Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại học phần Luật hành chính

Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại học phần Luật hành chính của trường đại học Luật Hà Nội giúp sinh viên củng cố, ôn tập kiến thức và đạt kết quả cao trong bài thi kết thúc học phần. Mời bạn đón đón xem! 

lOMoARcPSD|17327 243
Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại
Các hình thức huy động vốn
của ngân hàng thương mại
Vốn vừa mang tính chất tiền đề vừa vấn đề xuyên suất cho quá nh hình thành phát
triển của NHTM. Mục tiêu tổng quát của NHTM là an toàn và sinh lời trong kinh doanh.
Do đó, việc tạo lập một nguồn vốn vững chắc, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của
ngân hàng điều rất cần thiết. Mỗi Ngân hàng hoạt động trong một môi trường, điều
kiện cụ thể sẽ có các nghiệp vụ huy động vốn n khác nhau. Song nhìn chung các NHTM
thường áp dụng một số nghiệp vụ cơ bản sau:
Huy động từ chủ sở hữu:
Nguồn huy động từ chủ sở hữu thông thường gồm vốn tự một số quỹ mang tính
chất đặc thù của mỗi quốc gia ( như Quỹ đầu tư phát triển do Chính phủ cấp cho một số
NHTM quốc doanh ở Việt Nam).
Vốn tự có của NHTM cũng được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. Trong phạm vi
bài viết này chúng ta chỉ xem xét dưới các hình thức như: Vốn pháp định, vốn điều lệ và
các quỹ.
Vốn pháp định: Điều kiện hàng đầu để khởi nghiệp trước khi được phép khai trương
Ngân hàng phải đủ vốn ban đầu theo luật định. Việt Nam, để thành lập một NHTM
trước hết phải có đủ vốn pháp định theo mức quy định của NHNN. Vốn pháp định của
mỗi ngân hàng được hình thành do tính chất sở hữu của ngân hàng quyết định. Theo quy
định của Việt Nam có thể khái quát như sau: Nếu là NHTM thuộc sở hữu nhà nước, vốn
pháp định do Ngân sách Nhà nước cấp 100% vốn ban đầu; Nếu là NHTM cổ phần, vốn
pháp định do sự đóng góp của cổ đông dưới hình thức phát hành cổ phiếu; Nếu NHTM
liên doanh, vốn pháp định là vốn đóng góp cổ phần của ngân hàng tham gia liên doanh.
Vốn điều lệ vốn được ghi trong điều lệ hoạt động của NHTM. Vốn điều lệ ít nhất phải
bằng mức vốn pháp định do NHNN công bố vào đầu mỗi năm tài chính. Vốn điều lệ quy
định cho một ngân hàng nhiều hay ít tuỳ thuộc vào quy phạm vi hoạt động của
ngân hàng đó ( vốn điều lệ bao hàm cả vốn pháp định).
Ngoài ra vốn tự củaNHTM còn các quỹ dự trữ ngân hàng ( đây các quỹ buộc
phải trích lập trong quá trình tồn tại hoạt động của ngân hàng) như: Quỹ bảo toàn vốn,
Quỹ phúc lợi, Quỹ khấu hao tài sản cố định,...
Nguồn vốn tự có của NHTM thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của một
ngân hàng, nhưng lại là nguồn vốn rất quan trọng, nó cho thấy thực lực, quy mô của
lOMoARcPSD|17327 243
Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại
ngân hàng, sở để thu hút các nguồn vốn khác, vốn khởi đầu tạo uy tín của
ngân hàng đối với khách hàng. Hơn nữa nguồn vốn này có tính ổn định cao, vai trò
đặc biệt quan trọng trong việc tài trợ cho các tài sản cố định của NHTM, tài trợ cho hoạt
động liên doanh liên kết, mở rộng mạng lới, hay để chống rủi ro,...; Qua đó nhằm hướng
tới mở rộng quy mô hoạt động của ngân hàng.
Theo đà phát triển, nguồn vốn này sẽ được gia tăng về số lượng tuyệt đối thông qua các
nghiệp vụ của mỗi NHTM có thể áp dụng như sau:
- Tăng cường và bổ sung thêm vốn điều lệ bằng cách huy động thêm vốn từ các cổ
đông, phát hành cổ phiếu, trái phiếu có thể chuyển thành cổ phiếu,... Các nghiệp vụ huy
động này thường được các NHTM cổ phần áp dụng. Tuy nhiên, việc phát hành thêm c
phiếu, trái phiếu thể chuyển đổi thành cổ phiếu sẽ gây áp lực đối với các cổ đông
của ngân hàng, việc tăng thêm cổ phần sẽ kéo theo sự suy giảm tương đối về cổ tức đối
với các cổ đông.
- Đối với NHTM quốc doanh hay NHTM liên doanh thì thể tăng thêm vốn tự
thông qua sự cấp thêm vốn của Chính phủ hay đóng góp thêm vốn của các bên liên
doanh.
- Ngoài ra, nguồn vốn tự của NHTM còn được bổ sung thêm tkết quả hoạt
động kinh doanh của ngân hàng thông qua việc trích lập các quỹ dự trữ một số quỹ
khác.
Bên cạnh nguồn vốn tự có, một số quốc gia cụ thể ở Việt Nam, một số NHTM
như: Ngân hàng Nông nghiệp Phát triển nông thôn, Ngân hàng Đầu Phát triển
Việt Nam còn được Chính phủ cấp vốnới hình thức quỹ đầu tư phát triển để cho vay
lại theo kế hoạch Nhà nước chỉ định. Nguồn y tính ổn định ơng đối cao, trong
thời gian ngắn Nhà ớc chưa yêu cầu Ngân hàng trả gốc lãi cho khoản tiền này
Ngân hàng chỉ phải trích lập quỹ để bảo toàn nguồn vốn theo quy định. Uy tín hiệu
quả trong kinh doanh của Ngân hàng chính là cơ sở để thu hút nguồn vốn ổn định này.
Tóm lại, nguồn vốn huy động từ chủ sở hữu là nguồn vốn đóng vai trò nền tảng, là cơ sở
để thu hút các nguồn vốn khác. Tuy chiếm một tỷ trọng không lớn trong cấu nguồn
vốn của NHTM nhưng ý nghĩa quyết định tới sự hình thành phát triển của ngân
hàng; mặc công tác huy động không thuận lợi, phụ thuộc nhiều vào kết quả kinh
doanh củ ngân hàng nhưng việc tăng cường mở rộng nguồn vốn này một cách hợp lý là
rất quan trọng đối với tất cả các NHTM.
Huy động tiền gửi
Việt Nam, theo luật các tổ chức tín dụng thì tiền gửi nói chung được hiểu là số tiền của
khách hàng gởi taị tổ chức tín dụng dưới nhiều hình thức tiền gi không kỳ hạn, tiền gửi
lOMoARcPSD|17327 243
Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại
có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. gửi là. Trên phương diện chủ thể gửi
tiền thì tiền gửi thể được chia thành hai loại: Tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ
chức kinh tế- xã hội, và Tiền gửi tiết kiệm của dân cư.
Tiền gửi giao dịch (tiền gửi thanh toán)
Một trong những dịch vụ lâu đời nhất mà ngân hàng cung cấp là nhận tiền gửi để thanh
toán hộ khách hàng. Tiền gửi giao dịch đòi hỏi ngân hàng phải thanh toán ngay lập tức
một lệnh rút tiền cho một cá nhân hay cho bên thứ ban, được chỉ rõ là người thụ hưởng.
* Tiền gửi giao dịch hưởng lãi
Sự kết hợp gia tiền gửi giao dịch không hưởng lãi tiền gửi tiết kiệm đã xuất hiện
dưới hình thức tài khoản NOW (negoyiable order of withdrawal) tài khoản lệnh rút tiền
thể thương lượng. NOW tài khoản giao dịch được ởng lãi, do đó cho phép
ngân hàng đòi hỏi khách hàng phải thông báo trước về việc rút tiền. Do đòi hỏi này ít
được thực hiện nên NOW được sử dụng như một tài khoản phát séc để chi trả cho việc
mua bán hàng hoá và dịch vụ. Tuy nhiên loại tài khoản này chỉ có thể được nắm giữ bởi
nhân các tổ chức phi lợi nhuận. Ngân hàng khi đó có nghiệp vụ là chuyển vốn tự
động khách hàng uỷ quyền trước cho ngân hàng trong việc chuyển vốn từ tài khoản
tiết kiệm sang tài khoản phát séc để đắp thấu chi. Kết quả cuối cùng khách hàng
hưởng lãi trên tài khoản giao dịch ơng đương với lãi thu được từ tài khoản tiền tiết
kiệm.
Hiện nay hai loại tài khoản tiền gửi cạnh tranh nhau: Tài khoản tiền gửi trên thị trường
tiền tệ (MMDA) i khoản “Supper NOW”. Hai loại tài khoản này được trả lãi theo
lãi suất trên thị trường tiền tệ khách hàngthể thực hiện thanh thoán cho các giao
dịch mua hàng hoá và dịch vụ thông qua việc phát séc hay hối phiếu uỷ quyền trước.
Tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế-xã hội
Đây khoản tiền tạm thời nhàn rỗi phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh, quá
trình hoạt động của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế- xã hội được các đơn vị này
gửi vào ngân hàng nhằm mục đích sinh lời. Khoản vốn này tạm thời được giải phóng ra
khỏi quá trình luân chuyển vốn nhưng chưa có nhu cầu sử dụng trong ngắn hạn.
Đây nguồn chiếm tỷ trọng không lớn trong cấu nguồn vốn cũng n trong cấu
vốn nói chung của NHTM. Bởi lẽ trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình, các
doanh nghiệp ít khi một ợng vốn nhàn rỗi trong một thời gian i và nếu có chỉ
một lượng nhỏ mà thôi. Các tổ chức kinh tế- hội vử khả quan hơn về mặt kỳ hạn
nhưng ợng vốn họ lại không đủ lớn. Tuy vậy nguồn vốn này vẫn không thể thiếu
trong cấu tạo nên nguồn vốn của một ngân hàng. ng như tiền gửi kỳ hạn nói
lOMoARcPSD|17327 243
Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại
chung, các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế- xã hội khi gửi tiền vào ngân hàng cũng
phải có sự thoả thuận về kỳ hạn của khoản tiền đó.
Như vậy về nguyên tắc, người gửi tiền chỉ có thể rút tiền ra theo thời hạn đã thoả thuận.
Tuy nhiên trên thực tế do quá trình cạnh tranh trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng ngày
càng gay gắt để thu hút nguồn này một cách tốt nhất, các NHTM thường cho phép
khách hàng được rút tiền ra trước hạn nhưng không được hưởng lãi hoặc ởng lãi
mức thấp hơn. Hầu hết các NHTM ở Việt Nam, nếu khách hàng rút tiền trước thời hạn
đã thoả thuận thì chỉ được hưởng theo lãi suất loại tiền gửi không kỳ hạn.
NHTM thể sử dụng nguồn này một cách chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh,
góp phần đáp ứng nhu cầu tín dụng của nền kinh tế.
Tiền gửi tiết kiệm của khách hàng
Tiền gửi tiết kiệm là hình thức huy động truyền thống của ngân hàng. ở các ớc công
nghiệp phát triển, trong số các loại tiền gửi vào ngân hàng thì tiền gửi tiết kiệm đứng v
thứ hai cả về mặt số lượng và tầm quan trọng.
Hiện nay ở hầu hết các quốc gia trên thế giới ( trong đó có Việt Nam) người ta cho rằng
vận động nhân dân gửi tiền tiết kiệm là một trong các nghiệp vụ quan trọng của NHTM.
Bởi lẽ nếu huy động được nguồn vốn nhàn rỗi tiềm tàng trong các tầng lớp dân cư sẽ
tiền cấp phát cho phát triển công nghiệp, nông nghiệp góp phần quan trọng trong quá
trình phát triển kinh tế xã hội.
Các tầng lớp dân gửi tiền tiết kiệm vào NHTM với mục đích chủ yếu là tiết kiệm và
sinh lời. Do đó, nguồn vốn này có tính ổn định khá cao.
Để tạo thuận lợi cho khách hàng cũng như ngân hàng, thủ tục gửi tiền cũng rất đơn giản:
Khi khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng sẽ được nhận một quyển sổ tiết kiệm. Sổ này
được coi giấy chứng nhận số tiền, thời hạn, lãi suất của khoản tiền đó trong quỹ tiết
kiệm. Thông thường lãi suất của tài khoản tiết kiệm cao hơn lãi suất của tài khoản gửi
thanh toán người chủ tài khoản không được hưởng dịch vụ thanh toán quan ngân hàng
như tài khoản tiền gửi thanh toán.
Để thoả mãn nhu cầu của khách hàng trong việc gửi tiết kiệm, các NHTM đã và đang áp
dụng nhiều hình thức huy động phong phú như: Tiết kiệm nhà ở, tiết kiệm đảm bảo giá
trị theo vàng, tiết kiệm thưởng,... với nhiều kỳ hạn đa dạng đảm bảo nguyên tắc:
Kỳ hạn càng dài thì lãi suất càn cao. Bên cạnh đó, NHTM cũng từng bước nâng cao các
tiện ích cho người gửi tiết kiệm như: Coi sổ tiết kiệm như là một chứng từ đảm bảo tiền
gửi, người có sổ có thể mang sổ tiết kiệm đến ngân hàng để cầm cố hoặc xin chiết khấu
để vay vốn khi cần thiết.
lOMoARcPSD|17327 243
Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại
Tóm lại, nguồn vốn huy động từ tiền gửi có vai trò quan trọng trong việc tài trợ cho các
hoạt động kinh doanh của NHTM. Thống thường nguồn vốn này phụ thuộc vào ba thông
số chính: Lãi suất do các NHTM trả cao hay thấp; Lãi suất của các loại hình đầu tư khác
như: Trái phiếu, cổ phiếu,... Thu nhập của khách hàng. Trong đó thông số đầu tiên được
coi là quan trọng nhất. Vì thế việc đưa ra chiến ợc lãi suất như thế nào, hình thức huy
động ra sao để thu hút được vốn nhiều và kinh doanh có lãi là điều quan trọng hàng đầu,
phản ánh khả năng kĩ trị của các NHTM.
Vốn đi vay
Trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng khi dư vốn, đủ vốn, thiếu vốn là lẽ tất nhiên, đặc
biệt vốn trung dài hạn. Khi một NHTM thiếu vốn để đáp ứng nhu cầu vốn của
khách hàng hay cho mục đích đầu tư phát triển mà các nguồn khác chưa đủ đáp ứng thì
NHTM có thể đi vay. Nghiệp vụ vay vốn của NHTM có thể chia thành hai loại chính:
Vay thông qua phát hành giấy tờ có giá và vay trực tiếp.
Vay thông qua phát hành giấy tờ có giá:
Phát hành giấy tờ giá nghiệp vụ huy động vốn của NHTM dưới hình thức phát hành
các chứng từ như: Chứng chỉ tiền gửi ( kỳ phiếu), trái phiếu,...
Trong nghiệp vụ này, NHTM chủ động đứng ra thu gom vốn trong hội bằng việc phát
hành các giấy tờ giá nhằm bổ sung nguồn vốn kinh doanh. Thông thường việc phát
hành được thực hiện sau khi đã tiến hành nên cân đối toàn hệ thống của NHTM giữa
nguồn vốn và sử dụng vốn.
Các NHTM nhận thấy rằng, người gi tiền rất nhạy cảm với những thay đổi trong lãi
suất huy động của ngân hàng. Vì vậy khi cần vốn, một NHTM có thể phát hành giấy tờ
giá với một mức lãi suất hấp dẫn hơn các loại nghiệp vhuy động thông thường khác
nhằm huy động được kịp thời ợng vốn cần thiết. Mức lãi được trả cho các công cụ này
sẽ được thoả thuận trực tiếp giữa NHTM khách ng hoặc được n định một mức
độ nhất định mà người gửi tiền có thể chấp nhận được, đồng thời đảm bảo hiệu quả kinh
doanh cho ngân hàng.
Thông thường, phát hành giấy tờ có giá là nghiệp vụ huy động vốn theo sáng kiến riêng
của từng NHTM với hình thức kỳ hạn rất đa dạng nhằm thoả n tối đa nhu cầu
khách hàng huy động được vốn cho ngân hàng. Để tìm hiểu kỹ hơn chúng ta sẽ xem
xét hai công cụ cơ bản là: Kỳ phiếu và Trái phiếu ngân hàng.
* Kỳ phiếu:
- các ớc phát triển như Mĩ, chứng chỉ tiền gửi hay còn gọi CD là một công cụ
thị trường tiền tệ do ngân hàng phát hành. Một NHTM sẽ phát hành một CD để tài tr
lOMoARcPSD|17327 243
Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại
cho những cam kết nợ ngắn hạn hoặc nguồn vốn của mình. CD một chứng nhận về
một khoản tiền gửi tại NHTM theo một thời hạn và lãi suất nhất định. Người sở hữu CD
thể bán chứng chỉ này trên thị trường thứ cấp hoặc được trả lại chứng chỉ tại thời điểm
CD đến hạn và nhận lại toàn bộ số tiền gốc chứng chỉ với lãi.
Một CD thường phát hành đa dạng ghi sổ với mệnh giá đa dạng. Thời hạn của các CD
cũng rất phong phú: Thường từ 7 ngày cho đến 5 hoặc 7 năm. Nhìn chung không có quy
định nào hạn chế về thời hạn của một CD đối với Ngân hàng phát hành.
Các NHTM ở Mĩ phát hành nhiều loại CD khác nhau:
+ CD lãi suất cố định: i suất của những CD này được ấn định từ thời điểm phát
hành. chủ sở hữu CD sẽ nhận được toàn bộ phần tiền gốc và lãi khi CD đến hạn. Đối với
CD có thời hạn dưới 1 năm thì lãi suất được trả vào thời điểm đến hạn.
+ CD trả lãi kỳ hạn: Lãi của những CD này thường được trả 6 tháng một lần. những CD
loại này thường được phát hành với kỳ hạn trên 1 năm.
+ CD chuyển tiếp liên tục: Đây là một Seri những CD thời hạn 6 tháng chuyển tiếp liên
tục trong vòng 2 năm hoặc lâu hơn. Người mua CD thiết lập một hợp đồng mua chứng
chỉ tiền gửi thời hạn 6 tháng liên tục cho đến khi hợp đồng hết hạn. CD loại này có thể
áp dụng lãi suất cố định hoặc lãi suất thả nổi.
Ngoài ra các NHTM còn phát hành nhiều loại CD khác như: CD lãi điều chỉnh,
chứng chỉ tiền gửi Dollar Châu Âu,... Thông qua nghiệp vụ phát hành CD, các NHTM
thể tạo dựng được điều kiện để cạnh tranh một cách hiệu quả đối với nguồn
vốn ngắn và trung hạn.
- Việt Nam, các NHTM phát hành kỳ phiếu dựa trên quyết định số 220- NH/QĐ ngày
27/11/1991 của Thống đốc NHNN về việc cho phép NHTM quốc doanh phát hành kỳ
phiếu Ngân hàng. Như vậy chỉ NHTM quốc doanh mới được phép phát hành loại
chứng chỉ tiền gửi này.
Theo văn bản trên, kỳ phiếu một loại giấy nhận nợ do NHTM quốc doanh phát hành
nhằm huy động vốn trong hội một cách linh hoạt. Căn cứ vào mục đích, nhu cầu c
thể mà ngân hàng có thể phát hành kỳ phiếu bằng VNĐ hay USD.
Nhu cầu phát hành kỳ phiếu thường phát sinh khi ngân hàng muốn nguồn vốn đủ điều
kiện để tài trợ các dự án quy mô, trọng điểm nhằm phục vụ kịp thời cho đầu phát
triển của đất nước hoặc vì mục đích kinh doanh của ngân hàng như: Đầu chứng khoán,
kinh doanh vàng bạc, ngoại tệ mà các nguồn huy động khác chưa đáp ứng được. Khi đó
ngân hàng có thể xin phép phát hành bằng từ trình gửi NHNN. Trong tờ trình “
Xin phép phát hành kỳ phiếu” phải trình bày đầy đủ các nội dung sau:
lOMoARcPSD|17327 243
Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại
+ Lý do xin phát hành
+ Kế hoạch sử dụng và nhu cầu sử dụng vốn
+ Các loại kỳ phiếu xin phát hành ( về kỳ hạn, phương thức trả lãi)
+ Thời gian phát hành
+ Tỷ lệ lãi cho từng loại kỳ phiếu
+ Tính toán hiệu quả kinh tế cho từng loại kỳ phiếu.
Phát hành kỳ phiếu là một nghiệp vụ huy động vốn có tính hiệu quả cao, hấp dẫn người
mua và NHTM luôn chủ động trong việc bổ sung vốn hạn khi cần thiết.
* TRÁI PHIẾU:
- các nước phát triển, trái phiếu ngân hàng là một loại công cụ nợ do NHTM phát hành
nhằm tài trợ vốn cho hoạt động kinh doanh cuả ngân hàng. Thông thưng việc phát hành
trái phiếu phải được sự cho phép của Ngân hàng trung ương. Kỳ hạn của trái phiếu rất
phong phú: 7 năm, 10 năm, 20 năm,... Chủng loại cũng rất đa dạng như: Trái phiếu
lãi suất điều chỉnh, trái phiếu có lãi suất thả nổi, trái phiếu có lãi suất cố định, trái phiếu
thể chuyển đổi sang cổ phiếu,...Người sở hữu có thể bán trái phiếu trên thị trường th
cấp trước khi trái phiếu đó hết hạn.
Việt Nam, theo, theo quyết định số 212--NH1 ngày 22/9/1995 của Thống đốc
NHNN ban hành thể lệ phát hành trái phiếu NHTM, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển thì
trái phiếu Ngân hàng một công cụ vay nợ dài hạn trên thị trường vốn ới hình thức
giấy nợ của các tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn. Trong đó các tổ chức n
dụng cam kết trả gốc và lãi cho người mua ( hoặc người sở hữu) sau một thời gian nhất
định.
Trái phiếu Ngân hàng được chuyển nhượng quyền sở hữu ới các nh thức mua bán,
cho, tặng, thừa kế. Người sở hữu có thể dùng trái phiếu làm thế chấp tiền vay nếu được
người cho vay chấp nhận.
Trái phiếu Ngân hàng thể phát hành ới các hình thức: danh, ghi sổ, ghi danh.
Trái phiếu danh thuộc quyền sở hữu của người trái phiếu được tự do chuyển
nhượng, chủ sở hữu trái phiếu ghi danh và ghi sổ muốn chuyển nhượng thì phải làm thủ
tục ở Ngân hàng ( nơi mua trái phiếu).
Trái phiếu được các NHTM phát hành với kỳ hạn trên 1 năm. Tuy nhiên, thời hạn cụ thể
sẽ do các NHTM quyết định tuỳ theo phương án sử dụng vốn. Trái phiếu phát hành cùng
lOMoARcPSD|17327 243
Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại
một đợt được ghi cùng thời hạn được thanh toán vào cùng thời điểm đáo hạn. Mệnh
giá của trái phiếu số tiền ghi trên trái phiếu lúc phát hành giá trị tối thiểu
50.000 VND. Các loại mệnh giá lớn hơn được xác định bằng bội số của mệnh giá tối
thiểu.
Lãi suất của trái phiếu do NHTM ấn định trên squan hệ cung cầu về vốn trên thị
trường sao cho thể khuyến khích, động viên được người gửi vốn, người vay thể
chấp nhận được và NHTM đảm bảo hiệu quả kinh doanh. Phương thức trả lãi cũng được
các NHTM áp dụng một cách linh hoạt: Trả lãi trước, Trả lãi sau, Trả lãi định kỳ...
NHTM muốn được phép phát hành trái phiếu cần phải hội đủ các điều kiện sau:
+ Hoạt động ổn định ít nhất 2 năm và chứng minh được hoạt động kinh doanh của đơn
vị được quản lý có hiệu quả
+ Có phương án kinh doanh cụ thể
+ Cần phải có vốn điều lệ đủ lớn theo pháp định
+ Được phép bằng văn bản của Thống đốc Ngân hàng Nhà ớc
Sau khi đã hội đủ các điều kiện cần thiết, NHTM phải làm thủ tục xin phép NHNN về
việc phát hành trái phiéu theo quy định của pháp luật.
Nguồn vốn huy động được từ nghiệp vụ phát hành trái phiếu không chịu sự điều chỉnh
của quy định dự trữ bắt buộc. Hơn nữa, nó nguồn có tính ổn định cao, đáng được quan
tâm nếu muốn mở rộng nguồn vốn huy động trung dài hạn tại một NHTM. Bằng cộng
cụ này, các NHTM thể chủ động tạo được một khối lượng vốn như mong muốn một
cách nhanh chóng để đáp ứng nhu cầu vốn cấp bách đầu cho các công trình lớn của
quốc gia.
Vay vốn các tổ chức tín dụng
Khi cần vốn thì các NHTM thể đi vay trực tiếp từ các tổ chức tín dụng khác, Ngân
hàng nước ngoài, từ công ty mẹ,... Nhưng dù vay nguồn nào thì nhìn chung chi phí cho
các khoản vay trực tiếp thường cao hơn chi phí phải trả cho các hình thức huy động vốn
khác.
Việt Nam, nguồn vay vốn của NHTM cũng khá phong phú. Một NHTM có thể vay
một số nguồn chính như: Vay từ NHNN Bộ Tài chính (BTC), vay từ các NHTM khác
và tổ chức tín dụng, từ nước ngoài.
* Vay từ NHNN và BTC:
lOMoARcPSD|17327 243
Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại
- Vay từ NHNN: Trong quan hệ giữa NHTM NHNN thì NHNN cách
Ngân hàng củ các Ngân hàng, là Người cho vay cuối cùng” đối với các NHTM. Thông
thường các NHTM chỉ đươch vay NHNN để bù đắp những thiếu hụt ngắn hạn, tạm thời
dưới hình thức chiết khấu, tái chiết khấu, tái cấp vốn. Tuy nhiên, có những trường hợp
đặc biệt, NHNN vẫn cho NHTM vay để cho vay lại nền kinh tế theo kế hoạch của Nhà
nước với một mức lãi suất ưu đãi. Nhưng khoản vay này thường bị hạn chế số lượng,
đặc biệt là khi chính sách tiền tệ quốc gia đang thắt chặt.
- Vay từ Bộ Tài chính: Mặc đã Tổng cục đầu tư phát triển nhưng Bộ tài chính
vẫn sự hỗ trợ cho các chương trình tín dụng Ngân hàng. Hàng năm, các địa phương
được phân bổ một số vốn trung và dài hạn cho các công trình phục vụ các mục tiêu quốc
kế dân sinh. Nguồn này sẽ được Bộ Tài chính chuyển sang Ngân hàng Đầu Phát
triển hoặc của NHTM quốc doanh khác dưới hình thức quỹ đầu phát triển để cho các
đối tượng này vay với lãi suất ưu đãi. Nhưng cũng những dự án thuộc danh mục Chính
phủ chỉ định nhưng NHTM sẽ lo vốn đầu tư toàn bộ. Do đó NHTM có thể vay một phần
từ Bộ Tài chính để tài trợ cho các dự án này, Bộ i chính sẽ chuyển tiền để cấp bù phàn
chênh lệch giữa lãi suất cho vay trung dài hạn của NHTM lãi suất ưu đãi để NHTM
không bị lỗ trong kinh doanh.
* Vay từ các NHTM và Tổ chức tín dụng khác
Ngoài nghiệp vụ vay từ NHNN Bộ Tài chính thì các NHTM thể vay ợn lẫn
nhau hoặc vay từ các Công ty Bảo biểm để đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh dựa
trên nguyên tắc:
- Các NHTM phải hoạt động hợp pháp
- Thực hiện việc đi vay và cho vay theo hợp đồng tín dụng.
- Vốn vay phải được bảo đảm bằng thế chấp, cầm cố hay xin bảo lãnh của NHNN.
Nguồn vay ợn này thường chi phí cao, kỳ hạn trung hạn chyếu, phụ thuộc
nhiều vào quan hệ cũng như uy tín của NHTM đi vay.
* VAY TỪ NƯỚC NGOÀI:
Theo tinh thần Nghị định 90/1998/NĐ-CP ngày 7/11/1998 thì các NHTM thể vay vốn
ở Ngân hàng nước ngoài để cho vay lại trong nước. Các NHTM Việt Nam hiện có quan
hệ đại quan hệ thanh toán rộng rãi với c Ngân hàng trong khu vực trên thế
giới nên nghiệp vụ này tiến hành cũng khá thuận lợi. Lãi suất vay được áp dụng theo lãi
suất trên thị trường tiền tệ thế giới. Tuy nhiên, khi vay thì các NHTM Việt Nam phải
chấp hành một hạn mức tín dụng do nước ngoài quy định. Hạn mức này phải được Chính
phủ hoặc NHNN Việt Nam bảo lãnh. Theo Nghị định 90/CP, thì mức bảo lãnh vay vốn
lOMoARcPSD|17327 243
Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại
nước ngoài cho một tổ chức tín dụng không quá 6 lần vốn tự của tổ chức đó. Nhưng
hạn mức trên phải trừ đi số nợ trước chưa trả đến thời điểm đến thời điểm vay mới. Như
vậy muốn tận dụng hạn mức tín dụng của nước ngoài, các NHTM Việt Nam phải thực
hiện tốt khâu hoàn trả.
Các khoản vay từ Ngân hàng nước ngoài của các NHTM Việt Nam đều do NHNN trực
tiếp kiểm soát quản lý. vậy, các hồ vay vốn đều phải quan NHNN xét duyệt.
Các NHTM được quyền chủ động tìm kiếm các nguồn vay từ ớc ngoài, qua đó góp
phần quan trọng trong việc tài trợ các hoạt động kinh doanh ngân hàng.
sách tiền tệ
| 1/10

Preview text:

lOMoARc PSD|17327243
Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại
Các hình thức huy động vốn
của ngân hàng thương mại
Vốn vừa mang tính chất tiền đề vừa là vấn đề xuyên suất cho quá tình hình thành và phát
triển của NHTM. Mục tiêu tổng quát của NHTM là an toàn và sinh lời trong kinh doanh.
Do đó, việc tạo lập một nguồn vốn vững chắc, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của
ngân hàng là điều rất cần thiết. Mỗi Ngân hàng hoạt động trong một môi trường, điều
kiện cụ thể sẽ có các nghiệp vụ huy động vốn n khác nhau. Song nhìn chung các NHTM
thường áp dụng một số nghiệp vụ cơ bản sau:
Huy động từ chủ sở hữu:
Nguồn huy động từ chủ sở hữu thông thường gồm vốn tự có và một số quỹ mang tính
chất đặc thù của mỗi quốc gia ( như Quỹ đầu tư phát triển do Chính phủ cấp cho một số
NHTM quốc doanh ở Việt Nam).
Vốn tự có của NHTM cũng được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. Trong phạm vi
bài viết này chúng ta chỉ xem xét dưới các hình thức như: Vốn pháp định, vốn điều lệ và các quỹ.
Vốn pháp định: Điều kiện hàng đầu để khởi nghiệp trước khi được phép khai trương
Ngân hàng là phải có đủ vốn ban đầu theo luật định. ở Việt Nam, để thành lập một NHTM
trước hết phải có đủ vốn pháp định theo mức quy định của NHNN. Vốn pháp định của
mỗi ngân hàng được hình thành do tính chất sở hữu của ngân hàng quyết định. Theo quy
định của Việt Nam có thể khái quát như sau: Nếu là NHTM thuộc sở hữu nhà nước, vốn
pháp định do Ngân sách Nhà nước cấp 100% vốn ban đầu; Nếu là NHTM cổ phần, vốn
pháp định do sự đóng góp của cổ đông dưới hình thức phát hành cổ phiếu; Nếu là NHTM
liên doanh, vốn pháp định là vốn đóng góp cổ phần của ngân hàng tham gia liên doanh.
Vốn điều lệ là vốn được ghi trong điều lệ hoạt động của NHTM. Vốn điều lệ ít nhất phải
bằng mức vốn pháp định do NHNN công bố vào đầu mỗi năm tài chính. Vốn điều lệ quy
định cho một ngân hàng nhiều hay ít tuỳ thuộc vào quy mô và phạm vi hoạt động của
ngân hàng đó ( vốn điều lệ bao hàm cả vốn pháp định).
Ngoài ra vốn tự có củaNHTM còn có các quỹ dự trữ ngân hàng ( đây là các quỹ buộc
phải trích lập trong quá trình tồn tại và hoạt động của ngân hàng) như: Quỹ bảo toàn vốn,
Quỹ phúc lợi, Quỹ khấu hao tài sản cố định,...
Nguồn vốn tự có của NHTM thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của một
ngân hàng, nhưng lại là nguồn vốn rất quan trọng, vì nó cho thấy thực lực, quy mô của lOMoARc PSD|17327243
Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại
ngân hàng, nó là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác, là vốn khởi đầu tạo uy tín của
ngân hàng đối với khách hàng. Hơn nữa nguồn vốn này có tính ổn định cao, có vai trò
đặc biệt quan trọng trong việc tài trợ cho các tài sản cố định của NHTM, tài trợ cho hoạt
động liên doanh liên kết, mở rộng mạng lới, hay để chống rủi ro,...; Qua đó nhằm hướng
tới mở rộng quy mô hoạt động của ngân hàng.
Theo đà phát triển, nguồn vốn này sẽ được gia tăng về số lượng tuyệt đối thông qua các
nghiệp vụ của mỗi NHTM có thể áp dụng như sau: -
Tăng cường và bổ sung thêm vốn điều lệ bằng cách huy động thêm vốn từ các cổ
đông, phát hành cổ phiếu, trái phiếu có thể chuyển thành cổ phiếu,... Các nghiệp vụ huy
động này thường được các NHTM cổ phần áp dụng. Tuy nhiên, việc phát hành thêm cổ
phiếu, trái phiếu có thể chuyển đổi thành cổ phiếu sẽ gây áp lực đối với các cổ đông cũ
của ngân hàng, việc tăng thêm cổ phần sẽ kéo theo sự suy giảm tương đối về cổ tức đối với các cổ đông. -
Đối với NHTM quốc doanh hay NHTM liên doanh thì có thể tăng thêm vốn tự có
thông qua sự cấp thêm vốn của Chính phủ hay đóng góp thêm vốn của các bên liên doanh. -
Ngoài ra, nguồn vốn tự có của NHTM còn được bổ sung thêm từ kết quả hoạt
động kinh doanh của ngân hàng thông qua việc trích lập các quỹ dự trữ và một số quỹ khác.
Bên cạnh nguồn vốn tự có, ở một số quốc gia mà cụ thể là ở Việt Nam, một số NHTM
như: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam còn được Chính phủ cấp vốn dưới hình thức quỹ đầu tư phát triển để cho vay
lại theo kế hoạch Nhà nước chỉ định. Nguồn này có tính ổn định tương đối cao, trong
thời gian ngắn Nhà nước chưa yêu cầu Ngân hàng trả gốc và lãi cho khoản tiền này mà
Ngân hàng chỉ phải trích lập quỹ để bảo toàn nguồn vốn theo quy định. Uy tín và hiệu
quả trong kinh doanh của Ngân hàng chính là cơ sở để thu hút nguồn vốn ổn định này.
Tóm lại, nguồn vốn huy động từ chủ sở hữu là nguồn vốn đóng vai trò nền tảng, là cơ sở
để thu hút các nguồn vốn khác. Tuy nó chiếm một tỷ trọng không lớn trong cơ cấu nguồn
vốn của NHTM nhưng có ý nghĩa quyết định tới sự hình thành và phát triển của ngân
hàng; mặc dù công tác huy động không thuận lợi, phụ thuộc nhiều vào kết quả kinh
doanh củ ngân hàng nhưng việc tăng cường mở rộng nguồn vốn này một cách hợp lý là
rất quan trọng đối với tất cả các NHTM.
Huy động tiền gửi
ở Việt Nam, theo luật các tổ chức tín dụng thì tiền gửi nói chung được hiểu là số tiền của
khách hàng gởi taị tổ chức tín dụng dưới nhiều hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi lOMoARc PSD|17327243
Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại
có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. gửi là. Trên phương diện chủ thể gửi
tiền thì tiền gửi có thể được chia thành hai loại: Tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ
chức kinh tế- xã hội, và Tiền gửi tiết kiệm của dân cư.
Tiền gửi giao dịch (tiền gửi thanh toán)
Một trong những dịch vụ lâu đời nhất mà ngân hàng cung cấp là nhận tiền gửi để thanh
toán hộ khách hàng. Tiền gửi giao dịch đòi hỏi ngân hàng phải thanh toán ngay lập tức
một lệnh rút tiền cho một cá nhân hay cho bên thứ ban, được chỉ rõ là người thụ hưởng.
* Tiền gửi giao dịch hưởng lãi
Sự kết hợp giữa tiền gửi giao dịch không hưởng lãi và tiền gửi tiết kiệm đã xuất hiện
dưới hình thức tài khoản NOW (negoyiable order of withdrawal) tài khoản lệnh rút tiền
có thể thương lượng. NOW là tài khoản giao dịch được hưởng lãi, do đó nó cho phép
ngân hàng đòi hỏi khách hàng phải thông báo trước về việc rút tiền. Do đòi hỏi này ít
được thực hiện nên NOW được sử dụng như một tài khoản phát séc để chi trả cho việc
mua bán hàng hoá và dịch vụ. Tuy nhiên loại tài khoản này chỉ có thể được nắm giữ bởi
cá nhân và các tổ chức phi lợi nhuận. Ngân hàng khi đó có nghiệp vụ là chuyển vốn tự
động và khách hàng uỷ quyền trước cho ngân hàng trong việc chuyển vốn từ tài khoản
tiết kiệm sang tài khoản phát séc để bù đắp thấu chi. Kết quả cuối cùng là khách hàng
hưởng lãi trên tài khoản giao dịch tương đương với lãi thu được từ tài khoản tiền tiết kiệm.
Hiện nay có hai loại tài khoản tiền gửi cạnh tranh nhau: Tài khoản tiền gửi trên thị trường
tiền tệ (MMDA) và tài khoản “Supper NOW”. Hai loại tài khoản này được trả lãi theo
lãi suất trên thị trường tiền tệ và khách hàng có thể thực hiện thanh thoán cho các giao
dịch mua hàng hoá và dịch vụ thông qua việc phát séc hay hối phiếu uỷ quyền trước.
Tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế-xã hội
Đây là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh, quá
trình hoạt động của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế- xã hội và được các đơn vị này
gửi vào ngân hàng nhằm mục đích sinh lời. Khoản vốn này tạm thời được giải phóng ra
khỏi quá trình luân chuyển vốn nhưng chưa có nhu cầu sử dụng trong ngắn hạn.
Đây là nguồn chiếm tỷ trọng không lớn trong cơ cấu nguồn vốn cũng như là trong cơ cấu
vốn nói chung của NHTM. Bởi lẽ trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình, các
doanh nghiệp ít khi có một lượng vốn nhàn rỗi trong một thời gian dài và nếu có chỉ là
một lượng nhỏ mà thôi. Các tổ chức kinh tế- xã hội có vử khả quan hơn về mặt kỳ hạn
nhưng lượng vốn họ có lại không đủ lớn. Tuy vậy nguồn vốn này vẫn không thể thiếu
trong cơ cấu tạo nên nguồn vốn của một ngân hàng. Cũng như tiền gửi có kỳ hạn nói lOMoARc PSD|17327243
Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại
chung, các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế- xã hội khi gửi tiền vào ngân hàng cũng
phải có sự thoả thuận về kỳ hạn của khoản tiền đó.
Như vậy về nguyên tắc, người gửi tiền chỉ có thể rút tiền ra theo thời hạn đã thoả thuận.
Tuy nhiên trên thực tế do quá trình cạnh tranh trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng ngày
càng gay gắt và để thu hút nguồn này một cách tốt nhất, các NHTM thường cho phép
khách hàng được rút tiền ra trước hạn nhưng không được hưởng lãi hoặc hưởng lãi ở
mức thấp hơn. Hầu hết các NHTM ở Việt Nam, nếu khách hàng rút tiền trước thời hạn
đã thoả thuận thì chỉ được hưởng theo lãi suất loại tiền gửi không kỳ hạn.
NHTM có thể sử dụng nguồn này một cách chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh,
góp phần đáp ứng nhu cầu tín dụng của nền kinh tế.
Tiền gửi tiết kiệm của khách hàng
Tiền gửi tiết kiệm là hình thức huy động truyền thống của ngân hàng. ở các nước công
nghiệp phát triển, trong số các loại tiền gửi vào ngân hàng thì tiền gửi tiết kiệm đứng vị
thứ hai cả về mặt số lượng và tầm quan trọng.
Hiện nay ở hầu hết các quốc gia trên thế giới ( trong đó có Việt Nam) người ta cho rằng
vận động nhân dân gửi tiền tiết kiệm là một trong các nghiệp vụ quan trọng của NHTM.
Bởi lẽ nếu huy động được nguồn vốn nhàn rỗi tiềm tàng trong các tầng lớp dân cư sẽ có
tiền cấp phát cho phát triển công nghiệp, nông nghiệp góp phần quan trọng trong quá
trình phát triển kinh tế xã hội.
Các tầng lớp dân cư gửi tiền tiết kiệm vào NHTM với mục đích chủ yếu là tiết kiệm và
sinh lời. Do đó, nguồn vốn này có tính ổn định khá cao.
Để tạo thuận lợi cho khách hàng cũng như ngân hàng, thủ tục gửi tiền cũng rất đơn giản:
Khi khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng sẽ được nhận một quyển sổ tiết kiệm. Sổ này
được coi là giấy chứng nhận số tiền, thời hạn, lãi suất của khoản tiền đó trong quỹ tiết
kiệm. Thông thường lãi suất của tài khoản tiết kiệm cao hơn lãi suất của tài khoản gửi
thanh toán và người chủ tài khoản không được hưởng dịch vụ thanh toán quan ngân hàng
như tài khoản tiền gửi thanh toán.
Để thoả mãn nhu cầu của khách hàng trong việc gửi tiết kiệm, các NHTM đã và đang áp
dụng nhiều hình thức huy động phong phú như: Tiết kiệm nhà ở, tiết kiệm đảm bảo giá
trị theo vàng, tiết kiệm có thưởng,... với nhiều kỳ hạn đa dạng và đảm bảo nguyên tắc:
Kỳ hạn càng dài thì lãi suất càn cao. Bên cạnh đó, NHTM cũng từng bước nâng cao các
tiện ích cho người gửi tiết kiệm như: Coi sổ tiết kiệm như là một chứng từ đảm bảo tiền
gửi, người có sổ có thể mang sổ tiết kiệm đến ngân hàng để cầm cố hoặc xin chiết khấu
để vay vốn khi cần thiết. lOMoARc PSD|17327243
Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại
Tóm lại, nguồn vốn huy động từ tiền gửi có vai trò quan trọng trong việc tài trợ cho các
hoạt động kinh doanh của NHTM. Thống thường nguồn vốn này phụ thuộc vào ba thông
số chính: Lãi suất do các NHTM trả cao hay thấp; Lãi suất của các loại hình đầu tư khác
như: Trái phiếu, cổ phiếu,... Thu nhập của khách hàng. Trong đó thông số đầu tiên được
coi là quan trọng nhất. Vì thế việc đưa ra chiến lược lãi suất như thế nào, hình thức huy
động ra sao để thu hút được vốn nhiều và kinh doanh có lãi là điều quan trọng hàng đầu,
phản ánh khả năng kĩ trị của các NHTM. Vốn đi vay
Trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng khi dư vốn, đủ vốn, thiếu vốn là lẽ tất nhiên, đặc
biệt là vốn trung và dài hạn. Khi một NHTM thiếu vốn để đáp ứng nhu cầu vốn của
khách hàng hay cho mục đích đầu tư phát triển mà các nguồn khác chưa đủ đáp ứng thì
NHTM có thể đi vay. Nghiệp vụ vay vốn của NHTM có thể chia thành hai loại chính:
Vay thông qua phát hành giấy tờ có giá và vay trực tiếp.
Vay thông qua phát hành giấy tờ có giá:
Phát hành giấy tờ có giá là nghiệp vụ huy động vốn của NHTM dưới hình thức phát hành
các chứng từ như: Chứng chỉ tiền gửi ( kỳ phiếu), trái phiếu,...
Trong nghiệp vụ này, NHTM chủ động đứng ra thu gom vốn trong xã hội bằng việc phát
hành các giấy tờ có giá nhằm bổ sung nguồn vốn kinh doanh. Thông thường việc phát
hành được thực hiện sau khi đã tiến hành nên cân đối toàn hệ thống của NHTM giữa
nguồn vốn và sử dụng vốn.
Các NHTM nhận thấy rằng, người gửi tiền rất nhạy cảm với những thay đổi trong lãi
suất huy động của ngân hàng. Vì vậy khi cần vốn, một NHTM có thể phát hành giấy tờ
có giá với một mức lãi suất hấp dẫn hơn các loại nghiệp vụ huy động thông thường khác
nhằm huy động được kịp thời lượng vốn cần thiết. Mức lãi được trả cho các công cụ này
sẽ được thoả thuận trực tiếp giữa NHTM và khách hàng hoặc được ấn định ở một mức
độ nhất định mà người gửi tiền có thể chấp nhận được, đồng thời đảm bảo hiệu quả kinh doanh cho ngân hàng.
Thông thường, phát hành giấy tờ có giá là nghiệp vụ huy động vốn theo sáng kiến riêng
của từng NHTM với hình thức và kỳ hạn rất đa dạng nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu
khách hàng và huy động được vốn cho ngân hàng. Để tìm hiểu kỹ hơn chúng ta sẽ xem
xét hai công cụ cơ bản là: Kỳ phiếu và Trái phiếu ngân hàng. * Kỳ phiếu:
- ở các nước phát triển như ở Mĩ, chứng chỉ tiền gửi hay còn gọi là CD là một công cụ
thị trường tiền tệ do ngân hàng phát hành. Một NHTM sẽ phát hành một CD để tài trợ lOMoARc PSD|17327243
Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại
cho những cam kết nợ ngắn hạn hoặc nguồn vốn của mình. CD là một chứng nhận về
một khoản tiền gửi tại NHTM theo một thời hạn và lãi suất nhất định. Người sở hữu CD
có thể bán chứng chỉ này trên thị trường thứ cấp hoặc được trả lại chứng chỉ tại thời điểm
CD đến hạn và nhận lại toàn bộ số tiền gốc chứng chỉ với lãi.
Một CD thường phát hành đa dạng ghi sổ với mệnh giá đa dạng. Thời hạn của các CD
cũng rất phong phú: Thường từ 7 ngày cho đến 5 hoặc 7 năm. Nhìn chung không có quy
định nào hạn chế về thời hạn của một CD đối với Ngân hàng phát hành.
Các NHTM ở Mĩ phát hành nhiều loại CD khác nhau:
+ CD có lãi suất cố định: Lãi suất của những CD này được ấn định từ thời điểm phát
hành. chủ sở hữu CD sẽ nhận được toàn bộ phần tiền gốc và lãi khi CD đến hạn. Đối với
CD có thời hạn dưới 1 năm thì lãi suất được trả vào thời điểm đến hạn.
+ CD trả lãi kỳ hạn: Lãi của những CD này thường được trả 6 tháng một lần. những CD
loại này thường được phát hành với kỳ hạn trên 1 năm.
+ CD chuyển tiếp liên tục: Đây là một Seri những CD thời hạn 6 tháng chuyển tiếp liên
tục trong vòng 2 năm hoặc lâu hơn. Người mua CD thiết lập một hợp đồng mua chứng
chỉ tiền gửi thời hạn 6 tháng liên tục cho đến khi hợp đồng hết hạn. CD loại này có thể
áp dụng lãi suất cố định hoặc lãi suất thả nổi.
Ngoài ra các NHTM Mĩ còn phát hành nhiều loại CD khác như: CD có lãi điều chỉnh,
chứng chỉ tiền gửi Dollar Châu Âu,... Thông qua nghiệp vụ phát hành CD, các NHTM
Mĩ có thể tạo dựng được điều kiện để cạnh tranh một cách có hiệu quả đối với nguồn vốn ngắn và trung hạn.
- ở Việt Nam, các NHTM phát hành kỳ phiếu dựa trên quyết định số 220- NH/QĐ ngày
27/11/1991 của Thống đốc NHNN về việc cho phép NHTM quốc doanh phát hành kỳ
phiếu Ngân hàng. Như vậy chỉ có NHTM quốc doanh mới được phép phát hành loại
chứng chỉ tiền gửi này.
Theo văn bản trên, kỳ phiếu là một loại giấy nhận nợ do NHTM quốc doanh phát hành
nhằm huy động vốn trong xã hội một cách linh hoạt. Căn cứ vào mục đích, nhu cầu cụ
thể mà ngân hàng có thể phát hành kỳ phiếu bằng VNĐ hay USD.
Nhu cầu phát hành kỳ phiếu thường phát sinh khi ngân hàng muốn có nguồn vốn đủ điều
kiện để tài trợ các dự án có quy mô, trọng điểm nhằm phục vụ kịp thời cho đầu tư phát
triển của đất nước hoặc vì mục đích kinh doanh của ngân hàng như: Đầu tư chứng khoán,
kinh doanh vàng bạc, ngoại tệ mà các nguồn huy động khác chưa đáp ứng được. Khi đó
ngân hàng có thể xin phép phát hành bằng từ trình gửi NHNN. Trong tờ trình “
Xin phép phát hành kỳ phiếu” phải trình bày đầy đủ các nội dung sau: lOMoARc PSD|17327243
Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại + Lý do xin phát hành
+ Kế hoạch sử dụng và nhu cầu sử dụng vốn
+ Các loại kỳ phiếu xin phát hành ( về kỳ hạn, phương thức trả lãi) + Thời gian phát hành
+ Tỷ lệ lãi cho từng loại kỳ phiếu
+ Tính toán hiệu quả kinh tế cho từng loại kỳ phiếu.
Phát hành kỳ phiếu là một nghiệp vụ huy động vốn có tính hiệu quả cao, hấp dẫn người
mua và NHTM luôn chủ động trong việc bổ sung vốn hạn khi cần thiết. * TRÁI PHIẾU:
- ở các nước phát triển, trái phiếu ngân hàng là một loại công cụ nợ do NHTM phát hành
nhằm tài trợ vốn cho hoạt động kinh doanh cuả ngân hàng. Thông thường việc phát hành
trái phiếu phải được sự cho phép của Ngân hàng trung ương. Kỳ hạn của trái phiếu rất
phong phú: 7 năm, 10 năm, 20 năm,... Chủng loại cũng rất đa dạng như: Trái phiếu có
lãi suất điều chỉnh, trái phiếu có lãi suất thả nổi, trái phiếu có lãi suất cố định, trái phiếu
có thể chuyển đổi sang cổ phiếu,...Người sở hữu có thể bán trái phiếu trên thị trường thứ
cấp trước khi trái phiếu đó hết hạn.
ở Việt Nam, theo, theo quyết định số 212-QĐ-NH1 ngày 22/9/1995 của Thống đốc
NHNN ban hành thể lệ phát hành trái phiếu NHTM, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển thì
trái phiếu Ngân hàng là một công cụ vay nợ dài hạn trên thị trường vốn dưới hình thức
giấy nợ của các tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn. Trong đó các tổ chức tín
dụng cam kết trả gốc và lãi cho người mua ( hoặc người sở hữu) sau một thời gian nhất định.
Trái phiếu Ngân hàng được chuyển nhượng quyền sở hữu dưới các hình thức mua bán,
cho, tặng, thừa kế. Người sở hữu có thể dùng trái phiếu làm thế chấp tiền vay nếu được
người cho vay chấp nhận.
Trái phiếu Ngân hàng có thể phát hành dưới các hình thức: vô danh, ghi sổ, ghi danh.
Trái phiếu vô danh thuộc quyền sở hữu của người có trái phiếu và được tự do chuyển
nhượng, chủ sở hữu trái phiếu ghi danh và ghi sổ muốn chuyển nhượng thì phải làm thủ
tục ở Ngân hàng ( nơi mua trái phiếu).
Trái phiếu được các NHTM phát hành với kỳ hạn trên 1 năm. Tuy nhiên, thời hạn cụ thể
sẽ do các NHTM quyết định tuỳ theo phương án sử dụng vốn. Trái phiếu phát hành cùng lOMoARc PSD|17327243
Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại
một đợt được ghi cùng thời hạn và được thanh toán vào cùng thời điểm đáo hạn. Mệnh
giá của trái phiếu là số tiền ghi trên trái phiếu lúc phát hành và có giá trị tối thiểu là
50.000 VND. Các loại mệnh giá lớn hơn được xác định bằng bội số của mệnh giá tối thiểu.
Lãi suất của trái phiếu do NHTM ấn định trên cơ sở quan hệ cung cầu về vốn trên thị
trường sao cho có thể khuyến khích, động viên được người gửi vốn, người vay có thể
chấp nhận được và NHTM đảm bảo hiệu quả kinh doanh. Phương thức trả lãi cũng được
các NHTM áp dụng một cách linh hoạt: Trả lãi trước, Trả lãi sau, Trả lãi định kỳ...
NHTM muốn được phép phát hành trái phiếu cần phải hội đủ các điều kiện sau:
+ Hoạt động ổn định ít nhất 2 năm và chứng minh được hoạt động kinh doanh của đơn
vị được quản lý có hiệu quả
+ Có phương án kinh doanh cụ thể
+ Cần phải có vốn điều lệ đủ lớn theo pháp định
+ Được phép bằng văn bản của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
Sau khi đã hội đủ các điều kiện cần thiết, NHTM phải làm thủ tục xin phép NHNN về
việc phát hành trái phiéu theo quy định của pháp luật.
Nguồn vốn huy động được từ nghiệp vụ phát hành trái phiếu không chịu sự điều chỉnh
của quy định dự trữ bắt buộc. Hơn nữa, nó là nguồn có tính ổn định cao, đáng được quan
tâm nếu muốn mở rộng nguồn vốn huy động trung và dài hạn tại một NHTM. Bằng cộng
cụ này, các NHTM có thể chủ động tạo được một khối lượng vốn như mong muốn một
cách nhanh chóng để đáp ứng nhu cầu vốn cấp bách đầu tư cho các công trình lớn của quốc gia.
Vay vốn các tổ chức tín dụng
Khi cần vốn thì các NHTM có thể đi vay trực tiếp từ các tổ chức tín dụng khác, Ngân
hàng nước ngoài, từ công ty mẹ,... Nhưng dù vay ở nguồn nào thì nhìn chung chi phí cho
các khoản vay trực tiếp thường cao hơn chi phí phải trả cho các hình thức huy động vốn khác.
ở Việt Nam, nguồn vay vốn của NHTM cũng khá phong phú. Một NHTM có thể vay ở
một số nguồn chính như: Vay từ NHNN và Bộ Tài chính (BTC), vay từ các NHTM khác
và tổ chức tín dụng, từ nước ngoài. * Vay từ NHNN và BTC: lOMoARc PSD|17327243
Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại -
Vay từ NHNN: Trong quan hệ giữa NHTM và NHNN thì NHNN có tư cách là
Ngân hàng củ các Ngân hàng, là “ Người cho vay cuối cùng” đối với các NHTM. Thông
thường các NHTM chỉ đươch vay NHNN để bù đắp những thiếu hụt ngắn hạn, tạm thời
dưới hình thức chiết khấu, tái chiết khấu, tái cấp vốn. Tuy nhiên, có những trường hợp
đặc biệt, NHNN vẫn cho NHTM vay để cho vay lại nền kinh tế theo kế hoạch của Nhà
nước với một mức lãi suất ưu đãi. Nhưng khoản vay này thường bị hạn chế số lượng,
đặc biệt là khi chính sách tiền tệ quốc gia đang thắt chặt. -
Vay từ Bộ Tài chính: Mặc dù đã có Tổng cục đầu tư phát triển nhưng Bộ tài chính
vẫn có sự hỗ trợ cho các chương trình tín dụng Ngân hàng. Hàng năm, các địa phương
được phân bổ một số vốn trung và dài hạn cho các công trình phục vụ các mục tiêu quốc
kế dân sinh. Nguồn này sẽ được Bộ Tài chính chuyển sang Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển hoặc của NHTM quốc doanh khác dưới hình thức quỹ đầu tư phát triển để cho các
đối tượng này vay với lãi suất ưu đãi. Nhưng cũng có những dự án thuộc danh mục Chính
phủ chỉ định nhưng NHTM sẽ lo vốn đầu tư toàn bộ. Do đó NHTM có thể vay một phần
từ Bộ Tài chính để tài trợ cho các dự án này, Bộ Tài chính sẽ chuyển tiền để cấp bù phàn
chênh lệch giữa lãi suất cho vay trung và dài hạn của NHTM là lãi suất ưu đãi để NHTM
không bị lỗ trong kinh doanh.
* Vay từ các NHTM và Tổ chức tín dụng khác
Ngoài nghiệp vụ vay từ NHNN và Bộ Tài chính thì các NHTM có thể vay mượn lẫn
nhau hoặc vay từ các Công ty Bảo biểm để đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh dựa trên nguyên tắc:
- Các NHTM phải hoạt động hợp pháp
- Thực hiện việc đi vay và cho vay theo hợp đồng tín dụng.
- Vốn vay phải được bảo đảm bằng thế chấp, cầm cố hay xin bảo lãnh của NHNN.
Nguồn vay mượn này thường có chi phí cao, kỳ hạn trung hạn là chủ yếu, phụ thuộc
nhiều vào quan hệ cũng như uy tín của NHTM đi vay. * VAY TỪ NƯỚC NGOÀI:
Theo tinh thần Nghị định 90/1998/NĐ-CP ngày 7/11/1998 thì các NHTM có thể vay vốn
ở Ngân hàng nước ngoài để cho vay lại trong nước. Các NHTM Việt Nam hiện có quan
hệ đại lý và quan hệ thanh toán rộng rãi với các Ngân hàng trong khu vực và trên thế
giới nên nghiệp vụ này tiến hành cũng khá thuận lợi. Lãi suất vay được áp dụng theo lãi
suất trên thị trường tiền tệ thế giới. Tuy nhiên, khi vay thì các NHTM Việt Nam phải
chấp hành một hạn mức tín dụng do nước ngoài quy định. Hạn mức này phải được Chính
phủ hoặc NHNN Việt Nam bảo lãnh. Theo Nghị định 90/CP, thì mức bảo lãnh vay vốn lOMoARc PSD|17327243
Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại
nước ngoài cho một tổ chức tín dụng không quá 6 lần vốn tự có của tổ chức đó. Nhưng
hạn mức trên phải trừ đi số nợ trước chưa trả đến thời điểm đến thời điểm vay mới. Như
vậy muốn tận dụng hạn mức tín dụng của nước ngoài, các NHTM Việt Nam phải thực
hiện tốt khâu hoàn trả.
Các khoản vay từ Ngân hàng nước ngoài của các NHTM Việt Nam đều do NHNN trực
tiếp kiểm soát và quản lý. Vì vậy, các hồ sơ vay vốn đều phải quan NHNN xét duyệt.
Các NHTM được quyền chủ động tìm kiếm các nguồn vay từ nước ngoài, qua đó góp
phần quan trọng trong việc tài trợ các hoạt động kinh doanh ngân hàng. sách tiền tệ