương đương với Christopher Columbus.
- Vasco da Gama đã mang lại cho người châu Âu các quan niệm mới về thế giới, một
nơi không còn bị giới hạn bởi bốn lục địa. Thế Giới từ nay đã được mở rộng cho nhiều
người khác thám hiểm và khai thác nước này trở thành một trong những đế quốc đầu tiên.
3. Cuộc hành trình của Fernand de Magel an 3.1 Tiểu sử
- Fernand de Magel an - nhà hàng hải nổi tiếng, thực hiện chuyến thám hiểm đầu tiên
vòng quanh trái đất (1519 - 1522). Ông đã tham gia nhiều chuyến đi biển men theo bờ
biển Tây Phi và Đông Phi. Ông luôn có hoài bão vượt trùng dương, đến những chân
trời xa lạ. Magel an sinh vào khoảng năm 1480 tại Sabrosa, gần Vila Real, tỉnh Trás-os-
Montes, miền bắc Bồ Đào Nha.Sau khi ba mẹ mất vào năm ông lên mười, ông trở
thành cậu bé giúp việc cho Hoàng hậu Leonor trong triều đình Hoàng gia Bồ Đào Nha
theo truyền thống của gia đình.
3.2. Hành trình của Magel an
- Sau phát kiến địa lí của Cô lôm bô, người Tây Ban Nha càng bị cơn khát vàng làm
cho kích động, họ tiếp tục lao vào cuộc tìm kiếm vùng đất mới. Một trong những người
chuẩn bị điều cho cuộc thám hiểm vòng quanh thế giới là Magienlăng và Boboan. Ông
là người Tây Ban Nha bỏ chốn sang châu Mỹ. Tháng 9-1513 Banboa tổ chức một cuộc
trường trinh nổi tiếng qua eo biển Panama với mục đích làm giàu. Cùng đi với ông có
200 người Tây Ban Nha và 1000 người thổ dân Anhđiêng. Đến ngày thứ 25 Boboan từ
một đỉnh núi cao đã thấy một biển nước mênh mông của thái Bình Dương. Ông là
người châu Âu đầu tiên có vinh dự nhìn thấy Thái Bình Dương mà khi đó gọi là Nam
Hải. Sau đó ông tổ chức một cuộc thám hiểm Thái Bình Dương để tìm ra nước Pêru
thần bí có rất nhiều vàng như truyền thuyết của người AnhĐiêng. Song bị nghi ngờ là
mưu phản, ông bị vương quốc Tây Ban Nha sử tử.
- Những phát hiện của Boboan có ảnh hưởng mạnh mẽ, trực tiếp đến cuộc thám hiểm
lừng danh của Magienlăng, cuộc hành trình vòng quanh thế giới (1519-1522).
Magienlăng là người thuộc quý tộc dòng dõi Bồ Đào Nha và được giáo dục khá nhiều.
Vào tháng 3, 1505, ở tuổi 25, Magel an gia nhập hạm đội gồm 22 tàu, đứng đầu là
Francisco de Almeida, Phó Vương đầu tiên của Ấn Độ thuộc Bồ Đào Nha. Mặc dù tên
của ông không được tìm thấy trong biên niên sử các cuộc chiến tranh ở Ấn Độ, những
điều còn lại người ta biết về ông là ông đã trải qua tám năm ở Goa, Cochin và Quilon.
Ông đã tham dự một vài trận đánh, bao gồm trận Cannanore năm 1506, nơi ông đã bị
thương. Năm 1509, ông dự trận đánh Diu và sau đó đi cùng thủy thủ đoàn của Diogo
Lopes de Sequeira với tư cách Sứ thần đầu tiên của Bồ Đào Nha đến Malacca. Trong
thủy thủ đoàn còn có bạn ông và có thể là người anh em họ Francisco Serrão. Tháng 9,
sau khi đến Malacca, chuyến đi trở thành thảm họa khi họ rơi vào một âm mưu tấn
công và phải rút lui. Trong dịp này Magel an đóng một vai trò then chốt giúp không cho
đoàn hải hành không bị tiêu diệt hoàn toàn, ông đã cảnh báo Sequeira và chiến đấu
dũng cảm cứu Francisco Serrão, người vốn đã lên bờ trước cuộc tấn công. Sau đó,
ông được chú ý tới và thăng chức.
- Trong các năm 1505-1512 ông tham gia các chuyến hải hành của Bồ Đào Nha đến Ấn
Độ Dương, 2 lần đến Malacca (Malaysia) trong các năm 1509 và 1511. Thiết lập dự án
bơi bằng con đường phía Tây đến quần đảo Molucca (nay thuộc Indonesia), nhưng ông
bị loại bởi vua Bồ Đào Nha, do chuyến hải hành của Vasco da Gama, một con đường
phía đông gần hơn đã được lập nên. Năm 1517, Magienlan đến thành phố Sêvila (Tây
Ban Nha) được hoàng đế Tây Ban Nha ưu ái giúp đỡ. Năm 1518, ông cưới con gái nhà
quý tộc quyền thế Tây Ban Nha. Hoàng đế Tây Ban Nha trích công quỹ chi phí cho
chuyến thám hiểm của Magienlan như mua sắm tàu bè, vũ khí, chiêu mộ thủy thủ. Và
vào ngày 20 tháng 9 năm 1519, 5 chiếc tàu với hải đoàn 265 người dưới sự lãnh đạo
của Magel an khởi hành từ cảng San Lucar de Barrameda đi tìm eo biển Tây Nam từ
Đại Tây Dương đến, đầu tiên đoàn thám hiểm đi ti7i Can sau đó gọ theo đường tây
Nam đi tới bờ biển Braxin. Cuối tháng 11 -1519 đoàn thám hiểm tới Nam Mĩ, trung tuần
tháng 1-1520 tới Laplata. Thời gian đi dọc bờ biển Đông Nam Mĩ xuất hiện một số khó
khăn, một mặt từ những khó khăn gian khổ thực sự của đoàn thám hiểm, một mặt ở
mâu thuẫn nội bộ, những hoài nghi về sự thành công của cuộc thám hiểm đã dẫn đến
nổi loạn của một số thuyền trưởng và thủy thủ. Magian lăng đã phải sử dụng biện pháp
khéo léo mới có thể trấn áp được cuộc nổi loạn. Để cuộc thám hiểm có thể tiếp tục. 8-
1520 đoàn thám hiểm tới sông Xantacuốc đến 18-10-1520 đi dọc về phía Nam biển
Patagôn. Ngày 21-10-1520 một eo biển bất ngờ được khám phá, eo biển này vừa dài
vừa hẹp ngăn cách đại lục và đảo về sau được gọi là eo biển Magienlăng.
- Đoàn tàu của Magel an gồm những tàu sau:
- Trinidad (tải trọng 110 tấn, 55 người) dưới sự điều khiển của Magalhães;
- San Antonio (120 tấn, 60 người) dưới sự điều khiển của Juan de Cartegena;
- Concepción (90 tấn, 45 người) dưới sự điều khiển của Gomez;
- Victoria (85 tấn, 42 người) dưới sự điều khiển của Gaspar de Quesada;
- Santiago (75 tấn, 32 người) dưới sự điều khiển của Luis de Mendoza.
- Tiếp theo, 28-10-1520 đoàn thám hiểm đi vào một đại dương trong cảnh bể lặng sóng
yên. Magienlan đặt tên là Thái Bình Dương. Thái Bình Dương rộng lớn hơn Đại Tây
Dương nhiều. họ đi về phía Bắc dọc theo bờ Tây Nam Mĩ rồi lại quay về phía tây để tới
quần đảo Môluých. Họ đi trong vòng 3 tháng 20 ngay sóng êm biển lặng. Các hủy thủ
đã dũng cảm chịu đói chịu rét, cuối cùng 16-3- 1520 đã tới quần đảo Philippin. Tại đây
ngày 27-4-1521 Magienlăng đã bị chết rên đảo trong một trận đụng độ với thổ dân. Sau
khi Ma gienlăng chết. En Canô tiếp tục chỉ huy con thuyền Victoria tiếp tục cuộc hành
trình tới đảo Môluých. Ngày 8-10-1521 họ tới đảo Tiđore một đảo lớn thuộc đảo Môluých.
Cuối tháng 1-1522được Hoa Tiêu Mã Lai dẫn đường, họ tới đảo Timo, đến ngày 13-2-
1522 rời đảo Timo về mũi Hảo Vọng. Trên đường di họ khổ dở vì đói và bệnh hoại
tử máu. Cuối cùng 6-9-1522 chỉ còn 1 thuyền và 18 người vô cùng mệt mỏi trở về Tây
Ban Nha, tuy nhiên đoàn cũng mang về nhiều vàng va hương liệu
- Chuyến hải hành trong khoảng thời gian 1519–1522 của Magel an đã đi vào lịch sử
như là chuyến đi đầu tiên bằng đường biển của con người từ Đại Tây Dương đến Thái
Bình Dương (cái tên có nghĩa "biển bình yên" này được đặt bởi Magel an; đồng thời nơi
nối giữa hai Đại dương được mang tên Eo biển Magel an), và là chuyến đi đầu tiên
băng qua Thái Bình Dương. Chuyến đi này cũng đánh dấu sự kiện con người lần đầu
tiên đi vòng quanh Trái Đất thành công, mặc dù chính bản thân Magel an cũng không
hoàn thành chuyến đi của ông do bị giết trong Trận chiến Mactan ở Philippines. Tuy
nhiên, do Magel an đã từng đi theo hướng đông đến Bán đảo Mã Lai trong một chuyến
hải hành trước đó, nên ông trở thành nhà thám hiểm đầu tiên đi qua tất cả đường kinh
tuyến của quả địa cầu. Cuộc thám hiểm cũng đã khẳng định là Trái Đất hình tròn.
Magel an cũng đặt tên mình cho Chim cánh cụt Magel an, vốn được ông là người châu
Âu đầu tiên ghi chép lại, và Đám mây Magel an.
IV. Ãnh hưởng của 4 cuộc phát kiến địa lý lên nền quan hệ quốc tế
1.Ãnh hưởng 1: Các cuộc phát kiến địa lý giúp cho con người hiểu thêm được nhiều
điều hơn về Trái Đất, khám phá ra những vùng đất mới, những dân tộc mới, văn hóa
mới, làm giàu thêm vốn hiểu biết của nhân loại về tự nhiên thế giới xung quanh. Các
nhà thám hiểm bằng những chuyến đi thực tế đầy dũng cảm của mình đã chứng minh
được giả thuyết: Trái Đất hình cầu
1.1Cuộc phát kiến của Đi-a-xơ
- Năm 1847, B.Đi-a-xơ là hiệp sĩ “hoàng gia” đã dẫn đầu cuộc thám hiểm đi vòng qua
cực nam của Châu Phi. Điểm đó được ông đặt tên là mũi Bão Tố, sau được gọi là mũi Hảo Vọng
1.2Phát hiện ra Châu Mĩ của Crixtop Colombo
Ngày 12/10/1492, đoàn thám hiểm của ông đến một trong những hòn đảo của quần
dảo Bahama, Colombo đặt tên là đảo San Sanvado, và còn qua nhiều hòn đảo khác và
được đặt tên như Xanhmaria, ixabenla. Tìm ra thổ dân da đỏ ở phía nam hòn đảo
Ixabenla với nơi ở, phong tục tập quán mới. Phát hiện ra đảo Haiti
1.3 Phát kiến địa lý của Va-xcô đơ Ga-ma
- Hoàn thành việc tìm đường biển thông qua Ấn Độ. Ngày 20/5/1498,cập bến Calicut
trên bờ biển Malaba của người Ấn Độ (trung tâm buôn bán lớn nhất giữa người Ấn Độ
và Ả Rập lúc bấy giờ)
1.4Cuộc hành trình vòng quanh thế giới của Magienlang
- Khám phá ra một eo biển, sau này được gọi là eo biển Magienlang, đặt tên cho Thái
Bình Dương. Phát kiến địa lý được coi như một cuộc cách mạng thực sự trong lĩnh vực
giao thông và tri thức: Lần đầu tiên, con người hình dung được hình ảnh chính xác về
hành tinh, về bề rộng và hình thái Trái Đất
Ãnh hưởng 2: Tăng cường giao lưu văn hóa giữa các châu lục.
- Trong các quá trình phát kiến địa lý của họ, đã tìm ra được những con đường mới,
những dân tộc mới, miền đất mới với các phong tục tập quán, văn hóa khác nhau. Và
những chuyến đi như vậy góp phần thúc đẩy con người tăng cường việc giao lưu về
văn hóa để hiểu rõ nhau hơn. Một nền văn hóa thế giới bắt đầu hình thành do việc xuất
bản và truyền bá các loại sách, các tập quán du hí và bản đồ địa lý giữa các châu lục.
Đó là sự tiêp xúc giữa nhiều nền văn hóa và văn minh khác nhau.
- Sau phát kiến địa lý, Châu âu đã tìm được nhiều đường sang phương Đông, Châu
Phi và Châu Mĩ, đặt cơ sở trao đổi hàng hóa trực tiếp với các khu vực này, đây là giao
lưu văn hóa theo con đường thương mại. VD: Con đường tơ lụa: không đơn thuần chỉ
là con đường huyết mạch thông thương buôn bán của những “thương nhân lạc đà” mà
còn là một hành trình văn hóa, tôn giáo đa dạng được hòa trộn, là cấu nối giữa hai nền văn minh Đông và Tây.
Ãnh hưởng 3: Nảy sinh quá trình cướp bóc thuộc địa và buôn bán nô lệ trên toàn thế
giới ( đặc biệt là Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha) 3.1 Bồ Đào Nha
- Đế quốc thực dân to lớn Bồ Đào Nha được thiết lập trải dài trên 8000km đường bờ biển,
rải rắc dọc bờ biển Châu phi, Ấn Độ sang đến đảo Môluých trên Thái Bình Dương.
Ngoài ra còn thêm một phần Nam Mỹ là Braxin được coi là thuộc địa của Bồ Đào Nha từ
năm 1500 sau phát kiến của Cabran. Tại những thuộc địa Châu Phi, người Bồ Đào Nha
lùng bắt những người da đen đem bán họ làm nô lệ cho cấc đồn điền trồng mía ở
Châu Mĩ, nhờ vậy mà họ đã thu được nhiều món lợi khổng lồ. Người bồ dùng chính sách
chia rẽ, mua chuộc các quốc vương địa phương để cướp đoạt hay bắt cống nạp hàng hóa để chở về nước 3.2 Tây Ban Nha
- Do sự tham làm về nguồn vàng, người Tây Ban Nha thực hiện âm mưu xâm lược
Mehico. Tháng 2/1519, Coóctếc- một người Tây ban Nha mang 11 chiến thuyền và 600
người đổ bộ vào Mehico. Nhân dân Mehico kiên quyết chống trả nhưng do trình độ văn
hóa và kĩ thuật thấp hơn, vũ khí kém hơn nên thổ dân Mehico đã gặp thất bại trong
công cuộc chiến đấu. Ít lâu sau, người Tây Ban Nha hoàn toàn chinh phục được lãnh
thổ Mehico. Năm 1531, người Tây Ban Nha lại chinh phục mảnh đất Pêru giàu có, lần
lượt sau đó, người Tây ban Nha chinh phục được Chile, lưu vực sông Laplata, lưu vực
thượng nguồn sông Amazon và chinh phục được nhiều vùng đất ở Châu Mĩ. Họ dùng
bạo lực để chiếm đoạt ruộng đất, mỏ vàng, mỏ bạc của thổ dân, thậm chí phá hủy đền
đài, cung điện để thu vàng bạc. Chúng cưỡng bức những người thổ dân và bắt họ phải
làm việc. Cho đến nửa sau thế kỉ XVI gần như toàn bộ thổ dân dưới sự cầm quyền của
thực dân Tây Ban Nha bị tiêu diệt, và để bù vào sự thiếu hụt lực lượng lao động đó,
người Tây Ban Nha đã cho mua số lượng lớn những nô lệ da đen châu Phi.
Ãnh hưởng 4: Sự ra đời của chủ nghĩa thực dân, gây nhiều đau khổ cho các nước thuộc địa
- Những phát kiến địa lý tuy đã làm cho nền kinh tế Châu Âu phát triển nhanh chóng,
nhưng cũng đã dẫn đến sự cướp đoạt với nhân dân Châu Mĩ, châu Phi, châu Á và sự
hình thành của chủ nghĩa thực dân. Người Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đã xây dựng
những đế quốc thục dân trước tiên. Sau đó, những nước Tây Âu khác cũng đua nhau
đi tìm đất mà trước hết là đến Bắc Mĩ và Trung mĩ, sau đó thì tỏa ra khắp Châu Phi,
Châu Á và Châu Mĩ. Tại các thuộc địa, bọn thực dân đã không từ một thủ đoạn tàn bạo
nào để khai thác và cướp bóc của cải, tài nguyên thiên nhiên cũng như đàn áp, giết hại nhân dân thuộc địa.
V.Ãnh hưởng của các cuộc phát kiến địa lí tác động tới nền kinh tế quốc tế
- Các nhà thám hiểm bằng những chuyến đi thực tế đầy dũng cảm của mình đã chứng
minh cho giả thuyết Trái đất hình cầu. Họ còn cung cấp cho các nhà khoa học rất nhiều
hiểu biết mới về địa lí, thiên văn, hàng hải, sinh vật học... Một làn sóng di chuyển dân
cư lớn trên thế giới với những dòng người Châu Âu di chuyển sang Châu Mĩ, Châu Úc.
Nhiều nô lệ da đen cũng bị cưỡng bức rời khỏi quê hương xứ sở sang Châu Mĩ . Hoạt
đông buôn bán trên thế giới trở nên sôi nổi, nhiều công ti buôn bán tầm cỡ quốc tế
được thành lập. Những cuộc phát kiến địa lí này cũng gây ra không ít hậu quả tiêu cực
như nạn cướp bóc thuộc địa, buôn bán nô lệ da đen và sau này là chế độ thực dân.
1.Thế giới phát triển, mở rộng:
- Mở rộng phạm vi buôn bán cho toàn thế giới, đặc biệt là Châu Âu tới các lãnh thổ,
châu lục khác. Châu Âu không còn phải buôn bán thông qua môi giới A Rập mà đã
bằng nhiều con đường khác, không chỉ còn là Địa Trung Hải mà có cả Đại Tây Dương,
Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương. Châu Âu cạnh tranh để thống trị toàn cầu Sự cạnh
tranh giữa người Bồ Đào Nha và người Tây Ban Nha đã thúc đẩy cả hai quốc gia thuộc
địa nhanh chóng và mạnh mẽ. Hoàng tử Henry the Navigator đã dẫn đầu chuyến khám
phá Châu Phi và Đại Tây Dương của Bồ Đào Nha trong những năm 1400. Các thủy thủ
Bồ Đào Nha đã điều hướng thành công một tuyến đường về phía đông đến Tây Phi,
nơi họ thiết lập một chỗ đứng giao thương. Sau đó, Bồ Đào Nha mở rộng đế chế của
mình xuống bờ biển phía tây của châu Phi đến Congo, dọc theo bờ biển phía tây của
Ấn Độ, và cuối cùng là Brazil và các đảo Đại Tây Dương. Mặc dù người Bồ Đào Nha
không cai trị một vùng đất rộng lớn, nhưng việc nắm giữ chiến lược các đảo và cảng
ven biển của họ đã cho họ quyền kiểm soát gần như vô song đối với các tuyến đường thương mại hàng hải.
⟹ Châu Âu không gặp phải những khó khăn, cản trở như lũng loạn hàng hóa,
chiếm đoạt tài sản, trả các mức giá vô lí, quá cao với các mặt hàng. Thay vào đó,
họ làm chủ và tự kiểm soát
- Góp phần thúc đẩy thương nghiệp phát triển và đem lại cho giai cấp tư sản châu Âu
những nguồn nguyên liệu quý giá, những kho vàng bạc, châu báu khổng lồ cùng những
vùng đất mênh mông ở châu Á, châu Phi và châu Mĩ. Bạc chuyển từ Châu Mỹ sang
Châu Âu, sau đó đến Trung Quốc; hàng Trung Quốc (lụa, sứ), gia vị Ấn Độ được
chuyển về Châu Âu. Xảy ra cuộc “cách mạng giá cả” do vàng chảy vào châu Âu quá
nhiều, đặc biệt là Tây Ban Nha do cướp bóc từ châu Mỹ, giá cả tăng từ 4 dến 5 lần; tại
Anh, Pháp, Đức giá cả tăng từ 2 đến 2,5 lần.
⟹ Thúc đẩy quá trình khủng hoảng, tan rã của quan hệ sản xuất phong kiến và
sự ra đời của quan hệ sản xuất tư bản ở châu Âu.
- Thay đổi trật tự trung tâm thương mại của Châu Âu: Trước kia: Italy là trung tâm mua
bán lớn nhất. Sau các cuộc phát kiến: các trung tâm thương nghiệp tại Italy sa sút dần,
các quốc gia như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Nedeclan,… nổi lên và phát triển hơn bao
giờ hết. Lao động sau đó cũng được tính bằng tiền, Thay vì tự tạo ra sản phẩm trực
tiếp cho bản thân như trước kia thì nhiều người đã đi thuê để lấy tiền. Điều này càng
chứng tỏ ra rằng việc buôn bán hoạt động vô cùng mạnh mẽ, đồng thời giá trị đồng tiền
cũng được khẳng định và đống vai trò lớn trong xã hội bấy giờ. Mỗi quốc gia ở châu Âu
đều có sở giao dịch dành cho thương nhân, tính chất thương nghiệp cũng thay đổi theo
phạm vi buôn bán quốc tế.
- Các cuộc khám phá những miền đất mới cuối cùng đã mở ra một chính sách kinh tế
gọi là chủ nghĩa trọng thương. Tức là những người châu Âu đã nghĩ rằng chất đống
của cải và sau đó phát triển xuất khẩu hơn nhập khẩu sẽ là yếu tố quan trọng để xây
dựng đất nước vững mạnh. Sau các cuộc phát kiến địa lí, Châu Âu đã xâm chiếm,
cướp bóc tài sản của nhiều châu lục khác như Bắc Mỹ, Trung Mỹ, Châu Á, Châu Mỹ,
Châu Phi. Các quốc gia tìmđến các thuộc địa của họ để lấy nguồn tài guyên, lấy
nguyên liệu thô và sau đó chế biến thành các sản phẩm hoàn chỉnh và bán ra thị
trường trong và ngoài nước. Mặt khác, để đảm bảo việc giao thương của mình thuận
lợi các nhà cai trị cũng nghiêm cấm các thuộc địa buôn bán với quốc gia khác
⟹ Mở đường cho sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa thực dân.
2. Buôn bán con người
- Các chuyến đi của các thương nhân Bồ Đào Nha đến Tây Phi làm quen với người Bồ
Đào Nha với hoạt động buôn bán nô lệ châu Phi, đã phổ biến ở Tây Phi và được tài trợ
bởi sản xuất đường trên các đảo Đại Tây Dương mới thuộc địa. Khi phát hiện ra thị
trường đường toàn cầu rộng lớn, người Bồ Đào Nha bắt đầu buôn bán những người nô
lệ qua Đại Tây Dương để làm việc trên các đồn điền đường. Lâu đài Elmina của người
Bồ Đào Nha, nằm ở Ghana ngày nay, trở thành nơi giam giữ những người châu Phi bị
bắt làm nô lệ từ bên trong lục địa hơn là một trạm buôn bán, khi thị trường lao động nô
lệ ở cả châu Âu và sau đó là Thế giới mới bùng nổ. Sự thực dân của Bồ Đào Nha vào
những năm 1400 đã mở đầu cho một kỷ nguyên bành trướng mạnh mẽ của châu Âu
qua Đại Tây Dương. Người Tây Ban Nha, bị đe dọa bởi sự độc quyền của Bồ Đào Nha
đối với những người châu Phi bị bắt làm nô lệ và sự bành trướng ở Đại Tây Dương, đã
bắt đầu dự án thuộc địa của riêng họ với Christopher Columbus vào năm 1492. Cuộc
cạnh tranh giữa hai quốc gia tiếp tục và ngày càng thu hút nhiều người châu Âu đến Tân Thế giới.
- Những người châu Phi bị làm nô lệ ở Tây Ấn. Thương mại tam giác — Châu Âu,
Châu Mỹ, Châu Phi trao đổi hàng hóa, nô lệ. Việc có thuộc địa cũng ảnh hưởng và
quyết định tới nền kinh tế của các quốc gia ở Châu Âu. Chính vì thế, điều nay gia tăng
sự bóc lột, tranh giành xâm chiếm các quốc gia khác. Nguồn lao động con người chính
là tài sản vô giá mà bất cứ các nước thực dân nào cũng muốn sở hữu từ các thuộc địa. VI. Kết luận
Có thể nói, những cuộc phát kiến địa lí đóng vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển
của lịch sử loài người, đánh dấu những cột mốc quan trọng của lịch sử văn minh thế giới.
Từ đây, bản đồ thế giới dần được mở rộng và hoàn thiện. Đồng thời mở ra những con
đường mới, những dân tộc mới, những tri thức mới. Tăng cường giao lưu văn hoá giữa
các châu lục, nhiều tộc người. Đây cũng là tiền đề cho sự phát triển kinh tế ở các quốc
gia trong thời kì này. Đặc biệt là sự phát triển giao thương kinh tế hàng hải. Từ đó,
các nước phương Tây nhanh chóng thúc đẩy sự tan rã của chế độ phong kiến, tạo
những bước đi đầu tiên cho chủ nghĩa tư bản ra đời. Tuy nhiên, bên cạnh đó, những
cuộc phát kiến địa lí cũng làm nảy sinh quá trình cướp bóc thuộc địa và buôn bán nô lệ.
Document Outline
- CÁC CUỘC PHÁT KIẾN ĐỊA LÝ LỚN
- I.Bối cảnh lịch sử thế giới vào thời gian hậu kỳ tru
- II.Nguyên nhân và điều kiện dẫn đến các cuộc phát kiế
- III.Các cuộc phát kiến lớn về địa lý
- IV.Ãnh hưởng của 4 cuộc phát kiến địa lý lên nền quan
- V.Ãnh hưởng của các cuộc phát kiến địa lí tác động t
- VI.Kết luận