Các hình thái của tiền tệ gì? dụ hình thái
tiền tệ Việt Nam
1. Tiền tệ được quy định như thế nào?
Tiền tệ một phạm trù lịch sử, tiền tệ sản phẩm tất yếu của nền kinh tế
hàng hóa. chính phương tiện dùng để thực hiện việc trao đổi hàng hóa
được chấp nhận một nhóm người. Tiền tệ thường được ngân hàng
trung ương phát hành, tiền tệ bao gồm cả tiền xu tiền giấy đều giá trị
thanh toán như nhau. Con người dùng tiền để mua bán, trao đổi hàng hóa,
thanh toán các dịch vụ hoàn trả các khoản nợ.
Hiện nay, tiền tệ sẽ một số chức năng như sau:
Tiền tệ thước đo giá trị
Chức năng đầu tiên của tiền tệ chính dùng để đo lường giá trị của c
hàng hóa. Thực tế thì giá cả cũng hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị
hàng hóa. Có thể đo lường giá trị hàng hóa bằng tiền mặt hoặc bằng tiền
vàng Trước khi thực hiện được chức năng thước đo giá trị thì bản thân tiền tệ
phải được quy định về đơn vị tiền tệ chung của mỗi quốc gia, khu vực.
Tiền tệ phương tiện lưu thông
Tiền được dùng làm môi giới trong quá trình trao đổi hàng hóa, thế nên
trong lịch sử thứ tự ra đời của các hình thái tiền tệ chúng đều được dùng để
lưu thông hàng hóa theo công thức H - T - H. Trong đó:
H hàng hóa
T tiền mặt
mỗi thời kỳ nhất định, lượng tiền lưu thông hàng hóa được quy định bởi
quy luật lưu thông tiền tệ. Các hình thái tiền ban đầu thức vàng thỏi, bạc
nén, dần dần được thay thế bằng tiền đúc sau cùng bạc giấy dùng
để làm phương tiện lưu thông.
Làm phương tiện cất trữ
Một chức năng khác của c hình thái của tiền tệ chính m phương tiện
cất trữ không còn tham gia vào chức năng lưu thông nữa. thực tế thể
thấy tiền cải hội dưới hình thái giá trị, cất tr tiền cũng chính một hình
thức cất trữ của cải. Hiện nay, tiền, vàng, bạc các hình thái tiền tệ được
làm phương tiện cất trữ nhiều nhất.
Làm phương tiện thanh toán
Các hình thái của tiền còn chức năng làm phương tiện thanh toán, chi trả,
mua bán hàng hóa, thanh toán nợ…Phương tiện thanh toán thể thực hiện
bằng tiền mặt, chuyển khoản ngân hàng, ghi c, thẻ n dụng… Khi sản xuất
trao đổi hàng hoá phát triển tất yếu sẽ chủ nợ con nợ, nếu không
được thanh toán thì nền kinh tế sẽ bị khủng hoảng làm gián đoạn sản xuất.
Tiền tệ thế giới
Chức năng làm tiền tệ thế giới xuất hiện khi các quốc giao giao thương, buôn
bán với nhau. Hay nói cách khác tiền tệ lúc bấy gi trở thành phương tiện
thanh toán quốc tế. Lưu ý, các hình thái của tiền tệ phải tiền vàng hoặc tiền
tín dụng được thừa nhận thanh toán quốc tế.
2. Các hình thái của tiền tệ
2.1. Hóa tệ
Hóa tệ hình thái tiền tệ đầu tiên được sử dụng trong điều kiện khi
nền kinh tế hàng hóa tiền tệ chưa phát triển. Hóa tệ một loại hàng hóa
thông thường nào đó được sử dụng làm vật ngang giá chung, hay nổi một
cách khác hóa tệ hàng hóa thông thường được sử dụng làm tiền tệ.
hai loại hóa tệ bao gồm:
- Hóa tệ không kim: Hóa tệ không kim những hàng hóa bình thường không
phải kim loại được sử dụng để m tiền tệ như vỏ ốc, vỏ sò, hạt ca cao, da
thú, gạo… Sử dụng hóa t không kim nhiều bất tiện như: mau hỏng,
khó phân chia hoặc khó gộp lại, vậy hóa tệ không kim chỉ được công nhận
trong từng khu vực, từng địa phương chứ không được công nhận trong phạm
vi cả nước phạm vi quốc tế, chính do này tất cả các hóa tệ không
kim loại đều bị loại bỏ được thay thế bởi hóa tệ bằng kim loại.
- Hóa tệ bằng kim: Hóa tệ bằng kim hay còn gọi là kim tệ sử dụng một thứ
kim loại nào đó làm vật ngang giá, người ta ng kim loại làm nguyên liệu đúc
tiền, như: đồng, bạc, vàng.
2.2. Chỉ tệ (hay còn gọi tín tệ)
Chỉ tệ hình thái tiền tệ trong đó giá trị nội tại của tiền không phù hợp với
giá trị danh nghĩa, hay nói cách khác chỉ tệ loại tiền tệ bản thân tiền tệ
không giá trị, nhưng nhờ sự tín nhiệm của con người mà được lưu
thông nên còn gọi tín tệ.
Chỉ tệ một loại vật chất được con người gán cho hay chỉ định cho
một giá trị nhất định để đóng vai t tiền tệ, bởi vậy tuy chỉ tệ không giá trị
nội tại nhưng vẫn lưu thông được do sự tín nhiệm của con người hoặc do
quy định của Pháp luật Nhà nước nên giá trị lưu thông.
hai loại chỉ tệ điển hình gồm:
- Tiền kim loại (coin): tiền được làm bằng các kim loại kém giá như: Chì
(Pb), Nhôm (Al), Kèm (Zn) . được sử dụng làm tiền xu, tiền lẻ để giao dịch
những khoản hàng hóa, dịch vụ giá trị nhỏ hoặc dùng để tr lại. Trong hình
thái chỉ tệ kim loại, mệnh giá của tiền t (giá trị ghi trên mặt đồng tiến) do
con người định đoạt cho một giả trị nào ng được. Thông thường giá trị
danh nghĩa (mệnh giá) của tín tệ kim loại cao hơn giá trị thực của rất nhiều.
- Tiền giấy (paper): tiền được làm bằng giấy do ngân hàng trung ương của
các nước độc quyền phát hành. Tiền giấy gồm hai lại sau đây:
+ Tiền giấy khả hoán: Tiền giấy khả hoán tiền giấy được lưu hành trên
sở thay thế cho tiền vàng hay tiền bằng bạc người ta gửi ngân hàng.
+ Tiền giấy khả hoán tiền giấy được tự do chuyển đổi ra vàng với bất kỳ
khối lượng o theo đúng tiêu chuẩn giá cả. Điều đó nghĩa ai tiền
giấy khả hoán, thì bất cứ c nào cũng quyền đến ngân hàng để đổi lấy
một số vàng hay bạc làm đại biểu theo đúng tiêu chuẩn giá cả hoặc
ngược lại. Tiền giấy khả hoán ngày nay không còn nước nào trên thế giới lưu
thông nữa.
+ Tiền giấy bất khả hoán: Tiền giấy bất khả hoán tiền giấy không được tự
do chuyển đổi ra vàng. Khi sử dụng tiền giấy bất khả hoán, dân không
quyền đem đến ngân hàng để đổi lấy vàng hay bạc. Ngày nay, tiền giấy bất
khả hoán loại tiền được lưu hành phổ biến tất cả các nước, tiền giấy bất
khả hoán không được đổi lấy vàng hay bạc, nên dễ b mất giá, lưu thông
không ổn định, dễ lạm phát thiểu phát.
Lịch s lưu hành tiền tệ Việt Nam, trong các triều đại phong kiến chủ yếu
lưu thông tiến đúc bằng đồng, nhưng một hiện tượng thật độc đáo, tiền
giấy xuất hiện khá sớm vào năm 1396, sớm hơn các nước phương Tây.
Người sáng kiến phát hành tiến giấy Việt Nam Hồ Q Ly, ông
người đầu tiên đưa ra một số chế độ cải ch trong triều Trần, trong đó
chế độ cải ch tiền tệ với nội dung phát hành tiền giấy đ thay thế cho tiến
đúc bằng đồng. Nhưng chế đ tiến giấy lưu hành tiền giấy cũng chỉ tồn tại
ba năm cùng thời gian Hồ Quý Ly trị đất nước. Tiền giấy dưới triều đại Hồ
Quý Ly được mang danh “Thông Bảo Hội Sao”.
2.3. Bút tệ
Bút tệ tiền tệ ngân hàng hay còn gọi tiền tài khoản hoặc tiền trương mục.
Bút tệ loại tiền tệ hình được tạo lập qua các bút toán, tồn tại trên sổ
sách kế toán của ngân hàng nên còn gọi tiền ngân hàng. Thực chất đây
tiền gửi của khách hàng thể hiện số trên tài khoản tiền gửi thanh toán
nên còn tên gọi tiền trương mục hay tiền gửi giao dịch.
2.4. Các phương tiện tiền tệ điện tử
Tiền tệ điện t loại tiền tệ được sử dụng qua hệ thống thanh toán tự động.
Tiền tệ điện tử tồn tại dưới dạng thẻ (cards): Các loại thẻ phổ biến như: Visa
card, credit card, payment card. Ngày nay toàn thế giới lưu hành các dấu hiệu
giá trị, các dấu hiệu giá trị không giá trị nội tại, n không thực hiện
được đầy đủ năm chức năng của tiền tệ chỉ thực hiện được các chức
năng không cần đòi hỏi phải của tiền vàng, như:
- Chức năng phương tiện biểu hiện giá cả hàng hóa. Tiền tệ được sử dụng
để tính toán hao phí sản xuất hàng hóa, trên sở đó tính giá thành sản
phẩm xác định giá bán.
- Chức năng phương tiện trao đổi. Tiến tệ được sử dụng để m phương tiện
mua bán, trao đổi hàng hóa dịch vụ các khoản khác. Trong chức năng này
thể tiền mặt vận động, th tiến chuyển khoản vận động, đảm bảo sự
vận động ngược chiều của hàng hóa, dịch vụ, các khoản khác.
- Chức năng phương tiện dự trữ giá trị. Tiền tệ được sử dụng để tích y, để
dành, tiết kiệm bằng nhiều cách: gửi tiết kiệm, dự trữ các tài sản tài chính,
các giấy t giá trị khác. Việc dự trữ giá trị của các chủ thể trong nền kinh
tế với mục đích chính để nhắm đến khả năng sinh lời của đồng tiền.

Preview text:

Các hình thái của tiền tệ là gì? Ví dụ hình thái tiền tệ Việt Nam
1. Tiền tệ được quy định như thế nào?
Tiền tệ là một phạm trù lịch sử, tiền tệ là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế
hàng hóa. Nó chính là phương tiện dùng để thực hiện việc trao đổi hàng hóa
và nó được chấp nhận ở một nhóm người. Tiền tệ thường được ngân hàng
trung ương phát hành, tiền tệ bao gồm cả tiền xu và tiền giấy đều có giá trị
thanh toán như nhau. Con người dùng tiền để mua bán, trao đổi hàng hóa,
thanh toán các dịch vụ và hoàn trả các khoản nợ.
Hiện nay, tiền tệ sẽ có một số chức năng như sau:
Tiền tệ là thước đo giá trị
Chức năng đầu tiên của tiền tệ chính là dùng để đo lường giá trị của các
hàng hóa. Thực tế thì giá cả cũng là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị
hàng hóa. Có thể đo lường giá trị hàng hóa bằng tiền mặt hoặc bằng tiền
vàng Trước khi thực hiện được chức năng thước đo giá trị thì bản thân tiền tệ
phải được quy định về đơn vị tiền tệ chung của mỗi quốc gia, khu vực.
Tiền tệ là phương tiện lưu thông
Tiền được dùng làm môi giới trong quá trình trao đổi hàng hóa, vì thế nên
trong lịch sử thứ tự ra đời của các hình thái tiền tệ chúng đều được dùng để
lưu thông hàng hóa theo công thức H - T - H. Trong đó: H là hàng hóa T là tiền mặt
Ở mỗi thời kỳ nhất định, lượng tiền lưu thông hàng hóa được quy định bởi
quy luật lưu thông tiền tệ. Các hình thái tiền ban đầu là thức vàng thỏi, bạc
nén, dần dần nó được thay thế bằng tiền đúc và sau cùng là bạc giấy dùng
để làm phương tiện lưu thông.
Làm phương tiện cất trữ
Một chức năng khác của các hình thái của tiền tệ chính là làm phương tiện
cất trữ và không còn tham gia vào chức năng lưu thông nữa. Vì thực tế có thể
thấy tiền là cải xã hội dưới hình thái giá trị, cất trữ tiền cũng chính là một hình
thức cất trữ của cải. Hiện nay, tiền, vàng, bạc là các hình thái tiền tệ được
làm phương tiện cất trữ nhiều nhất.
Làm phương tiện thanh toán
Các hình thái của tiền còn có chức năng làm phương tiện thanh toán, chi trả,
mua bán hàng hóa, thanh toán nợ…Phương tiện thanh toán có thể thực hiện
bằng tiền mặt, chuyển khoản ngân hàng, ghi séc, thẻ tín dụng… Khi sản xuất
và trao đổi hàng hoá phát triển tất yếu sẽ có chủ nợ và con nợ, nếu không
được thanh toán thì nền kinh tế sẽ bị khủng hoảng và làm gián đoạn sản xuất. Tiền tệ thế giới
Chức năng làm tiền tệ thế giới xuất hiện khi các quốc giao giao thương, buôn
bán với nhau. Hay nói cách khác tiền tệ lúc bấy giờ trở thành phương tiện
thanh toán quốc tế. Lưu ý, các hình thái của tiền tệ phải là tiền vàng hoặc tiền
tín dụng được thừa nhận thanh toán quốc tế.
2. Các hình thái của tiền tệ 2.1. Hóa tệ
Hóa tệ là hình thái tiền tệ đầu tiên và được sử dụng trong điều kiện khi mà
nền kinh tế hàng hóa tiền tệ chưa phát triển. Hóa tệ là một loại hàng hóa
thông thường nào đó được sử dụng làm vật ngang giá chung, hay nổi một
cách khác hóa tệ là hàng hóa thông thường được sử dụng làm tiền tệ.
Có hai loại hóa tệ bao gồm:
- Hóa tệ không kim: Hóa tệ không kim là những hàng hóa bình thường không
phải là kim loại được sử dụng để làm tiền tệ như vỏ ốc, vỏ sò, hạt ca cao, da
thú, gạo… Sử dụng hóa tệ không kim có nhiều bất tiện như: mau hư hỏng,
khó phân chia hoặc khó gộp lại, vì vậy hóa tệ không kim chỉ được công nhận
trong từng khu vực, từng địa phương chứ không được công nhận trong phạm
vi cả nước và phạm vi quốc tế, chính vì lý do này mà tất cả các hóa tệ không
kim loại đều bị loại bỏ và được thay thế bởi hóa tệ bằng kim loại.
- Hóa tệ bằng kim: Hóa tệ bằng kim hay còn gọi là kim tệ là sử dụng một thứ
kim loại nào đó làm vật ngang giá, người ta dùng kim loại làm nguyên liệu đúc
tiền, như: đồng, bạc, vàng.
2.2. Chỉ tệ (hay còn gọi là tín tệ)
Chỉ tệ là hình thái tiền tệ mà trong đó giá trị nội tại của tiền không phù hợp với
giá trị danh nghĩa, hay nói cách khác chỉ tệ là loại tiền tệ mà bản thân tiền tệ
không có giá trị, nhưng nhờ sự tín nhiệm của con người mà nó được lưu
thông nên còn gọi là tín tệ.
Chỉ tệ là một loại vật chất được con người gán cho hay chỉ định cho nó có
một giá trị nhất định để đóng vai trò tiền tệ, bởi vậy tuy chỉ tệ không có giá trị
nội tại nhưng nó vẫn lưu thông được do sự tín nhiệm của con người hoặc do
quy định của Pháp luật Nhà nước nên có giá trị lưu thông.
Có hai loại chỉ tệ điển hình gồm:
- Tiền kim loại (coin): Là tiền được làm bằng các kim loại kém giá như: Chì
(Pb), Nhôm (Al), Kèm (Zn) . và được sử dụng làm tiền xu, tiền lẻ để giao dịch
những khoản hàng hóa, dịch vụ có giá trị nhỏ hoặc dùng để trả lại. Trong hình
thái chỉ tệ kim loại, mệnh giá của tiền tệ (giá trị ghi trên mặt đồng tiến) là do
con người định đoạt cho nó một giả trị nào cũng được. Thông thường giá trị
danh nghĩa (mệnh giá) của tín tệ kim loại cao hơn giá trị thực của nó rất nhiều.
- Tiền giấy (paper): Là tiền được làm bằng giấy do ngân hàng trung ương của
các nước độc quyền phát hành. Tiền giấy gồm hai lại sau đây:
+ Tiền giấy khả hoán: Tiền giấy khả hoán là tiền giấy được lưu hành trên cơ
sở thay thế cho tiền vàng hay tiền bằng bạc mà người ta ký gửi ở ngân hàng.
+ Tiền giấy khả hoán là tiền giấy được tự do chuyển đổi ra vàng với bất kỳ
khối lượng nào theo đúng tiêu chuẩn giá cả. Điều đó có nghĩa là ai có tiền
giấy khả hoán, thì bất cứ lúc nào cũng có quyền đến ngân hàng để đổi lấy
một số vàng hay bạc mà nó làm đại biểu theo đúng tiêu chuẩn giá cả hoặc
ngược lại. Tiền giấy khả hoán ngày nay không còn nước nào trên thế giới lưu thông nữa.
+ Tiền giấy bất khả hoán: Tiền giấy bất khả hoán là tiền giấy không được tự
do chuyển đổi ra vàng. Khi sử dụng tiền giấy bất khả hoán, dân cư không có
quyền đem đến ngân hàng để đổi lấy vàng hay bạc. Ngày nay, tiền giấy bất
khả hoán là loại tiền được lưu hành phổ biến ở tất cả các nước, tiền giấy bất
khả hoán không được đổi lấy vàng hay bạc, nên dễ bị mất giá, lưu thông
không ổn định, dễ có lạm phát và thiểu phát.
Lịch sử lưu hành tiền tệ Việt Nam, trong các triều đại phong kiến chủ yếu
lưu thông tiến đúc bằng đồng, nhưng có một hiện tượng thật độc đáo, là tiền
giấy xuất hiện khá sớm vào năm 1396, sớm hơn các nước phương Tây.
Người có sáng kiến phát hành tiến giấy ở Việt Nam là Hồ Quý Ly, ông là
người đầu tiên đưa ra một số chế độ cải cách trong triều Trần, trong đó có
chế độ cải cách tiền tệ với nội dung phát hành tiền giấy để thay thế cho tiến
đúc bằng đồng. Nhưng chế độ tiến giấy và lưu hành tiền giấy cũng chỉ tồn tại
ba năm cùng thời gian Hồ Quý Ly trị vì đất nước. Tiền giấy dưới triều đại Hồ
Quý Ly được mang danh là “Thông Bảo Hội Sao”. 2.3. Bút tệ
Bút tệ là tiền tệ ngân hàng hay còn gọi là tiền tài khoản hoặc tiền trương mục.
Bút tệ là loại tiền tệ vô hình được tạo lập qua các bút toán, nó tồn tại trên sổ
sách kế toán của ngân hàng nên còn gọi là tiền ngân hàng. Thực chất đây là
tiền gửi của khách hàng thể hiện ở số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán
nên còn có tên gọi là tiền trương mục hay tiền gửi giao dịch.
2.4. Các phương tiện tiền tệ điện tử
Tiền tệ điện tử là loại tiền tệ được sử dụng qua hệ thống thanh toán tự động.
Tiền tệ điện tử tồn tại dưới dạng thẻ (cards): Các loại thẻ phổ biến như: Visa
card, credit card, payment card. Ngày nay toàn thế giới lưu hành các dấu hiệu
giá trị, mà các dấu hiệu giá trị không có giá trị nội tại, nên không thực hiện
được đầy đủ năm chức năng của tiền tệ mà chỉ thực hiện được các chức
năng không cần đòi hỏi phải có của tiền vàng, như:
- Chức năng phương tiện biểu hiện giá cả hàng hóa. Tiền tệ được sử dụng
để tính toán hao phí sản xuất hàng hóa, trên cơ sở đó tính giá thành sản
phẩm và xác định giá bán.
- Chức năng phương tiện trao đổi. Tiến tệ được sử dụng để làm phương tiện
mua bán, trao đổi hàng hóa dịch vụ và các khoản khác. Trong chức năng này
có thể tiền mặt vận động, có thể tiến chuyển khoản vận động, đảm bảo sự
vận động ngược chiều của hàng hóa, dịch vụ, các khoản khác.
- Chức năng phương tiện dự trữ giá trị. Tiền tệ được sử dụng để tích lũy, để
dành, tiết kiệm bằng nhiều cách: gửi tiết kiệm, dự trữ các tài sản tài chính,
các giấy tờ có giá trị khác. Việc dự trữ giá trị của các chủ thể trong nền kinh
tế với mục đích chính là để nhắm đến khả năng sinh lời của đồng tiền.
Document Outline

  • Các hình thái của tiền tệ là gì? Ví dụ hình thái t
    • 1. Tiền tệ được quy định như thế nào?
    • 2. Các hình thái của tiền tệ
      • 2.1. Hóa tệ
      • 2.2. Chỉ tệ (hay còn gọi là tín tệ)
      • 2.3. Bút tệ
      • 2.4. Các phương tiện tiền tệ điện tử